Mười hai cung trong một lá số Tử vi được tiền nhân ta mô hình hóa quy luật nhân quả. Chúng ta có thể nhận biết điều này qua các bố trí của các cung tam hợp và xung chiếu.
Trong lá số Tử vi có bốn vòng tam hợp. Vòng tam hợp thể hiện các cung đồng chất và các sao trong các cung này được coi là hội hợp nhau với độ số ảnh hưởng cao nhất.
Vòng tam hợp quan trọng nhất là Mệnh Quan Tài, cầm đầu là cung Mệnh đại diện cho chính đương số. Vòng thứ hai được coi là vòng đối tác gồm Di Phúc Phối, cầm đầu là Di thể hiện các quan hệ đối tác với đương số, trong đó Phối là cung vợ hoặc chồng là đối tác gần nhất, xa hơn là Phúc - quan hệ họ hàng, xa nhất là Di – quan hệ xã hội. Vòng thứ ba có thể coi là vòng quan hệ bị lệ thuộc và lệ thuộc gồm Phụ Mẫu, Tử và Nô, cầm đầu là Phụ Mẫu . Vòng thứ tư cũng là quan hệ còn lại mà ba vòng kia không đại diện gồm Huynh Đệ, Điền, Tật, cầm đầu là Huynh Đệ. Như vậy, bốn vòng tam hợp quảng diễn bản thân đương số, đối tác của đương số và hai vòng quan hệ thân cận bên phải và bên trái của đối tác.
Bốn vòng tam hợp được lồng trong sáu cặp cung xung chiếu đối ứng thể hiện tính nhân quả (cái này là nhân của cái kia và ngược lại):
Cặp Mệnh – Di là đối ứng chính của đương số, cung mệnh tốt ở thế áp đảo cung Di thể hiện đương số có thời cơ phấn đấu vươn lên và sẽ có tiếng tăm trong xã hội và ngược lại.
Cặp Quan – Phối, nếu có người vợ/chồng tốt sẽ là chỗ dựa cho sự nghiệp của đương số và ngược lại.
Cặp Tài - Phúc, có phúc mới được hưởng tài và có tài mới có cơ hội tạo phúc.
Cặp Phụ Mẫu – Tật Ách, cha mẹ tốt mới sinh chúng ta ít tật ách được.
Cặp Huynh Đệ - Nô, đối xử tốt với anh em thì mới có nhiều người giúp việc.
Cặp Điền – Tử, con cái xấu sẽ phá tan cơ nghiệp, điền sản.
Sự bố trí các sao trong mười hai cung mô hình nhân quả thể hiện quan niệm của tiền nhân ta xem số mệnh của con người luôn nằm trong vòng luân hồi nhân quả.