Ðường vào KALACHAKRA - Bài Giảng - Jhado Rinpoche
http://diendan.batnha.org/viewtopic.php?f=41&t=105

Ðường vào KALACHAKRA
Hồng Như chuyển Việt ngữ

Image
Ðại sư Jhado Rinpoche

________________________________________
Introduction to Kalachakra - by Jhado Rinpoche - Bodhgaya, January 2002

Bài giảng sơ khởi - Ðại sư Jhado Rinpoche
chuẩn bị đại lễ quán đảnh Kalachakra
do đức Ðạt-lai Lạt-ma truyền tại Bồ Ðề Ðạo Tràng, Ấn độ, tháng 1 năm 2002

Bài giảng dành cho đại chúng, không cần nhận pháp quán đảnh Kalachakra vẫn có thể đọc. Nhưng xin đừng hành trì nếu chưa nhận pháp Kalachakra từ bậc đạo sư truyền thừa chính tông.


Hồng Như chuyển Việt ngữ tháng 03 năm 2004.

Lời Dịch Giả

Mặc dù Phật tử trong nước khó lòng có cơ hội gặp đấng đạo sư kim cang truyền mật pháp Kalachakra, tuy vậy sách này vẫn có ý nghĩa, là vì mặc dù nói riêng cho mật pháp Kalachakra, nhưng mang lại cho người đọc cái nhìn tổng quan và chính xác về mật pháp Tây Tạng. Nếu có đã từng nhận những pháp quán đảnh khác, đều có thể nhờ bài pháp này trau dồi thêm kiến thức của mình.

Đại sư Jhado Tulku Rinpoche là bậc tái sinh cao trọng dòng Gelug. Ngài sinh năm 1954 tại Namtso Lake, Tây Tạng. Năm lên ba ngài được xác nhận là đấng hóa thân của sư trưởng Học Viện Jhado đời thứ sáu. Thọ giới xuất gia năm lên mười, ngài tu học tại Đại Học Viện Sere Je tại Nam Ấn, đạt bằng Geshe Lha Rampa, là bằng tiến sĩ Phật học cao nhất dòng Gelug rồi tiếp tục tu học Mật tông tại Guyto Tantric College. Ngài là sư trưởng Tu Viện Namgyal, là tu viện riêng của đức Đalai Lama trong thời gian 1997-2004.

Phật tử Tây phương đặc biệt cảm mến thầy nhờ phương pháp giảng dạy mạch lạc, sắc bén. Bài giảng của thầy bao giờ cũng sâu sắc cô đọng, mà lại dễ hiểu, luôn đáp ứng được thắc mắc cá nhân của người nghe. Không những vậy, Phật tử còn mến thương thầy vô vàn vì thái độ thầy luôn từ hòa, tấm lòng thầy luôn bao la rộng mở.

Vì bài giảng tuyệt bậc, do một bậc thầy tuyệt bậc giải thích một pháp tu tuyệt bậc, lại mở rộng cho đại chúng, người chưa từng biết đến Mật tông, chưa từng nhận pháp quán đảnh cũng có thể đọc tìm hiểu, vì những lý do quí giá như vậy, cho nên tôi nghĩ nên ấn tống sách này. Phật tử nào quan tâm đến Phật Giáo Tây Tạng đều có thể tham khảo.
Tuy vậy, sách này chỉ giới thiệu tổng quan cho độc giả có cái nhìn bao quát chính xác về pháp tu Mật, đặc biệt là pháp Kalachakra, không phải sách hướng dẫn phương pháp hành trì.

Chưa trực tiếp nhận pháp quán đảnh từ bậc đạo sư kim cang chân chính mà tự ý hành trì là tự tạo chướng ngại cản trở đường tu giác ngộ của chính mình. Xin quí vị quan tâm lưu ý điểm này.

Nguyện bài dịch này gieo chút duyên lành, đưa mọi người vào với đường tu không mê lầm, mau chóng vượt biển khổ sang bờ giác.

Hồng Như Thubten Munsel
04/2008


________________________________________

Phần 1: Bài giảng

Hôm nay thầy sẽ nói về Kalachakra. Nhiều người trong số các anh chị đến Bồ Ðề Ðạo Tràng là để nhận pháp quán đảnh Kalachakra do đức Ðạt-lai Lạt-ma truyền. Thầy rất cám ơn sự hiện diện của các anh chị. Chính thầy cũng đến đây để nhận pháp quán đảnh, vậy xét trên mặt này, chúng ta giống nhau, cùng đến đây vì Kalachakra.

Buổi giảng ngày hôm nay là để giúp các anh chị khỏi phí phạm cơ hội quí báu này. Chúng ta đến đây là để giúp đỡ lẫn nhau, vì vậy thầy mong bài giảng tối nay sẽ mang nhiều lợi ích cho tất cả. Thầy xin chia sẻ với các anh chị những gì thầy biết về Kalachakra.

Xin đừng nghĩ thầy đến đây để kiếm đệ tử. Thầy không giảng pháp dưới danh nghĩa một đấng đạo sư. Nghe xong bài giảng này, các anh chị không trở thành đệ tử của thầy và thầy cũng không phải là đạo sư của các anh chị. Ðây chỉ là một buổi nói chuyện thân mật, thầy đến để chia sẻ hiểu biết với các anh chị.

Bài giảng sẽ kéo dài ít nhất là hai ngày, mỗi ngày dài hai tiếng, từ 6 đến 8 giờ tối. Vì thời gian có hạn, thầy sẽ nói ngắn gọn trong vòng 1 tiếng rưỡi, còn lại nửa tiếng để dành cho các anh chị nêu thắc mắc. Thầy không biết hết về Kalachakra, nhưng sẽ cố gắng trả lời mọi câu hỏi. Biết đâu sẽ chẳng có những câu hỏi cực kỳ thông minh, mang lại tầm nhìn mới mẻ về Kalachakra, nhờ đó thầy cũng được lợi ích. Vậy nửa tiếng còn lại, xin các anh chị cứ nêu thắc mắc.

Tóm lược đại ý

Qui y Tam bảo là cánh cửa dẫn vào Phật Pháp, chung cho mọi pháp môn trong Phật đạo. Tâm Bồ đề là cánh cửa dẫn vào Ðại thừa. Vậy theo lệ thường, trước khi nghe giảng về Phật pháp, xin các anh chị hãy dọn tâm cho trong sáng để phát khởi tâm qui y Tam bảo và tâm Bồ đề, lấy đó làm động cơ nghe giảng pháp. Chúng ta hãy đọc chung với nhau ba lần lời nguyện qui y tam và lời nguyện phát tâm Bồ đề. Trung tâm ở đây cũng chuẩn bị sẵn mọi vật dụng cần thiết để cúng dường mạn đà la và cúng dường Phật, vậy sau khi đọc xong lời nguyện qui y và phát tâm Bồ đề, chúng ta đọc thêm lời tụng cúng dường mạn đà la.

Là đệ tử sắp nhận pháp quán đảnh Kalachakra, chúng ta cần biết rõ muốn nhận pháp quán đảnh này cần hội đủ những điều điều kiện nào. Vì căn cơ của đệ tử có nhiều mức độ, thấp, trung bình và cao, cho nên điều kiện cần có để nhận pháp quán đảnh cũng có nhiều mức, tương ứng với từng trình độ căn cơ của đệ tử trước khi nhận pháp.

Nói chung, khi nhận pháp quán đảnh, các anh chị phải hiểu rõ sự khác biệt giữa Phật giáo và ngoại đạo [là tôn giáo khác, ngoài Phật giáo], đâu là nét đặc thù của Phật giáo so với tất cả mọi tôn giáo khác.

Ðồng thời cũng cần hiểu sự khác biệt giữa các tông phái trong Phật giáo, phải hiểu rõ Phật giáo Nguyên thủy khác Phật giáo Ðại thừa như thế nào.

Chọn tu theo khế kinh Ðại thừa là đương nhiên trở thành Phật tử Ðại thừa. Lúc ấy lại cần phải hiểu vì sao Phật giáo Ðại thừa được gọi là cỗ xe vĩ đại, phải hiểu đâu là đặc điểm của Phật giáo Ðại thừa. Hiểu được tầm vóc quí giá của Ðại thừa rồi, lại phải hiểu về sự khác biệt giữa hai tông phái trong Ðại thừa là Ba-la-mật thừa ( Paramitayana ) và Kim cang thừa ( Vajrayana ) . Ba-la-mật thừa còn gọi Ðại thừa Hiển tông. Kim cang thừa còn gọi là Ðại thừa Mật tông.

Chúng ta cần tìm hiểu xem vì sao lại nói phương pháp tu Mật tông quí giá thâm diệu hơn phương pháp tu Hiển tông. Mật tông có gì đặc biệt mà gọi là thâm diệu hơn? Chắc chắc không phải vì có nhiều nghi lễ với dụng cụ đẹp đẽ như bình bát, chuông, chày kim cang, tượng ảnh hay nhạc khí. Tất tả những thứ này chỉ là hình thức bên ngoài, tự chúng không thể là nguyên do khiến Mật tông thâm diệu hơn Hiển tông, huống chi kể cả ngoại đạo cũng có khi dùng những dụng cụ tương tự. Vậy cần hiểu rõ nội dung của giáo pháp Kim cang thừa, để thấy rõ Kim cang thừa có đặc điểm gì mà lại gọi là thâm diệu. Ðây là điều cần hiểu cho thật rõ.

Phương pháp tu Mật trong Mật tông được phân thành bốn bộ, bộ cao nhất gọi là Mật tông tối thượng du già ( anuttarayogatantra ) . Ở đây cũng vậy, chúng ta cần hiểu rõ vì sao Mật tông tối thượng du già lại được xem là thâm diệu hơn ba bộ còn lại. Lại thêm một điều cần phải thấy cho rõ.

Ngoài ra, các mật pháp thuộc về Mật tông tối thượng du già cũng được phân thành nhiều loại. Có nhiều cách phân loại, tùy theo hệ cựu dịch là dòng Nyingma, hay tùy theo hệ tân dịch là ba dòng Gelug, Kagyu và Sakya. Hệ cựu dịch có những phương pháp quán tưởng Bổn tôn du già ( deity yoga ) đặc biệt, và hệ tân dịch cũng có một vài phương pháp quán tưởng Bổn tôn du già đặc biệt thuộc Mật tông tối thượng du già, ví dụ như Hevajra, Vajrabhairava và Chakrasamvara. Trong số những mật pháp thuộc về Mật tông tối thượng du già, Kalachakra ngày nay được toàn cầu biết đến. Mật pháp này trước đây chỉ phổ biến quanh vùng Tây tạng, Mông cổ và Ấn độ, nhưng ngày nay đã lan rộng trên toàn thế giới. Ðiều này chúng ta sẽ có dịp nhắc đến trong lần nói chuyện sau.

Ðể hướng dẫn quí vị tìm hiểu thêm về Kalachakra, thầy sẽ giải thích về chức năng huân tập của pháp quán đảnh trong giai đoạn phát khởi ( generation stage ) và trong giai đoạn viên thành ( completion stage ). Quí vị cần tìm hiểu trong khi nhận pháp quán đảnh mình phải quán tưởng những gì, sau đó sẽ nhận về loại ấn tượng nào, sẽ phải tu theo phương pháp nào, và tu như vậy là để thành tựu những gì. Nếu quí vị chịu khó học hỏi ghi nhớ ý nghĩa và quá trình diễn tiến của pháp quán đảnh, vậy đến khi ngồi nhận pháp, quí vị sẽ không cảm thấy ngỡ ngàng, có thể đại khái hiểu được những gì đang xảy ra trong buổi truyền pháp.

Ðường vào KALACHAKRA - Bài Giảng - Jhado Rinpoche


1. Ðặc điểm của Phật Giáo

Như đã nói trong phần đại ý, điều đầu tiên nên biết, là Phật giáo khác ngoại đạo như thế nào. Trên thế giới có nhiều tôn giáo, vậy Phật giáo có gì đặc biệt? Chắc chắn không phải đặc biệt vì nghi lễ cúng dường, cúng hoa, cúng hương, quì đảnh lễ, vân vân. Việc như vậy chưa chắc đã là Phật Pháp. Làm như vậy chưa chắc đã là Phật tử.

Khế kinh có nói, qui y là vì tìm đường giải thoát mà về nương dựa nơi Phật Pháp Tăng. Phật Pháp Tăng là Tam bảo, là đối tượng của tâm qui y, có khả năng chở che khỏi mọi khổ não. Chở che không chỉ trong một đời, mà cho mọi kiếp về sau và mãi mãi. Tam bảo sẽ luôn giúp chúng ta thành tựu mục tiêu cao nhất. Trong cảnh sống luân hồi, bất cứ vấn đề nào, khổ đau nào, cũng đều phát xuất từ nghiệp chướng phiền não tích lũy trong dòng tâm thức của chúng ta. Vì tích tụ nghiệp chướng phiền não trong tâm thức mà tạo quả là những kinh nghiệm khổ đau phải trải qua trong cuộc sống.

Qui y Tam bảo là quay về nương dựa nơi Tam bảo, nhờ đó có thể thoát được nghiệp chướng phiền não, thành tựu kết quả tối hậu là cởi thoát toàn diện mọi khổ đau và nguyên nhân của khổ đau. Về nương dựa Tam bảo để giải thoát khổ đau là động cơ tu hành chính của Phật tử căn cơ thấp.

Trong khế kinh, Phật dạy nên qui y tại tâm của mình, không qui y nơi nào khác. Ví dụ có người trong tâm thức tích lũy ác nghiệp nhiều đời, đời này lại để tâm mình tha hồ tham sân si, vậy chắc chắn sẽ phải chịu quả khổ. Còn ngược lại mỗi khi tâm bất thiện nổi lên, nếu biết cố gắng áp dụng biện pháp hoá giải, ác nghiệp sẽ từ từ thanh tịnh, trí giác mỗi lúc mỗi thêm khai mở, tâm từ từ thuần hóa, càng lúc càng có khuynh hướng tạo nghiệp lành, càng có khả năng hóa giải ác nghiệp, cứ như vậy sẽ có lúc thành tựu cái gọi là tận diệt khổ đau, giải thoát luân hồi.

Khế kinh có nói muốn giải thoát không cần phải rời bỏ nơi này để đến một cõi đặc biệt nào khác. Khổ đau có thể tận diệt ngay trong thân tâm này. Thân tâm chúng ta đây vốn có đủ mọi tiềm năng để thành tựu nguồn an lạc tối thượng, chỉ cần tìm ra đường tu chính xác, phương pháp tu chính xác, rồi nỗ lực tu hành. Phật nói như vầy: “Phật đạo, là con đường giải thoát”.

Con đường giải thoát không có trong các tôn giáo khác. Tôn giáo khác có thể nói nếu các anh chị tu như thế này, thiền như thế kia, sẽ được phép thần thông ví dụ như bay trên không hay chui trong đất [khinh công, độn thổ], sẽ được thành tựu tâm linh thế này hay thế khác. Tôn giáo khác có thể dạy nhiều phương pháp nhập định rất hữu hiệu, nhưng không dạy tu để giải thoát khổ đau.

Phật giáo ngược lại dạy nhiều cách tu để giải thoát khổ đau, thành tựu an lạc tối thượng. Ðây không chỉ là lời nói suông, thực sự các anh chị có thể đạt đến kết quả ấy. Vọng tưởng và phiền não trong tâm các anh chị chỉ là những hiện tượng sinh diệt, khi có, khi không. Nếu chịu khó tu, nếu gặp vị đạo sư đủ khả năng hướng dẫn, và nếu chính mình có chí tu học, có căn cơ cao, khi ấy thoát khổ đau đạt an lạc tối thượng ngay trong kiếp sống hiện tại này, trong thân tâm này, là điều có thể xảy ra.

Giá trị của Phật giáo không phải nằm ở chỗ khi nghèo thì cầu Phật độ cho giàu, khi bịnh thì cầu Phật độ cho khỏi bịnh, hay khi làm ăn buôn bán thua lỗ thì cầu Phật độ cho phát tài. Thật sự mà nói, dù những phép lạ như vậy có thật sự xảy ra đi nữa, cũng chẳng có gì đáng nói, Phật giáo cũng không phải vì vậy mà có thể gọi là quí giá. Các anh chị cần hiểu rõ phần cốt tủy để thấy được mức độ quí giá cực kỳ của Phật đạo.