LỜI TIÊN TIẾNG PHẬT ...



Thi:

Vui niềm hạnh ngộ trước đàn nay,

Công quả càng thâm chứng đặng dày,

Ðạo báu điểm tô là cội phúc,

Nợ trần toan trả chớ đừng vay.

Thi:

Tươi cười niệm chúc các trò Tiên,

Lập chí rèn nung đáng hậu hiền,

Dõi bước Ðạo nhà toan nối chí,

Lên đèo xuống ải gắng bền duyên.

Ngâm:

Xuân qua nhạt thắm hải-đường,

Ðầm sen rộ nở mái trường vắng teo.

(Lý-Ðại-Tiên, TLBT, 22-5-1982)

Thi:

TÂY đoài dịu vợi tỉnh hồn mê,

VƯƠNG giả càng không hướng lộn về,

MẪU tử nhớ ngày xưa tạm biệt,

Tu hành trổi gót lại nhàn quê,

Thú vị hồng trần đeo tứ khổ,

Bịnh già sanh tử họa lê thê,

Ngũ trược chận đường muôn vạn ức,

Linh thoàn dõi bước thoát trần mê.

Thi:

Thế trần lộn lạo quí cùng khinh,

Thiên-Ðạo hoằng khai thế cuộc bình,

CHƯỞNG đức thi tài đừng ngại khó,

QUẢN gì cay đắng với đồng sinh,

Ðạo pháp song hành bền dạ sắt,

Ðệ nhị năm châu rõ tiến trình,

Thiên địa tuần hoàn cơ dựng thế,

Khai đường Huỳnh-Ðạo cứu toàn linh.

(Tây-Vương-Mẫu, TLBT, 15-5-1982)

Thi:

VƯƠNG tướng vào thôn bái Phụ-Hoàng,

THỊ ngã dung tu hữu lý đoan,

LỄ phải đầu tiên trăm sự khác,

THẤT một giờ qua chuộc mấy vàng.

NƯƠNG bóng từ bi rèn Ðạo-pháp,

Chiếu lịnh Tây-Vương tỏa mấy hàng,

Kiến cơ bất dụng tầm muôn thuở,

Huỳnh-Ðạo chẳng nương uổng bấy vàng.

Thi:

Xuân mới về đây chúc mấy lời,

Ðại đồng chào hết cả năm nơi,

Cung chúc Ðạo Cao nhiều hạnh hữu,

Chúc toàn nhân loại sớm thảnh thơi.

Thi:

Vạn hạnh chúc cho cảnh Bửu-Tòa,

Ðạo-pháp trau giồi tợ gấm hoa,

Nhâm đến trẩy sang đồng hạnh hữu,

Chí bền tu luyện phước nào xa.

Chúc đặng thành công nhiều lãnh vực,

Chúc đường công quả tốt như hoa,

Chúc nẻo công phu dày thiện chí,

Chúc đều hòa nhẫn vị cùng tha.

(Thất-Nương Diêu-Trì-Cung, TLBT, 6-2-1982)

Thi:

Phận trò học Ðạo phải gìn trau,

Trách vụ Thầy ban há dễ nào,

Trên thuận dưới hòa thi lẽ chánh,

Ðạo pháp càng thâm sẽ thấy cao.

(Ngọc-Hoàng Thượng-Ðế, TLBT, 14-2-1982)

Thi:

Nước cờ thế sự mắc và cao,

Ngắm trước xem sau dễ biết nào,

ÐẠI hội khoa trường đang tuyển mộ,

TIÊN, Thánh, Phật, ma cũng lộn vào,

TRƯỞNG đức lập nền tua vững chắc,

LÝ luận xa gần dạ chớ xao,

THÁI bình thạnh trị Nguơn Thánh-Ðức,

BẠCH giáp trì trai chí nguyện cầu.

Thi:

Bữa nay vui vẻ chén rượu đào,

Thú lạ Tiên Thần mặc tiêu dao,

Bầu rượu túi thơ nhàn khiển hứng,

Phù sứ chợt nghe giọng thỉnh cầu,

Vội vã nâng hồ xem Thánh-Chỉ,

Kịp giờ lai bút rõ âm hao,

Hoan hỷ vài lời cùng chư vị,

An tọa bình thân niệm tiếng chào.

Thi:

Tiếng chào văng-vẳng mới đâu đây,

Vịnh phú còn như thoảng giọng này,

Ðá ngọc rèm châu son đượm nét,

Vàng ròng lộng khỏa nếp tranh mây,

Thỏ chạy truông đồi lưu dấu Thánh,

Trúc thần gió dậy tỉnh hồn say,

Biển mê gắng gổ duyên đành mất,

Bờ ngạn gay-go ắt gặp Thầy.

Thi:

Kiếu từ liệt vị buổi đàn nay,

Ðạo hạnh gìn trau tháng những ngày,

Hỏi lại Phật Tiên ai thiếu đức,

Thánh Thần không có dạ tà tây.

Quân-tử chẳng thà đành chịu khổ,

Tu hành thấy lợi chẳng thò tay,

Ðọc sách Thánh Hiền càng thấy dại,

Năng gần Tiên Thánh Ðạo càng say.

(Lý-Ðại-Tiên, TLBT, 7-11-1981)

Thi:

HỚN triều ôn lại tích Ðào-Viên,

CHUNG thỉ đệ huynh một tấm nguyền,

LY rượu giao thề hương thấm mãi,

ÐẠI thuyết dung hòa thể dựng yên.

TIÊN Phật muốn thành phàm gội rửa,

Tục ngữ câu rằng học phải biên,

Hỉ xả tội người mình đặng xả,

Thoát vòng câu chấp mới là yên.

Thi:

BỬU-TÒA lai đáo cảnh tân phong,

Công đức trang nghiêm thán phục lòng,

Hân hạnh tiếng chào toàn nam nữ,

Ly rượu tân lai ngọt lại nồng.

Cám cảnh chư hiền lòng hậu đãi,

Rượu Thánh trà Tiên sánh đảo Bồng,

Miễn lễ trong ngoài đều an tọa,

Thánh thể phàm thân cũng đạo đồng.

(Hớn-Chung-Ly Ðại-Tiên, TLBT, 11-10-1981)

Thi:

Hân hạnh giờ nay đến BỬU-TÒA,

Ðàn tràng nghiêm thiết quả cùng hoa,

Bàn đào hội yến ngày Tiên-Nữ,

Chào đón xôn xao thỉnh Mẹ già,

Nghi tiết đặt bày xem rực rỡ,

Loan phượng chực chầu dưới bóng hoa,

Mẹ vui với trẻ vì tâm Ðạo,

Hân hạnh phước tăng vạn vạn nhà.

Thi:

Thu vàng nhuộm lá nước trăng trong,

Hiếu tử trình dưng ngũ sắc hồng,

Hội kiến cung hoàng trên chín bệ,

Mẫu tử đoàn viên đặng thỏa lòng,

Cúc tửu đượm mùi hương bát ngát,

Trà mai ngút khói vị thơm nồng,

Cao lương mỹ vị lòng con thảo,

Cửu vị nương nương cảm tạ lòng.

(Diêu-Trì Kim-Mẫu, TLBT, Rằm tháng 8 năm Tân Dậu, 12-9-1981)

Thi:

Lời chào chư sĩ thắm và tươi,

Ðáo cảnh hôm nay có mấy lời,

Rượu đào thắm má còn hơi ửng,

Hòa hiệp hôm nay đã vẹn mười?

Ðồng Ðạo thi hành tròn sứ mạng?

Nhấp chén quỳnh-tương mỉm miệng cười,

Cám cảnh Ðạo-đồng tròn cung kính,

Tạ lòng huynh đệ thắm và tươi.

Thi:

Cám cảnh đệ huynh tấm nhiệt thành,

Quả đậm thi tài khả liệt oanh,

Dày dạn chẳng phiền trăm sự khó,

Sổ vàng khắc đậm bảng kỳ danh,

Tam cấp vũ môn rèn chí đại,

Mới là rạng mặt đấng hùng anh,

Non nhân nước trí lòng chưa thỏa,

Ðạo mầu nương bước cứu sanh linh.

(Lý-Ðại-Tiên, TLBT, 4-7-1981)

Thi bài:

...

Các con biết Mẹ già độ tận,

Quãng đường tu lận-đận sá gì,

Long-Hoa khai hội trường thi,

Bước ra mới biết ai thì thấp cao.

Ai thi đậu thì vào nhiệm sở,

Rớt thì ra bỏ dở công trình,

Khoa kỳ tuyển lựa Chơn-linh,

Chọn tài, chọn đức, thí-sinh chọn đồng.

Thi:

Ðường trần là bể khổ thâm sâu,

Giải thoát sao cho khỏi vướng sầu,

Bạc trắng như vôi lòng chớ tệ,

Ðạo vàng như ánh rạng đêm thâu,

Ðức độ trau dồi là của quý,

Ngày cùng tội chất, bạc còn đâu,

Quý báu vô ngần là tánh thiện,

Ngồi rình sẽ thấy Phật tại đâu?

(Diêu-Trì Kim-Mẫu, TLBT, 13-6-1981)

Thi:

Vài lời kim thạch khuyến cùng nhau,

Cơn khảo xuyên qua chớ lộn nhào,

Sắt thép chưa mềm lòng đã rối,

Son vàng còn đậm chớ lãng xao,

Ðã biết mà lòng còn nao núng,

Ðại-hùng, đại-lực mất rồi sao?

Từ-bi, nhẫn-nại đừng đi vắng,

Cổng kín thì ma khó lộn vào.

Thi:

Ngân-hà mãn cuộc dứt lời Tiên,

Khuyến cáo đồng chung các sĩ-hiền,

Kẻ dưới không hiềm đường khiêm tốn,

Người trên chớ nặng với tước quyền,

Chung sức gánh gồng đường Thiên-Ðạo,

Vững chí phong ba phụ chống thuyền,

Nhiệm thời khích lệ dường the mỏng,

Cuộc thế khẩn trương Ðạo cấp truyền.

(Lý-Ðại-Tiên, TLBT, 12-4-1981)

Thi:

ÐẠI-đồng khai hội muốn thành công,

TỪ mỗi đạo-tâm phải một lòng,

PHỤ sức gom tài quên sự khó,

THẦY đà bảo hộ chớ nào không?

Thi:

BỬU-TÒA CAO chẳng mấy thước đo,

THIÊN-LÝ ÐÀI Tiên ý chẳng dò,

CHÙA RÁCH THƯỢNG-Nguơn nhồi Ðức-Thánh,

PHẬT VÀNG ÐẾ Ðạo dựng nền Nho.

(Ngọc-Hoàng Thượng-Ðế, TLBT, 14-3-1981)

Thi:

Mây HỒNG rạng chói tợ hào quang,

Phước HUỆ song tu mới vẹn toàn,

CHƠN trời tuy cách người bạn cũ,

TIÊN tử còn lai cảnh báo đàn.

...

Thi:

NGỌC trắng thì đâu để cát lầm,

HOÀNG-Thiên ẩn nét tại nhân tâm,

THƯỢNG cảnh muốn về phiền công khó,

ÐẾ-Khuyết chực chầu lịnh muôn năm,

Chứng lòng con thảo vài chun rượu,

Ao ước từ nay trỗi giọng cầm,

Ước ao đồng đặng tương lý trí,

Hân hạnh vài lời tạ ơn thâm.

(Ngọc-Hoàng Thượng-Ðế, TLBT, 21-2-1981)

Thi:

Hòa DIỆU cao thâm thiệt ý lành,

Ngự TRỊ tánh phàm rõ tâm thanh,

Thiên KIM vạn lượng không hơn đức,

Thân MẪU nhìn xem chúng học hành.

VÔ lượng khoan từ là phận sải,

CỰC điểm gian nguy mới biết mình,

TỪ nầy nền Ðạo thêm vững chắc,

TÔN kỉnh đức hiền chẳng trọng danh.

Thi:

Tửu đào hương ấm thú ngày Xuân,

Mẫu tử đoàn viên cạn chén mừng,

Rượu nồng cung hiến lòng con thảo,

Chúc Mẹ bá niên đắc thọ trường.

Mẹ vui cùng trẻ lòng thơ-thới,

Xin chúc đoàn con tiến lẫy-lừng,

Cao thăng phước lộc nhiều may-mắn,

Vạn sự thành công nhớ lại Xuân!

(Diêu-Trì Kim-Mẫu, TLBT, mùng 1 Tết Xuân Tân-Dậu, 5-2-1981)

Thi:

NGỌC đà lộ sắc xuống trần ai,

HOÀN(G) thiện tôn-danh thị Cao-Ðài,

THƯỢNG điều, hạ hộ khai Chánh-Giáo,

ÐẾ hòa nhứt luật khuyến mười hai.

(Ngọc-Hoàng Thượng-Ðế, TLBT, 23-8-1980)

Thi:

PHỔ-Ðà luyện thuốc mấy chừ nay,

ÐỨC độ người tu phải dạn dày,

KIM tiền lộng giả hình mây khói,

TIÊN Thánh màng chi bả trược đầy.

(Phổ-Ðức Kim-Tiên, TLBT, 14-6-1980)

Thi:

THIÊN-đường hạ chiếu BỬU-TÒA nay,

HOÀNG-Thượng ấn phê huấn thảo bài,

THƯỢNG quyền máy nhiệm điều khai hóa,

ÐẾ lập lễ nghi lập Ðạo Thầy.

(Ngọc-Hoàng Thượng-Ðế, TLBT, 6-12-1979)

Thi:

BỬU-TÒA Ðạo-sử đáng nên ghi,

Ðạo báu tồn tâm đặng dễ gì,

Nhà dột mưa chan lòng vẫn ấm,

Phước Trời chan đượm cũng là y.

(Lý-Ðại-Tiên, TLBT, Rằm tháng Giêng Bính Dần 1986)