Bài giảng của H.H. Penor Rinpoche (1) tại Berkeley, California,
ngày 19 tháng Bảy, 1996
Bản dịch Việt ngữ của Thanh Liên
[hr]



Tính chất quan trọng của sự Khẩu truyền

Dù giáo lý hay thực hành mà chúng ta đang thảo luận trong truyền thống Phật Giáo đặc biệt tới mức độ nào, dù truyền thống đó là Tiểu thừa, Đại thừa hay Kim Cương thừa, tiến trình của việc phát triển tâm linh là tiến trình của đệ tử nương tựa một vị Thầy. Chúng ta có thể gọi vị Thầy đó là một Lạt ma, một Guru, hay bất kỳ danh hiệu gì, nhưng vấn đề trọng yếu là có một sự khẩu truyền xảy ra trong đó một vị Thầy giảng dạy đệ tử: đệ tử nghe các giáo lý, thâm nhập ý nghĩa của chúng và đưa chúng vào thực hành.

Việc chúng ta nhấn mạnh vào một sự khẩu truyền là có lý do. Từ thời đại của Đức Phật cho tới ngày nay, Phật Pháp luôn luôn được truyền dạy và có nghĩa là được khẩu truyền, bảo đảm rằng có một truyền thống sống động vẫn thấm đẫm sự ban phước và năng lực của những giáo lý nguyên thủy. Sự khẩu truyền này cũng ngăn ngừa việc có thể có những kẻ gọi là Thầy chỉ xuất phát từ những ý tưởng của riêng họ. Thay vào đó, vị Thầy phải kinh qua một truyền thống giáo lý được chứng minh.

Điều này làm cho Phật Pháp khác biệt với những loại kiến thức khác ở đó người ta có thể làm đổi mới. Trong những lãnh vực kiến thức như thế việc nảy sinh ra những hệ thống tư tưởng mới hay đưa vào những ý tưởng mới mẻ có thể là điều thích đáng. Nhưng khi ta nói về Phật Pháp thì để một giáo lý có giá trị, mỗi giáo lý phải nối kết với những giáo lý nguyên thủy của Đức Phật. Những giáo lý không thể là điều mà một người nào đó hoàn toàn phát khởi trong đầu họ. Các giáo lý là những gì vị Thầy kinh qua.

Cũng thế, trong những loại kiến thức khác của nhân loại, người ta có thể chấp nhận được việc đưa ra thông tin theo một cách càng làm vui lòng và dễ chịu thì càng tốt. Nhưng mặc dù các Giáo Pháp cần được giới thiệu trong một phương cách dễ nghe, điều tối quan trọng là những giáo lý được trao truyền có năng lực để ban phước và gây ảnh hưởng cho những người nghe chúng trong một cách thế tích cực – không chỉ trong đời này, mà còn cả những đời sau. Vì thế mặc dù việc giảng dạy Pháp cần tao nhã và được giới thiệu khéo léo, điều tối quan trọng là sự ban phước của thông điệp cốt tủy.

Những Phẩm tính của Lạt ma

Những giáo lý mà chúng ta biết là Phật giáo được Đức Phật Thích Ca Mâu Ni giảng dạy trước tiên. Những giáo lý này đã được hộ trì nhờ một dòng truyền dạy sống động cho tới ngày nay bởi những người được hứng khởi để đi theo gương mẫu của Đức Phật và nghiên cứu con đường đó và truyền dạy nó cho những người khác. Trong bất kỳ truyền thống Phật Giáo khác nhau nào chúng ta cũng nhận ra rằng có vô số người nhờ nghiên cứu và thiền định mà trở nên vô cùng uyên bác, có năng lực và chứng ngộ tâm linh. Nhưng lý do tại sao các ngài giảng dạy và lý do vì sao những cá nhân này cam kết để trở nên uyên bác trong lãnh vực Giáo Pháp thì không nên để cho mình chìm ngập trong việc tự thổi phồng mình lên. Ta không trở nên uyên bác về Pháp để tự cho rằng bản thân ta uyên bác và để đạt được một địa vị đặc biệt nào đó. Ta cũng không giảng dạy người khác từ một cảm thức tự phụ có tính cách cá nhân. Pháp được hộ trì bởi nó mang lại những lợi ích cho những người lắng nghe giáo lý. Đó là động lực đằng sau việc giảng dạy.

Để trở thành một vị Thầy đích thực của truyền thống thì sẽ không đủ nếu chỉ đọc sách vừa đủ để trở nên thật tinh thông giáo lý và sau đó tự coi mình như một vị Thầy. Đúng hơn, ta phải được vị Thầy của ta, một người chứng ngộ một cách đặc biệt, cho phép giảng dạy. Cũng có thể có trường hợp ta được ban cho một thị kiến về Bổn tôn chọn lựa của ta, trong kinh nghiệm đó Bổn tôn sẽ ban cho ta sự ban phước và thẩm quyền để giảng dạy.

Như vậy vấn đề không chỉ đơn giản là việc một người bình thường phát điển đầy đủ sự thông minh tài giỏi để có thể nói thật hay về Pháp. Lợi ích thật sự của những giáo lý không xảy đến nhờ một sự tiếp cận thông thường, bởi lẽ càng thêm sự tiếp cận thông thường thì chỉ càng tăng thêm khuynh hướng nuôi dưỡng sự tự phụ và những cảm xúc mâu thuẫn của riêng ta. Chẳng có lợi lạc nào có thể đến từ điều đó. Chỉ khi việc giảng dạy là một hành động vô ngã để làm lợi lạc người khác được đặt nền trên một sự truyền dạy đích thực thì ta mới thực sự có lợi lạc là điều cần thiết để Giáo Pháp được hộ trì.

Nếu ta chiếu cố tới tất cả những giáo lý của Đức Phật, bao gồm mọi luận giảng về những giáo lý đó của các đại thành tựu giả vĩ đại – những pundit (học giả) uyên bác của Ấn Độ, Tây Tạng và những truyền thống Phật Giáo khác – thì một cá nhân đơn độc không thể nỗ lực và đưa tất cả những giáo lý đó vào thực hành. Điều này không có nghĩa là có phương diện nào đó của những giáo lý đó là vô ích và không có chức năng. Trong thế giới này, Đức Phật Thích Ca Mâu Ni đã chuyển Pháp luân trong ba lần truyền dạy liên tiếp trong thời đại của Ngài. Trong Kim Cương thừa khi chúng ta khảo sát hàng ngàn pho sách được gọi chung là Phật Pháp, bao gồm 84.000 tuyển tập của những giáo lý của Đức Phật và 6.400.000 bản văn Tantra (Mật điển), thì rõ ràng là không một người đơn độc nào có thể thâm nhập và thực hành tất cả những giáo lý đó.

Saigon42