Vào ngày 15-8-2012 tình cờ chúng tôi mở mạng lưới điện toán của Thư Viện Hoa Sen, bất ngờ thấy một thư ngỏ đề ngày 18 tháng 12 năm 2010 (Thư này đã gửi ngày 16-6-2003) của Tâm Diệu thuộc Ban Biên Tập mạng Thư Viện Hoa Sen gửi các bậc Tôn Túc, Hòa Thượng, Thượng Tọa, Đại Đức Tăng Ni, cùng Cư sĩ Phật tử. Thư trình bày về Hòa Thượng Thích Thông Lạc đã là một trong mười đệ tử đầu tiên của Hoà Thượng Thích Thanh Từ viện chủ Thiền Viện Trúc Lâm Đà Lạt. HT Thông Lạc cũng tự xưng đã chứng Tứ Thiền, đắc Tam Minh và đã được HT Thanh Từ ấn chứng.

HT Thông Lạc hiện là Viện chủ Tu Viện Chơn Như ở xã Gia Lộc Trảng Bàng, Tây Ninh, HT Thông Lạc đã khẳng định rằng Phật giáo Đại thừa là của ngoại đạo chứ không phải của Phật giáo đã đăng trên mạng lưới điện toán toàn cầu và qua các sách in ấn của Tu Viện Chơn Như. Bởi vậy nhiều Phật tử Việt Nam từ khắp thế giới hoang mang về sự việc qúa quan trong này, nên Ban Biên Tập mong mỏi Chư Tôn Đức và Phật tử giải quyết sớm vấn đề bất an của Phật tử Phật giáo Đại Thừa.

Vấn đề này đã xảy ra từ cả 10 năm nay và đã có một số bài phản biện của một số vị Tu sĩ và Cư sĩ, nhưng chưa ngăn chặn được sự đả kích Phật giáo Bắc truyền vẫn lan tràn các trên mạng. Cũng không thấy bài viết của HT Thanh Từ là vị Tôn sư của HT Thông Lạc trước kia. Bởi vậy chúng tôi liền bắt tay vào viết để chặn đứng sự việc vô cùng tai hại này, hy vọng mọi người đều đọc tập phản biện này và hiểu rõ sự thật.

Chúng tôi căn cứ theo bản tóm tắt của Ban Biên Tập mạng Thư Viện Hoa Sen mà trả lời, hy vọng sẽ góp phần trong việc bảo vệ Pháp bảo và do hoàn tất vội vàng nên có những điều khiếm khuyết, xin qúy Thiện tri thức tha thứ cho, người viết chân thành đa tạ.


MỤC LỤC


I). Đại Thừa là của Bà La Môn để lừa đảo tín đồ Phật Giáo
II). Thiền Đông Độ là của Lão Giáo, gọi là "Thiền Giáo đồng hành"
III). Tịnh Độ, Pháp Hoa, Mật Tông, Thiền Tông là của Bà La Môn.
1. Tịnh Ðộ Tông là mê tín, lừa đảo, biến tu sĩ thành Thầy tụng
2. Mật Tông là tà thuật, biến ông Thầy thành Thầy Thầy bùa, v.v.
3. Pháp Hoa Tông là cúng bái, van xin nương vào thần quyền
4. Thiền Tông biến Phật Giáo vô ngã thành Phật Giáo hữu ngã
IV). Nói về vô ngã: Vô ngã ác pháp là Niết Bàn, chứ không phải vô ngã là Niết Bàn.
Vô ngã cả ác lẫn thiện là cây đá
V). Nói về hành thiền:
1. Ngồi thiền không động, không nói, không nghĩ thì như gỗ đá
2. Không chấp nhận hành không, hành ác, chấp nhận hành thiện
VI). - Thiền Đông Độ ức chế niệm thiện-ác là khai mở tưởng tuệ
- Lý Bát Nhã của Đại Thừa phá Phật Giáo tận gốc (Tứ Đế)
VII). - Thiền tông ức chế ý thức cho là định, đó là định ngoại đạo
- Hết vọng phát sinh hiểu biết gọi là trí tuệ, sự thực là tưởng tri
- Thiền sư hý luận, nói Đông nói Tây, la, hét, chỉ, trỏ, v.v.
VIII). Kinh Kim Cang: - Không có pháp hành, toàn hý luận suông
- Chưa ai làm được như kinh, toàn bánh vẽ
IX). Kinh PhạmVõng: - Không phải của Phật, là của Bà La Môn
- Kinh PhạmVõng có thâm ý diệt PhậtGiáo
X). Kinh Duy Ma Cật như rắn thêm chân để lường gạt Phật tử
XI). Kinh Thủ Lăng Nghiêm:
1. Lường gạt mọi người
2. Tánh thấy nghe giác sáng suốt mà chui vào cái đãy thối
3. Có Phật tánh mà ngu như con bò
XII). Kinh Viên Giác do Tổ thuyết để lường gạt tín đồ Phật Giáo
XIII). 1. Không có Di Lặc, chỉ là sản phẩm của Bà La Môn
2. Ðưa Ðức Di Lặc ra để làm cách mạng lật Ðức Thích Ca
XIV). - Trung Quán Luận của Ngài Long Thọ là hý luận là bánh vẽ
- Các người tu theo đều chết đau đớn .
XV). 1. Kinh Địa Tạng là của Bà La Môn mục đích lường gạt
2. Cầu siêu làm tuần thất là mê tín
XVI). Thiền Sư Nguyên Thủy chưa đạt đạo:
1. Thiền sư Ajahn Chad viết tập Mặt Hồ Tĩnh Lặng sai giáo pháp
2. Thiền Sư Mahãsi, viết tập Vipassana sai ý nghĩa của Phật .


PHẢN BIỆN
HIỆN TƯỢNG THÍCH THÔNG LẠC
Trong quan niệm của chúng tôi sẽ tránh dùng danh tự Đại thừa, Tiểu thừa mà thay bằng Bắc truyền, Nam truyền được nhiều chừng nào tốt chừng ấy để tránh bớt sự phân chia có tính cách miệt thị không tốt trong Phật giáo nói chung và để sự phân tích được rõ ràng, chúng tôi xin theo từng điểm thứ lớp mà Ban Biên Tập mạng Thư Viện Hoa Sen đã tóm lược những điều mà tác giả Hòa Thượng Thích Thông Lạc (viết tắt: HT TTL) đã nêu ra để phân tích mổ xẻ như dưới đây:
I). HT. TTL: Phật Giáo Đại Thừa không phải là Phật Giáo chánh thống, mà là Phật giáo theo kiểu kiến giải giáo pháp của Bà La Môn; hay nói cách khác, Phật Giáo Đại Thừa là đạo Bà La Môn lấy tên là Phật Giáo Đại Thừa để lừa đảo tín đồ Phật Giáo, cho nên nghĩa lý toàn bộ kinh sách Đại Thừa là Giáo pháp của Bà La Môn
chính gốc. (ĐVXP-Tập 8)

I). Phản biện:
Để sự nhận xét được chính xác, chúng ta cần nêu ra chủ thuyết của Đạo Bà La Môn so sánh với Triết lý của Phật Giáo Bắc truyền (Đại Thừa) trong một số vấn đề như sau:
1). Quan niệm về Thượng Đế:
- Đạo Bà La Môn: Quan niệm chỉ có Phạm Thiên (Brahman) là hiện thực tối cao, triết lý Bà-la-môn cho rằng Phạm Thiên là thực tại có trước nhất, thực thể duy nhất, tất cả vũ trụ là Phạm Thiên. Vạn vật phát hiện tự nơi ngài và vũ trụ đã có sẵn trong ngài; Ngài là thực hữu vì không phải là hư không, là ý thức vì là nguồn gốc của mọi nhận biết, trực giác tâm linh (Turiya) là bản chất của ý thức về tự ngã duy nhất, nơi mà tất cả muôn vật trong thế giới đều trở về, trở về với thực hữu tuyệt đối yên vui, thanh tịnh an lạc vì đó là hạnh phúc vĩnh hằng.
- Phật Giáo Bắc Truyền:
Trong bài “Bà La Môn giáo và triết học Phật giáo” của tác giả Như Thị viết: “Nếu như Bà-la-môn giáo với đặc trưng đã cho sự cấu thành của hiện tượng nằm trong những quy luật của thần linh thì sự khác biệt của Phật giáo lại thuộc về quy luật nhân duyên; kinh Phật Tự Thuyết, nói về nguyên lý Duyên khởi được đức Phật tóm tắt:
Do cái này có mặt nên cái kia có mặt.
Do cái này không có mặt nên cái kia không có mặt.
Do cái này sinh nên cái kia sinh.
Do cái này diệt nên cái kia diệt.
Quy luật nhân duyên là mối quan hệ chính yếu mà Phật giáo Bắc truyền đề cập khi biện giải về hiện hữu hữu thể; theo Bà La Môn giáo thì con người không thể thấu triệt được bản chất của nó, vì đơn giản là nó thuộc về những quy tắc của nguyên lý tuyệt đối, mà đã là như vậy thì hiển nhiên chỉ có Phạm Thiên (Brahman) mới có đủ thẩm quyền để biết mà thôi.
Còn Phật giáo Bắc Truyền luận rằng Không tánh là thực tánh của các pháp, vì là không tánh nên quy luật nhân duyên được vận hành và trở thành năng lực chi phối sự vận động của các pháp; sự chuyển vận này làm thành các hệ quả mà sanh trụ dị diệt, có, không … là những biểu tướng phải xảy ra.”
Nói về cõi Phạm Thiên, được biết: 28 tầng trời gồm 6 tầng thấp là cõi Dục giới, 4 tầng trời cao nhất là cõi Vô Sắc giới, và 18 tầng trời ở giữa là cõi Sắc giới, thì 3 tầng trời thấp nhất của Sắc giới là cõi Phạm Thiên chia ra Đại Phạm Thiên ở trên, thấp hơn là Phạm Thiên và thấp nhất là Phạm Chúng Thiên. Tuổi thọ và sự vi diệu thần thông v.v… của 3 loại Trời này khác nhau, tầng trên ví như vua, tầng giữa ví như quan, tầng dưới ví như dân, đó là nói vắn tắt.
Đạo Bà La Môn gọi là Ấn Độ giáo thờ Phạm Thiên, Phạm Thiên là Thượng Đế, Thượng Đế sinh ra mọi người Bà La Môn, vì người đạo Bà La Môn đều cho rằng mình là con của Phạm Thiên, nên thường cúng tế Thượng Đế. Vị Đại Phạm Thiên chính là Thượng Đế của đạo Bà La Môn Ấn Độ giáo vậy.
Đức Phật không công nhận một vị Thần linh tối cao, Phật giáo Bắc truyền không dạy giáo điều thần bí, nhưng có cái Chân như, Niết Bàn … chính là cái bất sanh bất diệt, không có điểm khởi đầu và cũng không có điểm kết thúc; nó vốn là bản thể của muôn pháp, vì vậy không thể cho nó là một chân lý ban đầu. Do đó chúng ta thấy rõ quan niệm Thượng Đế của Bà La Môn khác biệt hoàn toàn với lý chân như Niết Bàn của Phật giáo Bắc truyền.
2). Về Vô thường, Khổ, Ngã:
- Đạo Bà La Môn quan niệm: Đời là vô thường, đời là khổ, nhưng mỗi con người là một Tiểu ngã (Atman) có tự ngã bất biến (có linh hồn); Bà La Môn giáo khẳng định: nếu không có Tiểu ngã, tất cả sinh hoạt tinh thần và thể chất của con người đều chấm dứt; nhưng ngay khi cả sinh hoạt tinh thần và thể chất chấm dứt thì Tiểu ngã vẫn tồn tại bất diệt.
- Phật giáo Bắc truyền: Cũng quan niệm thân tâm thế giới đều vô thường, đời là bể khổ, nhưng vô ngã không có cái ta. vì con người gồm có thân và tâm, Thân gồm bốn thứ Đất Nước Gió Lửa thuộc về đất nước gió lửa chứ chẳng có cái nào là ta; còn Tâm gồm bốn thứ Thọ, Tưởng, Hành và Thức, chúng đều thay đổi không ngừng nên chẳng thứ nào là ta. Nói chi tiết thì tất cả Ngũ uẩn gồm sắc thụ tưởng hành thức và mười tám giới phân biệt gồm sáu căn, sáu trần, và sáu thức mỗi thứ đều không thể độc lập được, nên không thật có cái ngã, không thật có linh hồn, chỉ do nhân duyên hòa hợp mà có, giả có chứ không có thực thể riêng của cái ngã hay linh hồn, không thuần nhất bất biến nên chẳng phải tự ngã của ta.
Chúng ta thấy có điểm chung có thể tìm thấy ở bất cứ đâu trong giáo lý Phật giáo Bắc truyền so với Bà-la-môn giáo là quan niệm về tư tưởng luân hồi, khổ đau và tìm cầu giải thoát; nhưng trên bình diện triết học, Phật giáo Bắc truyền không hề có tính thực hữu của bản thể Phạm Thiên và thay vào đó là tự tính vô ngã. Một bên chủ trương vô thật ngã, còn một bên chủ trương tư tưởng có linh hồn và đề cao Bản Ngã tuyệt đối Phạm Thiên thì làm sao Bà La Môn giáo có thể là gốc của Phật giáo Bắc truyền được?
3). Về Nhân qủa, cúng tế, khổ hạnh:
- Đạo Bà La Môn chủ trương: Nhân qủa không chạy khỏi, cần làm lành, cúng tế Thần linh để được giảm tội, hoặc phái Khổ hạnh phải hành xác thân để trừ khỏi tội lỗi đã gây ra như: Hoặc chỉ ăn rau, chỉ ăn cỏ, chỉ uống nước cháo, chỉ ăn gạo sống. Hoặc ăn rễ, búp, lá, hạt. Hoặc mặc áo cỏ, áo vỏ cây, áo bỏ ngoài gò mả; hoặc đứng một chân, nằm trên sỏi đá, nằm trên trái cây vỏ cứng, nằm trên đống phân bò khô…
- Phật giáo Bắc Truyền: Nhân qủa được công nhận, phủ nhận thuyết định mệnh, mà nói đau khổ hay hạnh phúc đều do chính ta tạo ra; không chủ trương cúng tế Thần thánh hoặc hành hạ xác thân để diệt trừ tội lỗi, mà phải sám hối, bỏ làm ác, chỉ làm việc lành. Đạo Phật Bắc truyền chủ trương sống theo Trung đạo: biết đủ, không sống xa hoa và không sống khổ hạnh.
Như vậy, mặc dù công nhận nhân qủa, nhưng Phật giáo Bắc truyền có đường lối tránh qủa báo khác với Bà La Môn giáo; Phật Giáo Bắc truyền chủ trương tránh làm việc ác và làm việc lành để làm nhẹ nghiệp lực đã có.
4). Về Vô minh:
- Đạo Bà La Môn quan niệm: Các trói buộc phát sinh từ sự vướng mắc vào vật chất là do linh hồn đã bị dục vọng làm ô nhiễm đó là vô minh.
- Phật giáo Bắc truyền: Quan niệm vô minh là u mê không hiểu, ô nhiễm trói buộc, mê lầm chấp trước, nhìn sai lạc không thấy sự thật, là gốc của bất thiện.
Nhìn sơ qua thì thấy quan niệm vô minh của cả hai gần giống nhau, nhưng không phải là hoàn toàn giống, vì Bà La Môn cho rằng do dục vọng mà có vô minh, còn Phật giáo Bắc truyền thì nói vô minh là do ngu si tạo ra, nên nó sâu xa hơn vậy.
5). Về Bất nhị Nhất nguyên:
- Đạo Bà La Môn: Chủ trương thế giới, con người cùng các vị Thần đều là huyển ảnh huyển tượng, chỉ có Phạm Thiên mới thực sự là sở hữu hiện thực tối cao; con người và Thượng Đế không phải là hai (bất nhị) mà chỉ là một, nên con nguời sau khi chết sẽ có thể trở về với Thượng Đế (nhất nguyên).
- Phật giáo Bắc truyền: Không chủ trương Nhất nguyên, nhưng Bất nhị tức là không phải hai mà cũng không phải một, như như bình đẳng mà không có sự khác biệt giữa cái này với cái kia. Trong Kinh Duy Ma Cật, Bồ Tát Duy Ma Cật hỏi các Bồ Tát về kinh nghiệm nhập Pháp Môn Bất Nhị của mình, Bồ Tát Đức Thủ nói: “Ta (Ngã) với cái của Ta (ngã sở) là hai, vì có cái Ta nên mới có cái của Ta, nếu không có cái Ta thì sẽ không có cái của Ta, đây là chân nhập Pháp Môn Bất Nhị”…. Còn Kinh Pháp Bảo Đàn, sau lúc Ấn-Tông Pháp Sư làm lễ trước Ngài Huệ Năng, và xin Ngài trưng Áo-Bát để đại chúng được chiêm bái; sau khi thấy Áo-Bát rồi, Ấn-Tông lại hỏi:
- Đức Hoàng-Mai sau khi phó chúc rồi, Ngài truyền thọ như thế nào?
Ngài Huệ-Năng trả lời:
- Ngũ-Tổ không truyền thọ chi cả, chỉ có luận môn kiến tánh thành Phật, Ngài chẳng luận pháp thiền-định và pháp giải-thoát.
- Sao chẳng luận pháp thiền-định và pháp giải-thoát?
- Vì hai pháp ấy chẳng phải là Phật-Pháp, Phật-Pháp là Pháp chẳng hai.
- Phật-Pháp là Pháp chẳng hai là nghĩa sao?
- Pháp-Sư giảng Kinh Niết-Bàn đã hiểu rõ Phật tánh tức Pháp chẳng hai của Phật-Pháp vậy. Như Cao-Qúy Đức-Vương Bồ-Tát thưa với Phật rằng: “Người phạm bốn điều trọng cấm (dâm dục, trộm cướp, giết người, và nói bốn điều vọng ngữ), làm năm điều đại nghịch (giết cha, giết mẹ, hại A-la-Hán, khuấy rối chúng Tăng, khởi ác ý mong hại Phật), thì thiện căn và Phật tánh có bị đoạn diệt chăng?” Phật đáp rằng: “Thiện căn có hai thứ, một là thường, hai là vô thường, còn Phật tánh chẳng phải thường, chẳng phải vô thường, cho nên Phật tánh không đoạn diệt, ấy gọi là Pháp chẳng hai”.
Ấn-Tông Pháp-Sư nghe Ngài giảng, vui mừng chắp tay thưa rằng:
- Sự giảng Kinh của tôi như gạch bể ngói vỡ, sự luận nghĩa của Ngài cũng như vàng ròng.
Như vậy, chúng ta thấy Bà La Môn chủ trương Bất nhị Nhất nguyên khác với Bất nhị của Phật giáo Bắc truyền.
6). Về Giải thoát:
- Đạo Bà La Môn: Đối với Bà-la-môn giáo, sự giải thoát chính là sự trở về với bản thể Phạm Thiên; bởi vì tiểu ngã (Atman) đã ngày càng đi ra khỏi những quy luật của Đấng sáng tạo. Nguyên nhân là do linh hồn đã bị vô minh, dục vọng làm ô nhiễm để rồi bị trôi lăn trong sanh tử luân hồi không trở về được nữa. Bà La Môn Giáo khẳng định không có những linh hồn cá biệt, tất cả đều là hư huyễn, chỉ có giá trị tạm thời và là những hiện thực tương đối; sự đa dạng biến mất khi trí huệ cứu cánh dẫn dắt tâm thức cá nhân hoà nhập với Phạm thiên và như vậy là giải thoát.
Để đươc giải thoát, Đạo Bà La Môn chủ trương Cúng tế Thần linh, cầu xin ban ơn, đồng thời cũng dùng thiền định Yoga để linh hồn Tiểu ngã (Atman) trở về hợp nhất với Đại Ngã Phạm Thiên (Brahman). Phương pháp trực tiếp để thành tựu cái Ta chân thật tức Tiểu ngã, cũng tức là Đại Ngã Phạm Thiên; thành tựu cái Ta thật tức là phát hiện cái toàn bộ, đó là Thượng đế cội nguồn của tất cả.
- Phật giáo Bắc truyền: Phật giáo Bắc truyền không chủ trương cúng tế thần linh, mà khẳng định đặc tính tự lực thể nghiệm và thành tựu Pháp thân Phật của chính mỗi người; giác ngộ trong Phật giáo có nhiều tầng bậc khác nhau tùy thuộc vào nỗ lực dụng công thanh lọc tâm của hành giả nên nó không có một tiêu chuẩn nhất định, nó thuộc về lĩnh vực của thực nghiệm, và cũng chính vì thế mà trong Phật giáo Bắc truyền, những giá trị tế lễ cầu cúng hay van xin để được hoàn thiện giác ngộ đều bị phủ nhận.
Quan niệm không trở về đâu cả, mà sự đồng nhất lại chính là sự nhận ra, giác ngộ được các pháp như thật “nó đang là” mới được gọi là giải thoát. Bởi vậy, trong Phật giáo, các pháp môn, dù là lễ bái, dù là niệm Phật, hay tọa thiền, đả thất,…cũng đều nhằm một mục đích giác ngộ giải thoát. Để giác ngộ giải thoát, Phật dạy có rất nhiều Pháp Môn tu khác nhau, như tu sống với hiện tại, dứt vọng tưởng, tham thiền, tụng Kinh, niệm Phật, trì Chú, thiền định v.v… để thanh tịnh tâm thức . . .
Xem như trên, chúng ta thấy chủ trương giải thoát giữa Ba La Môn giáo và Phật giáo Bắc truyền hoàn toàn khác biệt từ tư tưởng đến mục đích, nên không thể bảo rằng Phật Giáo Bắc truyền không phải là Phật giáo vì lầm cho rằng nghĩa lý toàn bộ kinh sách Đại Thừa là theo kiểu kiến giải giáo pháp của Bà La Môn chính gốc và lấy tên là Phật Giáo Đại Thừa để lừa đảo tín đồ Phật Giáo là không có cơ sở.
II). HT. TTL: Thiền Đông Độ không phải là của Phật Giáo mà là của Lão Giáo Trung Hoa (Tiên Đạo) Tư tưởng Lão Trang Trung Hoa phát triển, có những điểm tương đồng với tư tưởng kinh sách phát triển Đại Thừa Giáo Ấn Độ. Vì thế, sau này Phật giáo Đại Thừa đồng hóa tư tưởng Lão Giáo lấy tên là Phật Giáo Tối Thượng Thừa" hay còn gọi là "Thiền Tông". Chủ trương của Thiền Tông là kết hợp Lão Giáo và Đại Thừa, nên thường gọi là "Thiền Giáo đồng hành"…. (ĐVXP-Tập 8)
II). Phản Biện:
1). Tác giả TTL viết rằng: “Thiền Đông Độ không phải là của Phật giáo mà là của Lão giáo Trung Hoa…”, muốn biết Thiền Đông Độ có phải là của Lão Giáo hay không, chúng ta phải tìm hiểu về Đạo Lão trước rồi so sánh với Phật giáo như sau:
Đạo Lão cũng gọi là Đạo giáo, Nguồn gốc từ thế kỉ thứ 4 trước Tây Lịch, khi tác phẩm Đạo Đức kinh của Lão Tử (sống thời Chiến Quốc, thế kỉ thứ 6 trước Tây Lịch) xuất hiện. Đạo giáo là một trong Tam giáo từ thời Trung Quốc cổ, song song với Nho giáo và Phật giáo. Mặc dù có rất nhiều quan điểm khác biệt nhưng cả ba giáo lí này đã hoà hợp thành một truyền thống.
Đạo giáo thâu nhiếp nhiều tư tưởng từ thời nhà Chu (1040-256 trước Tây Lịch). Những tư tưởng này là vũ trụ luận về trời đất (thiên địa), năm chất {ngũ hành: Kim (sắt), Mộc (gỗ), thủy (nước), hỏa (lửa), thổ (đất)}, thuyết về năng lượng, chân khí, thuyết âm dương và Kinh Dịch. Ngoài ra, những truyền thống tu luyện thân tâm như điều hoà hơi thở, Thái cực quyền, Khí công, Trầm tư, thiết tưởng linh ảnh và những huyền thuật với mục đích đạt trường sinh bất tử.
Đạo Đức kinh cũng được gọi dưới tên của tác giả, là Lão Tử và bao gồm hai quyển với tổng cộng 81 chương. Phần thứ nhất nói về Đạo, phần hai nói về Đức. Tuy nhiên, Đạo Đức kinh không là một bộ kinh có một kết cấu lý luận của một thế giới quan, mà chỉ là một tập hợp của những ngạn ngữ huyền bí tối nghĩa, làm cho người đọc phải tự lí giải một cách chủ quan. Chính vì vậy mà người ta tìm thấy rất nhiều bản chú giải.
Đạo Đức là gì?
- Đạo của Lão Tử là một khái niệm trừu tượng chỉ cái có sẵn một cách tự nhiên rằng: “Người ta bắt chước Đất, Đất bắt chước Trời, Trời bắt chước Đạo, Đạo bắt chước Tự nhiên”; Đạo là nguồn gốc của vạn vật, nó chẳng phải cái gì khác ngoài sự tôn trọng tự nhiên.
- Đức là biểu hiện cụ thể của Đạo trong từng sự vật, Đức chính là sự luật biến đổi âm dương.
Đạo sinh ra vạn vật, nhưng làm cho vật nào hình thành ra vật ấy và tồn tại được trong vũ trụ là do Đức. Nếu Đạo là cái Tĩnh vô hình thì Đức là cái Động hữu hình của Đạo. Nếu Đạo là bản chất của vũ trụ thì Đức là sự cấu tạo và tồn tại của vũ trụ. Con người cũng như vạn vật là từ “Đạo” mà sinh ra; cho nên tu luyện là trở về với “Đạo”.
Sự sinh hóa từ Đạo ra Đức, từ Đức trở về thấm sâu tinh thần biện chứng âm dương, chi phối bởi luật quân bình âm dương, vạn vật tồn tại theo lẽ tự nhiên một cách công bằng, chu đáo, và do vậy mà hợp lý. Công bằng, vì nó luôn bớt chỗ thừa mà bù vào chỗ thiếu, chu đáo vì nó như cái lưới trời lồng lộng tuy thưa mà khó lọt. Bởi vậy mà nó mầu nhiệm tới mức không cần tranh mà chiến thắng, không cần nói mà ứng nghiệm; mọi sự mất quân bình đều trái với lẽ tự nhiên, và do đó sẽ tự điều chỉnh theo luật âm dương mà chuyển hóa.
Từ đây, Lão Tử suy ra triết lý sống tối ưu là muốn làm việc gì, phải đi từ điểm đối lập, phải vô vi (không trái đạo lý, t ùy thuận tự mhiên, lấy đức giáo hóa dân); đừng làm gì thái quá, vì thái quá thì theo luật âm dương “vật cực tắc phản” (mọi vật đẩy tới cùng rồi thì sẽ bị dội lại), kết quả thu được còn tệ hại hơn là hoàn toàn không làm gì. Triết lý vô vi áp dụng vào đời sống cá nhân là không tranh, không làm những điều không nên làm, áp dụng vào đời sống xã hội Lão Tử không tán thành lối cai trị cưỡng chế, áp đặt của người cầm quyền.
Cả Khổng Tử và Lão Tử đều tiếp nhận sức sống của văn minh nông nghiệp, nhưng trong khi Khổng Tử tìm cách kết hợp nó với văn minh gốc du mục thì Lão Tử dựa hoàn toàn vào nó; do đó Khổng thì “nhập thế”, “hữu vi”, còn Lão thì “xuất thế”, “vô vi”.
Nhưng Trang Tử (khoảng 369 – 286 trước Tây Lịch): Với chủ trương sống hòa mình với tự nhiên của Lão Tử, Trang tử thay bằng lối sống xa lánh, chủ trương yếm thế thoát tục trở về xã hội nguyên thủy: “Núi không đường đi, đầm không cầu thuyền, muôn vật sống chung, làng xóm tiếp liên cùng ở với cầm thú”.
Trang Tử và Nam Hoa chân kinh: Được viết ở thế kỉ thứ 4 trước TL và tương truyền tác giả là Trang Tử. Trong Nam Hoa kinh, thể tính của Đạo được diễn tả qua những ngụ ngôn, những mẩu chuyện có tính cách triết lý. Trang Tử lấy nhiều điểm trong Đạo Đức kinh làm chủ đề, nhưng Trang Tử không hề nhắc nhở những nhà cầm quyền việc an quốc trị dân mà lên án bài bác; mà chỉ với mục đích lìa thế gian là người lí tưởng, và chỉ làm một chân nhân vô sự.
Trong thời Lão Trang, người ta không thấy dấu tích của một tổ chức hay cơ cấu triết học hoặc tôn giáo nào có thể được gọi là Đạo giáo. Chỉ còn một vài tác phẩm có tư tưởng Đạo giáo được lưu lại, tôn vinh là Thánh điển khi Đạo giáo dần dần hình thành. Tuy nhiên, tất cả các nhà nghiên cứu đều công nhận là những tác phẩm này đã có mối quan hệ chặt chẽ với sự phát triển của Đạo giáo.
Đạo giáo.
Trong cảnh loạn li cuối thời Đông Hán (thế kỷ thứ 2), tư tưởng của Lão Tử cộng với bản chất duy tâm mà Trang Tử nêu ra đã trở thành cơ sở cho việc thần bí hóa đạo gia thành Đạo giáo; chủ trương cùng với thái độ vô vi của Lão – Trang phản ứng đối với chính sách áp bức bóc lột của tầng lớp thống trị.
Đạo giáo thờ “Đạo” và tôn Lão Tử làm giáo chủ, gọi là “Thái Thượng Lão Quân”, coi ông là hóa thân của “Đạo” giáng sinh xuống cõi trần. Kinh điển của Đạo giáo gọi là Đạo tạng kinh, ngoài sách về nghi lễ, giáo lý, Đạo tạng còn bao gồm cả các sách thuốc, dưỡng sinh, bói toán, tướng số, coi đất (phong thủy), thơ văn, bút ký…; Đạo giáo có hai phái:
1. Đạo giáo phù thủy dùng các pháp thuật trừ tà trị bệnh, chủ yếu giúp cho dân thường khỏe mạnh;
2. Đạo giáo thần tiên dạy tu luyện, luyện đan, dành cho các quý tộc cầu trường sinh bất tử. Đạo giáo thần tiên hướng tới việc tu luyện thành thần tiên trường sinh bất tử, tu tiên có hai cách nội tu và ngoại dưỡng:
- Ngoại dưỡng là dùng thuốc trường sinh, gọi là kim đan (hay linh đan, thu được trong lò bằng cách luyện từ một số khoáng chất như thần sa, hùng hoàng, từ thạch, vàng).
- Nội tu là rèn luyện thân thể, dùng các phép tịch cốc (nhịn ăn), dưỡng sinh, khí công… lấy thân mình làm lò luyện, luyện tinh thành khí, luyện khí thành thần, luyện thần trở về hư vô (Đạo). Con người cũng như vạn vật là từ “Đạo” mà sinh ra; cho nên tu luyện là trở về với “Đạo”.
Tóm lại nếu nói về lối hành xử vô vi thì Đạo Lão và Đạo Phật tương đối giống nhau, như đạo Lão quan niệm về cái tâm của con người:
Tướng do tâm sinh
Tâm tịnh Thần sáng
Thần sáng Trí minh
Tâm bất tịnh, Thần suy
Thần bất tịnh Trí bất minh
Cũng tương tự như Phật giáo với quan niệm “Nhất thiết duy tâm tạo”, tất cả đều do tâm này làm chủ tạo tác những thiện nghiệp hoặc ác nghiệp. Nó tương ứng với những hành nghiệp mà chúng sanh đó đã tạo thiện hay bất thiện mà hiện tướng “thần minh trí sáng”. Có thể nói hai quan điểm về tâm của hai tư tưởng tương tự nhau, nhưng mục đích cuối cùng của hai đạo thì hoàn toàn khác nhau; vì Đạo Lão tìm cách đạt Đạo qua việc ứng dụng những phương pháp như Khí công, Thái cực quyền, tập trung cao độ, thiết tưởng (năng lực tưởng tượng), hình dung, thuật luyện kim, nghi lễ và huyền học để tạo một thế giới vi quan từ thân tâm - một ánh tượng của đại vũ trụ - và qua đó đạt được sự hợp nhất với vũ trụ.
Xét về mục đích của Lão giáo như trên, chúng ta thấy quan niệm có một phần nào tương tự, nhưng không phải là giống nhau; vì thế cho rằng “Thiền Đông Độ không phải là của Phật Giáo mà là của Lão Giáo Trung Hoa (Tiên Đạo) Tư tưởng Lão Trang Trung Hoa phát triển, có những điểm tương đồng với tư tưởng kinh sách phát triển Đại Thừa Giáo Ấn Độ” là sai sự thật, vì sao? Vì nếu mục đích của việc tu theo Đạo giáo là sống lâu thì mục đích của việc tu theo Phật giáo Bắc truyền là thoát khổ, nếu Đạo Lão tu để trở về hợp nhất với vũ trụ (cũng giống hệt như Bà La Môn Ấn Độ giáo tu để trở về với Thượng Đế Phạm Thiên) thì Phật giáo Bắc truyền tu để thể hiện Chân như, tu để giải thoát, vì vậy cho nên Phật giáo Bắc truyền chẳng thể là của Lão giáo hay Ấn Độ giáo.
2). Nếu bảo rằng: “sau này Phật giáo Đại Thừa đồng hóa tư tưởng Lão Giáo lấy tên là Phật Giáo Tối Thượng Thừa hay còn gọi là Thiền Tông". Chủ trương của Thiền Tông là kết hợp Lão Giáo và Đại Thừa, nên thường gọi là "Thiền Giáo đồng hành" cũng là không hiểu Thiền Tông, vì cách hành trì của Thiền Tông do thiện xảo của Chư Tổ hướng dẫn tu hành chỉ là theo vết xe Thiền Tông từ Phật Thích Ca đã làm chứ chẳng phải khác lạ gì như “Niêm Hoa Vi Tiếu” của Phật Thích Ca và Tôn giả Đại Ca Diếp được đại ngộ.
Rồi sau Tổ Ca Diếp nói với Tôn giả A Nan Đà rằng: “Cây đại phướn đổ rồi” (trong khi cây phướn không đổ) khiến cho Tôn giả A Nan Đà đại ngộ, đều là của Thiền Tông. Bởi vậy cho nên nếu sự tu của Đạo giáo để thể nhập hợp nhất với đại vũ trụ thì sự tu của Phật giáo Bắc truyền là để thành Phật, vì Đức Phật đã khẳng định rằng: “Ta là Phật đã thành, chúng sanh là Phật sẽ thành”.
Kết lại, Đạo Lão gần giống Phật Giáo Bắc truyền nhưng không phải là giống, vì Lão giáo xa lánh cuộc đời sống ẩn dật chứ không phải tu giác ngộ giải thoát khỏi luân hồi sinh tử như Phật Giáo. Tác giả Thông Lạc còn nhầm lẫn giữa Thiền Tông với Giáo môn thiền định như Tông Thiên Thai, Tông Hoa Nghiêm v.v… bên Trung Hoa nên đã dùng “Thiền Giáo đồng hành” (Thiền Tông và Giáo Tông cùng nhau tu hành) để chỉ Thiền Tông với Lão Giáo là sai sự thật. Mặt khác, ở Việt Nam có những pháp Môn tu hoặc Tụng Kinh, hoặc Trì Chú, hoặc Niệm Phật, và thực hành song song với thiền định, đây là Giáo Môn, có những người tu như vậy; rồi lại có người tu Thiền Tông, nên mới có tên “Thiền Giáo đồng hành”.
III). HT. TTL: Khi về họp ở Tỉnh Hội Phật Giáo Tây Ninh, ông Trưởng Ban Tỉnh Hội đề nghị tôi biên soạn giáo án Tịnh Ðộ Tông, Mật Tông, Pháp Hoa Tông và Thiền Tông. Trong buổi họp hôm đó, tôi đưa ra ý kiến và vạch rõ bốn tông phái này không phải của Phật Giáo mà của Bà La Môn Giáo.
(Còn tiếp)

Hiện tượng T.Thông Lạc (02

III). HT. TTL: Khi về họp ở Tỉnh Hội Phật Giáo Tây Ninh, ông Trưởng Ban Tỉnh Hội đề nghị tôi biên soạn giáo án Tịnh Ðộ Tông, Mật Tông, Pháp Hoa Tông và Thiền Tông. Trong buổi họp hôm đó, tôi đưa ra ý kiến và vạch rõ bốn tông phái này không phải của Phật Giáo mà của Bà La Môn Giáo.

III). Phản Biện: Muốn xác định bốn tông Tịnh Độ Tông, Mật Tông, Pháp Hoa Tông và Thiền Tông là của Bà La Môn Giáo thì phải chứng minh sự kiện chứ không nên nói một cách hàm hồ sai sự thật. Sau đây chúng ta bàn vào chi tiết từng tông để rõ vấn đề hư thực:

1). HT TTL:Tịnh Ðộ Tông là pháp môn mê tín, lừa đảo giới tín đồ bình dân, biến tu sĩ thành những ông Thầy tụng, Thầy cúng tế làm những điều mê tín, phi đạo đức. Các vị Thầy này phá giới luật Phật tận cùng, có một lối sống giống như người thế tục, có vợ con, làm tất cả các nghề nghiệp để sanh sống.

1). Phản Biện: Phải công nhận rằng có một số ít Chùa nhỏ do những người không phải là người xuất gia điều hành, mà do những người có gia đình đảm trách; những người này là người thế tục và coi Chùa như cơ sở nghề nghiệp để sinh sống nên không tuân theo quy củ của Phật Giáo và có thể làm những điều mê tín. Nhưng không phải các Chùa có Tu sĩ thực thụ hành nghề Thầy cúng, cũng không phải các Tu sĩ làm nghề phi đạo đức, mà trái lại các vị làm việc đạo đức giúp cho người chết; vì các vị tu Tịnh Độ thường hộ niệm và làm lễ cầu siêu cho người chết, đây là việc làm độ tha, có tính cách giúp cho người chết và thân nhân người chết an tâm.
Đây là việc làm có tính cách văn hóa Việt Nam, cũng là việc giữ cho người Phật tử tại gia có một mối kết hợp với các vị tu sĩ trong vấn đề sống chết. Nếu không, có thể họ sẽ có sự xa cách với đạo Phật và sẽ tìm đến các đạo khác, vì các đạo khác họ mong mỏi phục vụ bất cứ ai của đạo Phật muốn họ phục vụ, họ mong muốn và nhiệt tình hết cỡ được phục vụ, và nếu Tu sĩ của chúng ta chẳng làm gì cả, thì tương lai sẽ không còn Phật tử tại gia nữa, không còn Phật tử tại gia thì lẽ dĩ nhiên sẽ không còn Phật tử xuất gia, và như thế thì đạo Phật sẽ biến mất tại Việt Nam.
Ngoài ra, các vị Tu sĩ làm các việc hộ niệm hoặc cầu siêu đều được Phật tử cúng dường, như thế có hơn là ngồi đấy mà mong Phật tử cúng dường, tức là ăn của tín thí mà không tu hành tới nơi tới chốn thì sẽ phải trả qủa báo khi chết hay sao? Ngoài ra, các vị Tu sĩ Tịnh Độ Tông còn phải tu niệm Phật A Di Đà để được vãng sanh, trong khi tu hành dành chút thời giờ đi làm lễ hoặc hộ niệm cũng giống như bỏ thời giờ đi khất thực để sống vậy, đâu có khác là bao; như vậy các vị Tu sĩ tu Tịnh Độ đã tự độ (có tha độ) và độ tha cho người khác nữa, một việc làm không thể chỉ trích được.
Trước khi bàn về Tịnh Độ Tông có phải là mê tin hay không, chúng ta lược trích mấy lời của Đại lão Hòa thượng Thích Trí Tịnh Viện Chủ Chùa Vạn Đức viết bài “Công Phu Niệm Phật” ngày Khánh tuế 17/7 Nhâm Thìn – 2/9/2012), Ngài nói về cách niệm Phật của chính Ngài như sau:
“Trong mấy mươi năm chấp trì danh hiệu Phật A Di Đà nghĩa là:
1. Bất niệm tự niệm: mình không nghĩ niệm nhưng trong tâm vẫn luôn tự niệm Phật.
2. Niệm lực tương tục: niệm Phật có sức mạnh thường niệm luôn, không lúc nào hở dứt.

Nếu người nào tự thực hành thì sẽ tự biết, từ chỗ được “chấp trì danh hiệu” là đạt bước đầu tiên về đạo lực trong pháp môn Trì danh niệm Phật. Từ “chấp trì danh hiệu” ở bước đầu tiên này mới được những bước sau như tiến lên tam muội (chánh định) chẳng hạn; đến bây giờ, tôi cũng chỉ được tầng bậc này thôi.
Đời tôi năm nay đã 96 tuổi mà thọ dụng không hết, Thứ nhất: ngũ tạng, lục phủ trong thân không sanh bệnh. Có lần tôi vô bệnh viện để khám bệnh, sau khi khám xong, bệnh viện làm giấy kết quả xét nghiệm về tâm, cang, tỳ, phế, thận, máu huyết… Họ tổng kết rằng: kiểm tra kỹ, tất cả đều bình thường.
Kế nữa, có điều làm chứng cho mình biết, các vị đắc đạo lên bậc Thánh, cái ngủ không có, thùy miên tâm sở bị trí lực làm cho thế lực của nó yếu hẳn hoặc mất đi. Người bình thường, thùy miên tâm sở còn nguyên, hễ nằm nhắm mắt thì khởi lên ngủ mê, nếu trằn trọc không ngủ được là bị bệnh mất ngủ; còn người được đạo, thùy miên tâm sở yếu hoặc không còn, vì có trí lực chế phục. Từ lâu rồi cho đến bây giờ, mấy tháng nay tôi không ngủ, mấy chú thị giả nói: “Con không ngủ một đêm thì ngày sau không làm gì được! Sư ông mấy tháng không ngủ tinh thần vẫn tỉnh sáng, còn phấn chấn mạnh hơn lúc trước kia”; thỉnh thoảng tôi cũng ngủ nhưng ít lắm, đến đỗi chỉ khi có chiêm bao mới biết mình ngủ.
Trên đường đạo, mình biết rất rõ ràng chứ không phải mù mờ, mù mờ nguy hiểm lắm; chính mình không rõ để nhận biết, rồi tự viết thành sách. Người đọc tưởng rằng đúng, chẳng dè chỉ là phàm phu tự ý nói ra; tôi thường nói: phải y cứ trong Kinh làm chánh, gọi là Thánh giáo lượng”.
Đại Lão Hòa Thượng nói về sự không ngủ làm người viết này nhớ lại khi đọc về lược sử Đức Phật Thích Ca Mâu Ni, Ngài đã không ngủ, chương trình làm việc hàng ngày của Ngài kín hết, chỉ trừ từ 1:00 giờ đến 2:00 giờ chiều và từ 4:00 giờ đến 5:00 giờ sáng Ngài nằm nghiêng bên phải định thần cho giãn gân cốt thôi. Bây giờ, chính Hòa Thượng Thích Trí Tịnh đã nói như trên, chứng tỏ đã tiến tới đạo rồi, Ngài chỉ không nói hết ra thôi, chúng ta chờ xem ngày Hoà Thượng vãng sinh về Tây phương Cực Lạc như thế nào?
Như vậy Tu Tịnh Độ đúng sẽ đưa tới giải thoát chứ không phải là mê tín; ngoài ra tác giả Thích Thông Lạc trả lời thế nào về các câu hỏi sau đây:
1. Tại sao có người tu Tịnh Độ biết trước ngày ra đi, chuẩn bị đầy đủ, ngồi kết già niệm Phật rồi an nhiên thị tịch?

Bằng chứng: Bài “Biết Trước Giờ Chết” do Hòa Thượng Thích Tịnh Nghiêm viết về một bằng chứng biết trước giờ chết, ra đi tự tại, như sau:
“Hòa thượng Hải Đức trụ trì chùa Hải Đức ở Huế và cũng là người thừa kế chùa Hải Đức tại Nha Trang, sau Ngài cúng chùa Hải Đức Nha Trang cho Giáo hội Phật giáo Trung phần; Ngài mở Phật học viện Trung phần và cử Thượng tọa Trí Thủ vào làm giám đốc Phật học viện.
Năm ấy, Ngài trên 80 tuổi, Ngài không đau ốm chi. Biết mình sắp về Tây Phương nên sáng ngày 8 tháng 4 Âm lịch, Ngài bảo bà cô nấu ăn, “Hôm nay cô đi chợ mua hoa trái về cúng vía Phật. Trưa nay thầy về Tây Phương đó”; bà cô nói, “Bạch Hòa thượng, năm nay giáo hội làm lễ Phật Đản vào ngày rằm chớ không làm ngày mùng 8 nữa”, Hòa thượng nói, “Thế à, thôi, để đến rằm cũng được.”
Thế rồi đến ngày rằm, bà cô đi chợ mua hoa trái để cúng lễ Phật đản, Hòa thượng bảo thầy tri sự quét chùa sạch, chưng hoa quả, và khi đúng ngọ, lên hương đèn cúng vía Phật.
Nửa buổi, Hòa thượng bảo thị giả hái các bông hoa, nấu nước cho Ngài tắm, thay đồ mới và Ngài bảo bà cô khuấy một chén bột mình tinh để Ngài dùng. Đến gần trưa, Ngài hỏi thầy tri sự: “Đúng ngọ chưa?” Thầy tri sự nói: “Đã gần đúng giờ ngọ rồi”, Hòa thượng bảo thầy tri sự, “Mặc áo, lên chùa, đốt hương đèn, đánh trống Bát Nhã, Thầy sẽ đi đó.”
Thầy tri sự lên chùa đốt đèn nhang xong, đánh trống Bát Nhã, rồi xuống nhà tổ, thấy Hòa thượng ngồi tư thế thiền định, Thầy đến đưa tay trước mũi, thì Hòa thượng đã đi rồi. Thầy liền qua chùa Từ Đàm báo cho Giáo hội biết, Giáo hội cũng vừa làm lễ Phật Đản xong; Chư Thượng tọa, Đại đức, tăng ni liền qua chùa Hải Đức tiếp tục hộ niệm. Một giờ sau, đỡ Hòa thượng nằm xuống và lo tang lễ.
Như vậy, Hòa thượng đã biết trước giờ chết và hẹn lại một tuần, Ngài ra đi một cách ung dung, tự tại; nên biết pháp môn Tịnh Độ là một pháp môn mầu nhiệm, đường tắt trong đường tắt”.
2. Tại sao có người tu Tịnh Độ khi sắp chết tự nhiên có mùi hương thơm lạ khắp vùng, hoặc có nhạc trời, hoặc có ánh sáng sáng rực trong ban đêm, rồi sau đó ra đi?

Bằng chứng: Trường hợp người tu khi chết được hộ niệm được vãng sinh được viết trong quyển “Pháp Môn Tịnh Độ” của Toàn Không Đỗ Đăng Tiến như sau: “Năm 1958, một cô giáo ở chợ Lớn 19 tuổi, quy y với Hòa Thượng Thích Khánh Anh (về sau Hòa Thượng làm pháp chủ hội Phật Giáo Tăng Già Nam Việt), cô giáo được đặt pháp danh là Diệu Tâm. Cô ăn chay trường, nuôi mẹ góa, sớm chiều công phu niệm Phật. Ngày 14 và 30 cô thường đến chùa lạy sám hối.
Đến năm 21 tuổi bị bệnh nặng, cô nhờ rước thầy của cô đến tụng niệm, đến lúc sắp lâm chung, cô bảo đỡ cô ngồi dậy vì Quan Âm Bồ Tát đến rước. Lúc ấy vào ban đêm, hào quang sáng rực trên nóc nhà, lối xóm tưởng nhà cô bị cháy, mọi người tới chữa lửa nhưng không phải, mà là có sự lạ lúc cô giáo qua đời”.
Tác giả Thông Lạc nghĩ sao về lời nói của Đại Lão Hòa Thượng Thích Trí Tịnh vẫn còn sống, nếu không tin nữa có thể đích thân diện kiến Ngài để hỏi cho ra lẽ, nghĩ sao về hai câu hỏi có dẫn chứng? Bởi vậy cho nên nói Tịnh Độ Tông mê tín là đã nói sai vậy.

2). HT TTL: Mật Tông là pháp môn tà thuật, huyễn hoặc lường gạt tín đồ nhẹ dạ, ham mê thần thông, biến ông Thầy thành Thầy phù thủy, Thầy bùa, Thầy pháp, v.v...

2). Phản biện: Mật Tông tuy về hình thức có những lễ lạc khác vì một phần do phong tục nên có vẻ huyền bí, nhưng về hành trì chú trọng ở trì Chú và Thiền định,
Mật giáo chủ trương lối thực hành "Tam mật tương ứng", thân mật, khẩu mật, và ý mật; nghĩa là: Thân, khẩu, ý quyện chặt không rời. Thân ngồi kiết già, Miệng tụng Đà la ni tương tục, Ý lắng nghe lời chú hoăc quán một đối tượng do hành giả pháp nguyện và hướng tâm vào. Pháp hành của hành giả trì Đà la ni là "Tam mật"
Người tu Mật-Tông phải “vừa tu vừa cứu độ”, có nghĩa là hàng ngày trong mọi lúc, ở mọi nơi đều phải nghĩ đến việc làm lợi lạc cho chúng sinh, mình đem cho mà chẳng cần người được cho biết đến, và cũng không cần họ đền ơn…
Khi người không hiểu về Mật Tông mà phê bình Mật Tông thì đó là “nói không có sách, mách không có chứng”, do đó chúng ta cùng
t óm lược qua tập “Mật Tông Vấn Đáp” của tác giả Mật Nghiêm viết năm 1992 để hiểu sơ về Mật Tông là thế nào?
Theo tác giả Mật Nghiêm thì: “nếu coi Mật tông như một nghành chuyên về bùa phép, cầu phước, giáng họa, sai phái quỷ thần, trừ khử tà ma, dị đoan mê tín. Nếu hiểu một cách phiến diện như vậy thì thật là oan cho Mật tông quá! Thật ra Mật tông là một hướng đi gồm nhiều pháp môn chuyên tu giải thoát, với những phương tiện thiện xảo, có thể đưa hành giả đạt được những quả vị lớn hay nhỏ, chắc chắn thành tựu ngay trong hiện kiếp này”.
Bây giờ chúng ta sẽ lần lượt xét: Thế nào là Mật tông, cách hành trì tu Mật Tông, và quan niệm của người tu Mật Tông.

A. Thế nào là Mật tông?

1. Định nghĩa Mật Tông: Mật Tông là một tông phái của Đạo Phật dùng các “MẬT NGỮ” của Chư Phật làm phương tiện tu hành, Mật ngữ có nghĩa là “lời nói kín”. Mật ngữ còn gọi là “Chân Ngôn” (lời nói
chân thật), Mật ngữ còn gọi là “Chú”, đây là tiếng thông thường người đời hay dùng nhất, Chú cũng có nghĩa là lời nói bí mật. Bí mật vì nó không được giải nghĩa, chỉ có chư Phật mới hiểu trọn vẹn, tùy trình độ, căn cơ và có sự ứng dụng mà mỗi người hiểu một khác và đạt kết quả khác, nó chỉ được thông đạt qua Tâm truyền Tâm, giữa Thầy trò, giữa chư Phật (hoặc người nói ra chân ngôn) với hành giả (Điều này chỉ người nào tu Mật rồi mới chứng nghiệm được), và sau chót là kết quả tùy Tâm hành giả.

2. Tại sao lại dùng “Chú” làm phương tiện tu hành?

Tu theo đạo Phật có rất nhiều cách để đi tới “cứu cánh giải thoát”, có người niệm Phật, có người tụng Kinh, có người ngồi Thiền, vậy thì dùng “Chú” cũng chỉ là mượn xe đi đến đích mà thôi. Trong một cuộc hành trình muốn đi tới một điểm nào đó, người ta thường thích chọn xe nào đi cho nhanh và thoải mái. Vậy thì việc chọn “Chú” mà không dùng các phương tiện khác cũng như thế, vì dùng “Chú” thì ngoài “tự lực” của mình còn nhờ “tha lực”, giống như đi thuyền biết trương buồm lên, nên nhờ được gió đẩy đi nhanh hơn. Người tu Mật-Tông nói đến tha lực là nói đến sức hỗ trợ vô hình từ các cõi xuất-thế-gian đưa đến; bởi vì sức người có hạn mà sức ngoài thì vô hạn, nếu ta biết nương vào sức đó thì sẽ giúp ta sớm đạt kết quả.
3. Nhờ đâu ta có tha lực hỗ trợ?

Nhờ ở chân ngôn tức “Chú”, điều này thuộc về bí mật, mà chỉ có thể chứng minh được bằng Đức Tin của mình, sự chứng nghiệm và cảm nhận; kết quả chỉ được chứng minh khi đã hành trì.
4. “Chú” do đâu mà có và đọc Chú có lợi gì?
“Chú” do TÂM Phật mà có, “Chú” do lòng thương xót chúng sinh mà có; Chư Phật, chư Bồ Tát hoặc các vị khác khởi từ tâm chân thật, từ lòng thương xót chúng sinh mà nói ra “Chú” để cứu độ. “Chú” phát xuất từ TÂM-CHÂN-THẬT nên mới gọi là “Chân ngôn”; vì “Chú” xuất phát từ chỗ vô hạn là Tâm Phật nên lợi ích của nó cũng vô cùng, không thể kể hết. Tuy nhiên, đối với người tu thì lợi ích thiết thực nhất là “Chú” giúp ta tìm cầu giải thoát mau chóng và giúp người khác cùng tiến với ta; còn các lợi ích khác như Thần thông, trừ Tà ma, chữa Bệnh chỉ là phụ, không nên nhìn “Chú” bằng con mắt hạn hẹp đó.

5. Những ai đọc “Chú” được?

“Chú” là phương tiện của Phật cho mượn nên ai cũng có quyền đọc; tuy nhiên như khi ta mượn một cái xe thì điều cần thiết là ta có biết xử dụng nó hay không. Do đó đọc “Chú” thì ai cũng có thể đọc được, nhưng có kết quả hay không, nhiều hay ít, đó mới là vấn đề, ấy là chưa nói tới có thể cái hại đưa đến nữa. Nói thế không hẳn là chỉ những người tu chân ngôn mới được đọc “Chú” mà bất cứ ai nếu với Tâm thành thật, hướng đến sự tốt lành cho mình và cho người, vẫn có thể dùng “Chú” mà vẫn thấy linh nghiệm.

6. Đọc “Chú” đòi hỏi những điều kiện gì?

Sự tin tưởng vững chắc vào “Chú”, thành khẩn khi đọc, hướng về làm lợi ích cho chúng sanh. Đối với người tu Mật tông thì còn cần phải: Xả thế nào, dụng Tâm ra sao, dụng ý thế nào, dụng lực làm sao, trì tụng thế nào trong bốn oai nghi: đi, đứng, nằm, ngồi; còn phải làm thế nào Tam-mật tương ưng, làm lợi ích cho chúng sanh thế nào, và hồi hướng công đức ra sao, v.v…

7. Mục đích của việc trì “Chú” là gì?

Mục đích tối hậu của việc trì Chú là giải thoát cho mình và để cứu độ người khác, và phải tu thành Phật bằng phương tiện trì “Chú” ngay trong hiện kiếp này.

8. Muốn tu trì “Chú” để thành Phật thì phải làm sao?

Hành giả tu Mật Tông phải thực hiện được “Tam-Mật tương ưng”, nghĩa là làm sao cho “Thân, Khẩu, Ý giống như Phật”. Muốn được “Tam Mật tương ưng” thì phải qua một quá trình tu tập hành trì, đi nhanh hay chậm là do sự tự ngộ và mở Tâm của mình.

9. Mật-Tông có đọc Chú, bắt Ấn như Thầy Pháp hành tà không?

Khi nào tin một cách mù quáng thì là mê tín thật, còn người tu Mật-Tông thì biết rõ việc mình làm, thấy rõ mục đích mình đi tới, vậy sao gọi là mê tín được. Việc Tà hay Chánh do TÂM ý người hành đạo. Nếu tu theo Chánh Đạo, nhưng ta dùng phương tiện đi làm việc xấu, cướp đoạt tiền bạc vợ con của người, lòng đầy tham sân si, thì đó là ta hành Tà. Nếu như Thầy Pháp mà làm việc cứu người không nghĩ đến lợi cá nhân, không hại người lành, ngăn chận kẻ ác thì đó là Chánh chớ đâu phải Tà; về người tu Mật-Tông mục đích là “tu để thành Phật” vậy làm sao Tà được? Phật và Ma chỉ khác nhau ở lòng “Từ Bi Cứu Độ” mà “Từ Bi Cứu Độ” là tông chỉ của Mật-Tông đấy.

10. Vì sao đọc “Chú” lại cần bắt Ấn?

Ấn là bí pháp thuộc về “thân mật”, khi nào tu lâu sẽ hiểu, đại để có thể tạm giải thích: khi ta bắt Ấn thì làm phát huy cái lực của “Chú” cũng ví như mở đài Tivi mà có thêm ăng ten vậy, đối với người tu Mật thì việc bắt Ấn còn là một sự “thể nhập” vào pháp thân Phật nữa.

11. Lợi ích đặc biệt Chú thế nào?

“Nghiệp” là cái đem con người trôi lăn trong sanh tử luôn hồi, nay nhờ “Chú”, ta chuyển được nghiệp, giải được nghiệp để sớm giải thoát; đó là điểm khác biệt quan trọng nhất của Mật-Tông so với tông phái khác. “Chú” còn giúp hành giả lập công bồi đức và tiêu tội nữa;
đấy là chỉ kể những lợi ích thiết thực cho vấn đề giải quyết sanh tử luân hồi thôi, chứ chưa nói đến lợi ích chữa bệnh, cứu người, tăng thêm tuổi thọ v.v…

B. Cách hành trì tu Mật Tông.

1. Người tu Mật-Tông phải làm gì?

Người tu Mật-Tông phải “vừa tu vừa cứu độ”, có nghĩa là hàng ngày trong mọi lúc, ở mọi nơi đều phải nghĩ đến việc làm lợi lạc cho chúng sinh; làm lợi lạc bằng cách “Chú nguyện”, dùng “Chân ngôn Chú pháp”. Đây là một hình thức bố thí có thể được xếp vào loại “Pháp thí”, Phật dạy: “Pháp thí cao hơn tài thí”. Có nghĩa là cao hơn cho tiền bạc, sự bố thí này lại là “Ba-La-Mật” nghĩa là tuyệt đỉnh ở chỗ mình đem cho mà chẳng cần người được cho biết đến, và cũng không cần họ đền ơn.

2. Tại sao Mật-Tông chủ trương cứu độ là chính?

Các Tông phái khác trong Đạo Phật cũng đều thực hiện việc cứu độ, nhưng dưới nhiều hình thức và hoàn cảnh khác nhau, riêng Mật-Tông đặt nặng vấn đề này hơn; vì người tu Mật là người mang lý tưởng Bồ Tát! Trong chủ trương “Thượng cầu hạ hóa”, người tu Mật quan niệm rằng đó là thực tu, thực tu thì phải hành, không hành thì chẳng chứng được “Cái lý”; có vậy thì “Lý - Sự mới viên dung”.
Các Tổ đã dạy 4 bước tu hành là “Tín, Giải, Hành, Chứng” nghĩa là Tin thì phải Hiểu, Hiểu thì phải Làm, Làm thì mới thấy kết quả;
đó là làm tròn tự lợi và lợi tha, tự lợi ở chỗ hằng thường mở rộng TÂM mình, ở trong thiện niệm và làm các việc lành. Lợi tha là cứu độ, Cứu là giúp đỡ, đem ra khỏi chỗ nguy hiểm tai hại; Độ là dìu dắt, nghĩa chính là chở bằng đò qua sông. Vậy “Cứu độ” là giúp đỡ, dìu dắt người qua biển khổ, từ bên này bờ mê sang bên kia bờ giác.
Người tu Mật muốn làm tròn hạnh cứu độ phải thực hiện các điểm sau đây:
- Cứu độ không phân biệt, nghĩa là không khởi Tâm phân biệt thiện ác, giàu nghèo, sang hèn, tốt xấu v.v…
- Cứu độ mà không độ, nghĩa là không thấy mình độ người, và không thấy có người được độ; không vì danh, không vì lợi, không mong cầu đền đáp.
- Sâu xa hơn ta phải hiểu hành động cứu độ là giải thoát, giải thoát cho mình và cho người.

3. Người tu Mật có hành lục độ không?

Cứu độ là con đường làm tròn quả vị, có cả 6 độ nằm trong đó, nếu bạn làm thường hằng thì thấy “LỤC ĐỘ” trong đó cả, vì sao?
Vì khi BỐ THÍ bạn đã TRÌ GIỚI không sân tham, nếu bạn làm thường hằng thì đó là hạnh TINH TẤN; cho mà không cầu lợi không mong đền đáp, đó là hạnh NHẪN NHỤC. Cho mà trong Tâm luôn luôn bình đẳng, không phân biệt thân thù, trụ nơi chánh niệm, đó là THIỀN ĐỊNH; cho mà niệm niệm giải thoát đó là TRÍ HUỆ, đây là con đường đi đến thành PHẬT đó bạn!

4. Hành giả Mật-tông vào Đời như thế nào?

Vào đời bằng cách dấn thân, quên mình để cứu độ bằng phương tiện thực tiễn, cả vật chất lẫn tinh thần, nhằm mục đích tối thượng là cùng nhau giải thoát; nhưng phải luôn luôn:
- Thức tỉnh tức là sáng suốt,
- Xả kỷ tức là bỏ cái “Ta”, cái Ngã,
- Không chấp tức là tùy duyên,
- Giữ con đường Trung đạo.
- Ngoài ra, người tu Mật lấy “XẢ” làm đầu, lấy “BI” làm căn bản, lấy “TÙY HỶ” chúng sanh làm hành động tiếp xúc, lấy “TỪ” làm môi trường sinh hoạt.

5. Hành giả Mật Tông phải có Tâm thế nào?

Muốn vào Pháp và chắc chắn đi đến thành tựu thì người tu Mật phải:

a. Đối với mình :
Thực hiện 3 điểm để được nhất tâm và luôn trong chánh niệm là:
- XẢ TẤT CẢ: Là bỏ cái “TA” cái “CỦA TA”, tức xả Ngã và Ngã Sở.
- PHÁ TẤT CẢ: Là phá cái “TÂM PHÂN BIỆT” và “KIẾN CHẤP”.
- LÀM TẤT CẢ: Là “LÀM CÁI THIỆN NGHIỆP” và hằng thường giữ Thân, Khẩu, Ý lành.

b. Đối với người :
Đối với người phải thường tùy hỷ và lấy “BI TÂM” mà đối xử để:
- CHUYỂN TẤT CẢ: Là dựa vào bi nguyện của Chư Phật, chư Bồ Tát và đem tất cả công đức lực của mình để chuyển hóa cho người khiến nghiệp dữ thành lành, hướng về chánh pháp tu hành.
- THẮNG TẤT CẢ: Là bằng phương tiện thiện xảo, bằng nguyện lực bằng chánh tâm để thắng mọi tà ngụy.
- THÀNH TẤT CẢ: Là người tu Chân ngôn mang Tâm Bồ Tát làm việc Phật làm nên “khởi niệm tất thành”, đó là chỗ thắng diệu của Pháp vậy.

6. Cái chướng ngại cho hành giả Mật Tông là gì?

Cái khó khăn nhất mà tất cả những người mới bước vào con đường “Mật thừa” đều gặp đó là:
- ƯA thích thần thông, hoặc
- MUỐN mau chóng được một cái gì, thành một cái gì!
Tâm lý này cũng đúng thôi, nhưng nó lại trở thành chướng ngại lớn cho hành giả, vì ưa thích thần thông tức mong muốn có quyền năng hoặc là siêu nhân, đó là phát triển tự Ngã; mong mau chóng kết quả là bạn còn tham cầu, còn chưa làm chủ thật sự Tâm mình, khi bạn “tu Pháp Mật” mà còn với tư tưởng đó thì kết quả rất là hạn chế và khó mà chuyên nhất.

7. Làm thế nào biết là thành tựu?

Phật nói “Tự tu tự chứng” vậy thì thành quả không ai giống ai, có người thành tựu lớn, có người thành tựu nhỏ; tùy theo căn cơ phước đức, công phu của mỗi người. Tuy nhiên, thành tựu nói chung của những người “TU GIẢI THOÁT” không phải ở chỗ “biến hóa thần thông, hô phong hoán vũ” mà là tự thấy được:
- TÂM PHÀM của mình ngày một mất,
- NGHIỆP XẤU ngày một bỏ,
- TỪ BI ngày một tăng,
- TINH THẦN ngày một an ổn,
- TRÍ THẤY BIẾT ngày một sáng,
- GIẢI THOÁT ngày một gần v.v…

C. Quan niệm của người tu Mật Tông

1. Cái nhìn của người tu Mật tông ra sao?
Người tu Mật cần phải thể hiện những điều sau đây:
- Lấy vũ trụ làm nhà
- Lấy thiên nhiên làm bạn hữu
- Lấy chúng sinh làm quyến thuộc
- Lấy vạn hữu làm chân thân
Một vị Tổ Mật Tông bên Tây Tạng đã nói:
- Tất cả mọi hình tướng đều là Niết Bàn,
- Tất cả mọi âm thanh đều là Chân ngôn,
- Tất cả mọi chúng sanh đều là Phật.
Mật Tông là thế đó, nên Mật Tông là:
- SỰ SỐNG HIỆN THỰC, hồn nhiên và tràn đầy.
- GIÁO LÝ SỐNG ĐỘNG, hàm súc và phong phú rút ra từ cuộc sống, từ kinh nghiệm hàng ngày.
- LỜI THẬT: Là chân lý, xóa mọi thành kiến, mọi danh xưng, khai thông dòng sống trào tuôn bất tận.

2. Làm sao để trì “Chân ngôn” cho có hiệu quả?

Bạn sẽ được Thầy chỉ cho bạn khi nào bạn thực sự vào Pháp hành, vì nó thuộc mật truyền, thường bên Mật Tông khi một vị Thầy truyền cho đệ tử một câu Chân ngôn là vị Thầy đó đã hành qua, đã giàu kinh nghiệm và đã nắm được yếu quyết của nó. Tuy nhiên, có thể trả lời bạn tổng quát như thế này:
1/ Trước hết đừng nôn nóng cầu đắc, cầu chứng,
2/ Tâm ý phải thanh tịnh, không mưu tính bất chánh,
3/ Không dùng chân ngôn trong trường hợp thiếu Tâm Bi,
4/ Không nói dối, xảo trá, lừa dối, ngụy biện,
5/ Phải thành khẩn, siêng năng,
Sau nữa còn những điểm dành cho người tu Mật đó là:
6/ Phải biết nguyện mới thành,
7/ Phải có Ấn mới quyết định, v.v…

Đa số thường bị cái lỗi lầm là nghe thấy một câu chú “hay”, có “công năng lớn” là đem ra hành trì, không cần có Thầy chỉ dẫn; như vậy chỉ uổng công mà chẳng đem lại kết quả gì. Nếu tu Chân ngôn mà dễ như thế thì ai tu chẳng được! Rất đáng buồn là đã có những bạn bỏ phí cả những năm tháng dài, để chạy theo sự tham mê vô vọng đó, rồi khi không được gì đâm ra chán nản, mất tin tưởng và quay ra phỉ báng.
Đây cũng là chỗ bí nhiệm của “Mật Môn”, đừng tưởng coi sách là đủ đâu! Những gì được viết ra sách là không còn Mật nữa, là thuộc về “công truyền”; những gì không được viết ra, do Thầy truyền mới là “Mật truyền”, tâm truyền đấy bạn ạ; Chân ngôn là một chén thuốc bổ, nhưng đối với người này nó trở thành thuốc độc, còn đối với người khác nó lại là thuốc trường sanh, vậy hãy xem mình đã áp dụng đúng chưa.

3. Thế nào là Tam mật tương ưng?
Nghĩa đơn giản của Tam mật là:
- Thân mật,
- Khẩu mật,
- Ý mật.
Tương ưng là ứng nhập cùng Phật, Bồ Tát, thông thường giải chữ tương ưng là làm cho giống hay thành Thân, Khẩu, Ý của Phật. Đó là cái nói của người trụ nơi lý thuyết không thật sự hành pháp, có thể nói thế này cho bạn dễ hiểu: Người tu Mật dùng phương tiện của mình để:
- Biến “SẮC THÂN” hiện tại này thành “PHÁP THÂN”, đó là Thân mật.
- Đưa cái ngôn ngữ giới hạn này trở lại với thực tướng của nó, rời danh tự, rời ngôn ngữ, rời tư duy, rời phân biệt, về cái chỗ xuất sanh vô lượng, vô biên nghĩa, vì rốt cùng âm thanh chính là thực tướng, và ngôn ngữ chính là chân lý, đó là Khẩu mật.
- Biến THỨC thành TRÍ vô lậu đó là Ý mật, nói ra dài lắm, phải hành mới hiểu được bạn ạ!
Tổng kết về quan điểm của Mật môn như sau:
- Đại bí mật làm TÔNG
- Pháp giới chân như làm THỂ
- Bất tư nghì làm DỤNG
- Tam Mật làm MÔN
- Tối thượng làm GIÁO TƯỚNG
Xét lược qua về Mật Tông, chúng ta thấy rõ ràng là tu Mật Tông hướng đến giải thoát cho hành giả, như thế thì sao bảo rằng “Mật Tông là pháp môn tà thuật, huyễn hoặc lường gạt tín đồ nhẹ dạ, ham mê thần thông, biến ông Thầy thành Thầy phù thủy, Thầy bùa, Thầy pháp, v.v...” được chứ? Hơn nữa Mật Tông được lãnh đạo bởi Đức Đạt Lai Lạt Ma thứ 14 đang phát triển mạnh tại các nước Âu Mỹ với sự hưởng ứng và kính trọng nhiệt liệt của giới trí thức Tây phương. Chính Mật Tông cùng với các Tông khác không kể Bắc truyền hay Nam truyền đều đang cùng tùy duyên làm cho nẩy mầm Phật pháp khắp thế giới; bởi vậy không nên gieo rắc tà kiến gây hiểu lầm làm hư mầm giống Phật của các người đang hành trì và sẽ hành trì Mật Tông.

3). HT TTL: Pháp Hoa Tông là pháp môn phi đạo đức, ngồi không mà muốn làm giàu, làm ác mà muốn trốn tránh tội lỗi, biến ông Thầy thành một vị Bà La Môn chuyên tế lễ, cúng bái, cầu khẩn van xin v.v... Biến Ðạo Phật thành thần giáo, biến tín đồ mất sức tự chủ, luôn luôn sống trong tha lực, tựa nương vào thần quyền; do thế mới sản xuất ra Quán Thế Âm Bồ Tát cứu khổ cứu nạn.

3). Phản biện: Tác giả phê bình về việc cúng bái cầu xin tha lực, nương thần quyền, đây là tác giả nhắm vào việc van xin Bồ Tát Quan Thế Âm cứu khổ cứu nạn. Chúng ta sẽ lược trích đoạn giải thích trong Phẩm thứ 25 Bồ Tát Quan Thế Âm của “Pháp Hoa Kinh Thâm Nghĩa Đề Cương” do Pháp Sư Thích Từ Thông như sau:
“Phẩm Quán Thế Âm Bồ tát Phổ Môn thường gọi giản luợc là phẩm Phổ Môn, phẩm kinh nầy tùy chủng tánh và trình độ kiến giải của mỗi người mà có sự nhận thức khác nhau; vì vậy khi ứng dụng việc tu tập hành trì, mỗi người theo sự nhận thức của mình mà "tín ngưỡng".
Thế nên khó tìm một tiêu chuẩn nhất trí về Bồ tát Quán Thế Âm và ý nghĩa của phẩm Phổ Môn nầy; theo sự giải thích của Hải Ấn đại sư được nhiều bậc đa văn tiền bối tán đồng, phẩm Quán Thế Âm được liệt vào phần Nhập Phật Tri Kiến, giáo nghĩa rất thâm sâu. Đây là pháp thực hành quán niệm dựa trên âm văn (nghe tiếng) của Nhĩ căn và thanh trần. Thanh trần và Âm (Tiếng), Nhĩ căn và Văn (Nghe) vậy. Nhĩ căn có ba đức tánh Viên (tròn đầy), Thông (thông suốt), Thường (thường hằng), nó đặc thù hơn các căn khác.
- Ngồi một nơi yên tĩnh, mười phương có tiếng trống, cùng một lúc nghe đủ cả mười; đó là đức Viên.
- Cách vách có thể nghe tiếng, tiếng gần tiếng xa cũng có thể nghe; đó là đức Thông
- Có tiếng nghe đã đành, không tiếng tánh nghe vẫn có; đó là đức Thường của nhĩ căn vậy.
Phương pháp quán niệm Âm văn rất là quan trọng, tu học phẩm Quán Thế Âm Bồ tát, Phật tử chúng ta hãy gác qua tình cảm do tập quán và truyền thuyết dân gian hời hợt; hãy tìm hiểu kinh điển qua sự thấy biết, tư duy vận dụng lý trí có tánh khách quan, mới có thể nhận chân giáo lý, mới có thể biết được sự thật về những điều Phật dạy chúng ta.
Ở phẩm Thường Bất Khinh Bồ tát thứ 20, đã đề cập Oai Âm Vương Phật. Đó là đức Bản sư đã kín đáo gợi ý, mật chỉ tiền đề cho thính chúng Pháp Hoa Hải hội về Âm Văn trong hồi ấy.
Ở phẩm 21, Như Lai thần lực, Phật mật ý chỉ bày công dụng của Âm Văn tỏ rõ hơn, qua hai sự kiện: tiếng tằng hắng và tiếng khảy móng tay, vang khắp mười phương quốc độ.
Ở phẩm 24, Diệu Âm, công dụng của Âm thanh đến đấy đã thành Diệu: Diệu Âm đến, có mặt, thì cõi Ta bà rực rỡ, trang nghiêm đẹp đẽ; Diệu Âm về, vắng tiếng, cõi Ta bà trở lại trạng thái cũ, không còn trang nghiêm đẹp đẽ nữa.
Ở phẩm Quán Thế Âm thứ 25 này: Phật dạy cho chúng ta cách Giữ diệu âm ở lại để cõi Ta bà xinh đẹp rạng rỡ mãi; Quán Thế Âm là danh hiệu "Nhân cách hóa một phương pháp tu tập".
- Quán là vận dụng cái trí năng tri, soi rọi vào tâm để nhận thức đối tượng như quán tưởng, quán niệm một đối tượng nào...
- Thế có nghĩa là sự vận động tương tục không ngừng của sự vật, ở đây nhằm chỉ bày sự tương tục của tâm tưởng chúng ta.
- Âm là tiếng, Âm có âm hưởng, âm ba, âm thanh đều là đối tượng của nhĩ căn.
Quán Thế Âm là quán niệm cái tiếng tăm thầm lặng mà trong như sương, trắng như tuyết, sáng chói như kim cương, nó thường xuyên liên tục không có một phút giây gián đoạn ở lòng ta; ở đời có thứ tiếng nào thường xuyên liên tục không gián đoạn?
- Tiếng của tâm ta, tiếng lòng mầu nhiệm của ta là thứ tiếng thường xuyên và liên tục không ngừng, nó luôn luôn nói với chúng ta nếu chúng ta để ý lắng nghe; nó có khả năng nói ngày nói đêm nói ở mọi nơi chốn, chỉ trừ lúc ngủ không chiêm bao, nhưng làm sao biết được thứ tiếng nào là mầu nhiệm?
- Thứ tiếng có khuynh hướng tiến lên giải thoát giác ngộ: Bố thí, trì giới, nhẫn nhục, tinh tấn, thiền định, trí tuệ; chánh kiến, chánh tư duy, chánh ngữ, chánh nghiệp, chánh mệnh, chánh niệm và chánh định được liệt vào tiếng mầu nhiệm, là diệu âm đó. Trái lại, những thứ tiếng có chất vô minh, phiền não, khổ đau như: tham, sân, si, mạn...người Phật tử phải quên, bỏ nó đi, không nên lưu lại ở ký ức mình.
Diệu Âm tức Quán Thế Âm, Quán Thế Âm tức Diệu Âm đến rồi về để cho cõi Ta bà trở lại trạng thái cũ, không giữ được vẻ xinh đẹp, trang nghiêm nữa; đó là Diệu Âm Bồ tát vãng lai ở phẩm trước.
“Nghe phẩm Quán Thế Âm, mỗi người phải đặt mình là một Vô Tận Ý Bồ tát, phải sử dụng ý thức sâu xa vô tận, tư duy thăm thẳm tột suốt nguồn tâm, để nhận thức thâm nghĩa của kinh. Nếu sử dụng ý thức nông cạn, tư duy hời hợt, "tín ngưỡng" Quán Thế Âm như một đấng thần quyền, sẽ sa vào mê tín dị đoan, làm cho người trí khinh chê, chánh pháp từ đây mai một!
Giả sử có vô lượng chúng sanh đang gánh chịu nhiều điều khổ não mà được nghe "Hạnh Quán Thế Âm", liền quán âm thanh đó, thì họ sẽ được giải thoát những điều khổ não; quán niệm "âm thanh" có nghĩa là quán tiếng tâm mình, là Diệu Âm vậy.
Trọng tâm cứu khổ của Quán Thế Âm nhằm giải thoát sự khổ tinh thần, tất nhiên khi giải thoát khổ tinh thần, thì thân thể lành mạnh và mọi giá trị vật chất sẽ có ở tầm tay; vì vật chất không ngoài tinh thần, tinh thần không ngoài vật chất, hai thứ ấy tác động lẫn nhau, thế thì sự cứu độ, sự ban cho của Quán Thế Âm là cứu độ, ban cho tinh thần, tinh thần thuộc lãnh vực giải thoát giác ngộ của tâm tư và ý thức.
Bồ tát sẽ không ban cho vật chất hữu vi cho chúng sanh đâu, vì làm như vậy tức là dồn đẩy chúng sanh vào con đường khổ ải triền miên không lối thoát; mà Bồ tát thì không thể nào làm việc ác đức và tội lỗi đối với lương tâm mình.
Thế mà tác gỉa Thông Lạc và nhiều người không hiểu đã bóp méo sự thật về "Hạnh Quán Âm", đã hiểu và truyền bá Quán Thế Âm như một Bồ tát chuyên làm công tác "từ thiện xã hội" rằng Quán Thế Âm Bồ tát hứa sẽ giúp đỡ, hộ độ tất cả những gì người tín chủ muốn, miễn là "có lễ" và "thiết lễ cầu an" trước tượng Ngài, thành tâm khẩn nguyện và tụng phẩm "Phổ Môn Kinh".
Không, không thể như vậy được, vì Bồ tát là bậc Đại đạo tâm thành tựu chúng sanh, Bồ tát là bậc hữu tình đã giác ngộ, Bồ tát là bậc giác ngộ cho chúng hữu tình. Đạo lý nhân quả Phật dạy Bồ tát đã thân chứng Chánh tà, chân ngụy, chánh pháp, phi pháp, với trí tuệ "hành thâm Bát nhã Ba la mật đa" không cần suy nghĩ, Bồ tát đã biết rõ hết rồi. Thế mà lại nói: Bồ tát là đại từ đại bi, cứu khổ, cứu nạn, Ngài độ hết thảy chúng sanh vô điều kiện, chỉ cần "cúng dường", "cầu nguyện" và tha thiết "khấn vái" Ngài.
Ý nghĩa nông cạn đó, việc làm không lý trí đó, với người trí, quả là sự bôi nhọ, sự sĩ nhục nặng nề đối với vị Bồ tát "Đẳng Giác Quán Thế Âm"; muốn hiểu Bồ tát Quán Thế Âm cứu khổ với hình thức nào, chúng ta phải hiểu những vấn đề được biểu trưng về khổ nạn và giải thoát khổ nạn được an vui như sau:

1. Về mặt khổ nạn:
- Nạn lửa, chỉ về tánh "thấy biết", vì tánh thấy biết trái ý hay sinh nóng nảy như tánh lửa. Cho nên về lửa có: Lửa tức giận, lửa dâm dục, lửa bất mãn, bất bình; lửa hận não nung đốt tâm can.
Do đó: Vào lửa không bị lửa thiêu, nghĩa là nếu tu Pháp Môn Quán Thế Âm (Phản Văn Văn Tự Tánh) thì sẽ không còn sân hận giận thù nữa mà đạt giải thoát ví như bị lửa đốt không bị cháy.
- Nạn nước, chỉ về tánh "nghe biết", vì nếu nghe tiếng đàn ca
Du dương, nghe giọng nói ỏn ẻn dễ bị đam mê cuốn trôi, nhận chìm trong luyến ái nhục dục, dần dần đi đến khổ đau; tánh luyến ái nặng nề này được ám chỉ như một hình thức cuốn trôi nhận chìm của tánh nước.
Do đó: Chìm dưới nước, được vào chỗ cạn, nghĩa là nếu tu Pháp Môn Quan Thế Âm sẽ không còn bị tham ái dục hành hạ lôi cuốn nhận chìm vào khổ đau nữa mà được thoát khỏi, ví như bị nước cuốn trôi nhận chìm được thoát vào chỗ cạn vậy.
- Quỷ la sát, ám chỉ những kẻ độc hại, hung bạo, tàn ác giết người.
Do đó: Đi thuyền tìm châu báu trong biển lớn bị lạc vào nước quỷ La Sát sẽ thoát được nạn quỷ ấy, nghĩa là nếu tu Pháp Môn Quán Thế Âm sẽ không còn tánh độc hại hung bạo tàn ác giết người nữa, mà được giải thoát; được giải thoát rồi sẽ độ cho các bạn đồng hành cùng giải thoát, ví như gặp Qủy La sát sẽ thoát được qủy hại.
- Dao gậy, ví như sức tác hại của sáu căn tiếp xúc dính mắc vướng viú đối với sáu trần, sinh ra sự đau khổ như bị cắt, bị đánh.
Do đó: Sắp bị dao gậy chém đánh, thì dao gậy kia bị gẫy từng khúc, nghĩa là nếu tu Pháp Môn Quán Thế Âm thì khi sáu căn tiếp xúc sáu trần sẽ không còn bị dính mắc đưa đến buồn phiền đau khổ như bị cắt bị đánh nữa mà được an nhiên tự tại, chẳng khác nào bị dao chém gậy đánh thì dao gậy đều bị gẫy vậy.
- Ma quỷ, chỉ sự cám dỗ của tham, sân, si, mạn, nghi, giải đãi, thùy miên, phóng dật, hôn trầm.... sẽ làm cho không còn phân biệt được đâu là thiện đâu là ác rồi tạo ra biết bao khổ đau cho kẻ khác và cho mình.
Do đó: Khỏi bị Dạ Xoa và La Sát làm hại, thậm chí chúng không dám ngó nhìn, nghĩa là nếu tu Pháp Môn Quan Thế Âm sẽ không còn bị cám dỗ của tham sân si, mạn nghi, giãi đãi, thùy miên, phóng dật, hôn trầm v.v… nữa và như vậy sẽ không còn vô minh tức được giải thoát, chẳng khác nào khỏi bị Dạ Xoa và La Sát làm hại.
- Gông cùm xiềng xích, biểu trưng sự ràng buộc mê mờ tối tăm vì những thứ như được mất, đúng sai, vinh nhục, vui buồn làm con người mất tự do tự tại, kìm sức phát triển về thể xác lẫn tinh thần.
Do đó: Bị xiềng xích gông cùm, đều có tội hay không, xiềng xích gông cùm thảy đều đứt rã, nghĩa là nếu tu Pháp Môn Quán Thế Âm, dù người có tội hay không sẽ hết bị si mê u tối ràng buộc mà được sáng suốt tự tại, cũng như bị xiềng xích gông cùm đều bị đứt rã.
- Giặc cướp, ám chỉ những hành động sai quấy tội lỗi như trộm cướp, tà dâm, nói dối nói châm chọc, nói thêu dệt, nói ác. Do đó, mất sạch công đức lành ví như bị giặc cướp hết sạch của cải tài sản.
Do đó: Gặp đường hiểm nạn giặc cướp, được thoát khỏi và không bị sợ hãi, nghĩa là nếu tu Pháp Môn Quan Thế Âm sẽ không còn hành động sai quấy gây tội lỗi phải bị tù tội, mà hành động chính đáng gây công đức lành, cũng như gặp giặc cướp được thoát khỏi.
Đức Phật nói: Này Vô Tận Ý, Bồ tát Quán Thế Âm oai thần vòi vọi như thế, cho nên chúng sanh phải một lòng tưởng nhớ, nghĩa là: chúng sinh hãy suy nghĩ sâu xa về Pháp Môn tu Phản Văn Văn Tự Tánh của Quan Thế Âm, và phải một lòng không quên tu.

2. Về mặt an vui:
- Thất bảo là vàng bạc, lưu ly v.v... biểu trưng thất thánh tài: tín, giới, văn, tàm, quý, niệm, định, xả.
- Của báu, biểu trưng tất cả công đức lành.
- Con trai, biểu trưng trí tuệ và giác ngộ, do đó muốn cầu con trai liền sinh con trai phúc đức trí tuệ, nghĩa là nếu tu Pháp Môn Quan Thế Âm sẽ đạt được trí tuệ giải thoát.
- Con gái, biểu trưng phước đức và giải thoát, do đó muốn cầu con gái liền sinh con gái có tướng xinh đẹp, nghĩa là nếu tu Pháp Môn Quán Thế Âm sẽ đạt được công đức giải thoát.
Ngoài ra, tất cả những từ mang tính cách "lành mạnh" và "an vui" trong phẩm kinh nầy, phải được hiểu là: Phước đức, trí tuệ, giải thoát và giải thoát tri kiến thuộc loại "tâm sở thiện".
Tất cả những danh từ có tính cách tác hại, gây đau khổ, mất mát ở phẩm Phổ Môn đều phải được hiểu: Là những tác động tâm lý thuộc loại "tâm sở bất thiện", không được hiểu đó là sự kiện "cụ thể" ở ngoại cảnh trước mắt, hiểu sai thì nó trở thành chuyện mê tín hoang đường.
Tóm lại, "tâm sở thiện hay bất thiện" cũng được hiểu đó là cách nói về biểu trưng, vì lẽ Quán Thế Âm là pháp tu để "Nhập Phật tri kiến" chớ không phải là một thần thánh để nguyện cầu. Phẩm Phổ Môn là phẩm thứ 25 trong 28 phẩm kinh Diệu Pháp Liên Hoa, nếu đưa vào đây một Bồ tát chuyên làm công tác xã hội tầm thường như thế, thì quả là phỉ báng Thế Tôn lắm vậy.
Xét sự phân tích Kinh Pháp Hoa qua Phẩm Phổ Môn như vậy thì người cho rằng: “Pháp Hoa Tông là pháp môn phi đạo đức, ngồi không mà muốn làm giàu, làm ác mà muốn trốn tránh tội lỗi, biến ông Thầy thành một vị Bà La Môn chuyên tế lễ, cúng bái, cầu khẩn van xin v.v... Biến Ðạo Phật thành thần giáo, biến tín đồ mất sức tự chủ, luôn luôn sống trong tha lực, tựa nương vào thần quyền; do thế mới sản xuất ra Quán Thế Âm Bồ Tát cứu khổ cứu nạn.” là người đã đọc Kinh Pháp Hoa với tư tưởng của một người không dùng quán pháp để xét xem ý nghĩa lời Kinh muốn nói gì, nên đã có sự hiểu lầm vô cùng tai hại đưa đến việc phỉ báng. Nếu là người Phật tử tại gia lầm lẫn có thể không đáng trách, nhưng với một vị Tu Sĩ tu hành học hỏi nghiên cứu Phật pháp trong nhiều năm mà hiểu lầm Phật pháp thì thử hỏi Đức Phật có chấp nhận được không?
Nhân tiện đây cũng xin thưa với qúy Phật tử: Đức Phật giảng dạy có lần có lượt từ dễ đến khó, ban đầu Ngài giảng dạy về Tứ Diệu Đế, Bát Chính Đạo, về Mười hai Nhân Duyên, v.v…, rồi dần dần mãi về sau Ngài mới giảng đến các điều khó. Các Kinh như Viên Giác, Lăng Nghiêm, Duy Ma Cật, Kim Cang Bát Nhã, Pháp Hoa v.v… đều thuộc loại Kinh cao siêu khó hiểu. Nếu người đọc đã thấu hiểu các Kinh dễ rồi nghĩa là đã có căn bản giáo pháp rồi thì khi đọc các Kinh khó, chúng ta phải dùng Kinh dễ làm căn bản cho các Kinh khó mới đúng ý Phật, mà các Kinh dễ hiểu chẳng có Kinh nào nói đến sự cầu nguyện để được giác ngộ cả.
Tuy nhiên nhiều người đọc Kinh căn bản thì hiểu, nhưng khi đọc Kinh khó lại không hiểu hay hiểu sai ý Phật. Khi hiểu sai sẽ đưa đến tai hại vô cùng như trường hợp “Hiện tượng Thích Thông Lạc”. Chắc là việc này đã xảy ra nhiều rồi, chỉ là các người ấy không phát biểu viết hay nói ra mà thôi. Hiện nay một số các Chùa có tổ chức Đạo Tràng tụng Kinh Pháp Hoa, không biết rằng có phải là tụng Kinh Pháp Hoa là để hiểu nghĩa Kinh để thực hành hay chỉ là hiểu lời Kinh để cầu được phúc đức theo nghĩa đen của Kinh? Thật là tai họa khi tụng Kinh để hiểu lời Kinh theo nghĩa đen để cầu phước, vì đây chính là phỉ báng Phật vậy.
Một vấn đề khác cũng cần nêu ra, đó là một số các Chùa tụng kinh đã dùng sách chữ Hán Việt, vì hầu hết các Phật tử không học chữ Hán nên khi đọc đều như vịt nghe sấm chẳng hiểu gì cả. Mục đích của tụng kinh là để hiểu lời kinh để rồi sẽ hành theo, chứ không phải tụng kinh cho Phật nghe. Thật là tai họa do một số Chùa đã làm mà không biết, cứ an nhiên làm, tụng nhanh như gió cuốn mưa tuôn, nghe thì hay lắm, mà Phật tử tại gia tụng không hiểu chỉ tụng như con vẹt, chứ không dám hé răng phàn nàn gì về điều này cả.
Trường hợp thường xảy ra nhiều nhất là Kinh A Di Đà và Bát Nhã Tâm Kinh, một số Chùa tụng trong các buổi Cầu Siêu, lễ Vu Lan v.v… bằng chữ Hán Việt, mặc dầu ngày nay đã được rất nhiều người dịch ra chữ Việt rồi nhưng vẫn còn tình trạng tụng bằng tiếng Hán Việt. Có người nói: tụng không hiểu để dễ đi vào nhất tâm, đây là ngụy biện, vì nếu đọc không hiểu người đọc sẽ miệng đọc còn ý thì nghĩ chuyện khác, chứ nhất tâm cái gì? Thời Phật tại thế, mỗi ngày Đức Phật giảng, các đệ tử phải đọc tụng nhiều lần để hiểu nghĩa lời Ngài dạy rồi thực hành; mong rằng các vị Viện Chủ Chùa và mọi người chúng ta cùng để ý, xin ngàn lần bái tạ, đừng để tình trạng Phật tử đọc Kinh mà không hiểu này xảy ra nữa, như thế mới là tôn trọng Phật.

4). HT TTL: Thiền Tông là pháp môn ngã chấp, lý luận có logic, dễ lừa đảo giới trí thức, biến Phật Giáo vô ngã thành Phật Giáo hữu ngã trừu tượng, mơ hồ, biến thiền sư thành giảng sư, luận sư, v.v... Sau buổi họp đó các Thầy trong Ban Tri Sự Tỉnh Hội báo cáo về Giáo Hội Trung Ương và Thầy tôi tức là Hòa Thượng Thanh Từ. Tôi biết rất rõ điều đó, nhưng tôi không ngại, là vì tôi xác định: Những gì tôi nói là sự thật, vì sự thật thì còn để mọi người suy ngẫm, chứ sự thật mà dối gạt được ai sao? ... [ĐVXP-Tập 7]

4). Phản biện: Nói rằng Thiền Tông là Pháp Môn ngã chấp thì không đúng, vì tất cả các Pháp Môn tu của Bắc truyền đều phải hành vô ngã trong khi tu, nếu sáu căn dinh mắc sáu trần, nếu còn tham sân mạn nghi v.v… là người tu còn dính mắc vào cái Ta, tức là chấp Sắc thân là thật có, chấp Thọ Tưởng Hành Thức là thật Ta thì sẽ bị cái Ta cái của Ta ngăn cản lôi kéo vào muôn mối, không thể nào đạt qủa giải thoát được; chỉ khi tu hành tới vô ngã mới giải thoát được, đã vô ngã rồi thì làm gì có hữu ngã trừu tượng nữa, nên nói rằng Thiền Tông chấp Ngã là không hiểu Thiền Tông vậy.
Ngay cả những người tu Tịnh Độ niệm Phật A Di Đà nếu còn nhớ con nhớ cháu, nhớ gia tài của cải, nhớ cõi Ta Bà sung sướng, v.v… thì dù có niệm Phật như dông tố, như vẹt kêu suốt ngày cũng chẳng thể được về Tây phương Cực Lạc. Huống chi là có người còn nghĩ đến danh lợi cho người đúc tượng mình cho nó oai ta đây là nhất; những người như vậy là còn chấp cái ngã, Phật bảo là người kiêu mạn làm trò hề.
Thiền Tông được truyền từ Phật Thích-Ca Mâu-Ni (623 -543 trước Dương lịch) cho Sơ Tổ Đại Ca-Diếp, và truyền đến Tổ thứ hai mươi tám là ngài Bồ-Đề Đạt-Ma; sau Bồ-Đề Đạt-Ma qua Trung-Hoa làm Sơ Tổ của Thiền-Tông Trung-Quốc và truyền tới Lục Tổ Huệ-Năng tức là Tổ thứ ba mươi ba.
Ở nơi hội Linh-Sơn, đức Phật đưa lên cành hoa (Niêm Hoa Thị Chúng), lúc ấy tất cả đại-chúng đều ngơ ngác (không hiểu), chỉ có Tôn-giả Đại Ca-Diếp mỉm cười (Niêm Hoa Vi Tiếu). Thấy vậy, đức Phật nói: “Ta có Chính-pháp Nhãn-tạng, Niết-bàn Diệu-tâm, Thật-tướng Vô-tướng, Pháp-môn vi-diệu, chẳng lập văn tự, giáo ngoại biệt truyền, nay phú chúc cho Ma-Ha Ca-Diếp”. Từ đó pháp thiền trực tiếp của Thiền-Tông căn cứ theo việc này.
Phương pháp trực tiếp này, đức Phật đã dùng qua nhiều lần, như một lần, đức Phật đem hạt châu-ngọc Ma-Ni ra hỏi Ngũ Phương Thiên-Vương rằng: “Hạt châu-ngọc này màu gì?” Khi ấy Ngũ Phương Thiên-Vương tùy vị trí khác biệt và sự thấy của mình đều trả lời màu sắc khác nhau; Đức Phật giấu hạt châu-ngọc rồi đưa tay không ra hỏi: “Hạt châu-ngọc này màu gì?” Các Thiên-Vương nói: “Trong tay đức Thế-Tôn chẳng có hạt châu-ngọc thì đâu có màu gì!” Đức Phật nói: “Các ông sao qúa mê muội điên đảo, Ta đem hạt châu-ngọc thế gian cho xem thì nói có màu xanh, tím, vàng, đỏ, trắng; Ta thị hiện hạt châu-ngọc chân thật thì chẳng biết gì cả!”; khi ấy Ngũ Phương Thiên-Vương đều tự ngộ đạo.
Nếu Ngài Ca Diếp còn ngã chấp thì chẳng thể đốn ngộ khi Đức Phật chỉ đưa cành hoa lên liền ngộ, Ngũ phương Thiên Vương nếu còn chấp ngã cũng không thể ngộ được. Cái ngộ đạo của Thiền Tông rất là đặc biệt như vậy, do đó chúng ta là người chưa ngộ đạo không sao hiểu nổi đâu. Tu theo Thiền Tông khi có kết qủa thì biến Thiền Sư thành luận Sư, Giảng Sư, thành Tổ Sư là lẽ đương nhiên như chúng ta đã thấy những vị Thiền Sư sau khi đốn ngộ rồi thì thông đạt nên nói năng đều đúng pháp chứ không còn mù mờ như những phàm phu chúng ta nữa.
Để thêm ý về Thiền Tông, chúng ta trích dẫn một đoạn trong bài “Phật Giáo Thiền Tông Thực Tế Đến Không Ngờ” của Hòa Thượng Thích Thanh Từ giảng như sau:
“Như tôi đã nói khi tất cả các niệm diệt hết là chứng diệt tận định, nếu trong tâm an định rồi, hành giả nhìn thấy sự vật bên ngoài có dấy niệm không? Không dấy, bên trong lặng thì đối với cảnh bên ngoài cũng lặng, trong lặng ngoài lặng, lúc này còn cái gì (?); chỉ một cái trong lặng, tôi thường nói như quí vị ngồi năm ba phút không một ý nghĩ nào dấy lên, lúc đó có biết không? Biết rõ ràng, tiếng chim kêu mình nghe, bóng người đi mình thấy; thấy biết rành rẽ cái nào ra cái ấy, biết mà không dấy động, lặng yên hằng tri giác, cái biết đó không động cũng không có tướng nên nó không sinh diệt.
Nhưng chúng ta có bệnh vừa thấy thì phân biệt tốt xấu, vừa nghe thì phân biệt hay dở, rồi quên cái thấy nghe ban đầu của mình; nắm bắt theo sắc tướng âm thanh bên ngoài thành ra điên đảo, hiện giờ ai không có cái biết hiện tiền ấy? Thấy tức là biết, biết tức là tâm; như vậy khi ở trong lặng được vọng tưởng rồi, bên ngoài đối duyên xúc cảnh, sáu căn không bị dính kẹt với sáu trần, lúc đó ta là Phật hiện tiền chớ còn gì nữa (!); nhưng nói thế thiên hạ không chịu đâu, phải có hào quang, có hoa sen hiện ở trên trời, trên mây mới được.
Cái biết rõ ràng nơi mắt, đó là cái thật của mình mà chúng ta coi thường, không chịu nhận. Nhìn cây tùng nói nó dáng con gì, vật gì thì thích lắm, chớ nói cây tùng là cây tùng thì không chịu; Phật nói chúng sanh điên đảo là vì vậy, không bao giờ chấp nhận sự thật, không bao giờ chấp nhận sự hiện hữu của mình và muôn vật đúng ở vị trí của mỗi thứ.
Trong hội Linh Sơn, đức Phật đưa cành hoa lên là muốn chỉ cái Ngài đã ấp ủ từ trước tới bấy giờ, đó chính là tâm hiện tiền chân thật đầy đủ nơi mỗi người, là tánh thấy tánh nghe hằng tri hằng giác. Mọi người đều có tánh thấy, tánh nghe, tánh biết mà không chịu nhận, cứ chạy theo những thứ giả tạm bên ngoài. Phật muốn chỉ thẳng nhưng không làm sao chỉ được, buộc lòng phải nói quanh co đủ thứ phương tiện; Ngài chờ cho nhân duyên chín mùi rồi mới chỉ thẳng bằng cách đưa cành hoa lên. Ở đây đức Phật cốt làm cho hội chúng nhận ra tánh thấy hằng hữu nơi mình, nhưng tất cả đều ngẩn ngơ chứng tỏ không biết gì; tới ngài Ca Diếp nhìn thấy liền cười vì Ngài nhận biết chỗ Phật muốn chỉ, đó là Ngài đã ngộ nên được đức Thế Tôn ấn chứng.
Qua câu chuyện trên, chúng ta thấy Phật đã cố gắng chỉ cái chân thật cho mình, chớ không muốn che giấu làm gì; nhưng vì ta không lãnh hội thôi, cứ theo kinh mà hiểu, kẹt trong văn tự chữ nghĩa nên không thấy được cái sâu kín bên trong. Sau khi Phật nhập Niết-bàn rồi, tôn giả A-nan hỏi ngài Ca Diếp:
- Thưa sư huynh, đức Thế Tôn truyền y kim lăng cho sư huynh, ngoài ra còn có truyền cái gì khác không?
Ngài Ca Diếp kêu:
- A-nan.
Ngài A-nan ứng thinh:
- Dạ.
Ngài Ca Diếp bảo:
- Cây phướn trước chùa ngã.
Nhưng thật ra lúc ấy cây phướn có ngã đâu, như vậy mới biết rằng trọng tâm là vừa kêu liền ứng thinh dạ, đó là tánh nghe hằng hữu; cái biết từ lỗ tai không có suy nghĩ, nghe kêu thì lên tiếng, chứng tỏ cái biết ấy luôn sẵn nơi ta; đó là ngài Ca Diếp đã trả lời cái đức Phật truyền cho mình rồi, ngay đó ngài A-nan liền nhận được.
Người xưa có cố tình giấu giếm mình gì đâu, chỉ vì không nói được; bởi vì nói ra là trật rồi, chỉ còn thuật “gọi” thôi; khi ngài ca Diếp kêu, A-nan ứng thinh “dạ”, cả hai bên đều không khởi suy nghĩ mà nghe biết rõ ràng, hiện tiền nơi sáu căn của chúng ta; đó là điều cốt tủy đức Phật đã để lại và Chư Tổ tiếp nối truyền trao cho đến ngày nay.
Chúng ta thấy từ Phật tới Tổ Ca Diếp chỉ truyền một thứ, không có khác; nếu khác chăng thì ở mắt hoặc tai thôi, chớ không có hai pháp. Các Ngài cố chỉ cái biết thật của mình, còn cái biết hơn thua phải quấy là cái biết của thế gian không thật, biết qua bóng dáng vô thường; cái biết thật là biết trực tiếp không qua hình ảnh ngôn ngữ nào hết, đó là chỗ thiết yếu Chư Phật Tổ đã truyền lại cho chúng ta.
Thế thì chỉ “cái đó” gần hay xa, có quyền bí gì đâu, các Ngài chỉ ra một cái thực tế sẵn nơi mình mà chúng ta không thể tưởng tượng nổi, nên không ai dám nhận “cái đó” của mình hết; đó là giai đoạn đầu từ Phật tới Tổ, qua giai đoạn kế là các Tổ sau này truyền thừa cho nhau; đi quanh co đến đâu rồi cũng trở về chỗ đó.
Tổ thứ ba là Tổ Tăng Xán, Ngài có làm bài “Tín tâm minh”, mở đầu thế này:

Đại đạo vô nan,
Duy hiềm giản trạch

Bao nhiêu đó thôi đã nói hết rồi. Chữ Đạo ở đây là lấy từ của bên Lão giáo, Lão giáo nói đạo là chỗ không còn ngôn thuyết, không còn nói năng, là chân lý tuyệt đối; như vậy chân lý cuối cùng chúng ta gọi là đại đạo, Đại đạo không khó, mà khó là tại giản trạch, phân biệt. Cứ nghe gọi trực tiếp trả lời, đưa cái gì lên trực tiếp thấy, đó là đại đạo; còn bước qua cái suy nghĩ thứ hai thì mất đại đạo, bởi vậy có người hỏi ngài Triệu Châu: “Thế nào là đại đạo? Ngài trả lời: “Đại đạo là con đường cái”. Đại đạo ở ngay trước mắt không chịu hỏi, tức nhiên phải chỉ đường cái ngoài kia; người sau cứ như vậy mà mò nên mò không ra.
Đến ngài Triệu Châu hỏi ngài Nam Tuyền: “Thế nào là đạo?” Ngài Nam Tuyền đáp: “Bình thường tâm thị đạo”, tức tâm bình thường là đạo; Tâm bình thường là sao? Chúng ta có tâm bình thường không (?), có mà không biết giữ nên thành không; vậy tâm bình thường là tâm gì? Là tâm không nghĩ thiện không nghĩ ác, không nghĩ phải không nghĩ quấy…, tất cả cái nghĩ hai bên đều không có; thế thì hiện giờ chúng ta có tâm đó không? Ai cũng thừa nhận có mà không sống được với nó vì bỏ quên lâu quá, bây giờ không nhận ra nữa; bởi vậy, tôi nói: chúng ta là những kẻ rất phủ phàng, rất tệ bạc; phũ phàng ai? Phũ phàng mình, cứ xách gói đi đầu này học đạo, đi đầu kia học đạo, cầu khẩn lạy lục muốn u đầu sứt trán mà tìm vẫn không ra; khi nghe chỗ nào linh thiêng liền chạy đến, rốt cuộc cái sẵn có bên mình lại quên, không phũ phàng là gì?
Chúng ta thường gọi những người điên là bất bình thường, bây giờ tâm mình đang bình thường, tự nhiên khởi nghĩ lăng xăng là bất bình thường, như vậy mình có điên không? Bởi vậy Phật nói chúng sanh điên đảo, rõ ràng đang sống bình thường bỗng dấy niệm chạy tứ tung, rồi kềm đè; khổ chưa? Chúng ta tu mà không chịu sống với tâm bình thường nên trở thành điên đảo, nhưng nếu có ai nói ta điên thì bực tức lộn ngược lên; thế là điên lại càng điên hơn vậy.
Tâm bình thường là tâm không nghĩ phải quấy, hơn thua, tốt xấu…, thấy biết, nghe biết, đói biết, no biết mà không nghĩ suy gì hết, đó là tâm bình thường. Cả ngày đi đứng nằm ngồi, sống như mọi người mà tâm không dấy động nên các Thiền sư thường dùng từ như ngây như ngô, không lanh lẹ như người thế gian; còn chúng ta lanh lẹ quá, vừa động tới liền nghĩ đông, nghĩ tây. Nói một hiểu hai ba, thành ra phiền não điên cả đầu, nhiều người ôm đầu nói tôi khó ngủ quá, nghĩ tứ tung hết làm sao ngủ được.
Mã Tổ ngày xưa khi thấy một vị tăng thường ngồi thiền ở hành lang, Ngài tới nắm lỗ tai thổi phù không cho ngồi. Ai không hiểu cứ nghĩ ông già chơi kỳ cục! Bởi chính Mã Tổ lúc đầu ngồi thiền tinh tấn lắm, sau này ngài Hoài Nhượng tới thử mới biết Mã Tổ chưa thông, vì kẹt trong cái ngồi. Đến khi đắc pháp nơi Tổ Hoài Nhượng rồi, hễ thấy ai ngồi thiền, Ngài liền tới thổi, tại sao? Bởi nếu chấp cho ngồi là thiền, đó là giết thiền; phải biết đi đứng nằm ngồi đều là thiền, chớ không phải chỉ có ngồi mới thiền.
Chúng ta đi đứng nằm ngồi trong bốn oai nghi đừng có tâm lăng xăng, sống với tâm bình thường thì không ngồi thiền, ngồi nhổ cỏ chơi cũng vẫn thiền như thường; song nếu chưa sống với tâm bình thường thì phải ngồi thiền. Tổ sư muốn chỉ cho chúng ta thấy Thiền là vô tâm trong tất cả chỗ, tất cả thời; vô tâm là không có tâm chạy theo, nhưng vẫn có tâm bình thường. Không nghĩ suy phân biệt mà vẫn thấy biết rõ ràng gọi là vô tâm, nên nói nếu được tất cả chỗ vô tâm thì tất cả chỗ là đạo. Chúng ta đi đứng nằm ngồi có khi chạy lên cõi trời, có khi chui xuống địa ngục, có khi làm thánh hiền, có khi làm tướng cướp đủ thứ hết; vì vậy mà trôi lăn trong lục đạo mãi.
Chúng ta sống được với tâm bình thường, dù không cầu giải thoát tự nhiên cũng giải thoát, bởi ta đâu có tạo nghiệp; quí vị thử một ngày sống tâm bình thường xem có tạo nghiệp gì không? Giả sử ta lỡ dẫm chết con kiến cũng không bị định nghiệp, bởi vì nghiệp do ý niệm xấu dấy lên, rồi miệng nói thân làm; nếu thân làm mà tâm không dấy thì không thành định nghiệp”.
Xem lời giảng của Hòa Thượng Thích Thanh Từ, chúng ta đều thấy rõ một lối tu của Phật Giáo Thiền Tông, chứng tỏ rằng không có chỗ nào lời nào chấp Ngã hoặc biến Phật Giáo vô ngã thành Phật Giáo hữu ngã trừu tượng cả