NGUYÊN LÝ CỦA 60 HOA GIÁP
Mọi sinh vật sống trong vũ trụ đã được nhận định theo luật âm dương. Cây cỏ cũng có hoa đực hoa cái, côn trùng con kiến cũng có con cái con đực, cho đến vật dụng hàng ngày hầu như cũng dị biệt giữa đực và cái . Luật âm dương chi phối vũ trụ mọi sự sinh hoạt . Không gian đã có thiên là phải có địa . Thời gian càng chịu ảnh hưởng nhiều hơn .
Đã có mùa đông giá lạnh, phải có mùa hạ nóng hầm, mùa xuân ấm tươi, phải có mùa thu dịu tàn.
Âm dương là tinh thần, phần vật chất là ngũ hành, Thiên can là dương, Địa chi là âm. Thiên can có ngũ hành của Can, Địa chi có ngũ hành của Chi. Ngũ hành của Can có cái dương và cái âm. Địa chi cũng vậy . Âm dương ngũ hành của Can có 10 chữ rất rành mạch. Nhưng địa chi sao lại 12, thấy trội dư 2 cái Thổ (1 dương và 1 âm) .
Thấy rằng thời gian của 4 thời tiết từ cái xanh tươi ( xuân) đến nắng gắt (hạ) lần theo mát dịu (thu) kế tiếp lạnh lẽo (đông) rồi lại nối đến xanh tươi (xuan)... thời gian cứ quanh quẩn như thế phải mất trên 365 khoảng mặt trời đồng thời gian đêm tối.
Căn cứ theo đó đăt tên là 1 năm có 365 ngày trung bình. Khoảng thời gian này cứ cách 2 lần lại phải điều chỉnh thêm chút ít cho đúng như thời tiết luân lưu . Đó là năm nhuận dầu rằng âm lịch hay dương lịch cũng vậy (1). Một đằng tính 29 hay 30 ngày làm một tháng (âm lịch ) một đằng lấy 30 hay 31 ngày là một tháng (trừ tháng 2 có 28 ngày) thì đến năm nhuận , một đằng lấy thêm một tháng , một đằng lấy thêm một ngày cho vào tháng 2 là 29 ngày.
Khoảng 365 ngày căn cứ theo 4 mùa, nếu cũng lấy 10 địa chi như bên can thì chia nó lệch lạc, phải lấy thêm 2 cái thổ để ấn định thêm 2 tháng, mỗi tháng khoảng chừng 30 ngày , tức mỗi mùa 3 tháng tròn , cứ như thế luân lưu lấy 4 mùa làm một khoảng thời gian chủ đích làm 1 năm.
Đáng lý 10 hoa giáp vào với 12 chi sẽ thành 120 , nhưng xếp dương vào với dương, âm đứng với âm ( can và chi) nên chỉ còn con số 60 gọi là 60 hoa giáp.
Nhìn vào 60 hoa giáp từ Giáp Tí đến Quí Hợi, 2 chữ Can Chi đứng chung với nhau không khác gì một tiểu gia đình. Can đứng trên làm gốc (chồng) , chi tiếp theo là phụ (vợ) . Biét rằng mỗi Can hay Chi đều có một tính chất riêng biệt là ngũ hành. Gia đình nào phu thê đầm ấm , sự nghiệp dầu lớn hay nhỏ hẳn là bước đường đời phải cứ sự tươi đẹp tương đối hơn ai, trái ngược vợ chồng xung khắc. ngày tháng trôi nổi trống đánh xuôi , kèn thổi ngược, tưởng sự bất hạnh phải lâu nhiều hơn người.
Năm tuổi căn cứ vào Can và Chi, từ Giáp đến Quí ( Can) vào với Tí đến Hợi (Chi) hẳn có sự luân phiên thay đổi, nhưng thay đổi tốt hay xấu phải phân tích cho ra nguyên lý và cũng là nguyên “ý “ của Phục Hy âm thầm chỉ dẫn kín đáo.
Theo luật ngũ hành cái gì tương sinh là tốt, tương khắc là xấu. Vậy có thể hoạch phát một nguyên tắc như:
a/ Tốt nhất: Can sinh Chi (ví dụ tuổi Giáp Ngọ. Can Giáp ( Mộc) sinh Chi Ngọ (Hoả).
b/ Tốt thứ nhì: Can và Chi đồng hành ( Ví dụ tuổi Giáp Dần. cả 2 đều là Mộc).
c/ Tốt thứ ba: Chi sinh Can (ví dụ tuổi Giáp Tí . Chi Tí (Thuỷ) sinh Can Giáp (Mộc).
d/ Xấu tương đối: Can khắc Chi ( ví dụ tuổi Giáp Thìn. Can Giáp Mộc khắc Chi Thìn (Thổ) .
đ/ Nghịch cảnh: Chi khắc Can (ví dụ tuổi Giáp Thân: Chi Thân (Kim) khắc Can Giáp (Mộc)
Năm trường hợp này chỉ là một tấm thu hình rất nhỏ của kiếp nhân sinh . Sự hên xui đã ấn định như thế đó, còn tuỳ định mệnh phác hoạ hạnh phúc (vòng lộc tốn) tuỳ vị trí an Mệnh Thân (vòng Thái Tuế bổ khuyết tư thế) , nhất là Thân ( chính đương số với vòng tràng sinh) đã khuôn xử làm được những gì để mua chuộc.
Như tuổi Ất Mùi , Mệnh ở Mùi (Thái Tuế) , Thân ở di (Tuế Phá) biết chữ ất (Mộc) khắc chữ Mùi (Thổ) là đời tất nhiên gặp nhiều bước khó khăn. Nhưng Hợi Mão Mùi là 3 tuổi được hưởng hạnh phúc (Lộc tồn của tuổi Ất) Thân ở Di (nghịch cảnh) là cung Sửu cô lập được chữ THỌ cho phụ mẫu , thì định mệnh mới ngăn cản được phần nào, nhiều hay ít là do chữ Tài được mệnh điều động đến ách cung .
Tóm lại vận hạn của từng cá nhân, nguyên lý là do thời tiết. Đã có cái nóng phải có cái lạnh, đã có xanh tươi phải có vàng héo từng năm xuống đến tháng ngày giờ sinh thì đắc cách , khắc thì tai ương, phần chánh yếu là ở cái gốc (hàng can).Gốc được tưới bón hợp thời, cây được xanh tốt, gốc mà bị chặt cắt, dầu cây đương có nhiều hoa nụ tươi thắm, cũng phải úa vàng héo gục.
Ý NGHĨA MỖI NĂM TRONG 60 HOA GIÁP
60 hoa giáp là 60 năm của 6 con giáp ( Giáp Tí , Tuất, Thân, Ngọ, Thìn, Dần) nối tiếp nhau diễn chuyển bắt đầu từ Giáp Tí đến Quí Hợi. Mỗi năm mang một tên có 2 chữ . Chữ trên thuộc hàng Can, chữ dưới thuộc hàng Chi. Hai chữ hợp lại gọi là nạp âm có một hành chung khác hẳn, mặc dầu Can và Chi mỗi chữ có một hành riêng biệt.
Can có 10 chữ phân chia rành rẽ âm dương và đầy đủ ngũ hành đều nhau:
Sơ khai Mộc: Giáp (dương) Ất ( âm)
Hoả : Bính - Đinh - Mộc sinh Hoả
Thổ : Mậu - Kỷ - Hoả sinh thổ
Kim : Canh - Tân - Thổ sinh Kim
Thuỷ : Nhâm - Quí - Kim sinh Thuỷ
Trái lại hàng Chi có 12 chữ cũng đầy đủ âm dương ngũ hành:
Thuỷ : Tí ( dương) Hợi ( âm)
Mộc : Dần - Mão -
Hoả : Ngọ - Tỵ -
Kim : Thân - Dậu -
Thổ : Thìn Tuất- Sửu Mùi-
Cái lý dư 2 hành thổ có ý tứ trong vũ trụ bất cứ hành gì dầu là Kim hay Mộc, Thuỷ hay Hoả đều là ở trong đất mà ra. Bốn hành này luôn luôn sinh khắc để trường tồn, bởi thế mới có liên minh tam hợp cục là thế đứng của tứ chính ( Tí Ngọ Mão Dậu) để bồi đắp cho nhau củng cố ưu thế.
Vậy 12 Chi có 4 Chính 4 Sinh 4 Mộ lập thành 4 tam hợp cục là 4 khối có tôn chỉ riêng:
SINH CHÍNH MỘ HÀNH

Thân Tí Thìn Thuỷ
Dần Ngọ Tuất Hoả
Tỵ Dậu Sửu Kim
Hợi Mão Mùi Mộc
Một vòng của 10 can tuần tự ghép vào 12 Chi, mỗi năm thay đổi đáng lý là 10 x12 = 120 , nhưng vì luật âm dương nên chỉ có phân nửa nghĩa là dương Can chỉ đứng với dương Chi, âm Can phải ghép với âm Chi mới đúng cách.
Đã viết cái nguyên do của 10 Can và 12 Chi, mỗi năm mang một cái tên có 2 chữ kể từ Giáp Tí đến Ất Sửu lần hồi cuối cùng là Quí Hợi. Mỗi tên có một tôn chỉ riêng là hành chung , nhưng cái hành riêng của mỗi chữ Can hay Chi vẫn phải nhìn nhận là quan trọng.
Hai chữ Can và Chi đứng với nhau không khác gì tình cảnh của một gia đình có hoà hợp mới nên sự nghiệp, còn xung khắc nhau làm sao có hưng vượng.
Như 2 tuổi Canh Thân và Canh Dần cùng là Mộc mệnh, thật ra cảnh đề huề của mỗi tuổi một khác . Canh là Kim, Thân là Kim, cũng như cây có gốc (Can) ngọn ( Chi) đều nhau hẳn là có 1 căn bản vững chắc, dẫu không hơn người cũng không hề kém ai. Còn Canh Dần thì Can Canh ( Kim) khắc Chi Dần (Mộc) . Cây mà gốc không tải bồi cho ngọn làm sao mà sinh nở tốt đẹp cho nổi, khác gì gia đình trống đánh xuôi kèn thổi ngược .
Hai tuổi Giáp Tí và Giáp Ngọ thấy cả 2 tuổi cùng tương sinh gốc ngọn, nhưng Giáp Ngọ khác biệt bỏ xa Giáp Tí rất nhiều . Giáp Ngọ có Can Giáp ( Mộc) sinh cho Chi Ngọ (Hoả) nghĩa là gốc nuôi ngọn là thuận cảnh. Trái lại Giáp Tí thì Can Giáp (Mộc ) được Chi Tí (Thuỷ) sinh lại tức là ngọn nuôi gốc tuy cũng là cảnh tượng sinh nhưng ngược chiều cho biết ngay Giáp Tí không có khả năng vững chắc mà sự đề huề chỉ là may mà có. Huống chi Giáp Ngọ còn tiềm tàng căn bản phồn thịnh là tam hợp Lộc Tồn của tuổi Giáp (Lộc tồn ở Dần) Thiên Lộc dành riêng cho người Dần Ngọ Tuất. Còn Giáp Tí đứng ngõ ngoài, muốn hưởng Lộc Tồn phải là Canh Tí (Canh Kim sinh Tí Thuỷ và Thân Tí Thìn là tam hợp hưởng Lộc Tồn tuổi Canh ở Thân).
Hai tuổi Giáp Thìn và Giáp Tuất là 2 tuổi đều hàng Can Giáp (Mộc) khắc Chi Thân Tuất (Thổ) . Hai tuổi này cũng cách biệt nhau cả một dặm đường: Giáp Tuất tuy Can khắc Chi, cuộc đời thấy nhiều trở lực, nhưng còn được dự phần tham dự chia sẻ Thiên Lộc tuổi Giáp. Giáp Thìn kể như là khách đi đường không liên quan gì đến, lại còn bị cảnh nghèo túng là Lộc Tồn thường trực có Tuần đóng kín, chỉ còn trông cậy vào bộ sao Sát Phá Tham nếu được thủ mệnh sống theo Hoá Lộc, tay làm hàm nhai .
Trường hợp tuổi Giáp Thìn, mệnh đóng ở vị trí tam hợp Hợi Mão Mùi dầu được bộ Sát Phá Tham là nòng cốt cũng chỉ là kiếp nhân sinh được tạo hoá nặn ra để trả nợ đời, không mong gì sự nâng đỡ vì vị trí của Sát Phá Tham ở Hợi Mão Mùi, trường hợp nào cũng là đen tối, cố công xây đắp mấy cũng chỉ là hữu công vô lao (vị trí Thiếu âm Long đức Trực phù của tuổi Giáp Thìn).
Tóm lại tuổi của mỗi cá nhân có thể sắp xếp theo thứ tự tốt xấu có 5 bậc thang như sau:
1/ CAN sinh CHI: Phúc đức quá lớn tiềm tàng một căn bản hơn người
2/ CAN CHI đều nhau : có năng lực khá đầy đủ vững chắc
3/ CHI sinh CAN: đời gặp may nhiều hơn thực lực
4/ CAN khắc CHI: đời gặp nhiều trở lực
5/ CHI khắc CAN: nghịch cảnh đầy rẫy chua cay
Trương Lương Hàn Tín là 2 người bạn đồng Triều phò trợ Hán Cao Tổ Lưu Bang lên nghiệp đế . Cả 2 người cùng tuổi Giáp:
Trương Lương tuổi Giáp Ngọ sinh ngày 6 tháng 5 giờ Thìn
Hàn Tín tuổi Giáp Tuất sinh ngày 5 tháng 11 giờ Ngọ
Cả 2 người mệnh cùng đóng tại vị trí tam hợp Thái Tuế là người hành động nêu cao chính nghĩa, cùng được bộ Tử Phủ Sát Phá Tham làm nòng cốt ( đắc Khoa Quyền Lộc) cùng được hưởng Thiên Lộc là 3 tuổi Dần Ngọ Tuất. Nếu đem so tài thao lược Hàn Tín còn ở trên Trương Lương môt hạng nên được Hán Cao Tổ phải lập đàn phong tướng tự tay nâng ấn kiếm nguyên nhung trao cho Hàn Tín trước muôn thủ hạ cho có danh chánh ngôn thuận. Vậy mà cuộc đời Hàn Tín phải hứng chịu biết bao nhiêu thua thiệt kém Trương Lương .
Từ một kẻ thứ dân nương nhờ cơm Siếu Mẫu, có lần nhẫn nhục luồn trôn thất phu ở kẻ chợ , đành rằng đời vĩ nhân phải trải qua nhiều cơn bĩ cực chờ Thiên Thời mới rõ vàng thau.
Trương Lương thuộc dòng Khanh Sĩ gặp buổi vong quốc cũng phải lang thang nay đây mai đó tìm mặt gửi vàng, đến đâu cũng được trọng đãi.
Phân tách những nét chính của hai lá số , trước nhất Trương Lương hơn Hàn Tín ở cái gốc tuổi Giáp Ngọ được Can sinh Chi, Hàn Tín bị Can khắc Chi ( Giáp Tuất) . Trương Lương mệnh ở vị trí Quan Phù có ý tứ tính toán kỹ càng dẫn dắt đời sống
Hàn Tín ở vị trí Bạch Hổ mỗi khi làm việc thì bất cứ giá nào làm cho kỳ đắc ý (còn tham vọng) . Phúc đức của Trương Lương có Tham lang ở Thìn ngộ Tuần hoà hợp đủ nghĩa với vị trí Mệnh, Quan Phù có thể từ bỏ mọi tham vọng để nhàn du sơn thuỷ. Hàn Tín Phúc Thất Sát triều đẩu bị cả Tuần lẫn Triệt . Phải chăng vì thế cuộc đời đi đến chỗ bị thương .
Ba tuổi Giáp được hưởng Lộc tồn thì Giáp Ngọ đứng đầu vì Giáp sinh Ngọ, thứ đến Giáp Dần ( Giáp và Dần đồng hành) đứng sau chót mới đến Giáp Tuất vì Giáp khắc Tuất .Trương Lương tuổi Giáp Ngọ đương nhiên được hưởng nhiều hành phúc hơn Hàn Tín tuổi Giáp Tuất.
Vậy tuổi mỗi cá nhân không phải là đương nhiên Can Chi tuần tự sắp xếp không có nghĩa lý , thật ra tiềm tàng một ý tứ sâu sắc như diễn tả hình bóng cả một cuộc đời.
Can là gốc là Phúc đức, Chi là ngọn là Thân thế. Hạn hành hên xui hàng năm xuống đến hàng tháng hàng ngày do Can của năm tháng ngày chế hoá với Can của Mệnh chiếm phần ưu tiên quan trọng điều khiển
ĐÂU LÀ NGUYÊN LÝ NGŨ HÀNH NẠP ÂM CỦA 60 HOA GIÁP
Nạp âm là phối hiệp để thành một tiếng .
Ngũ hành nạp âm là Can và Chi ghép lại hoá nên một hành khác .
Nạp âm ngũ hành của 60 hoa giáp là sự thành lập ngũ hành của 10 thiên can phối hợp với 12 địa chi theo nhạc điệu Cung ( thổ) Thương (kim) Giốc (Mộc) Chuỷ (Hoa) Vũ ( Thuỷ). Nhưng vẫn thấy không cho phép tin tưởng đâu là chính lý hoàn hảo ( 1)
Hàng Can đã trình bày ngũ hành được rành mạch đều đặn bằng 5 cặp phân tách âm dương chính xác. Đến hàng Chi để cho đúng thời tiết phải thêm 2 hành Thổ làm cái mức nối tiếp cho 4 mùa Xuân Hạ Thu Đông để cho mỗi mùa tương đối xê xích 3 tháng trên dưới 90 ngày, cứ Dần Mão là Xuân, Tỵ Ngọ là Hạ, Thân Dậu là Thu, Hợi Tí là Đông.
Lấy tinh tâm mà ngắm nhìn kỹ bản địa bàn tử vi thấy cả 1 thế thái cực vững vàng cân phân đủ thời tiết đến phương hướng hoàn hảo trúng cách. Thế thái cực thành lập gồm đủ lưỡng nghi tương phân từ Mão đến Thân thuộc Thái dương và từ Dậu đến Dần thuộc Thái âm như hai đĩa cân ngang bằng sánh đôi. Về hình thức thật là bằng nhau nhưng tính cách lại khác biệt . Một đằng thuộc Thái Dương sáng lạng bao nhiêu , trái lại bên âm âm tối bấy nhiêu như trắng với đen. Một bên gồm Hoả ( Ngọ ) với Kim ( Thân) , bên kia của Thuỷ ( Tí) với Mộc (Dần) . Hai điểm Thìn Tuất là 2 thế giao điểm pháp nguồn (Thiếu âm và Thiếu âm) . Bên này có Thuỷ khắc Hoả thì bên kia có Kim khắc Mộc.
Như vậy có 3 cặp tương xứng đối diện nhau nên được đặt làm 3 mốc chính để bắt đầu xếp nạp âm định lý ngũ hành cho một hoa giáp .
Nhưng tại sao Giáp Tí được coi là Kim hành , Giáp Tuất là Hoả và Giáp Dần là Thuỷ? Biết rằng Giáp là Mộc, Tí là Thuỷ, 2 chữ đứng chụm với nhau lại là Kim, thấy như không có mạch lạc gì giữ nạp âm với Can Chi, như 2 chữ Tân Dậu cả 2 Can Chi đều có Kim mà hành chung lại là Mộc, thật là một cảnh lạc lõng khác thường
Đây là một định lý, có thể nói là rất cao siêu của lý học . Hành Hoả là tư thế sự vật bùng cháy bốc lên tượng trưng cho THIÊN . Thuỷ là sự xâm nhập lắng xuống biểu hiện cho ĐịA . Còn Kim là tư thế của sự vật quyết liệt để trường tồn là NHÂN . Ba hành này đại diện cho tam tài THIÊN ĐỊA NHÂN, có ý nghĩa là 60 hoa giáp do 3 cấp Trời Đất và người hiệp định xây dựng quyết định và chỉ có 3 hành này được bắt đầu hướng đi như:
Trong 12 chi có 6 Chi dương ghép với 5 Can dương và 6 Chi âm hợp với 5 Can âm, làm sao mỗi Chi đứng với 1 Can có một hành riêng tức là 5 Can có đủ ngũ hành như :
Giáp Tí :Kim ẤT Dậu :Thuỷ
Bính Tí :Thuỷ Đinh Dậu : Hoả
Mậu Tí : Hoả Kỷ Dậu : Thổ
Canh Tí :Thổ Tân Dậu : Mộc
Nhâm Tí :Mộc Quí Dậu : Kim
BênThái âm ( Giáp Tí, Giáp Tuất , Giáp Dần ) cũng như bên Thái dương ( Giáp Thân, Giáp Ngọ , Giáp Thìn) đều có ý nghĩa của sự sắp xếp như:
1/ Giáp Tuất và Giáp Thìn thuộc Hoả là Thiên Mệnh có ý định răn trừng tiềm tàng ở trong khối toả ra 2 đầu: Kim khắc Mộc và Thổ khắc Thuỷ.
2/ Giáp Dần và Giáp Thân thuộc Thuỷ là Địa Mẫu , có ý nuôi dưỡng dịu hiền nên Thuỷ sinh Mộc , Mộc sinh Hoả , Hoả sinh Thổ tuần tự phát huy.
3/ Giáp Tí và Giáp Ngọ thuộc Kim là ý định của nhân sinh tiềm tàng trong nội tâm lòng ham muốn sanh tồn nên ở giữa vươn ra Thổ sinh Kim và Mộc sinh Hoả .
Người tuổi Canh Tuất Mệnh Thân đồng cung Thìn thấy ngay người sống trong nội tâm bất đắc dĩ được hành nạp âm của mệnh là Kim, bồi thêm Kim cục thuận đường đi nước bước . Vũ khúc và Thiên mã là nghị lực ( Kim ) chính xác của dương nhân, mặc dầu sự ganh đua không được phần chánh nghĩa ( Thái tuế ở Di ) mà vẫn thành công dễ dàng vì vị trí Thân Tí Thìn khắc được Dần Ngọ Tuất phù hợp với 2 chữ Canh Tuất (Tuất sinh Canh - đường đời dễ gặp nhau) dầu sao cũng là hoàn cảnh không cho phép đắc ý (Tuế Phá ) với khả năng có thừa .
Âm dương ngũ hành là then chốt của lý học . Mọi sự huyền diệu không ngoài sự giao dich động hay tĩnh của ngũ hành và luật lệ âm dương, cũng là khả năng vô địch của tam tài Thiên Địa Nhân.
NHỮNG CÂU PHÚ NÊN THẬN TRỌNG ÁP DỤNG
Những câu phú là những câu văn vần do cổ nhân ghi chép lại, sau môt thời gian khá kinh nghiệm về kết quả cũng như sự phối hiệp giữa các hành tinh mà nên ảnh hưởng. Sở dĩ phải làm thành văn vần như có ý định: trước mắt là dễ nhớ, sau để người đi sau lấy đó mà tìm kiếm thêm nếu còn những khía cạnh nào chưa được hoàn hảo hay sơ sót trên phương diện nào.
Đọc những câu phú, ngày nay thấy như những câu sấm ký truyền lại của những cá nhân, nó mênh mông trên cương vị tổng quát không quyết định hẳn cho một trường hợp nào . Như câu: “Trai bất nhân Phá quân Thìn Tuất, Gái bạc tình Tham Sát Dần Thân”, có phải bất cứ mệnh nào nằm ở Thìn Tuất mà có Phá quân là trai bất nhân và Tham Lang Thất Sát ở Dần Thân là gái bạc tình ?
Số có 60 tuổi , mỗi tuổi có một hành, tuy nói là ngũ hành, nhưng khác nhau rất nhiều như 2 người cùng tuổi Kim: Giáp Tí và Giáp Ngọ , một đằng Tí sinh Giáp khác với Giáp sinh Ngọ. Căn bản của Giáp Ngọ là nó dầy chắc, trái với Giáp Tí chỉ là nông cạn. Huống chi còn 12 vị trí, mỗi vị trí đối với tuổi dương nhân nó chỉ một vị trí khá đặc biệt .
Biết rằng mỗi tam hợp có 3 vị trí dùng thế chân vạc làm gốc riêng của 4 cách: Thái Tuế, Tuế Phá, Thiếu Dương và Thiếu âm. Thái Tuế chia ra Thái Tuế chính xác . Quan Phù và Bạch Hổ Tuế Phá bao gồm Tuế Phá Tang môn và Điếu khách. Thiêu' Dương có Tử Phù và Phúc đức . Thiếu âm có chi nhánh Long đức và Trực Phù . Thiết tưởng mỗi tư cách của mỗi sao ghép vào 60 tuổi đã cho ra một hình thái khá rành rẽ khác nhau, lại được lọc thêm qua 12 vị trí thì kết quả phải là tinh vi đến thế nào.
Dưới phép luận số 60x12 thấy có 720 mầu sắc dị biệt thì Phá Quân và Tham Lang, Thất sát kia hẳn phải có những cuộc lột xác nhiều thay đổi.
Riêng đối với phái nữ Sát Phá Tham nói chung không hợp điệu của phe liễu yếu đào tơ, là người tháo vát đảm đang gan góc cũng phải tuỳ các khía cạnh mới dám quyết dịnh đâu là đoan chính, đâu là lăng loàn. Muốn hợp cách chỉ có Đồng Lương, Tử Phủ bồi đắp thêm Hoá khoa càng thêm khả ái .
Cổ nhân đã chịu mất công ghi chép lại bằng những câu phú , phải là những bậc trí tuệ có thừa, biết rằng công cuộc về tinh thần không phải một thế hệ mà được hoàn hảo. Cần phải bao thế hệ xây đắp may ra mới xây đắp được một quãng đường dài thám hiểm. Lại còn e dè những ai chẳng may lầm đường lạc lối dồn vào ngõ bí vì tam sao thất bản.
Dịch học từ đời Phục Huy ( 2900 trước dương lịch) mãi mãi đến đời Khổng Khâu (600 trước dương lich) mới gọi là san định được một phần khởi sắc. Đem so 2 khoảng thời gian từ 2900 trước dương lich đến 600 trước dương lịch có 2300 năm và từ 600 trước dương lịch đến nay 1984 sau dương lịch có 2584 năm tạm cho là ngang bằng nhau. Thời gian hiện nay nhờ khoa học tiến bộ, mỗi nghành từ vật chất đến tinh thần không thể khai thác trong u minh, đều phải phân tách cho hợp luân lý, tránh sao không còn tồn tại lời mỉa mai: đị đoan huyền bí .
Thứ lấy 4 tuổi: Giáp Dần, Đinh Tỵ, Ất Mùi và Bính Tí , cung Mệnh cùng đóng ở cung Tuất có Phá Quân toạ thủ, xem đâu là chính công Phá Quân như phú đã nêu ra, đâu là nỗi tinh thần uẩn khúc của người bị ngờ vực oan.
a) Giáp Dần là tuổi có 1 căn bản vững vàng ( Giáp và Dần đều là Mộc). Mệnh đóng ở Tuất trong tam hợp Thái Tuế, vị trí Bạch Hổ là kiếp nhân sinh đã có một trách vụ gì với xã hội, thực hiện với bất cứ giá nào , mặc dầu mệnh Thuỷ chính xác Phá quân. Người này làm việc có tính cách mạnh bạo bị lầm tưởng mà thôi . Bất nhân không thể là người Thái Tuế .
b/ Tuổi Đinh Tỵ cũng như Giáp Dần, Thiên Phủ có một căn bản vững chắc. Mệnh ở Tuất là tư thế Tử Phủ trong tam hợp Thiếu Dương. Người khôn ngoan Thổ Mệnh khác hẳn Phá Quân là Thuỷ, có những hành động khéo giỏi không thể nói là bất nghĩa.
c/ ất Mùi Kim mệnh đóng ở Tuất là vị trí Thiếu âm. Người này vì quá tin tưởng lại vụng tính nên có những hành động Phá Quân (Kim Mệnh sinh thuỷ Phá quân) . Sự lỗi lầm này kể cũng đáng thương hại .
d/ Bính Tí , đời đầy rẫy nghịch cảnh ( Tí khắc Bính) ở vị trí Điếu khách trong tam hợp Tuế Phá, luân phiên bất đắc ý , gặp Phá Quân đồng hành Thuỷ với mệnh làm gì mà không tung hoành cho thoả chí thay đổi ( Điếu khách) . Nhãn hiệu Phá quân quả là chính hiệu .
Những trường hợp trên kể cũng nên khai thác thêm hiệu lực của Hoá Khoa, có thể coi như một căn phòng bao che để hoán cải từ các vị độc dược trở thành các vị thuốc rất hiệu lực bồi bổ sức khoẻ . Bộ Sát Phá Tham nói chung , hãm địa nói riêng, gặp Hoá Khoa như phe Triệt giáo ( súc vật tu thành tiên) được đắc đạo . Hoá khoa có khả năng lột xác phàm phu hoán cải tư cách tức là trường hợp hung tinh ngộ chế. Từ Phá Quân đến Tham Lang, Thất sát trở thành những hiền nhân hiệp khách treo cao phẩm giá.
Đối với Nhật Nguyệt Đồng Lương đắc Hoá Khoa nêu danh thành tích đặc hạng của một chuyên khoa, chỉ rõ một thượng thặng siêu nghành riêng biệt .
Sát Phá Tham gặp Tuân Triệt cũng mất tính cách hung hãn nhưng không còn gì (Triệt) hay giảm hẳn tốc lực (Tuần) của bộ máy tinh vi thực hành đắc dụng.
NHỮNG SAO LỘC, NHẤT LÀ LỘC TỒN BAN PHÁT RA NÊN RẤT CHẶT CHẼ
Người đời sống trên thế cuộc, không ai là không cần đến Lộc, từ bậc trượng phu đến người dân thứ đều nhờ Lộc mà sống, tuy rằng cách sống khác nhau . Với danh xưng hiệp khách trọng nghĩa khinh tài cũng vẫn là cách sống trong khuôn khổ sử dụng Lộc. Vậy có phải Lộc là vấn đề quan hệ tối cần nên đẩu số mới phân tách thành nhiều phẩm chất như: Lộc tồn, Hoá Lộc, Thiên trù và Lưu niên văn tinh. Bốn thứ Lộc này đều do hàng can xếp đặt.
Hoá lộc được hàng can ghi rõ tư cách riêng của hạng người mới có thể thực thi được khả năng thấu lộc như tuổi Giáp phải là người miệng nói tay làm (Sát Phá Tham), tuổi Ất cho người điềm đạm suy tính kỹ lưỡng (Cơ Lương) .
Thiên trù cũng là một thứ Lộc do công tích luỹ tiền nhân đã tiêu hao lần hồi đến đời đương số chỉ còn hơn ai bằng miếng cơm manh áo chỉ định cho người thọ hưởng. Còn Lưu niên văn tinh là anh em kết nghĩa với Lộc tồn .
Ngắm nhìn vào bảng vị trí của đôi huynh đệ nhà Lộc này thấy 8 chỗ y nhau . Nhưng sự ứng dụng lại rất khác nhau, không ngoài trọng ý bù trừ sơ sót cho nhau .
Tuổi Giáp Lộc tồn ở Dần , Ất ở Mão, Bính Mậu ở Tị, Đinh Kỷ ở Ngọ, Canh ở Thân, Tân ở Dậu, Nhâm ở Hợi và Quí ở Tí là những vị trí rất chính xác hợp thành. Qua luật âm dương chỉ còn có 4 là Giáp ất Canh Tân được lọt vào hàng chung kết . Còn phải lược thêm một lần nữa nghĩa là những tuổi nào đứng ở tam hợp Lộc tồn mới hẳn lãnh phần trọn vẹn .
Lưu niên văn tinh cũng ngồi ở 8 vị trí đó, nhưng trình bày có hơi khác là Giáp ở Tỵ , Ất ở Ngọ, Bính Mậu ở Thân, Đinh Kỷ ở Dậu, Canh ở Hợi , Tân ở Tí, Nhâm ở Dần và Quí ở Mão, tức là 6 tuổi bị loại ở vòng Lộc tồn vì luật âm dương lại được phục hồi đền bù trúng cách ở bên Lưu niên văn tinh, còn 4 tuổi được dự trung kết ở bên kia đều bị loại ngay ở vòng đầu bên này .
Tư thế cách biệt giữa Lộc tồn và Lưu niên văn tinh là Lộc tồn đứng ở thế chính xác hợp thành của tuổi với vị trí . Trái lại Lưu niên văn tinh ở tư thế khó nhọc là tuổi sinh xuất cho cũng như có nghĩa là thân phận người nghĩa đệ phải chịu đựng nhọc công cho xứng với cơm ăn áo mặc thọ lãnh . Giáp ất sinh suất cho Tị Ngọ, Bính Mậu Đinh Kỷ sinh xuất cho Thân Dậu, Canh Tân sinh suất cho Hợi Tí và Nhâm Quí sinh suất cho Dần Mão.
Lộc tồn một thứ Lộc cao quí nhất trong các Lộc được bọc gói kỹ trong cái bao Bác sỹ, Lực sỹ , Thanh Long … Quan Phủ có giây cột Kình Đà, dương nhân tuỳ theo hoàn cảnh tự suy tính phận mình trước khi tháo giây mở gói , theo bản đồ 12 sao kẻ đường chỉ lối mà khai thác . Ngoài những khó khăn về luật âm dương và vị trí . Lộc tồn còn được bảo vệ đến mức tối đa bằng hai đao phủ Lưu Hà Kiếp Sát đối phó với những thành phần vô kỷ luật không phải là chính chủ nhân có đầy đủ văn kiện chứng minh hợp lệ . Hà Sát trình Thiên Sứ lấy pháp lệnh sau khi Thiên không phúc trình trường hợp vi phạm rõ rệt như : Tuổi Mậu Thìn mệnh ở Sửu, vị trí Phúc đức trong tam hợp Thiếu Dương Đào hoa là người thông minh có thừa, chứa chất đầy tham vọng . Tưởng rằng Phúc đức ở Mệnh có dư, Lộc tồn cung Quan hẳn là nắm chắc trong tay. Biết đâu Lộc phùng Không ở trong còn có Hà Sát sẵn sàng thi hành sứ mạng . Phải chăng là trường hợp cuối cùng bảo vệ Lộc tồn bằng đường lối ác liệt để ban phát đúng đắn chặt chẽ .
PHÂN TÁCH: Tuổi Giáp Dần , mệnh ở Dần tóm thâu cả 3 vòng Lộc Tôn, Thái Tuế, Tràng sinh, một đời nắm chắc hạnh phúc. Mỗi khi nhích lên một bước (Mệnh ở Mão) vẫn là người có văn kiện thọ lãnh Lộc Tồn, thành ra người lãnh ngân phiếu bảo vệ số tiền mang về phân phối cho người khác . Bước thêm bước nữa (ở Thìn) vị trí Thanh Long của bộ 3 Phi Liêm Phục Binh . Sự may mắn nằm chung với Tang môn (Thái Tuê) chỉ đeo thêm buồn lo thất vọng với danh hão hào phú . Ngồi vào ghế Tiểu hao cũng là Thiếu âm (Thái Tuế ) bề ngoài vẫn vui tươi, sự thật tiếng ca nhà Không (tiếng có mà không???) vì quá tin lầm lẫn .
Nếu là người Giáp Tí mệnh đóng ở Tí đắc cách 2 vòng Thái Tuế và Tràng sinh . Vị trí Phục binh Thanh Long Phi Liêm tam hợp người Thái Tuế xây dựng sự nghiệp trong một dịp may (Tí sinh Giáp gặp Thanh Long). Lộc tồn ban phát cho dòng họ (Phúc đức) chính bản thân không là bao. Trường hợp Sát Phá Tham thủ mệnh được Hoá Lộc bồi đắp rất nhiều cung nô được Thiên trù tha hồ chén chú chén anh, ngày đêm réo rắt những câu cẩm tú văn thơ Thái Bạch (Lưu niên văn tinh và Thiên Trù cùng ở Tị cung) .
Điển hình tuổi Nhâm Ngọ sinh ngày 19 tháng 6 giờ Dần, Mệnh Trực Phù , Thân Thiếu âm được Thái âm đắc thủ cho mệnh Mộc, nhưng không đắc cách cho dương mệnh. Thái dương, Thiên Lương thủ Thân đắc cách lại không đắc vị, tuy rằng Hồng Loan vẫn tô điểm cho bộ Nhật Nguyệt rực rỡ . Tả Hữu, Hoá khoa cho thấy một thành công chuyên ngành cao đẹp, Không Kiếp khiến đời bạc bẽo với vị trí Thiếu âm đáng tiếc. Hoá Lộc ở Quan cũng là Thân thế, đồng tiền thâu xuất như thuỷ triều (Không Kiếp) . Lộc tồn ở Di cũng bị mệnh này đạt được (Tỵ Dậu Sửu khắc Hợi Mão Mùi), tiếc rằng vị trí Phi Liêm với Phục Binh, mặc dầu Thanh Long vẫn là dịp hên đưa đến .
Hoá Lộc là diện có kinh tài thường đứng cặp với Hoá Quyền (chỉ trừ 2 tuổi Mậu và Nhâm không bao giờ có . Tuổi Canh Lộc Quyền Khoa liên châu cao quí trên môt khía cạnh, tuổi Quí cũng một liên châu mà căm hờn với Khoa Kỵ Quyền) . Mỗi khi thiên thời đắc vận như gấm thêu hoa, nhưng khi vận rã, chính Hoá Quyền lại là ống máng cho Lộc chạy mau xuống dốc .
DANH DỰ CỦA LONG PHƯỢNG TẢ HỮU XƯƠNG KHÚC
Mười bốn chính tinh dàn trên mặt địa bàn giao nhau bằng 4 khuôn mặt, phân tách kỹ lưỡng chỉ là thế cờ lưỡng nghi đối chọi ghìm nhau (nhân hoà) đường đi nước bước biến chuyển từ không gian ( địa lợi ) đến thời gian (thiên thời) .
Tử Phủ Vũ Tướng nghiêm chỉnh phương phi có lúc phải đổi thành hắc diện Sát Phá Liêm Tham oai hùng lẫm liệt . Mặt trắng thơ sinh Cơ Nguyệt Đồng Lương ôn nhu mềm dẻo nhiều khi cũng hoá trang ra Cự Nhật nói năng cứng rắn . Chiến lược luân phiên tuỳ cơ ứng phó . Cuộc đời xen kẽ từng đoạn cát hung. Chính tinh chỉ là hội chủ liên minh chiến tuyến . Sự kết thúc oan hay đúng, chánh danh hay phản nghịch phải nhờ ở những tay chân kiệt sĩ nêu cao nghĩa cả là các bộ trung tinh .
Một Lưu Bang không thể trở thành Cao tổ nhà Hán nếu như không có Trương Lương, Hàn Tín , Tiêu Hà. Một Lê Lợi khó thành Thái tổ triều đại nhà Lê trường hợp vắng bóng Nguyễn Trãi, Trần Nguyên Hãn, Phạm Văn Xảo . Long Phượng một bộ trung tinh đem lại chánh danh thuận lý lá cờ của Thái Tuế ngôi vị may nhiều hơn rủi.
Tả Hữu chính danh là khả năng đặc sắc hơn người, tốt hay xấu tuỳ liên kết hợp tác như: Long Phượng Tả Hữu là chính nhân vạn năng, nhưng Long Phượng Tả Hữu Không Kiếp lại là chính nhân hữu tài mà không đắc dụng . Tuế Phá Tả Hữu là người thất chí, tài ba hơn người khác hẳn Tuế Phá Tả Hữu Không Kiếp kẻ bất lương nhiều thủ đoạn .
Xương Khúc chủ văn chương mỹ thuật là bộ văn chương cốt cách thư sinh hiếu học, đụng nhằm Sát Phá Tham là tối kỵ không chứng nọ cũng lại tật kia, bồi thêm sát tinh kể như tuổi thọ triết giảm một khi đắc ý hãnh diện với đời . Cao đẹp khi xây dựng với Tử Phủ Vũ Tướng rạng danh văn võ toàn tài, phối hiệp với Cơ Nguyệt Đồng Lương là minh chủ tương đắc đồng tâm nhất trí .
Bốn yếu tố của số là năm tháng ngày giờ, 3 bộ Long Phượng Tả Hữu Xương Khúc đặt ảnh hưởng ngay ở 3 yếu tố quan trọng là năm tháng và giờ chỉ chừa một yếu tố ngày khiêm nhượng dành cho chính tinh.