Vua Hàm Nghi tên huý là Nguyễn Phúc Ưng Lịch, còn có tên là Nguyễn Phúc Minh (阮 福 明). Ông là con thứ 5 của Kiên Thái Vương Nguyễn Phúc Hồng Cai và bà Phan Thị Nhàn, sinh ngày 17 tháng 6 năm Tân Mùi, tức 3 tháng 8 năm 1871. Ông là em ruột của vua Kiến Phúc và Chánh Mông-Ưng Kỳ, tức vua Đồng Khánh sau này.
Sau khi vua Tự Đức mất, mặc dù các phụ chính đại thần Nguyễn Văn Tường và Tôn Thất Thuyết nắm trọn quyền hành trong việc phế bỏ vua này, truất ngôi vua khác, nhưng họ lại rất bị động trong việc tìm người trong hoàng tộc có cùng chí hướng để đưa lên ngôi. Cả vua Hiệp Hoà lẫn vua Kiến Phúc đều lần lượt đi ngược lại đường lối của phái chủ chiến hoặc bị mất sớm, trở thành những phần tử không thể không bị loại bỏ khỏi việc triều chính đang rối ren[1]. Sau khi vua Kiến Phúc mất đột ngột, đáng lẽ con nuôi thứ hai của vua Tự Đức là Chánh Mông lên ngôi, nhưng Nguyễn Văn Tường và Tôn Thất Thuyết sợ lập một vị vua lớn tuổi sẽ mất quyền hành và hai ông chủ trương dứt khoát lựa chọn bằng được một ông vua ủng hộ lập trường chống Pháp nên đã chọn Ưng Lịch. Đây là một người có đủ tư cách về dòng dõi, nhưng chưa bị cuộc sống giàu sang của kinh thành làm vẩn **c tinh thần tự tôn dân tộc và quan trọng hơn hết là hai ông có thể định hướng nhà vua về đại cuộc của đất nước một cách dễ dàng.
Ưng Lịch từ nhỏ sống trong cảnh bần hàn, dân dã với mẹ ruột chứ không được nuôi dạy tử tế như hai anh ruột ở trong cung. Khi thấy sứ giả đến đón, cậu bé Ưng Lịch hoảng sợ và không dám nhận áo mũ người ta dâng lên. Sáng ngày 12 tháng 6 Giáp Thân, tức ngày 2 tháng 8 năm 1884, Ưng Lịch được dìu đi giữa hai hàng thị vệ, tiến vào điện Thái Hòa để làm lễ lên ngôi vua, đặt niên hiệu là Hàm Nghi. Khi đó Ưng Lịch mới 13 tuổi.
Thời gian tại Kinh thành Huế
Khâm sứ Pierre Paul Rheinart thấy Nguyễn Văn Tường và Tôn Thất Thuyết tự tiện lập vua, không hỏi ý kiến đúng như đã giao kết nên gửi quân vào Huế bắt Triều đình phải xin phép. Nguyễn Văn Tường và Tôn Thất Thuyết phải làm tờ xin phép bằng chữ Nôm nhưng viên Khâm sứ không chịu, bắt làm bằng chữ Nho. Hai ông phải viết lại, viên Khâm sứ mới chịu và sau đó đi cửa chính vào điện làm lễ phong vương cho vua Hàm Nghi. Công việc đầu tiên mà vua Hàm Nghi phải thủ vai, dưới sự hướng dẫn của Tôn Thất Thuyết là tổ chức đón phái đoàn Pháp từ Toà khâm sứ ở bờ Nam sông Hương sang điện Thái Hoà làm lễ tôn vương cho nhà vua. Đây là thắng lợi mà phe chủ chiến của triều đình Huế đã đạt được trong việc bảo vệ ngai vàng của Hàm Nghi; còn đối với người Pháp thì sau những yêu sách, đòi hỏi bất thành, họ đành phải nhân nhượng để tránh thêm những rắc rối mới bằng cách chấp nhận một sự việc đã rồi.
Lúc 9 giờ sáng ngày 17 tháng 8 năm 1884, phái đoàn Pháp gồm Đại tá Guerrier, Khâm sứ Rheinart, Thuyền trưởng Wallarrmé cùng 185 sĩ quan binh lính kéo sang Hoàng thành Huế. Guerrier buộc triều đình Huế phải để toàn bộ quân Pháp tiến vào Ngọ Môn bằng lối giữa, là lối chỉ dành cho vua đi, nhưng Tôn Thất Thuyết nhất định cự tuyệt. Cuối cùng chỉ có 3 sứ giả được vào cổng chính, còn lại các thành phần khác thì đi cổng hai bên. Cả triều đình Huế và phái đoàn Pháp đều mang tâm trạng không vừa lòng nhau, nhưng buổi lễ thọ phong cuối cùng cũng kết thúc êm thấm. Lúc phái đoàn Pháp cáo từ, Tôn Thất thuyết đã ngầm cho quân lính đóng cửa chính ở Ngọ Môn lại nên đoàn Pháp phải theo hai lối cửa bên để về. Nhìn nhận về sự kiện này, Marcel Gaultier đã viết: " Vua Hàm Nghi đã giữ được tính chất thiêng liêng đối với thần dân mình. Vô tình vị vua trẻ tuổi đã làm một việc có ảnh hưởng vang dội khắp nước : với ý chí cương quyết độc lập và dù người Pháp có đóng quan tại Huế, triều đình An Nam vẫn biểu dương một thái độ không hèn. Thái độ ấy do Hội đồng Phụ chính đề ra. Hội đồng ấy rất có lý mà tin chắc rằng dân chúng trông vào thái độ của nhà vua để noi theo, xem thái độ ấy như mệnh lệnh [chống lại người Pháp] không nói ra bằng lời..."[2]
Năm sau 1885, Thống tướng de Courcy được chính phủ Pháp cử sang Việt Nam để phụ lực vào việc đặt nền bảo hộ. Tướng de Courcy muốn vào yết kiến vua Hàm Nghi nhưng lại muốn là toàn thể binh lính của mình, 500 người, đi vào cửa chánh là cửa dành riêng cho đại khách. Triều đình Huế xin để quân lính đi cửa hai bên, chỉ có các bậc tướng lĩnh là đi cửa chánh cho đứng với nghi thức triều đinh, nhưng de Courcy nhất định không chịu.
Phong trào Cần Vương
Đêm 22 rạng 23 tháng 4 âm lịch (tức 5, 6 tháng 7 năm 1885), Nguyễn Văn Tường và Tôn Thất Thuyết, vì thấy người Pháp khinh mạn vua mình như vậy, đem quân tấn công trại binh của Pháp ở đồn Mang Cá. Đến sáng thì quân Pháp phản công, quân triều Nguyễn thua chạy, rời bỏ Kinh thành Huế. Tôn Thất Thuyết vào cung báo lại việc giao chiến trong đêm và mời vua Hàm Nghi cùng Tam cung lên đường. Nghe chuyện phải rời khỏi thành, vua Hàm Nghi đã thảng thốt nói: "Ta có đánh nhau với ai mô mà phải chạy" [3]. Vua Hàm Nghi ngồi trong kiệu bị chao đảo liên tục, đầu bị va đập nhiều lần vào thành kiệu rất đau, sau cùng nhà vua phải xuống nằm trên võng cho lính cáng. Nguyễn Văn Tường cho người rước vua Hàm Nghi tới thành Quảng Trị để lánh nạn. Chiều ngày 6 tháng 7 thì cả đoàn mới tới Quảng Trị. Nhưng sau đó ông lại ra trình diện với quân Pháp. Tướng de Courcy hẹn cho Nguyễn Văn Tường hai tháng phải tìm cách để rước vua về. Nguyễn Văn Tường viết sớ ra Quảng Trị xin rước vua về nhưng ông Tôn Thất Thuyết cản thư không cho vua biết. Hết hạn hai tháng, cả gia đình Nguyễn Văn Tường bị de Courcy đày ra Côn Đảo, sau đó đưa tới đảo Tahiti ở Thái Bình Dương. Một thời gian sau Nguyễn Văn Tường mất, xác được đưa về Việt Nam. Ngày 9 tháng 7, dưới áp lực của Tôn Thất Thuyết, vua Hàm Nghi đành từ biệt Tam cung, lên đường đi Tân Sở.
Hàm Nghi ở Tân Sở rồi về vùng Tuyên Hoá, Quảng Bình. Vua Hàm Nghi đã phải chịu nhiều khổ ải vì phải luồn lách giữa núi rừng hiểm trở, thời tiết khắc nghiệt, giữa muôn vàn thiếu thốn, bệnh tật, đói khát và sự hiểm nguy về tính mạng luôn đe dọa[4]. Tại Tân Sở, vua Hàm Nghi tuyên hịch Cần Vương kêu gọi sĩ phu và dân chúng nổi dậy chống Pháp giành độc lập. Sự ủng hộ, che chở giúp đỡ và tham gia nhiệt tình của đồng bào các địa phương từ Quảng Trị qua tới đất Lào cũng như trong vùng Hà Tĩnh, Quảng Bình đã cho Hàm Nghi thấy được vai trò của bản thân mình nên nhà vua đã không còn cảm thấy bị cưỡng ép như trước. "Nhà vua bị những gian lao mà luyện thành người nhẫn nại và đón cuộc phong trần bằng thái độ rất thản nhiên"[5]. Dân chúng nổi dậy rất đông, nhưng vì rải rác các nơi nên lực lượng không mạnh. Nhà vua đã hai lần xuống dụ Cần vương trong đó có một lần gửi thư cầu viện cho Tổng đốc Vân-Quý của triều Mãn Thanh và rất nhiều chỉ dụ khác tới các quan lại, lãnh tụ của phong trào chống Pháp. Tên của ông ta đã trở thành ngọn cờ của nền độc lập quốc gia... Từ Bắc chí Nam, đâu đâu dân chúng cũng nổi lên theo lời gọi của ông vua xuất hạnh[6].
Trong suốt thời gian kháng chiến của vua Hàm Nghi, ba bà Thái hậu và vua Đồng Khánh liên tục gửi thư kêu gọi vua trở về nhưng ông khẳng khái từ chối. Toàn quyền Pháp ở Đông Dương là Paul Bert cũng đã định lập Hàm Nghi làm vua 4 tỉnh Thanh Nghệ Tĩnh Bình nhưng cũng không thành. Nhà vua thường nói mình ưa chết trong rừng hơn là trở về làm vua mà ở trong vòng cương tỏa của người[5]. Tại căn cứ địa lãnh đạo phong trào Cần Vương, vua Hàm Nghi được Tôn Thất Thuyết cử con là Tôn Thất Đạm và Tôn Thất Thiệp hộ giá bảo vệ, cùng đề đốc Lê Trực, Nguyễn Phạm Tuân chia nhau phòng thủ và tấn công lực lượng Pháp trong vùng.
Tháng 9 năm 1888, suất đội Nguyễn Đình Tình ra đầu thú với Pháp tại đồn Đồng Cá. Nguyễn Đình Tình lại dụ được Trương Quang Ngọc về đầu thú. Sau đó Nguyễn Đình Tình và Trương Quang Ngọc tình nguyện với Pháp đem quân đi vây bắt vua Hàm Nghi. Đêm khuya 26 tháng 9 1888[7], vua Hàm Nghi bị bắt khi đang ngủ, Tôn Thất Thiệp bị đâm chết. Nhà vua đã chỉ thẳng vào mặt Trương Quang Ngọc mà nói rằng: "Mi giết ta đi còn hơn là mi mang ta ra nộp cho Tây". Vua Hàm Nghi khi đó 17 tuổi, chống Pháp được ba năm.
Từ cái đêm đó ở bờ khe Tá Bào, huyện Tuyên Hoá (nay là huyện Minh Hoá) tỉnh Quảng Bình, Trương Quang Ngọc mang vua Hàm Nghi về các đồn Thanh Lạng, Đồng Ca rồi sang Quảng Khê và đến đồn Thuận Bài vào chiều ngày 14 tháng 11 năm 1888. Quân Pháp tổ chức chào đón vua rất long trọng nhưng vua đã tỏ ra không hiểu, không nhận mình là vua Hàm Nghi. Viên trung uý chỉ huy quân đội Bonnefoy đã chuyển bức thư của Tôn Thất Đàm gửi cho vua Hàm Nghi xem nhưng nhà vua ném lá thư xuống bàn và làm như không có can hệ gì đến mình. Viên đề đốc Thanh Thuỷ là Nguyễn Hữu Viết được Pháp cử tới để thăm hỏi và nhận mặt thì nhà vua giả như không hay biết. Nhưng khi thầy học cũ là Nguyễn Nhuận đến xem thì nhà vua vô tình đứng dậy vái chào. Đến lúc đó thì người Pháp mới yên trí đó là vua Hàm Nghi. Từ Thuận Bài, người Pháp chuyển vua Hàm Nghi qua Bố Trạch rồi vào Đồng Hới và tới cửa Thuận An ngày 22 tháng 11 năm 1888.
Lúc này, triều đình Huế đã biết tin Hàm Nghi bị bắt, vua Đồng Khánh sai quan lại Thừa Thiên và bộ binh ra đón để đưa về Huế. Nhưng người Pháp sợ dân tình sẽ bị kích động khi thấy mặt ông vua kháng chiến nên Pháp đã báo cho Viện Cơ mật rằng vua Hàm Nghi lúc này tính tình khác thường, về kinh e có điều bất tiện, cần phải đưa đi tĩnh dưỡng nơi khác một thời gian. Kỳ thực người Pháp đã có quyết định dứt khoát với ông vua kháng chiến này là đày sang xứ Algérie ở Bắc Phi. Rheinart đã báo cho vua biết là Thái hậu đang ốm nặng, nếu nhà vua muốn thăm hỏi thì sẽ cho rước về gặp mặt. Nghe vậy, vua Hàm Nghi đáp :"Tôi thân đã tù, nước đã mất, còn dám nghĩ gì đến cha mẹ, anh em nữa", rồi vua cáo từ về phòng riêng.
Lưu vong
Đám cưới cựu hoàng Hàm Nghi
Vào 4 giờ sáng ngày 25 tháng 11 năm 1888, vua Hàm Nghi bị đưa xuống tàu đi vào Lăng Cô. Trước phút rời xa quê hương, nhà vua nhìn lên bờ, không nén được cảm xúc vì nỗi niềm riêng và vận nước nên đã oà khóc.[8]. Từ Sài Gòn, ngày 13 tháng 12 năm 1888, vua Hàm Nghi bị đưa xuống chiếc tàu mang tên "Biên Hoà" vượt đại dương đi Bắc Phi. Do không quen đi trên biển, nhà vua bị say sóng liên miên nhưng vẫn không hề thốt ra một lời kêu ca, oán thán. Chiều chủ nhật, 13 tháng 1 năm 1889[9], cựu hoàng Hàm Nghi đến thủ đô Alger của Algérie. Lúc này nhà vua vừa bước qua tuổi 18. Mười ngày đầu, cựu hoàng Hàm Nghi tạm trú tại L'hôtel de la Régence (Toà nhiếp chính). Sau đó, ông được chuyển về ở Villa des Pins (Biết thự Rừng thông) thuộc làng El Biar, cách Alger 5 cây số.
Ngày 24 tháng 1, Toàn quyền Tirman của Algérie tiếp kiến và mời Hàm Nghi ăn cơm gia đình. Ít ngày sau, qua Toàn quyền Tirman, cựu hoàng nhận được tin thân mẫu là Bà Phan Thị Nhàn (vợ thứ của Kiên Thái Vương, hoàng tử thứ 26 của vua Thiệu Trị) đã từ trần vào ngày 21 tháng 1 năm 1889 tại Huế.
Trong mười tháng tiếp đó, cựu hoàng Hàm Nghi nhất định không chịu học tiếng Pháp vì ông cho đó là thứ tiếng của dân tộc xâm lược nước mình và vẫn dùng khăn lượt, áo dài theo nếp cũ ở quê hương. Mọi việc giao thiệp đều qua thông ngôn Trần Bình Thanh. Nhưng về sau, thấy người Pháp ở Algérie thân thiện, khác với người Pháp ở Việt Nam, nên từ tháng 11 năm 1889 ông bắt đầu học tiếng Pháp. Vài năm sau, vua Hàm Nghi có thể nói và viết tiếng Pháp rất tốt.
Cựu hoàng Hàm Nghi cũng giao du cùng những trí thức Pháp nổi tiếng. Năm 1899 ông có sang thăm Paris và đến xem một triển lãm của danh họa Paul Gauguin, về sau khi vẽ tranh Hàm Nghi cũng chịu ảnh hưởng bởi phong cách của Gauguin.
Năm 1904, cựu hoàng Hàm Nghi đính hôn với cô Marcelle Laloe (sinh năm 1884), con gái của ông Laloe chánh án toà Thượng phẩm Alger. Đám cưới của họ trở thành một sự kiện văn hóa của thủ đô Alger. Hàm Nghi cùng bà Marcelle Laloe có ba người con:
1. Công chúa Như Mai sinh năm 1905
2. Công chúa Như Lý sinh năm 1908
3. Hoàng tử Minh Đức sinh năm 1910
Ngày 4 tháng 1 năm 1943, vua Hàm Nghi qua đời vì bệnh ung thư dạ dày tại biệt thự Gia Long, thủ đô Alger. Ông được chôn cất ở Sarlat (Sarlat-la-Canéda), vùng Aquitaine, nước Pháp. Trên mộ của vua Hàm Nghi và một số tài liệu ghi ông mất năm 1944. Ông ra đi mang theo nỗi hờn vong quốc không bao giờ nguôi ngoai trong tâm trí. [10]
Năm 2008, hài cốt vua Hàm Nghi sẽ được đưa về mai táng tại Huế[11].
Chú thích
Nguyễn Quang Trung Tiến. Vị vua trưởng thành từ niên thiếu. Tạp chí thông tin Khoa học và Công nghệ, số 1(7), 1995.
Marcel Gaultier. Le Roi Proscrit. Hà Nội, Impr. d'Extrême-Orient, 1940, tr. 40 - 41.
Phạm Văn Sơn. VN cách mạng cận sử. Sài Gòn. Khai Trí phát hành, 1963, tr. 38.
Nguyễn Quang Trung Tiến. Vị vua trưởng thành từ niên thiếu. Tạp chí thông tin Khoa học và Công nghệ, số 1(7), 1995.
Phan Trần Chúc. Vua Hàm Nghi. Hà Nội, Chinh Ký, 1952, tr. 142.
Ch. Gosselin. L' Empire de l' Annam. Paris, Perrin et Cie, p. 239, 237.
Phạm Văn Sơn. Việt Nam cách mang cận sử và Phan Trần Chúc. Vua Hàm Nghi.
Nguyễn Quang Trung Tiến. Vị vua trưởng thành từ niên thiếu. Tạp chí thông tin Khoa học và Công nghệ, số 1(7), 199



Vua Hàm Nghi ở đâu trong cuộc xuất bôn kháng Pháp?

Năm 1956, dân bản Khe Ve (Minh Hoá, Quảng Bình) đã nhặt được hàng gùi vàng lá, vàng thỏi, tượng Phật bằng vàng ở suối Ve, cho rằng đó là vàng của vua Hàm Nghi thời Cần Vương chôn giấu, nên nộp cho nhà nước.
Thế là chuyện kho báu Hàm Nghi trở nên hấp dẫn. Từ 1982 đến nay, anh Nguyễn Hồng Công, một sĩ quan cựu chiến binh đã bỏ vợ con ở Sài Gòn ra vùng rừng xã Hoá Sơn, Minh Hoá đào tìm “kho vàng Hàm Nghi”, nhưng chưa được tí vàng nào. Bất ngờ, tháng 10.2004, những người tìm phế liệu đã rà được “kho tiền” ở đồng Nghè, xã Thạch Hoá. Có tới hơn hai chục chiếc chum, vại đựng tiền cổ chôn dưới đất. 2 tấn tiền cổ đã bị bán... Kho tiền cổ này có phải là một phần “kho báu Hàm Nghi”? Vậy vua đã ở những đâu trong cuộc bôn tẩu truyền hịch Cần Vương kháng Pháp 120 năm trước?
Sau thất bại trong cuộc tấn công quân Pháp tại Trấn Bình Đài, đêm 5.7.1885, vua Hàm Nghi và hoàng gia được Thượng thư Tôn Thất Thuyết hộ tống rời kinh thành. Đoàn vua quan, voi, ngựa, tuỳ tùng đông đảo hành quân chậm chạp trước sự chặn đuổi ráo riết của quân Pháp, cuối tháng 7.1885 mới đến Mai Lĩnh (Quảng Trị). Tại đây, bị địch chặn, Tham biện sơn phòng Tôn Thất Lệ (em ruột Tôn Thất Thuyết) đã hy sinh để bảo vệ nhà vua. Sau đó, vua Hàm Nghi đến căn cứ Tân Sở (Cùa, Cam Lộ), vua ra chiếu Cần Vương, rồi đoàn hộ tống vua đi theo đường núi sang Lào. Bà Từ Dũ, mẹ vua Tự Đức và các bà vợ vua Tự Đức không theo được phải ở lại Tân Sở, sau đó về ở lăng Tự Đức. Theo tạp chí Những người bạn của cố đô Huế (B.A.V.H), đoàn hộ tống vua đi dọc theo biên giới Lào tới Sepon, Mường Van. Ở đây có ông Châu người Lào cử 5 người tay chân hộ tống vua qua xứ Mường. Sau đó, đoàn dựng trại ở tổng Ban Tống (Lào), phía bắc suối Nậm Hon. Tháng 10.1885, vua Hàm Nghi về nước theo đường Quy Hợp (Hương Khê, Hà Tĩnh). Nguyễn Chánh, “trưởng đồn miền núi” đã cho viên đội của mình là Cao Đạt dẫn đoàn nhà vua về “đồn” ở làng Phú Gia, Hương Khê. Ở đây, vua được tăng cường 500 lính. Đoàn của vua đã ở đồn miền núi này một tháng. Lúc này nổ ra khởi nghĩa Phan Đình Phùng ở Đức Thọ. Quân Pháp tấn công quân khởi nghĩa, tiến về chỗ trú của vua. Một trận đánh lớn đã diễn ra. Sau một ngày đêm quân Pháp không chiếm được đồn. Nhận thấy không thể chống cự lâu dài được, cuối năm 1885, vua đã rời đồn chạy về phía Quy Đạt (Quảng Bình), bắt đầu thời kỳ gian khổ ở núi rừng miền Tây...
Theo B.A.V.H thì đoàn nhà vua từ Hương Khê đi đến làng Trành (làng Kiên Trinh) thuộc tổng Thanh Lạng. Cai tổng và các chức sắc bô lão các làng lân cận đều đến yết kiến vua. Lúc đó vua còn rất trẻ, vẻ mặt hiền dịu và trang nghiêm, mặc chiếc áo vàng, ngồi trên một chiếc kiệu chạm trổ hình rồng. Bốn người khiêng vua. Có bốn sĩ quan tuỳ tùng luôn luôn bên cạnh. Tiếp theo là 2 tướng Tôn Thất Thuyết và Trần Soạn (Đề Soạn) và 100 lính trang bị gươm súng. Đoàn hộ tống khiêng 50 thùng lớn (có thể những vật quý), 3 voi, 5 ngựa. Một người địa phương tên là Trương Quang Ngọc, chức quan tứ phẩm đã dẫn 8 dân quân theo vua, được nhà vua rất tin tưởng. Nhà vua ở nhà ông Đinh Hiền. Sau 3 ngày, vua đi về phía Đồng Nguyên (Cổ Liêm) cách Quy Đạt 10km theo hướng đông nam, nhưng nhận thấy địa điểm này khó phòng ngự nên đoàn quay ngược lên xóm Lìm (làng Ba Nương) ở Khe Rục (chi lưu sông Nan) gọi là vùng Khe Ve, cách Quy Đạt khoảng 5km ở tây bắc, đóng tại nhà ông Đinh Xớn.
8 ngày sau, nghe tin quân Pháp từ Bãi Đức (Hà Tĩnh) đã đến làng Trành, đoàn quân của vua di chuyển đến Ma Rai (tổng Kim Linh). Ngày hôm sau, quân Pháp đến Ba Nương, liền bị quân của Hiệp quản Trương Quang Ngọc tấn công, giết chết một đại uý Pháp, buộc địch quay về Bãi Đức... Sau chiến thắng, vua Hàm Nghi được hộ tống đến xóm Khe Ve (làng Thanh Thuyền, tổng Thanh Lạng) và quyết định cư trú tại Cửa Khe. Đoàn quân dựng luỹ nhỏ bằng đất nện cao 2 thước.Các làng trong vùng rất nhiệt tình cung cấp binh lương.
Tháng giêng năm 1886, một trận đánh giữa đội bảo vệ vua và quân Pháp diễn ra ở Cửa Khe một ngày liền, làm một trung uý cùng 3 lính Pháp bị chết tại trận, 8 tên khác bị thương. Sau thất bại, quân Pháp phải rút về Vinh. Ít lâu sau, quân Pháp chia làm 2 toán, tổ chức bí mật bao vây vua ở Cửa Khe. Đoàn hộ tống vua bị bất ngờ bèn bỏ tất cả gươm súng, rương, hòm... để thoát thân. Trương Quang Ngọc đưa vua Hàm Nghi chạy vào rừng. Các tướng Tôn Thất Thuyết và Trần Soạn chạy theo đường Quy Đạt, sau đó sang Trung Quốc cầu viện nhưng thất bại và mất ở Trung Quốc năm 1913. Khi quân Pháp rút đi để tăng viện cho Bắc kỳ, khoảng tháng 2.1886, vua Hàm Nghi lại bí mật về ở Quy Đạt. Nhân dân vùng Tuyên Hoá, Ba Đồn cung cấp lương thực, thực phẩm cho vua. Quân pháp lùng sục 10 ngày không tìm thấy!
Tháng 4.1886, Thượng thư Nguyễn Phạm Tuân đã đến xóm Thác Đài (làng Cổ Liêm), thượng nguồn sông Nan với khoảng 30 lính. Ông cùng với Tôn Thất Đàm (con trai Tôn Thất Thuyết) dựng trại quân, như là văn phòng của Cần Vương có nhiệm vụ nhận giấy tờ, thư tín từ các thủ lĩnh Cần Vương trong nước, chuyển cho nhà vua xem.
Vào tháng giêng năm Đinh Hợi (1887), quân Pháp trở lại Quy Đạt với chiến thuật “phủ dụ, thu phục”, để bắt vua Hàm Nghi. Ngày 16.3, tá sự Nguyễn Phạm Tuân và đồng sự bị thương và bị bắt ở Thác Đài và bị đưa về Minh Cầm xử tử. Sau chiến dịch “phủ dụ dân” của Pháp, lúc này ở bên cạnh nhà vua chỉ có Trương Quang Ngọc và con trai út của Tôn Thất Thuyết là Tôn Thất Thiệp. Bọn Pháp tìm cách mua chuộc Ngọc, gửi cho Ngọc thuốc phiện, các thứ bàn đèn và hứa với Ngọc những chức tước khi anh ta giao nộp vua. Thế là Ngọc “ăn bã”, đã ám sát Tôn Thất Thiệp và giao nhà vua trẻ cho người Pháp vào ngày 14.11.1888 tại Thanh Lạng (Minh Hoá). 7 năm sau, Ngọc bị nghĩa quân Phan Đình Phùng chặt đầu ngay chỗ mà vua Hàm Nghi bị bắt!
Thế là sau 3 năm 4 tháng (5.7.1885 - 14.11.1888), cuộc xuất bôn chống Pháp của vua Hàm Nghi thất bại. Ngày 26.11.1888, nhà vua bị đưa xuống tàu đày biệt xứ tại Alger và mất ở Alger năm 1913. Nhưng chiếu Cần Vương và ý chí của vua Hàm Nghi đã khơi dậy tinh thần chống Pháp trong cả nước, mãi mãi là điểm son trong lịch sử dân tộc.





Tìm thấy nguyên bản chiếu Cần Vương
TTCT - Một nguyên bản chiếu Cần Vương vừa được tìm thấy tại bảo tàng gia đình ông Thierry d'Argenlieu tại Pháp.
Ông Thierry d'Argenlieu là viên cao ủy Pháp đến Đông Dương theo chân lực lượng quân sự quốc tế (Trung Quốc và Anh), đến giải giới quân đội Nhật đã đầu hàng sau Thế chiến 2, giai đoạn năm 1945 (chính viên cao ủy này chủ trương quân đội Pháp sẽ tái chiếm ViệtNam).
Bức chiếu có bề ngang 70cm, cao 57cm; các con dấu trên đó gồm có: dấu triện Hoàng đế hình chữ nhật gần vuông, ngang 115mm, cao 110mm. Có chín đôi triện nhỏ 18x18mm đóng dấu từng phần nội dung và chín triện tròn đường kính 43mm.
Phần nội dung, nguyên bản tiếng Hán:
Hoàng du đại cáo Nam trung quan viên lê thứ tuân tri.
Giá đại cáo mật chiếu tối chính hiệp kính tuyên cáo.
Hàm Nghi ngũ niên lục nguyệt sơ lục nhật.
Trẫm toản thừa đại thống, thiệu thuật hồng cơ, quốc vận truân mông, kỳ tặc tử kình thôn, thế thậm tiệm bất khả thâu an. Tư yên mật triệu chư thần nhập Cơ Mật viện sáp huyết cáo thệ: kỳ tiên công phá kim thành, thứ tắc trường khu Gia Định. Bất ý Văn Tường hoài nhị nhi Cam Lộ giá thiên. Ư thử quân thần tái tương cáo thệ dĩ đồ khôi phục, kế quyết tha bang du viện. Trẫm hề tích vi khu, cố bất tỵ sơn hải chi lao, mạo tử thân lâm Đại Đức quốc cầu viện sự, mông y quốc chuẩn doãn.
Kính hồi Quảng Đông, tiếp kiến quan viên hội giả biện bạch, trẫm tâm hội ủy mông ân, nhưng mệnh tối chính hiệp kính phụng chỉ mật cáo: phàm tại nhĩ mục, cọng tất kiến văn, tắc thủy tổ chi đồng cừu, bất cọng đái thiên, phương nghị hiền nhân quân tử mẫn thời chí khí, trẫm kim diệt Quắc giả Ngu, kế định thanh di, tảo bằng vu ngoại quốc, đệ tụ đắc đa nhân, vô tài hà dưỡng. Trẫm độc ưu chi. Như Nam trung thần thứ nghĩa nghi xuất tư trợ quốc, tương danh số liệt vu kim tịch, tha nhật công thành, chiếu số bội hoàn, nhi thường kim phong hộ, bất lận nguyên ân. Miễn tai tướng sĩ, thể thử trẫm tâm. Khâm tai!
Đại phương ấn: Hàm Nghi bảo ấn
Viên ấn: Phúc Minh chi ấn
Tiểu ấn: “Hoàng Đế”.
Tạm dịch:
Bài đại cáo về mưu lược của hoàng đế, quan viên và nhân dân trung nghĩa ở miền Nam tuân hay.
Bản mật chiếu đại cáo này phải tuân thủ nghiêm ngặt.
Hàm Nghi năm thứ năm, ngày mồng sáu tháng sáu.
Trẫm vâng noi đại thống, nối tiếp cơ đồ lớn lao, nhưng vận nước gian truân, bọn giặc thôn tính, thế thậm lan dần, không thể tạm yên. Vì thế đã mật triệu các bề tôi vào viện Cơ Mật uống máu ăn thề, hẹn trước hết đánh phá tại kinh thành, sau đó đuổi dài vào Gia Định. Chẳng ngờ Văn Tường hai lòng, nên xa giá phải dời đi Cam Lộ.
Bởi thế, vua tôi lại phải ăn thề lần nữa để lo khôi phục, mưu định đi nước khác cầu viện. Trẫm nào tiếc thân hèn, nên chẳng ngại lao nhọc vượt núi non biển cả, xông pha chỗ chết, đích thân sang nước Đại Đức cầu sự giúp đỡ. Đã được nước ấy chuẩn thuận.
Khi về thẳng Quảng Đông đã tiếp kiến các quan viên hội họp biện bạch, lòng trẫm an ủi gấp bội, đã ban mệnh vâng theo một cách nghiêm ngặt mật cáo rằng: phàm có tai mắt ắt cùng nghe thấy, thì cùng mối thù của đất nước chẳng đội chung trời nên bàn rằng: bậc hiền nhân quân tử có chí khí đau xót cho thời thế, nay trẫm mượn nước Ngu để đánh nước Quắc, mưu định dẹp loài mọi rợ, phải sớm dựa vào nước ngoài, đã tụ họp được nhiều người, nhưng không tiền của sao nuôi dưỡng (lực lượng) được. Trẫm riêng lo vậy. Nếu như các bề tôi trung, người dân có nghĩa ở miền Nam hẵng xuất của cải giúp nước, thì sẽ đem họ tên, số tiền ghi vào sổ vàng, đợi ngày sau sự nghiệp hoàn thành, chiếu theo số mà hoàn trả gấp bội và đền bù vàng, phong hộ (phong thực ấp) chẳng dè sẻn gì đối với ơn xưa. Hãy cố gắng thay tướng sĩ! Hãy thấu cho lòng trẫm. Kính thay.
Đóng ấn: (Đại phương ấn): Hàm Nghi bảo ấn
(Viên ấn): Phúc Minh chi ấn
(Tiểu ấn): Hoàng đế
(Bản dịch của nhà nghiên cứu Trần Đại Vinh, giảng viên Trường ĐH Sư phạm - ĐH Huế).
Được biết từ trước đến nay gần như chưa ai xác định được bản gốc chiếu Cần Vương, và việc tiếp cận với bản chữ Hán lại càng hiếm. Các bản dịch sang tiếng Việt chiếu Cần Vương hiện phần lớn xuất xứ từ các tài liệu tiếng Pháp, trong đó quan trọng từ các tác phẩm của đại úy người Pháp là Gosselin, được dẫn đi dẫn lại nhiều lần, gần như trong tình trạng “tam sao thất bản”. Cũng đã có một số người công bố “bản gốc” chiếu Cần Vương, nhưng phần lớn thì xuất xứ cũng như bản thân bức chiếu có độ tin cậy không cao.
Với bản chiếu vừa tìm được, giáo sư Léon Vandermeersch (Pháp) sau khi khảo sát tường tận, xác nhận một cách quả quyết rằng đây là bức chiếu thật.