Thanh Tịnh Đạo – Visuddhimagga, nhận diện những chướng ngại che án tam tướng này và giải thích cách làm thế nào để có thể phá bỏ những che án ấy.
Theo Thanh Tịnh Đạo – Visuddhimagga, vô thường bị che án bởi tính tương tục. Khái niệm về tính tương tục có mặt do người ta không chú ý đến sự sanh - diệt. Vì thế ở đây có hai phương diện: tính tương tục và không thấy sự sanh - diệt của năm uẩn, hay danh - sắc. Thế nào là tính tương tục? Thực sự ra, không có tính tương tục; nó không hiện hữu. Tính tương tục chỉ là một khái niệm, khái niệm ấy cho rằng các pháp có sự liên tục. Chính khái niệm này đã che án đặc tính vô thường.

Chúng ta hãy lấy một vài ví dụ. Khi chúng ta thấy một vật gì giống như sợi dây hay một đường vạch ở đằng xa, chúng ta nghĩ rằng đó là một đường vạch liền lạc, một vật gì đó liền lạc. Nhưng khi tới gần đường vạch ấy, chúng ta mới nhận ra nó không phải là một đường vạch liên tục. Thực ra nó chỉ là một đoàn kiến, con này nối gót con kia. Khi thấy đó là những con kiến, chúng ta sẽ mất đi khái niệm cho rằng đó là một đường vạch liên tục.
Cái nào là đúng, cái nào là sự thực - đường vạch liên tục, hay chỉ là
kiến? Bạn thấy một hàng kiến ở đằng xa, nhưng sự thực thì đó không phải là một hàng. Cái thực là con kiến, chứ không phải một đường vạch. Tuy thế chúng ta vẫn nghĩ đó là một hàng kiến. Tại sao chúng ta lại nghĩ rằng đó là một hàng kiến, một vật liên tục? Tại sao chúng ta không nhận ra nó như một vật do những miếng hay những vật nhỏ lẻ tạo thành? Chính vì chúng ta không thấy những vật riêng lẻ, nên chúng ta không thể thấy được chúng đang sanh và diệt.

Giả sử có phần đầu của một con kiến, và phần cuối của nó được theo sau bởi phần đầu của con kiến khác. Và phần cuối của con kiến thứ hai được theo sau bởi phần đầu của con kiến thứ ba, và phần cuối của con kiến này lại được theo sau bởi phần đầu của con kiến thứ tư, và v.v… Giữa những con kiến có những khe hở chứ chúng không nối theo nhau như một tổng thể liền lạc.
Nhưng từ đằng xa những khe hở hay chỗ ngắt giữa những có kiến này không thể nhìn thấy, và vì thế chúng ta nghĩ chúng ta đã thấy một hàng kiến liên tục. Tuy nhiên, thực tế không có một vật gì là một hàng kiến liên tục như vậy. Chỉ có những con kiến, con này nối theo con kia.

Khi bạn không thấy danh và sắc, hay những phần của danh và sắc, như tách bạch khỏi nhau và đang sanh và diệt, bạn có thể nghĩ rằng chúng là một dòng liên tục. Mặc dù bạn đã được đọc hay đã được dạy rằng chúng không phải liên tục mà gồm những phần tử nhỏ hợp thành, song nếu bạn không hành thiền và không thực sự thấy sự sanh diệt, bạn vẫn sẽ nghĩ dưới dạng một vật liên tục.
Bạn có nghĩ thân bạn hôm nay là một tiến trình tương tục từ thân ngày hôm qua không, hay bạn vẫn có cùng cái thân như ngày hôm qua bạn đã là? Hoặc nó là một thân khác? Trong từng mỗi khoảnh khắc những phân tử vật chất đang sanh và diệt, nhưng bạn không thấy chúng. Chỉ khi bạn hành thiền Minh Sát bạn mới có thể thấy được chúng. Khi bạn thấy những phân tử vật chất (đơn vị sắc) sanh và diệt, một phân tử vật chất sanh và diệt, nối theo sau bởi một phân tử vật chất khác, và v.v… , chỉ khi ấy bạn mới có thể loại trừ được khái niệm về tính tương tục. Lúc đó bạn sẽ nhận ra rằng không có những hiện tượng liên tục diễn tiến, mà thực sự chỉ có những phân tử nhỏ đang sanh và diệt, nối tiếp nhau.

Với tâm hay danh cũng vậy. Bạn nghĩ rằng bạn có cùng một cái tâm mà bạn đã có cách đây mười năm, hoặc tháng trước hay hôm qua. Nhưng nhờ Vipassanā bạn sẽ thấy rằng tâm là mới trong từng khoảnh khắc. Trong sát-na này một tâm sanh. Rồi nó diệt, và được theo sau bởi một loại tâm khác, mà liền đó cũng diệt để được theo sau bởi một loại tâm khác, và v.v… Một khi bạn có thể thấy chúng như những sát-na riêng biệt sanh diệt nối tiếp theo nhau, bạn sẽ phá bỏ được khái niệm về tính tương tục. và khi tính tương tục đã bị phá bỏ, bạn sẽ không có cảm giác về tính tương tục nữa, đồng thời đặc tính vô thường trở nên rõ ràng đối với bạn.

Chúng ta sẽ lấy tờ giấy này như một ví dụ khác. Bạn có nghĩ rằng chúng ta dùng bút và mực để viết trên tờ giấy này bởi vì nó liền lạc và mờ đục không ? Chúng ta thường dùng giấy để viết và để gói đồ vật, vì thế chúng ta cứ cho rằng nó là liền lạc. Tất cả chúng ta đều nghĩ theo cách đó. Nhưng nếu chúng ta nhìn vào tờ giấy đó dưới một ống kính phóng đại, thử hỏi bạn sẽ thấy gì? Bạn thấy rằng đó là một vật có nhiều khoảng trống thay vì liền lạc. Vậy thì, cái nào là thực, một tờ giấy liền lạc hay một cái gì đó đầy những khoảng trống?

Chúng ta thường nói rằng thấy là tin. Bạn thấy cái gì? Bạn thấy một tờ giấy, đúng không? Nhưng nếu chúng ta đặt tờ giấy ấy dưới một ống kính phóng đại có thể phóng to khoảng hai ngàn lần, thì sẽ thấy rắng khái niệm của chúng ta là sai. Bây giờ bạn thấy rằng nó thực sự chỉ là một cái gì đó đầy những khoảng trống. Như vậy thấy là không tin – thấy là bị đánh lừa. Chúng ta cần một ống kính phóng đại để thấy sự thực về tờ giấy này. Nó không còn là một tờ giấy liền lạc, phẳng phiu nữa. Nó là một vật đầy những hố lỗ.

Bạn cũng có thể nghĩ sự kết hợp của danh và sắc (tâm và vật chất), hay sự kết hợp của năm uẩn, như là một vật liên tục trọn vẹn. Tất nhiên, ở đây kính phóng đại không thể giúp ích gì. Nhưng trong việc hành thiền Minh Sát, có thể bạn sẽ thấy danh và sắc như những thực thể tách biệt đang sanh và diệt. Khi thấy được chúng sanh và diệt trong từng sát-na như vậy, bạn có thể phá bỏ được khái niệm về tính tương tục.

Minh Sát trí là ống kính phóng đại mạnh mẽ mà chúng ta dùng để khám phá những đặc tính của vô thường. Cũng như để thấy sự thực về một tờ giấy chúng ta cần đến một ống kính phóng đại như thế nào, thì để hiểu sự thực về danh và sắc, năm uẩn và bản chất vô thường của chúng, chúng ta cần phải có Minh Sát trí như vậy.

Có một bản phụ- chú giải nói rằng một người thấy đúng sự sanh và diệt sẽ không thấy các hiện tượng (danh pháp, sắc pháp) biểu thị trong một trạng thái liền lạc, mà đúng hơn trong một trạng thái tách biệt giống như những mũi lao sắt. Có lẽ các bạn đã thấy những mũi nhọn bằng sắt rồi. Chúng là những mũi lao sắt, và tách biệt, cái này nối tiếp cái kia. Đối với một người hành Minh Sát và có thể thấy sự sanh và diệt của các uẩn, các trạng thái tâm và vật lý không còn xuất hiện như những trạng thái liền lạc chặt chẽ, mà riêng biệt và rời nhau.

Một khi bạn thấy được sự tách biệt này của các pháp, tức là thấy chúng không liên tục mà được cấu thành bởi nhiều phần riêng biệt, bạn đi đến chỗ hiểu biết rằng những pháp sanh và diệt không ngừng này là vô thường. Nhưng bao lâu bạn còn nghĩ rằng chúng liên tục, thì việc thấy tính chất vô thường của chúng là điều không thể xảy ra.

Khái niệm về tính tương tục phải được loại bỏ nếu hành giả muốn thấy vô thường và biết nó là đặc tính của các uẩn. Để loại trừ khái niệm về tính tương tục, bạn cần phải quan sát các pháp, bạn cần phải thấy được các uẩn luôn luôn sanh và diệt. Một khi sự sanh và diệt của các uẩn đã được thấy, bạn sẽ dứt mình ra khỏi khái niệm về tính tương tục. Khi khái niệm này bị bẻ gãy, bản chất vô thường sẽ tự hiển lộ rõ ràng cho bạn.

Theo Thanh Tịnh Đạo, đặc tính thứ hai, đặc tính khổ, vẫn không trở nên rõ ràng lúc đó, vì khi sự bức bách liên tục không được chú ý tới, nó bị che án bởi oai nghi hay tư thế của hành giả. Như các bạn đã biết, nếu bạn ngồi trong một thời gian, cuối cùng bạn sẽ có cảm giác đau ở một nơi nào đó. Dưới những điều kiện bình thường khi bạn không hành thiền, ngay lúc có sự đau nhức bạn sẽ thay đổi tư thế liền để tìm một tư thế thoải mái hơn. Nhưng cái đau cuối cùng cũng đến với tư thế đó, vì thế bạn lại thay đổi sang một tư thế khác cho đến khi cái đau xuất hiện lại ở đó. Nói chung sự cố gắng để tránh cái đau cứ tiếp diễn như vậy.

Do đó cái đau được loại trừ tạm thời bằng tư thế bạn sử dụng tiếp theo, mà tư thế ấy dường như che án mất bản chất của khổ. Bởi vì chúng ta cứ liên tục thay đổi oai nghi hay tư thế, chúng ta không nhận ra được rằng thân luôn luôn bị khổ. Chúng ta không ngồi đủ lâu để nhận thấy rằng cái đau hay sự tê cứng trong thân là bất biến. Chỉ khi chúng ta ngồi và ghi nhận trong lúc hành thiền chúng ta mới biết điều đó. Vì thế thay đổi oai nghi sẽ che án bản chất khổ - dukkha - của thân.

Là những người hành thiền, sau khi ngồi trong một giờ không thay đổi oai nghi, bạn chắc chắn sẽ bị đau (khổ) ở đâu đó, vì thế bạn biết có bao nhiêu là khổ. Khi Thanh Tịnh Đạo nói cái đau bị che án bởi các oai nghi, điều đó có nghĩa rằng nó đã bị che án bởi việc thay đổi oai nghi để loại trừ cái đau hay cái khổ của oai nghi trước. Và Thanh Tịnh Đạo tiếp tục, “Khi các oai nghi được vạch trần do chú ý đến sự bức bách liên tục, các đặc tính của khổ trở nên rõ rệt trong bản chất thực của nó.”

Ở đây người hành thiền thấy sự sanh và diệt. Trước tiên vị ấy hiểu đó là vô thường. Rồi, trú trên sự sanh và diệt, sanh và diệt, vị ấy thấy rằng sanh và diệt là sự bức bách không ngừng. Khi sự chú ý của vị ấy được đặt trên sự bức bách không ngừng do sanh và diệt gây ra này, các oai nghi không thể nào che án bản chất khổ được nữa, vì thế mà khổ trở nên rõ ràng.

Khi một người đổi sang một oai nghi khác cho thoải mái hơn họ biết rằng cái đau của mình sẽ chấm dứt tạm thời, và rằng nếu họ không đổi sang oai nghi nữa, họ sẽ khổ. Theo cách như thế, họ biết rằng cái đau trong bất kỳ oai nghi nào cũng sẽ hết do thay đổi sang oai nghi khác. Nhưng nếu họ không thay đổi sang oai nghi khác, bản chất của khổ sẽ hiển lộ. Vì thế khi bạn không thay đổi oai nghi, mà tiếp tục ngồi thiền, bạn sẽ thấy bản chất khổ của các pháp, sự bức bách không ngừng do sanh và diệt gây ra.

Cái khổ được xem là bị che án bởi các oai nghi, chỉ áp dụng cho thân xác vật lý này mà thôi. Thế còn tâm thì sao? Còn các trạng thái tâm thì sao? Chỉ thấy khổ trong xác thân vật lý thôi thì không đủ. Quan trọng là chúng ta cũng phải thấy khổ trong các trạng thái tâm nữa. Ở đây các oai nghi không thể che án khổ (tâm), bởi vì các oai nghi không liên quan gì đến các trạng thái tâm. Thanh Tịnh Đạo không nói gì về phương diện này.

Vì thế đối với các trạng thái tâm, tôi nghĩ việc không thấy danh - sắc sanh và diệt chính là nguyên nhân che án bản chất khổ. Bản chất của khổ là sự bức bách không ngừng của sanh và diệt. Chỉ khi bạn thấy sự sanh và diệt, bạn mới có thể thấy bản chất khổ. Nếu bạn không thấy sanh diệt bạn không thể nào thấy bản chất của khổ. Vì thế sự không thấy sanh - diệt có thể là nguyên nhân che án đặc tính thứ hai, đặc tính của khổ.

Liên quan đến các trạng thái tâm, chỉ khi bạn thấy sự sanh và diệt bạn mới có thể thấy bản chất khổ của những trạng thái tâm này. Vì thế trong lúc hành thiền, cố gắng chánh niệm về những ý nghĩ của bạn. Khi một ý nghĩ nảy sanh, chú ý đến nó. Lúc đó nó sẽ biến mất cùng với sự chú ý, và được thay thế bằng một ý nghĩ khác và sát-na chú ý khác. Các trạng thái tâm và sự chánh niệm về các trạng thái tâm cứ xuất hiện nối tiếp theo nhau, sanh và diệt, sanh và diệt như vậy.

Khi bạn thấy cả hàng trăm đối tượng sanh và diệt theo cách này, bạn không thể không hiểu được rằng chúng đã bị tấn công dồn dập và bức bách liên tục bởi sự sanh và diệt. Chỉ khi bạn thấy sự bức bách không ngừng do sanh - diệt gây ra, bạn mới thực sự thấy bản chất khổ của các trạng thái tâm. Và chỉ khi bạn hiểu khổ theo nghĩa bị bức bách không ngừng bởi sanh và diệt này, bạn mới có thể hiểu rằng cả năm thủ uẩn đều là khổ.

Đặc tính thứ ba – vô ngã, anattā, không rõ rệt vì nó bị che án bởi tính rắn chắc (khối tưởng) khi sự phân tán thành những yếu tố khác không được chú ý tới. Ở đây cũng lại là khái niệm, khái niệm về tính rắn chắc (nguyên khối tưởng). Trong thực tế không có tính rắn chắc này. Song chúng ta luôn luôn thấy các pháp như những vật rắn chắc, cô đặc.

Chúng ta nghĩ rằng ngay cả tâm cũng chỉ là một vật cô đặc. Chúng ta nghĩ nó cũng giống như tâm của vài khoảnh khắc trước, một tuần trước, một tháng trước. Và mặc dù chúng ta có những tâm khác nhau – như tâm thấy, tâm nghe, tâm ngửi, và v.v… - chúng ta vẫn thấy chúng như một vật cô đặc. Chúng ta gộp tất cả chúng lại làm một với nhau. Vì thế các uẩn này cũng bị che án bởi khái niệm về tính rắn chắc (nguyên khối tưởng).

Trong thực tế, không thể đơn giản hóa nó như vậy. Khi bạn thấy một cái gì, thì phải có một vật được thấy, có mắt để thấy, và có cái thấy. Về phần chúng ta, chúng ta có mắt và cái thấy. Mặc dù hành động thấy bao gồm nhiều sát-na khác nhau của các trạng thái tâm nhỏ, bình thường bạn không nghĩ về nó theo cách ấy. Bạn xem nó chỉ là một việc -“thấy,” hay “tôi thấy.” Khái niệm này cũng áp dụng cho sự nghe, ngửi, và v.v… , bởi vì bạn xem mỗi tiến trình là một vật cô đặc. Bạn xem một việc phức tạp hay một tiến trình chỉ như một khối, và bao lâu bạn không thể phá khối này ra thành những thành phần của nó, bạn sẽ luôn luôn nghĩ dưới dạng “tôi,” một “người,” hay một “cá nhân.”
Các trạng thái tâm khác nhau thực hiện những nhiệm vụ khác nhau. Chúng ta sẽ tiếp tục dùng “cái thấy” như một ví dụ ở đây. Tâm, hay thức thấy (nhãn thức) có nhiệm vụ thấy, được theo sau bởi những loại tâm khác. Các loại tâm ấy bao gồm tâm tiếp nhận (tiếp thọ tâm), một loại tâm có nhiệm vụ tiếp nhận hình ảnh của đối tượng đã được thấy; tâm xem xét (suy đạc tâm), loại tâm có nhiệm vụ xem xét, nghiên cứu đối tượng, và một số các trạng thái tâm khác, vốn sanh và diệt ngay sau khi hoàn thành các nhiệm vụ khác nhau của chúng trong tiến trình nhận thức đối tượng ấy.

Nhưng chúng ta không thể thấy những trạng thái tâm và tiến trình này. Nếu chúng ta không phân tích được cái thấy thành những trạng thái khác nhau đang thực hiện những nhiệm vụ tương ứng của chúng, chúng ta sẽ chỉ thấy cảnh sắc hay đối tượng thấy, và “tôi thấy” hay “một người thấy” là những gì bình thường chúng ta hiểu.

Có một sự khác nhau trong cách các loại tâm khác nhau bắt lấy các đối tượng khác nhau. Chẳng hạn, một loại tâm chuyên bắt cảnh sắc hay những vật có thể nhìn thấy làm đối tượng, một trạng thái tâm khác chuyên bắt các cảnh thinh hay âm thanh làm đối tượng, và trạng thái tâm khác bắt mùi làm đối tượng, v.v… . Nhưng chúng ta vẫn cho rằng chỉ có một tâm bắt hết những đối tượng ấy, và rằng cái “tôi” (làm việc) thấy cũng là cái “tôi” (làm việc) nghe. Vì thế nếu chúng ta không thấy được sự khác nhau trong cách các trạng thái tâm bắt lấy các đối tượng, chúng ta không thể giũ bỏ khái niệm cho rằng có một cái “tôi” rắn chắc thấy, nghe, ngửi, v.v…

Bạn có hiểu sự giải thích về vô ngã – anattā - bị che án bởi tính rắn chắc này không? Để hiểu nó, bạn cần phải hiểu ý nghĩa của anattā hay vô ngã. Một trong những ý nghĩa của anattā là “không sử dụng quyền lực đối với nó được.” Nghĩa khác, cũng là chủ đề của sự giải thích này, là “không có cốt lõi.” Anattā là cái gì đó không có cốt lõi bên trong, không có bản chất, không có tự ngã. Bao lâu bạn vẫn còn xem mọi vật là rắn chắc, là một khối, hay chỉ là một thứ với nhiều nhiệm vụ khác nhau, bạn không thể tránh được khái niệm cho rằng có một cốt lõi, một bản chất cố hữu, hay một tự ngã.

Để hiểu được bản chất vô ngã của các pháp, bạn cần phá vỡ các pháp (mọi hiện tượng) ra thành những yếu tố hay những thành phần khác nhau của chúng. Chừng nào bạn chưa phân giải các pháp thành những phần tử cấu thành của chúng, bạn sẽ luôn luôn nghĩ về chúng như một vật rắn chắc. Nhưng một khi bạn có thể phân tích và tách bạch chúng ra thành những thành tố khác nhau của chúng, lúc đó khái niệm về tính rắn chắc hay nguyên khối tưởng và ngã tưởng mất đi. Vì thế để thấy vô ngã, điều vô cùng quan trọng là bạn phải phá vỡ các pháp ra. Bạn cần chặt chúng ra thành từng miếng, và cần phân tích cặn kẽ chúng.

Tạng Diệu Pháp (Abhidhamma Piṭaka) hoàn toàn đề cập về vô ngã. Mặc dù nó không nói rằng thế này là vô ngã, thế kia là vô ngã, song nó nói cho chúng ta biết rằng các pháp là vô ngã – anattā, bởi vì ở đây mọi thứ đều được phân tích một cách chi li. Danh được phân tích thành tâm và các trạng thái tâm hay những tâm sở. Rồi tâm lại được phân tích thành một trăm hai mươi loại, và các tâm sở được phân tích thành năm-mươi hai loại và v.v… Tôi nghĩ rằng các pháp được phân tích một cách chi li như vậy là để cho thấy rằng không có tính rắn chắc, không có cốt lõi.

Có thể nói toàn bộ Tạng Diệu Pháp là để chỉ ra bản chất vô ngã của các pháp, mặc dù chúng ta cũng học được nhiều điều khác từ nó. Mọi thứ đều có thể phân tích ra thành các thành phần (cấu tạo nên chúng), vì không có gì là rắn chắc. Và bởi lẽ không có tính rắn chắc trong mọi vật, nên không thể có cốt lõi bên trong, không thể có một tự ngã – attā - nào trong đó.

Khi hành thiền Minh Sát, bạn ghi nhận các đối tượng xuất hiện ở sát-na hiện tại, và bạn thấy rằng ở mỗi sát-na đối tượng mỗi khác. Và khi bạn lấy các trạng thái tâm làm đối tượng cũng vậy, bạn biết rằng có nhiều trạng thái tâm, chứ không chỉ một cái tâm cô đặc. Vì vậy bạn có thể phân giải tâm ra làm nhiều thành phần. Có thể bạn không gọi tên được hết những thành phần đó, nhưng bạn thấy và hiểu chúng.

Tất nhiên việc phân giải các đối tượng ra thành những trạng thái cấu thành quan trọng hơn là việc gán cho chúng những cái tên. Trong thời gian hành thiền bạn sẽ thấy rằng tâm bạn không chỉ là một tâm. Ở mỗi sát-na khác nhau có một tâm khác nhau. Một tâm đi đến đối tượng, và một tâm khác ghi nhận nó, rồi hai tâm này biến mất, và một tâm khác nghĩ về một việc hoàn toàn khác phát sinh, v.v…

Khi bạn chú ý chặt chẽ đến những gì đang xảy ra trong tâm bạn, bạn sẽ thấy rằng những gì bạn nghĩ là một vật rắn chắc thực sự được cấu thành bởi nhiều trạng thái tâm nhỏ khác nhau. Một khi bạn thấy tâm như bao gồm những trạng thái tâm nhỏ này, bạn đi đến chỗ hiểu biết rằng không có một cốt lõi trong tâm. Và khi bạn thấy không có cốt lõi trong tâm, bạn cũng thấy ra bản chất vô ngã của tâm đó.

Đến đây bạn đã hiểu ba đặc tính của mọi hiện tượng duyên sanh hay các pháp hữu vi: đặc tính vô thường, anicca; đặc tính khổ, dukkha; và đặc tính vô ngã, anattā. Có một số câu hỏi đặt ra là: Ba đặc tính này có được bao gồm trong các uẩn không? Chúng có phải là các uẩn không? Phụ chú giải của Thanh Tịnh Đạo nói chúng không bao gồm trong các uẩn vì chúng là những trạng thái không có bản chất riêng biệt. Điều này có nghĩa rằng chúng chỉ là một phong cách của các hiện tượng duyên sinh (pháp hữu vi) chứ không phải pháp hữu vi, vì thế chúng không bao gồm trong các uẩn.

Như thế, chúng có tách rời ngũ uẩn không? Phụ chú giải nói rằng chúng không tách rời ngũ uẩn vì sẽ không thể nắm bắt được chúng nếu không có ngũ uẩn; nghĩa là nếu không có ngũ uẩn người ta không thể thấy được ba đặc tính này. Vì thế, dù chúng không bao gồm trong ngũ uẩn song chúng cũng không tách khỏi ngũ uẩn. Chúng là những ý niệm áp dụng cho những phong cách (ba đặc tính) này để dễ dàng truyền đạt vậy thôi.

Ba đặc tính cũng không phải là thực tại tối hậu, paramattha (hay pháp chân đế), mà là những thuộc tính của thực tại tối hậu, những thuộc tính của các uẩn. Chúng không bao gồm trong các uẩn cũng không tách khỏi các uẩn, bởi vì chúng không thể được hiểu mà không có các uẩn. Không gọi chúng là một cái gì thì chúng ta không thể nói về chúng được. Vì thế chúng được gọi là những khái niệm hay ý niệm, và được gán cho những cái tên để dễ dàng cho sự nhận diện. Ba đặc tính liên hệ với các uẩn, và trong Pāḷi chúng được gọi là paññatti (chế định), nghĩa là một phương thức đặc biệt của sự diễn đạt.

Chính vì để thấy ba đặc tính này mà chúng ta hành thiền vipassanā. Tất nhiên, bạn sẽ chỉ thấy chúng khi thực hành, chứ không phải bằng cách đọc tới đọc lui anicca (vô thường), dukkha (khổ), anattā (vô ngã). Chỉ thông qua việc thực hành, các đặc tính này mới được hiểu, chứ không phải bằng cách lặp đi lặp lại những từ (vô thường, khổ và vô ngã) hay chỉ tư duy về chúng. Vì thế nếu bạn muốn thấy tam tướng, bạn phải hành thiền Minh Sát.

Khi bạn hành Minh Sát, lúc ban đầu phải cố gắng phát triển định để làm cho tâm vững chắc, yên tĩnh, và thoát khỏi các triền cái[8], hay những chướng ngại trong tâm. Khi tâm đã thoát khỏi các triền cái, định sẽ đến. Xuyên qua định này bạn bắt đầu thấy hai pháp một cách rõ rệt, và tách biệt hẳn ra. Bạn bắt đầu thấy hai pháp xảy ra cùng một lúc như một cặp vậy, đó là hơi thở vào và chánh niệm về hơi thở vào, hơi thở ra và chánh niệm về hơi thở ra. Hai pháp này được thấy một cách tách bạch, chứ không pha trộn với nhau.

Sau khi thấy hai pháp ấy rồi, bạn cũng sẽ thấy được tính duyên khởi. Bạn thấy rằng do có hơi thở, mà có chánh niệm về hơi thở; do có ý định duỗi (chân , tay), có sự duỗi v.v…Và rồi bạn sẽ thấy các đối tượng sanh và diệt. Khi bạn thấy các đối tượng sanh và diệt, bạn sẽ thấy bản chất vô thường của các pháp.
Khi thấy bản chất vô thường của các pháp, bạn cũng thấy bản chất khổ của chúng, vì khi bạn thấy chúng sanh - diệt, sanh - diệt không ngừng, bạn đi đến chỗ hiểu biết rằng chúng đã bị tấn công và bức bách bởi sự sanh và diệt. Sự bức bách liên tục của sanh và diệt này là những gì mà từ dukkha hay khổ muốn nói.

Và khi bạn thấy bản chất vô thường và bản chất khổ của các pháp, bạn cũng thấy ra bản chất vô ngã (anattā) của chúng. Bạn thấy các pháp sanh và diệt, điều vốn có nghĩa là không có cốt lõi trong chúng. Nếu như có cốt lõi bên trong, hẳn chúng sẽ trường tồn, hẳn chúng sẽ gắn bó với nhau và trong tình trạng nguyên vẹn. Nhưng ở đây chúng bị chia tách và sanh - diệt liên tục, do đó chắc chắn là không có cái lõi hợp nhất bên trong chúng. Hơn nữa, bạn không thể bảo chúng dừng lại, bạn không thể bảo chúng đừng sanh hay đừng diệt được. Không có cách nào để bạn có thể áp đặt quyền lực của bạn trên chúng. Vì thế, ở đây cũng vậy, bạn đang thấy ra bản chất vô ngã của các pháp.
Qua việc thực hành thiền Minh Sát, và nhờ chú tâm trên các đối tượng ở sát-na hiện tại, bạn có thể tự thấy vô thường, khổ và vô ngã cho chính mình. Một khi bạn đã tự mình thấy được tam tướng hay ba đặc tính rồi, bạn không còn phải y cứ niềm tin của bạn trên những gì người khác nói. Qua kinh nghiệm riêng của mình bạn có thể xác chứng những lời dạy của Đức Phật là chính xác. Khi bạn thấy điều này cho chính mình và đi đến sự hiểu biết vững chắc như vậy rồi, không ai có thể lay chuyển bạn khỏi sự hiểu biết ấy. Nó trở thành tài sản riêng của bạn, tri kiến riêng của bạn.

Chính để có tri kiến này mà chúng ta hành thiền Minh Sát. Giả sử bạn đang hành thiền, và thấy thân mình tan vụn ra thành bột, hay bạn thấy thân mình biến mất, hoặc thấy một điều gì đó tương tự. Liệu điều đó có nghĩa là bạn đã thấy được vô ngã chăng? Ngài Mahāsī Sayadaw nói “chưa phải,” bởi vì mặc dù bạn thấy thân mình tan vụn ra và đúng đó là một loại vô ngã, song bạn vẫn còn nghĩ “Chính ta là người thấy (điều đó)” Vì thế nếu nói về trạng thái tâm, bạn vẫn chưa thấy được bản chất vô ngã đâu.

Chỉ khi bạn thấy cả tâm lẫn thân (danh - sắc) sanh và diệt trong từng sát-na, bạn mới có thể nói rằng bạn đã thấy bản chất của vô ngã. Bạn phải hiểu rằng sự tuệ tri thực sự bản chất vô ngã chỉ đến khi bạn chú ý đến cả danh và sắc, và thấy chúng đang sanh và diệt; như bị bức bách bởi sự sanh và diệt, không có sự kiểm soát nào đối với nó; và như không có cốt lõi, v.v… Cho đến lúc đó, nếu bạn chỉ thấy thân của bạn, thì bạn mới chỉ thấy được năm mươi phần trăm của vô ngã mà thôi