kết quả từ 1 tới 4 trên 4

Ðề tài: Phép Tu Lăng Nghiêm đại định

  1. #1

    Thumbs up Phép Tu Lăng Nghiêm đại định

    PHÉP TU LĂNG NGHIÊM ĐẠI ĐỊNH
    Hoà Thượng Kim Cang Tử
    Tạp Chí Nghiên Cứu Phật Học Số 6 /1998 (Hà Nội)





    Lăng Nghiêm là một bộ kinh triết lý thần bí và có khoa học khám phá muôn vật, ý nghĩa rất uyên thâm mầu nhiệm. Bộ kinh này gồm mười quyển dạy về cả Hiển giáo và Mật giáo, xưa nay nhiều người rất ngưỡng mộ tôn sùng.
    Kinh này không phải như các kinh vẫn thường đem đọc tụng lễ bái cầu đảo, như kinh Pháp Hoa, Dược Sự, Báo Ân, Lương Hoàng, Thuỷ Sấm… Bộ này chỉ chuyên về nghiên cứu giáo lý là chính; còn như muốn đắc pháp kinh nghiệm, thì phải theo pháp dạy: Vô Hương Bồ đề, hay muốn đắc pháp kinh nghiệm, thì phải theo pháp dạy: Thụ giới, giữ giới, lập đàn tràng tác pháp tu luyện rất công phu mới được. Nếu chỉ do tín tâm tụng hài thần chú dài ở trong kinh một cách thông thường để cầu công đức an lạc thì không phải nói.

    Muốn tu đới Pháp chính định, trước hết phải tìm thầy thụ giới theo ba nghĩa “quyết định” trong kinh Phật dạy:

    Giữ giới, tu định, phát tuệ.
    Tiếp tâm là giới, nhân giới sinh định, nhân định phát tuệ.

    Gìn giữ bốn điều luật ghi:
    Sát, đạo, dâm, vọng, trong sáng như giá, như sương, tự mình không sinh ba ý nghiệp, bốn khẩu nghiệp. Tâm không duyên với sắc, hương vị. Nếu tu định không giữ giới thì dù có nhiều trí, thiền định hiện tiền cũng lạc vào ma đạo, tà kiến.

    Khi tu luyện còn phải thực hiện ba phép Tiên Thứ Phật dạy nguyên văn như sau:

    “Một là tu tập từ các trợ nhân, hai là chân tu nạo sách chính tính, ba là tăng tiến trái lại hiện nghiệp”.

    Thế nào trợ nhân? A nan: 12 loài chúng sinh trong thế giới không thể tự toàn, phải nương theo bốn cách ăn uống và an trụ; nghĩa là nương theo đoạn thực, tư thực và thức thực; vậy nên Phật bảo tất cả chúng sinh ăn thức lành thì sống, ăn thức độc thì chết. Vậy những chúng sinh cầu Tam ma đề, nên dứt bỏ năm thứ rau cay trong thế gian. Năm thứ rau cay này ăn chín thì phát lòng dâm, ăn sống thì thêm lòng giận. Những người ăn rau cay đó, ở trên thế giới dù biết giảng thuyết 12 bộ kinh, thiên tiên 10 phương hiềm vì hôi hám đều phải trách xa, các loài ngã quỷ v.v… Nhân trong lúc người kia ăn rau cay, đến liếm môi mép người đó, mà người đó thường ở lẫn với quỷ cùng chỗ, phúc đức ngày càng tiêu hao, thường lâu không được lợi ích. Người ăn rau cay tu phép đại lực ma vương, nhân được dịp đó hiện ra thân Phật đến thuyết pháp cho người kia nghe, dèm pha cấm giới, khen ngợi dâm lạc, tức giận, si mê, đến khi mạnh chung, tự thân người ấy làm họ hàng cứu ma vương, khi hưởng thụ phúc hết rồi thì sa vào địa ngục vô gián, A Nan, người tu đạo Bồ đề phải đoạn hẳn năm thứ rau cay ấy gọi là điện thứ tu hành tăng tiến thứ nhất.

    Thế nào là chính tính? A Nan, chúng sinh tu vào Tam ma đề, cốt yếu trước nhất phải nghiêm chỉnh giữ giới trong sạch, đoạn hẳn lòng dâm, không dùng rượu thịt, chỉ ăn thức ăn trong sạch nấu chín, không ăn thứ sống, A Nan, người tu hành đó nếu không đoạn dâm dục và sát sinh mà ra khỏi được ba cõi, thật không có lẽ như vậy. Nên coi sự dâm dục như là rắn độc, như thấy giặc thù, trước hết phải giữ pháp tứ khí, bát khí của giới thanh văn, nắm giữ cái tâm không nóng lên. Cấm giới đã thành thục thì ở trong thế gian hẳn không còn nghiệp sinh nhau, giết nhau, đã không làm sự trộm cướp thì không còn bị mắc nợ nhau và khỏi phải trả cái nợ kiếp trước trong thế gian. Người trong cái sạch ấy là pháp Tam ma đề, chính cái nhục thân của cha mẹ sinh ra không cần thiên nhẫn tự nhiên thấy được mười phương thế giới, thấy Phật nghe pháp, chính mình vâng lĩnh thái mạnh thanh tịnh. Không còn những việc khó khăn nguy hiểm, ấy gọi là tiệm thứ tu hành tăng tiến thứ 2.

    Thế nào là hiện nghiệp? A Nan, người giữ gìn cấm giới trong sạch như vậy, tâm không tham dâm, không dong ruổi theo lục trần ở ngoài, nhân không dong ruỗi, tự xoay lại về tính bản nguyên trần đã không duyên thì căn không ngẫu, hợp với đâu nữa, trở ngược dòng về chỗ toàn nhất, sáu cái dụng không ngẫu, hợp với đâu nữa, trở ngược dòng về chỗ toàn nhất, sáu cái dụng không hiện hành, cõi trước trong sạch ví như ngọc lưu ly có mặt trắng sáng treo ở bên trong. Thân tâm khoan khoái, tĩnh diệu viên minh bình đắng được đại an ổn, tất cả mật viên tịnh diệu, các đức Như Lai đều hiện trong đó, người ấy liền được vô sinh pháp nhẫn. Từ đó lần lượt tụ tập, tuỳ cái hạnh phát ra mà an lập các thánh vị, ấy gọi là tiệm thứ tu hành tăng tiến thứ ba.
    Những vị tu theo Lăng Nghiêm, đại định, giữ được các điều luật ghi trong sạch mà chuyên tu tốt, thì công đức lợi ích tiến lên các ngôi thứ hiền thánh như thế nào?

    Xin xem lần lượt từ dưới lên trên như sau:

    Trước hết phải dùng ba phép tiệm thứ là bậc đầu tiên sơ pháp tâm, để tăng tiến cho các ngôi hiền thánh sau được lên cao dần, từ phàm phu lên đến ngôi đại thánh là Phật, không phải trải qua nhiều đời nhiều kiếp.

    Thứ đến ngôi Can Tuệ địa, ngôi này chỉ có trí tuệ hiển thông giáo nên gọi Can Tuệ địa. Ngôi này là Cận ngoại phàm:

    Thứ đến mười ngôi Tín so ngôi tín này đem làm tín căn của mình mà gây giống Phật, nên gọi là ngoại phạm.

    Thứ đến mười trụ, 10 ngôi này sinh vào nhà Phật mà thành Phật tử, nên là Nội phàm, vào bậc Tiểu hiền.

    Thứ đến mười ngôi Hành, 10 ngôi này mở rộng lục độc mà làm việc Phật, cũng là Nội phàm, thuộc bậc Trung hiền.

    Thứ đến mười ngôi Hồi hướng, 10 ngôi này đem công đức Phật sự hướng về Phật tâm, cũng là Nội phàm, như là bậc Đại hiền.

    Bốn ngôi Gia hành, 4 ngôi này gia tăng công hành để lên bậc Thánh, xoá bỏ sự cách biệt giữa Tâm với Phật và diệt hết số lượng mê với ngộ, là bước quá độ từ hiền lên Thánh, là ngôi Á Thánh.

    Mười ngôi Thánh địa, Tu từ ngôi thứ nhất lên đến ngôi thứ mười, thì khế hợp chân như, bóng mây từ phủ khắp Niết bàn, che chở cứu hộ cho hết thảy chúng sinh. Đối với Phật quả thì đây là ngôi Nhân.

    Đẳng giác, ngôi này vị thứ ngang Phật, nhưng còn phải diệt trừ “Sinh tướng vô minh” (42 phẩm vô sinh đến đây thì đoạn diệt hết), thì lên ngôi Diệu Giác cao siêu cực điểm là hậu Nhân địa.

    Diệu Giác đến ngôi này thì cả phúc đức và trí tuệ đều hoàn toàn đầy đủ, muốn thi hành Chính Giác thì nhập Na già định Kim cươngđạo, chuyển hết Dị thục thức là hành phật, nên Diệu giác là ngôi Nhân địa Như Lai tức là ngôi Quả (Phật quả).

    Những người tu có thần thông linh ghiệm, được đến đâu cũng phải giữ vững lòng lành mà đừng tự phụ, nếu tự cho mình là Thánh thì hiền bị đoạ lạc ngay vào đường tà.

    Những tà ma này lớn nhỏ có hàng năm mươi loại rất là lợi hại cho việc tu hành, càng tu cao càng hay bị ma trược, ma báo. Lũ ma nó cũng ở trong năm uẩn là sắc, thụ, tướng, hành, thức của mình mà hoá ra, thừa cơ lúc mình sai lầm là nó được dịp hại mình, làm cho mình không được gặp chính đạo, thiệt mất cả phúc lợi giải thoát.

    Cho nên đối với việc tu trì phải thận trọng, có hai điều phải thực hiện cho tốt: một là giữ giới trong sạch, hai là chính tâm thành ý, vì giải thoát và lợi lạc cho hết thảy chúng sinh mà tu, thì mới hy vọng thành tựu đạo pháp cao quý được.

    Muốn hiểu được khoa học, triết học của kinh Lăng Nghiêm dạy, thì phải học thông Tam Như Lai Tạng. Thấu triệt Pháp sinh trần, Pháp diệt trần. Tỏ rõ chân lý cao siêu tuyệt vời. Thức tinh nguyên minh, vạn pháp duy thức.

    Xin hãy nghiên cứu kỹ bộ Đại kinh này.

    :ciao::ciao::ciao::ciao:

  2. #2

    Lightbulb

    PHÁP MÔN TU CHỨNG
    LĂNG NGHIÊM ĐẠI ĐỊNH
    Thích Huệ Hưng Phỏng dịch
    x

    LỜI MỞ ĐẦU

    Thật là huyền diệu
    Thật là cao tuyệt

    Một pháp môn tu chứng hoàn toàn–giải thoát rốt ráo–Đức Phật đã dạy trong kinh Lăng Nghiêm. Không phân biệt căn cơ mau chậm, không phân biệt tuổi tác và hoàn cảnh, mọi người, mọi giới và mọi lúc đều có thể áp dụng hạ thủ công phu một cách liên tục.

    Toàn bộ yếu chỉ của kinh đều cô đọng ở những trang trong tập này–đủ yếu tố làm kim chỉ nam cho hành giả trên đường tiến đến quả Giác.

    Phương pháp tu tuy cao siêu nhưng giản dị, tuy đơn thuần nhưng uyên áo, quả thật là pháp báu vô giá. Xưa kia ngài Bát Lật Mật Đế xẻ thịt dấu kinh nơi thân, từ Ấn Độ đem đến truyền bá ở Trung Hoa, sau này Sa môn Huyền Diệu tại Đài Bắc soạn lại tóm tắt yếu chỉ khai ngộ và thật hành trong một tập nhỏ. Nay tôi phỏng dịch để tiện lợi cho những người có duyên tìm hiểu và tu chứng theo pháp Lăng Nghiêm Đại Định.

    Ghi tại Tu Viện Huệ Quang, ngày mãn hạ.


    Năm Kỷ Mùi 1979

    THÍCH HUỆ HƯNG
    :listen::listen::listen:

  3. #3

    Talking

    PHÁP MÔN TU CHỨNG
    LĂNG NGHIÊM ĐẠI ĐỊNH
    Thích Huệ Hưng Phỏng dịch
    x

    PHẦN I

    KHAI THỊ THEO TÔNG CHỈ KINH LĂNG NGHIÊM

    Giáo lý của Phật trong 49 năm giảng dạy, tuy có phân ra: quyền thiệt đốn tiệm, không ngoài mục đích chỉ rõ chỗ dụng THỨC và không dụng THỨC. Vì mê mờ, chúng ta thường lầm chấp thân hoặc tâm từ đó–Niết Bàn đã ở ngoài tầm tay, lục đạo trở thành gia tộc của ta. Kinh Viên Giác đã nói: “Nhầm lẫn nhận năm uẩn, bốn đại, cho là thân mình, căn cứ vào sự phân biệt ngoại cảnh cho là tâm mình...” đó cũng vì dùng tâm thức hiện khởi.

    Muốn tu theo pháp LĂNG NGHIỆM ĐẠI ĐỊNH chúng ta tuyệt đối không dùng đến TÂM THỨC. Vì dùng tâm thức phân biệt để tu đạt đến chơn tâm thường trụ là việc không thể có, hoài công như người nấu cát mong thành cơm.

    Thức xuất hiện dưới nhiều hình thức, nên ta dễ nhầm lẫn nó là tâm hoặc định, thật ra không phải chơn tâm, cũng không phải định thể, trái lại còn làm chướng ngại thêm cho tánh định sẵn có của chơn tâm. Với sự trá hình lầm lẫn đó, hàng phàm phu, tiểu thừa, ngoại đạo, quyền giáo đều bối rối, lẩn quẩn, không nhận định đâu là chơn, đâu là vọng, như người lạc vào mê hồn trận, càng đi càng cách xa. Vì vậy, Kinh Lăng Nghiêm, Phật phải bảy lần phá bỏ vọng thức bị nhận lầm là tâm, và mười phen chỉ rõ cái tánh thấy biết của con người–không phải là cái thấy biết ở giác quan.

    Với thiện tâm tu niệm cao độ, chúng ta cố gắng xã bỏ tâm thức tán loạn vọng động, để tạo cái tâm an định, tịch tĩnh, như vậy chúng ta vẫn còn vấp phải một lầm lẫn–tránh vỏ dưa gặp vỏ dừa–buông cái này để bắt cái nọ vẫn kẹt vào tánh chấp thủ, không thể tiến xa hơn được để đạt một chơn tâm bổn định cho chúng ta. Y cứ vào kinh Lăng Nghiêm hầu đạt lời Phật, còn bị coi là một sai lầm, huống nữa một tâm thức tịch tĩnh an định không phá bỏ ư???

    Phần nhiều người tu hành quan niệm đạt đến trạng thái tĩnh lặng, dứt niệm gọi là đã đắc định, nhưng thật ra vẫn chưa thoát khỏi khuôn khổ của tâm thức. Lúc đạt được như vậy, ngỡ rằng định lực dễ dàng, từ đó, ý niệm dễ duôi, buông lung, đạt được như vậy, thật tiếc, vẫn chưa phải là cứu cánh. Đó chỉ là giai đoạn sơ khởi chuẩn bị lâu dài cho con đường tu tập của ta.

    Với tinh thần tín mộ Kinh LĂNG NGHIÊM, trong chúng ta, cần phải xã bỏ tâm thức dưới mọi hình thái mới hy vọng đạt được tánh định sẵn có của tự tâm. Khi đã lìa bỏ được tâm thức vọng niệm đó, ta mới nhận rõ được thể tánh thấy nghe, hiểu biết thường tại trong các giác quan của mình. Nếu ta hiểu được tánh sẵn có đó, cố gắng giữ gìn mãi, sẽ thành đại định chân thật. Đó là tự tánh chơn định khác với lối định của phàm phu, ngoại đạo, quyền giáo, tiểu thừa, căn cứ vào tâm thức thứ sáu làm nhân để tu định.

    Vả lại, nếu trong chúng ta mãi căn cứ vào tâm sanh diệt vọng động đó để tu định, thì định đó sẽ tùy thuộc tâm sanh diệt của ta có nhập, trụ và xuất.

    Lúc nhập thì có định, khi xuất thì không có định, cảnh tịnh thì thuận, cảnh động thì trái nghịch, như vậy định đó vẫn không thoát khỏi luân hồi sanh diệt.

    Đó là nguyên nhân cố gắng cưỡng ép tâm thức sanh diệt để cho yên định, sự thật chưa tỏ ngộ được chơn tâm bất động sẵn có, đã nhận lầm giả tưởng là chơn thật.

    Có nhiều kinh luận vạch rõ thể tướng của chơn tâm, nhưng vẫn chưa chỉ thẳng trong thân hiện tại của chúng sanh nó thuộc phần nào, nằm ở đâu! Vì thế phần lớn chúng sanh tu hành xã bỏ được cái tâm phân biệt thô lậu, nhưng còn cố suy tư, nghiên tầm những nghĩa lý thâm diệu, để cầu ngộ nhập chơn tâm, song cuối cùng vẫn lọt vào lối cũ của phạm vi ý thức vi tế hơn, vẫn luân lưu trong cảnh giới nhỏ hẹp cạn cợt. Kinh LĂNG NGHIÊM, Đức Thế Tôn co duỗi cánh tay, nắm mở bàn tay, phóng quang hai bên tả hữu, để gạn hỏi ANAN về tính chất động và tịnh. Do đó, ANAN hiểu được nơi thân mình cái diệu tánh sẵn có–luôn luôn bất động, không liên hệ đến thân cảnh vọng động lao xao. Trong chiều hướng lìa ngôn ngữ để chỉ bày thực tại, ngón tay phóng quang của Đức Thế Tôn đẩy ANAN rời xa ý niệm tư duy để lãnh hội tánh bất động của mình sẵn có, vì thế, đầu ANAN có lay động theo sự phóng quang của Đức Phật, nhưng tánh thấy vẫn không hề lay động, thay đổi. Biết được điều đó, thân ta dầu trải qua vô số kiếp trong nẻo luân hồi, nổi trôi trong hằng sa thế giới, nay đây mai đó, cái tánh thấy vẫn thường hằng như hư không, chẳng bao giờ suy giảm, dao động. Hiểu được như vậy, trong các động tác hàng ngày như đi, đứng, nằm, ngồi, chúng ta vẫn an trụ trong tự tánh chơn định của mình. Thêm một lần nữa, vì lòng từ đối với chúng sanh lầm lạc. Phật vạch rõ tánh nghe thường hằng của ta luôn luôn tồn tại, không gián đoạn theo âm thinh ngoại cảnh, ngài lại đánh chuông để khai ngộ, ANAN nhận là nghe chuông ngân khi còn phát tiếng, và hết nghe khi chuông im lặng. Phật bảo rằng: với ý thức sai lầm chúng ta có nghe và không nghe theo thinh trần, thật sự, tánh nghe–hay nói cách khác, bản chất của cái nghe vẫn bất diệt.–Dưới hình thức khác của sự mê vọng–Phật lại chỉ rõ vọng tưởng do ý thức phân biệt sai lầm như người đang ngủ nghe tiếng chày giã gạo, cứ ngỡ tiếng trống hoặc âm động của một vật phát khởi. Tại sao với âm động đó, khi thức, nhận định khác với lúc ngủ? Sự lầm lẫn đó là do ý thức phân biệt có khác nhau, nhưng tánh nghe vẫn không thay đổi, thức cũng như ngủ, vẫn lặng lẽ thường còn. Căn tánh là chơn thể của vạn vật, vạn vật là giả tướng của căn tánh. Cái chơn tâm sâu kín nhiệm mầu, vẫn tàng ẩn dưới dạng tánh thấy nghe thường nhật. Ngày nay, người học đạo ỷ lại vào tánh (thiên chơn) của mình, không cầu đến chỗ cứu cánh. Nghe luận đến căn tánh hiện khởi, lại chấp thủ lấy bản thể thường tịch, lìa bỏ sự tu chứng. Mới an trụ vào bực sơ giải nhơn không (có tri kiến vô ngã) đã tự mãn, không ngờ rằng vi tế nghiệp (vi tế phiền não) vẫn chưa tiêu, làm sao thoát khỏi cảnh giới tình trần; Tâm sinh diệt chưa dứt, làm sao vượt khỏi muôn trùng khổ não trong ba cõi để đạt chứng viên thông, như người canh giữ kho vàng mà vẫn chịu nghèo nàn khổ lụy.

    Có người hỏi:
    – Phần đầu của kinh bảo phải phá bỏ, xa lìa cái thức hư vọng, phần sau của kinh lại bảo thức là chơn, cũng gọi là tạng tánh nghĩa ấy thế nào?.

    Đáp:
    – Thức, tuy là tạng tâm, nhưng nó là căn bản của sanh tử, nếu không phá bỏ, chúng ta sẽ lầm lẫn, dùng nó để tu tập như người nấu cát mong thành cơm. Thức tuy là vọng động nhưng là hiện tượng của tâm (duy tâm sở hiện), nếu không dung nhập với tạng tánh thì ngoài tâm còn có pháp hay sao? Vì bản chất của thức là vọng tưởng nên phải dung nhập vào tâm để tránh sự trở ngại tu tập. Chung qui vẫn không ngoài lời Phật dạy, tất cả trở thành diệu chỉ.

    Trong kinh nói về bốn khoa, bảy đại, ba Như Lai tạng, mười pháp giới tâm, tất cả đều là thể lượng cùng cực của căn tánh. Người tu viên thông phải hiểu rõ trong chỗ phản văn đã thâu gọn vạn hữu cùng tột nhất chơn. Cả đến vấn đề khai thị tạng tánh sẵn có, chỉ là phương tiện cho những người tu viên thông làm chỗ ngộ nhập. Vì vậy, chư Tổ trực chỉ chơn tâm, phần nhiều không dùng văn tự: bằng những động tác đánh, hét hoặc kết hợp với pháp khí thích ứng với trình độ người đương cơ sẽ đưa thẳng họ đến nơi chứng đắc quả là diệu thủ. Nếu có dùng ngôn từ, cũng chỉ là phương tiện đánh trúng mạch ngộ trong tự thân của kẻ cầu đạo mà vẫn không làm cho họ trụ chấp ngôn ngữ. Trên pháp tọa, Đức Phật cầm nhánh hoa đưa lên giữa đại chúng, Ca Diếp đã đáp lại bằng nụ cười thâm thúy lãnh hội. Đó là một trong những động tác khai thị của thiền giới.

    Vì căn cơ bất đồng, thiền tông phải lìa ngôn ngữ, bên giáo phải dụng từ văn. Thiền gia muốn hành giả hốt nhiên đại ngộ, không qua phương tiện ngôn ngữ, bên giáo tạo cho hành giả nương vào văn tự, ngôn ngữ, để tỏ nhập chơn tâm.

    Nay dùng nhĩ căn để tu, áp dụng phương pháp phản văn (nghe trở lại tự tánh) tri giải (sự hiểu biết, suy luận) phải chấm dứt, không nên bận tâm vào bất cứ điều gì, phải giữ trạng thái thanh thản an nhiên. Lúc dụng công như vậy, mọi hiện cảnh, trạng thái trước mắt cũng như trong tâm, không nên quan tâm lưu ý. Chúng ta chỉ chuyên chú trong vô biên pháp giới ở tánh nghe mà thôi. Nhờ chú tâm ở tánh nghe, nên ngoại cảnh động tịnh không thể chi phối ta được. Và tâm thức cũng vậy, không liên quan đến tánh nghe, nên khi nhớ hay quên vẫn không thay đổi nó được.

    Tâm thức và tánh thấy nghe v.v... như tấm kiếng và ảnh rọi vào. Khi thức khởi hiện gọi là nhớ, như ảnh hiện vào tấm kiếng: khi thức diệt, gọi là quên như ảnh mất đi, gương kiếng vẫn không bị tác động chi phối hay ngăn ngại. Cũng như vậy, tánh thấy nghe không hề gia giảm bởi tâm thức. Điều này bên tông gia gọi là thời tiết hợp thành một khối.

    Vì thế lối tu pháp “Tự tánh bổn định” này khác hẳn với lối tu chỉ quán thông thường. Thường thường, chỉ quán là do công phu luyện tập lâu ngày thuần thục mới kết hợp được tâm và cảnh nhất như, không lấy ngay tự tánh sẵn có làm định. Trái lại, Kinh LĂNG NGHIÊM dùng định viên mãn của tự tâm sẵn có làm THỦ LĂNG NGHIÊM, không khởi tâm đối cảnh để chỉ quán sanh định.

    Người hành pháp nắm được thể tánh chiếu diệu đó, liền khởi công tu luyện gọi là vi mật quán chiếu–không cần lấy tư duy tu tập làm quán. Chúng ta nên nhớ rằng cái định này vốn tự tánh sẵn có, thường hằng, không ngoài tự tánh bất động, còn gồm thâu cả muôn pháp vạn sự vốn xưa nay bất động cùng làm một thể chơn định. Nếu không gồm cả vạn hữu đó, mà chỉ ở nhất tâm bất động, đều không phải cái định viên dung.

    Kinh LĂNG NGHIÊM còn dạy:
    Dù diệt hết điều thấy nghe hay biết, vẫn giữ cái u nhàn tịch tịnh bên trong thì vẫn còn bóng dáng của pháp trần phân biệt. Đó là trạng thái của phàm phu, ngoại đạo, tiểu thừa và quyền giáo chấp trụ cho là pháp tánh–thật ra chỉ là bóng dọi của pháp trần,–không phải vật thể. Không biết rằng các pháp vốn không, bỏ bên ngoài nương vào bên trong chẳng khác nào cảnh ngoài vẫn còn hiện trong gương. Chỉ là trạng thái tương tợ bất động, kỳ thật trong ức niệm vẫn tồn tại chủng thức ngoại vật; cái hình bóng pháp trần bất động tịch tịnh đó vẫn không thể diệt được. Các hàng phàm phu, ngoại đạo, quyền giáo, tiểu thừa đều lấy ý thức tư duy làm quán, ý thức yên định làm chỉ, lìa ý thức ấy ra không có cái thể định huệ nào khác, vì vậy, căn bản vốn là phân biệt thì không thể nào dứt khoát hư vọng.

    Vả lại, cảnh là pháp trần, tâm sanh phân biệt, cảnh và tâm không thể rời nhau, mà tự cho là thanh tịnh, kỳ thật toàn là hư vọng loạn động và hư chuyển. Nếu định có xuất có nhập, đều thuộc vi tế phân biệt, chỉ nương vào vi tế phân biệt đó để duy trì cảnh tịch tịnh kia, một khi không phân biệt nữa, cảnh tịch định liền mất, gọi là xuất định. Tu LĂNG NGHIÊM ĐẠI ĐỊNH không thể như vậy.

    Trên đây là phần phá thức hiển tâm để chỉ rõ cái định.–Thuộc phần tông chỉ đã xong.

    :023::023::023:

  4. #4

    Mặc định

    hay qua
    nhung da co ai hien nay tu duoc nhu vay khong
    co ket qua gi
    xin cho biet de moi nguoi tu dung
    xin ke cac kinh nghiem ban than cua minh

Thread Information

Users Browsing this Thread

There are currently 1 users browsing this thread. (0 members and 1 guests)

Bookmarks

Quyền Hạn Của Bạn

  • You may not post new threads
  • You may not post replies
  • You may not post attachments
  • You may not edit your posts
  •