Rùa thần, trĩ trắng và chính sách đối ngoại thời Hùng Vương
17/04/2011 0948

- Đối ngoại là những mặt hoạt động chủ yếu của nhà nước trong quan hệ với các nhà nước, các dân tộc khác. Mặc dù nhà nước thời Hùng Vương còn sơ khai nhưng cha ông ta đã chủ động thực hiện các đối sách ngoại giao linh hoạt: cứng rắn nhưng cũng rất mềm dẻo, thân thiện để bảo vệ chủ quyền quốc gia và độc lập dân tộc.


Trước các hành động quân sự hay đe dọa quốc gia, vua Hùng đã cương quyết chống lại. Truyền thuyết và nhiều bản thần tích cho biết thời Hùng Vương có nhiều loại giặc đã bị đánh bại như giặc Ân, giặc Ô Lư, giặc Hồ Tôn, giặc Mũi Đỏ, giặc Răng Vàng… dường như đã phản ánh một hiện thực nào đó. Cuốn “Đại Việt sử lược” cũng có đoạn chép cho thấy đôi nét về chính sách đối ngoại đó: “Xưa, Hoàng Đế dựng nên muôn nước, thấy Giao Chỉ xa xôi, ở ngoài cõi Bách Việt, không thể thống thuộc được, bèn phân giới hạn ở góc tây nam… Truyền được 18 đời đều xưng là Hùng Vương. Việt Câu Tiễn thường sai sứ sang dụ, Hùng Vương chống cự lại”.

Bên cạnh việc sẵn sàng đối phó khi có ngoại xâm, các vua Hùng cũng đã có sự chủ động trong chính sách đối ngoại. Hai sự kiện lớn nhất được truyền thuyết và sử sách ghi nhận là việc Hùng Vương sai sứ sang thông hiếu với triều đại ở phương Bắc, tặng “rùa thần” và chim “bạch trĩ”. Không chỉ thư tịch cổ Việt Nam ghi nhận mà nhiều cuốn sách của Trung Quốc trải từ đời Chu, Hán đến đời Minh, Thanh đều có ghi chép, mặc dù dài ngắn và có một số điểm khác nhau đôi chút.

Biếu rùa thần trên mai khắc chữ khoa đẩu

Có rất nhiều sách sử Trung Quốc viết về sự kiện ngoại giao đầu tiên giữa quốc gia Nam - Bắc này. Trong bộ “Thái Bình ngự lãm” ở quyển thứ 131 dẫn lại một số sách khác về việc này như sau: “Thuật dị kí” của Nhậm Phưởng (thời Nam Bắc triều) viết: Thời Đào Đường, nước Việt Thường dâng rùa thần nghìn tuổi, rộng hơn ba thước. Trên lưng có hoa văn, đều là chữ khoa đẩu, ghi lịch rùa từ thủa mới mở mang đến nay. “Thuật Đế cống nguyệt minh” của Phục Thao viết: Văn lịch rùa là chữ của người Hồ Man”.


"Rùa thần" (Ảnh minh họa)

Trong Sách “Thông giám cương mục” có đoạn chép: “Năm Mậu Thân đời Đường Nghiêu thứ 5 (2353 TCN), có Nam di Việt Thường thị đến chầu, hiến con rùa lớn”; sách Cương mục tiền biên cũng cho biết: “Vào đời Đào Đường thị, năm Mậu Thân đời Đường Nghiêu thứ 5, Việt Thường thị sang chầu dâng rùa thần”.

Sách “Thông chí” thì viết rõ hơn: “Đời Tào Đường, Nam di có Việt Thường thị qua nhiều lần thông dịch đến hiến một con rùa thần. Rùa được nghìn tuổi, rộng hơn 3 thước, trên lưng có chữ khoa đẩu, chép việc từ lúc khai thiên lập địa đến nay, vua Nghiêu sai chép lấy, gọi là lịch rùa”….

Một số thư tịch, cổ sử của nước ta cũng viết về điều này, như “Khâm định Việt sử thông giám cương mục” do Quốc sử quán triều Nguyễn soạn có viết: “Xứ Việt Thường Thị đem dâng rùa thần sang Trung Quốc, sau hai lần thông dịch mới hiểu được nhau. Rùa thần sống nghìn năm, vuông hơn ba thước, lưng có chữ khoa đẩu ghi việc từ khi trời đất mới mở trở về sau. Vua Nghiêu sai người chép lại, gọi là lịch rùa”.

Không rõ sự kiện này do vua Hùng đời thứ mấy tiến hành, nhưng điều thú vị là duy nhất có cuốn sách cho biết rõ điều đó. Trong “Tân đính Lĩnh Nam chích quái” cho hay đó là vua Hùng chi đời thứ 2 (Hùng Hiền Vương, tức Lạc Long Quân): “Thời đó có người hái củi bắt được con rùa sống đã nghìn năm, lưng rộng khoảng 3 thước, trên lưng có chữ khoa đẩu, đem đến dâng vua. Vua nói rằng: Rùa vốn có hai loại, linh quy (rùa thiêng) và dâm quy (rùa dâm), tuy bề ngoài có vẻ giống nhau, nhưng chất thì khác nhau rõ ràng. Khoảng đó, nghe nói họ Đào Đường ở Trung Quốc là hiền đức, bèn sai đem dâng. Vua Nghiêu truyền sao chép chữ trên lưng rùa mà làm ra lịch rùa”.

Tặng chim trĩ trắng cho nhà Chu

Sau lần đầu tiên đi sứ Đường Nghiêu, đến thời nhà Chu sứ nước ta lại một lần nữa sang thông hiếu. Sự kiện này được ghi chép nhiều hơn với các thông tin phong phú.


Trĩ trắng (Ảnh minh họa)

Thư tịch đầu tiên nói Việt Thường thị ở phía Nam hiến chim trĩ trắngcho Chu Thành Vương được thấy ở sách “Thượng thư đại truyện”, “Trúc thư kỷ niên” và “Hiếu kinh” của Trung Quốc. Chuyện ấy được chép lại ở sách “Hậu Hán thư” và một số sách đời sau. Cuốn “Sử ký” của Tư Mã Thiên viết: “Đất Giao Châu, ở phía Nam có Việt Thường thị, qua nhiều lần thông dịch, đến hiến một con chim trĩ trắng”; một cuốn “Sử ký” khác chép: “Năm Tân Mão thứ sáu (1110 TCN) đời Thành Vương nhà Chu, họ Việt Thường thị ở bộ Giao Chỉ sai sứ dâng chim trĩ trắng. Sứ giả không thuộc đường về, Chu Công cho 5 cỗ xe làm theo lối chỉ nam theo đường ven biển về nước, đi tròn năm mới về đến nước”. Hay như sách “Thượng Thư đại truyện” có đoạn viết: “Giao Chỉ ở phương Nam, có nước Việt Thường… Họ Việt Thường đến dâng chim trĩ trắng”.

Ngoài ra các sách như “Luận hành”, “Thái Bình ngự lãm”, “Hiếu kinh”, “Hậu Hán Thư”, “Thủy kinh chú”, “Lâm Ấp ký”… đều cho biết về điều này.

Sách sử và thần tích Việt Nam cũng nhiều lần đề cập tới việc vua Hùng cho người mang trĩ trắng đến thông hiếu. Tác phẩm sử học cổ nhất còn giữ đến nay là “Đại Việt sử lược” viết: “Đến đời Thành Vương nhà Chu, Việt Thường Thị mới đem dâng chim bạch trĩ…”. Sách “An Nam chí lược” viết vào thời Trần có đoạn: “Đời Chu Thành Vương, họ Việt Thường qua chín lần thông ngôn, tới hiến mà nói rằng: Trời không có gió bão, không mưa dầm, ngoài biển không nổi sóng dữ đã ba năm nay, có lẽ ở Trung Quốc có đấng thánh nhân trị vì, sao chẳng tới chầu? Lúc bấy giờ, Chu Công đặt bài ca, đánh đàn thuật chuyện họ Việt Thường tới chầu: Ôi ôi! vui thay, cảnh tượng thái bình không phải nhờ sức của Đán (tên của Chu Công) mà là nhờ đức của vua VănVương! Nước Việt Thường, tức đất Cửu Châu, ở phía nam Giao Chỉ”. Sách “Việt sử tiêu án” của Ngô Thì Sĩ chép: “Nước Việt ta khi mới vào cống nhà Chu, tự xưng là họ Việt Thường, dâng con bạch trĩ, 9 lần đổi trạm mới đến được, ông Chu Công úy lạo cho về, cho 5 cỗ xe đặt kim chỉ nam để chỉ lối về”.

Các cuốn sử khác của nước ta như “Khâm định Việt sử thông giám cương mục”, “Ngự phê thông giám tập lãm”, “Thiếu vi thông giám”, “Khâm định Việt sử tiền biên”… cũng ghi chép việc này.

Sách sử thì không cho biết chính xác vua Hùng chi đời thứ mấy cử sứ đi sang nhà Chu, Đại Việt sử ký toàn thư viết: “Thời Thành Vương nhà Chu, nước Việt ta mới sang thăm nhà Chu (không rõ là đời Hùng vương thứ mấy) xưng là Việt Thường thị dâng chim trĩ trắng. Chu Công nói: Nước nào chính lệnh không đến thì người quân tử không bắt họ thần phục. Sai làm xe chỉ nam đưa về nước”.

Tuy nhiên trong cuốn thần phả thôn Nông Xá (tên cũ là Nguyễn Xá), huyện An Dương, TP Hải Phòng thì thân thế, tên tuổi của sứ Việt Thường thị là hai anh em ông Nguyễn Hưng (tự là Quảng Tế) và Nguyễn Hiền (tự là Khả Liễm) người thôn này đã đi sứ nhà Chu dâng chim trĩ trắng vào năm Tân Mão (1110 TCN) theo lệnh của vua Hùng Định Vương (tức vua Hùng thứ 9): “Hùng Định Vương biết tiếng hai anh em bèn triệu về triều phong cho chức Lạc tướng rồi sai hai ông làm sứ thần đem chim bạch trĩ biếu vua Thành Vương nhà Chu. Hai anh em vâng mệnh, không quản gian nan lên đường. Khi dâng xong chim bạch trĩ, Chu Công sai đóng xe chỉ nam để đưa về nước”... Khi trở về, vua Hùng ghi công và phong chức cho hai anh em ông Nguyễn Hưng, Nguyễn Hiền coi giữ bộ Dương Tuyền (một trong 15 bộ thời Hùng Vương, nay thuộc địa phận Hải Dương, Hải Phòng).

Trên đây là một số ghi chép của thư tịch cổ về hai sự kiện ngoại giao đầu tiên trong lịch sử Việt Nam, với phương châm mềm dẻo, hòa bình; đồng thời thể hiện sự chủ động tích cực của cha ông ta đối với lân bang. Điều này đã đặt nền móng đầu tiên cho nền ngoại giao Việt Nam với những nét đặc trưng khác biệt.

Lê Thái Dũng