TIÊN-THIÊN DƯƠNG NGŨ-HÀNH



Như trên đã nói các dương số là 1, 3, 5, 7, 9 gọi là tiên-thiên dương NGũ-hành:


1- Là nguơn TINH thuộc Thủy là Nhâm thủy.

3- Là nguơn TÁNH thuộc Mộc là Giáp mộc

5- Là nguơn KHÍ thuộc thổ làm Mồ thổ.

7- Là nguơn THẦN thuộc hỏa làm Bính hỏa.

9- Là nguơn TÌNH thuộc kim làm Canh kim

Đó là ngũ nguơn. Hễ ngũ nguơn đủ rồi thì có ngũ Đức ở trong. Đó là Nhân, Nghĩa, Lễ, Trí, Tín.

-Nguơn TINH là thứ tinh chẳng phải tinh. Thể của nó thuần-túy phát ra thành TRÍ.

-Nguơn TÁNH là thứ tánh không, có tánh thể của nó nhu từ (chiều-chuộng hay thương xót) phát ra thành NHÂN.

-Nguơn TÌNH là thứ tình không, cái tình thể của nó can liệt (cứng cỏi, ngay thẳng) phát ra thành NGHĨA.

-Nguơn KHÍ là thứ khí không, cái khí thể của nó thuần-nhất (ròng là một) phát ra thành TÍN.

Ngũ Nguơn là khí của ngũ-hành, ngũ Đức là tánh của ngũ-hành. Ngũ nguơn, ngũ-đức sanh tại lúc Tiên-thiên ẩn trong khí Hậu-thiên.

Đương lúc con người ta thai bào còn hỗn-độn; một khí hỗn-luân, hình tích tuy chưa lộ, mà cái lý của nó có sẵn đủ rồi, chỗ gọi “vị sanh xuất” nghĩa là chưa sanh ra như trong họa-đồ ở chính giữa có số 5. Năm điểm tụ lại một chỗ mà tượng hình Thái-Cực.

Cổ nhân dạy người phải tìm giữ cái diện-mục của mình trước khi cha mẹ sanh ra là chỉ vào đấy, do bởi việc nầy xảy ra trước khi sanh thân, nên gọi là Tiên-thiên.