QUANG MINH TU ĐỨC NỘI ĐẠO PHẬT THÁNH

QUAN ÂM TUYẾT SƠN NHẬT TỤNG YẾU LƯỢC


NAM HẢI QUÁN ÂM GIÁNG:

1. Thi
Niệm Phật Quán Âm ứng cảm liền,
Trưa, chiều, sáng, tối niệm cần chuyên,
Chẳng lui chẳng thoái không lay chuyển
Mỗi lúc, mỗi ngày một tiến lên.

2. Thi
Mỗi lúc, mỗi ngày một tiến lên,
Phật ban “Phúc Lộc Thọ” duyên niên
Phật hằng giúp đỡ, nâng niu quý,
Bát Nhã con thuyền đã đợi bên.

Buổi Sáng: Giờ Mão

Sáng ngày thức dậy,
Trí sáng tâm thanh.
Một dạ đinh ninh.
Quán Âm trì niệm.
Thần thông Phật hiện.
Sen báu nức nhà.
Khí độc khí tà.
Đều tiêu tan hết.
Trùng độc rắn rết,
Tức lánh phương xa.
Quỷ quái yêu ma,
Kinh hồn mất vía.
Rồng vàng mây tía.
Thụy khí tường quang.
Giải tai giải ương.
Cứu nạn cứu khổ.
Nhà cửa vui vẻ.
Già trẻ bình an.
Niệm hiệu Tuyết Sơn.
Vô cùng linh ứng.

Na mô Nam Hải giáng sinh Quán Thế Âm Linh Cảm Bạch Y Tuyết Sơn Bồ tát (Niệm 10 lần trở lên)

Buổi Trưa: Giờ Ngọ

Buổi trưa vừa đúng.
Niệm hiệu Quán Âm.
Con nguyện tu tâm.
Sạch trong sáng suốt.
Lửa sân thiêu đốt.
Nóng nảy xin chừa.
Phật ban cam lồ.
Phật rưới nước phép.
Lửa sân dập tắt.
Lòng dạ hoan hùy.
Vô lượng thần uy.
Quán Âm pháp lực.
Nguyện chừa tham độc.
Ghen ghét đua tranh.
Phật ánh quang minh,
Khai con trí tuệ.
Thơm tho lan huệ.
Sực nức nhang trầm.
Niệm Phật Quán Âm.
Vô cùng linh hiển.

Na mô Nam Hải giáng sinh Quán Thế Âm Linh Cảm Bạch Y Tuyết Sơn Bồ tát (Niệm 10 lần trở lên)

Buổi Chiều: Giờ Dậu

Buổi chiều vừa đến.
Niệm Phật Quán Âm.
Phật chứng giám tâm.
Con xin sám hối.
Lòng con đen tối.
Lòng con uế nhơ.
Lòng con u mờ.
Lòng con nghi hoặc.
Nguyện trừ sáu giặc.
Mắt mũi tai mồm.
Đức Phật Tuyết Sơn.
Xin ngài chứng giám.
Mắt nguyện trông ngắm
Chẳng lệch, chẳng thiên.
Mũi ngửi hương tiên.
Lưỡi nếm đạo vị.
Tai nghe kinh kệ.
Ý nguyện kính thành.
Thân khiết, tịnh, thanh.
Sáu trần tiêu diệt.

Na mô Nam Hải giáng sinh Quán Thế Âm Linh Cảm Bạch Y Tuyết Sơn Bồ tát (Niệm 10 lần trở lên)

Ban Đêm: Giờ Tý

Đêm khuya niệm Phật.
Nam Hải Quán Âm.
Nhất niệm nhất tâm.
Chí thành chí kính.
Lấy tâm lấy tính.
Thay hương thay hoa.
Lấy trí tuệ ta.
Thay đèn thay nến.
Niệm Phật một biến.
Tức đắc sinh Thiên.
Phật hiện nhỡn tiền.
Phật ban pháp bảo.
Oan gia nghiệp báo.
Một phút tiêu tan.
Thân thể nhẹ nhàng.
Tinh thần tươi tốt.
Niệm tôn Bồ Tát.
Công đức vô biên.

Na mô Nam Hải giáng sinh Quán Thế Âm Linh Cảm Bạch Y Tuyết Sơn Bồ tát (Niệm 10 lần trở lên)


Nhời dặn rất cần

Các Đệ tử theo Quang Minh Nội Đạo nên nhớ kỹ rằng mười bài thứ nhất “Quang Minh Nhật Tụng Yếu Lược” và bốn bài “Quán Âm Tuyết Sơn Nhật Tụng Yếu Lược” nhất định bắt buộc phải học thuộc lòng để cầu nguyện hàng ngày. Vị nào cầu thiếu tức là không theo luật lệ kỷ cương của Đạo. Thiên Thần kiểm soát ắt có lỗi lo.

Còn 10 bài Ngọc Văn Sám thứ hai này “Đệ NhịNgọc Văn Sám” thì tùy theo sức mình và tùy theo thì giờ nhàn rỗi hay bận rộn. Nếu có thể theo được thì càng hay. Cũng như gấm thêm hoa.

Đường tu hành của các vị lại thêm tăng tiến lên một bực nữa. Bản Đạo hết sức ngợi khen tán thán và chúc các vị mau thành Chính Quả.

Quang Minh Nội Đạo Giáo Chủ
PHẠM HƯƠNG SƠN


Buổi Sáng: Giờ Mão

(1-Ngoảnh mặt phương đông):

1. CẦU CHA (quỳ)

Cúi đầu sấp mặt đông phương
Lậy Cha giúp đỡ, sót thương con cùng.
Chúng con chẳng chủ được lòng.
Thiện chân gương sáng bụi hồng phủ che.
Nào là lúc tỉnh, lúc mê.
Lúc lành, lúc dữ lòng kia rối bời.
Giây tơ vướng vít trong ngoài,
Oan gia, nghiệp báo theo hoài ngày đêm.
Biết bao tội trướng triền miên,
Quyết lòng sám hối, nguyện xin tu trì.
Trưa, chiều, sáng, tối, đêm khuya,
Ngày, giờ, giây, phút xét suy hỏi lòng?
Lậy Cha mở lượng khoan hồng,
Linh Quang chiếu riệu soi lòng cho con.
Cho con tội trướng tiêu mòn,
Rũ thanh nan nợ, vê tròn phúc duyên.
Tòa Sen chín phẩm Tây thiên,
Bảng vàng choi chói ở trên Thiên Đàng.
Đức Cha là Chúa Thiên Đàng.
Sinh thiên lập địa, nhân gian muôn loài.
Chỉ vì kẻ tục trần ai,
Ở ăn hung dữ lạc sai lòng Giời.
Đức Cha thương xót loài người.
Chỉ vì kẻ thế lòng thời đảo điên.
Gây nên nghiệp chướng liên miên,
Thiện chân gương nọ tối đen ám mờ.
Gốc kia có tưới bao giờ,
Khinh thường đạo đức, nghi ngờ chẳng tin.
Tự mình tác nghiệp gây nên,
Đắm xa bể khổ, não phiền, bi ai.
Sống thời bệnh tật, gian tai,
Thác đi hồn phải lạc loài trầm luân.
Đức Cha đại thiên, đại nhân,
Muốn cho kẻ thế ăn năn tu trì.
Đức Cha Thượng Đế đại bi,
Muốn cho khắp cõi thế ni đến bờ.
Ai ơi! tỉnh lại một giờ!
Cửa Giời hằng mở đợi chờ thiện nhân.
Sót thương kẻ thế tối tăm,
Muôn ngàn ức kiếp xả thân cứu đời.
Quang Minh xuất tự lòng Giời,
Tuyệt tiêu phiền não, sạch bời tâm can.
Quang Minh Phật dược Tiên đan,
Đoạn trừ oan báo, tiêu tan nghiệp trần.
Tinh anh sáng suốt muôn phần,
Thoát vòng trần tục phi đằng Tiên cung.

Làm phép:
NHẬT NGUYỆT QUANG MINH TÂM

(2-Ngoảnh mặt phương Tây):

2. CẦU MẸ (Quỳ)

Đức Mẹ ngự sen vàng choi chói,
Thương muôn loài đắm đuối trầm luân.
Đức Mẹ vô lượng phép thần thông,
Hào quang chiếu xa gần nhân thế.
Nay chúng con phụng tôn, triều bái,
Hướng Tây phương quỳ gối chấp tay.
Nén tâm hương thấu chín từng mây,
Quyết sám hối từ nay tu tỉnh.
Tôn hiệu đạo Quang Minh Bảo Kính,
Đức Mẹ thương vạn Thánh phù trì.
Soi chiếu lòng ánh hiện quang huy,
Phá tan chất ngu si đen tối.
Ngọn đèn Tâm tỏ soi thế giới,
Thanh gươm Trí choi chói sáng lòa
Ngoài hàng phục vạn quỷ, thiên ma,
Trong sạch tẩy trần sa phiền não.
Quét mây mù tan cơn giông bão,
Qua bến mê vượt khỏi luân hồi.
Một mái chèo thong thả lượn bơi,
Dạo khắp chốn vớt người đắm đuối.
Sang Cực Lạc bái triều Mẹ Báu,
Thân ngọc vàng choi chói hào quang,
Quang Minh Bồ tát, Phật, Kim Cương,
Ngát quế xạ trầm hương sực nức.

Làm phép:
NHẬT NGUYỆT QUANG MINH TÂM

(3-Ngoảnh mặt trung ương):

3. CẦU CHUNG CHA MẸ (Quỳ)

1.Thành sầu man mát – Bể thảm mênh mông.
Sóng vỗ nghìn trùng – Đắm chìm khách tục.

2. Mông ơn đội đức – Thượng Đế Nguyên Dương.
Vô thủy Thiên tôn – Chí cao tối đại.

3. Thương xót vạn loại – Tựa thể đàn con.
Nước mắt rào tuôn – Ruột đau chín khúc.

4. Đại bi đại đức – Chí Thánh chí Chân.
Muốn cho muôn dân – Một giờ tỉnh lại.

5. Quyết lòng hối cải – Tỏ tính Chân Như.
Thoát chốn lao tù – Qua vòng đen tối.

6. Phương tiện mở lối – Thương lũ con đần.
Bách ức hóa thân – Khai đạo lập giáo.

7. Khi giáng làm Chúa – Chuộc tội muôn loài.
Cứu bệnh diệt tai – Đoạn căn trừ trướng.

8. Có khi giáng xuống – Hóa hiện Phật thân.
Vớt kẻ trầm luân – Thuyết kinh thuyết kệ.

9. Có khi giáng thế - Hóa hiện Thánh nhân.
Dạy đạo Di luân – Tam cương bát mục.

10. Có khi giáng tục – Hiện Đại Chân Nhân.
Đạo đức ni thâm – Giáo trưởng vạn pháp.

11. Đạo tuy có khác – Song ở một nguồn.
Tùy xứ tùy phương – Tùy phong tùy tục.

12. Phân chia nhiều thật – Gốc một nguyên thần.
Đồng khí đồng căn – Đồng tính đồng thể.

13. Chớ nên chia rẽ - Đạo nọ giáo kia.
Phỉ báng khen chê – Tranh dành ganh tỵ.

14. Chớ nên biện ngụy – Trọn Mẹ khinh Cha.
Tội ác khó tha – Lưới Giời khôn tránh.

15. Chắp tay cung kính – Lậy đức Hoàng thiên.
Là Cha Đại Hiền – Thương con vô cực.

16. Cảm đội công đức – Phật Tổ mười phương.
Rất trọng rất tôn – Chính là Mẹ Báu.

17. Này trần lụy cấu – Ham tiếc mà chi.
Chong chóng bước đi – Đến cùng Cha Mẹ.

18. Rơi tuân giọt lệ - Cha Mẹ thương con.
Giáng ứng linh quang – Mở đường Cực Lạc.

19. Mau mau khử ác – Tụ thiện tu nhân.
Theo đường chính chân – Diệt lòng tà khúc.

20. Quế hòe lan cúc – Xuân sắc tốt tươi.
Muôn nước muôn loài – Giời Cha Phật Mẹ.

21. Chẳng nên chia rẽ - Đen trắng đỏ vàng.
Khắp người thế gian – Anh em xương thịt.

22. Coi nhau như một – Hòa thuận yêu đương.
Chẳng ai ghen tuông – Không hề tranh cạnh.

23. Giời quang mây tạnh – Tỏ ánh Quang Minh.
Tắt lửa bất bình – Dẹp ma phiền não.

24. Yên cơn giông bão – Lặng sóng kình nghê.
Mây gấm phủ che – Sen Vàng đua nở.

25. Vừng hồng sáng tỏ - Sao Phúc hiện ra.
Hạc khiếu hoan ca – Rồng bay phượng múa.

26. Đất đai đỏ ối – Đầy ngọc đầy vàng.
Nức mùi tiên nhang – Giời mưa hoa báu.

27. Rừng gươm ao máu – Hóa lại Thiên Đàng.
Địa ngục đao san – Chuyển thành Cực Lạc.

28. Cha ban phúc lộc – Mẹ giáng ân hồng.
Phả nguyên đồng nhân – Cộng thành Chính Giác.

Làm phép:
NHẬT NGUYỆT QUANG MINH TÂM


Buổi Trưa: Giờ Ngọ

1. Cầu về BẢO HIỆU
(Quỳ ngoảnh mặt trung ương)

1. Thi
Tây phương đại đức đại Di Đà,
Độ tận quần sinh xuất ái hà.
Khổ hải trùng trùng thiên ức lãng,
Mê xuyên điệp điệp vạn thiên ba.
Đề tê lục đạo tam đồ thoát,
Độ tận cửu huyền thất tổ hòa,
Phổ chiếu Quang Minh Tâm Bảo Hiệu,
Âm dương quân lợi phúc hà xa…

2. Thi
Sáng soi thế giới khắp ba nghìn,
Tâm Đạo Quang Minh thật riệu huyền
Luyện Pháp bảo trục khu quỷ mị,
Rèn tâm linh trảm diệt ma duyên.
Dương buồm tế độ qua bờ giác,
Quạt gió từ bi tắt lửa phiền.
Đường sáng mau mau củng cố bước,
Một lòng tín ngưỡng đức vô biên…

3. Ca
Sáng soi khắp ba nghìn thế giới,
Nọ non đông choi chói vừng hồng.
Quang Minh Đạo hiển ứng linh thông,
Tát cạn nước trăm luân khổ hải.
Gương sáng tỏ treo thiên vạn tải,
Bốn phương giời sĩ tử quy y,
Khấu đầu triều bái đức A Di,
Chính thực Mẹ đại bi đại thiện.
Chắp tay nhất tâm thành tưởng niệm,
Đức Nguyên Dương Vô Thượng Đế Sư,
Chính thực Cha đại đức đại từ,
Một ngôi hiện ba Tòa Thượng Thánh.
Chúng con nguyện tịch tà quy chính,
Phụng tôn hiệu Bảo Kính Quang minh.
Lượng từ bi bất cập phàm tình,
Lậy Cha Báu thần linh giáng hiện.
Bốn chữ vàng Quang Minh Nhật Nguyệt,
Chính giữa in rõ rệt chữ Tâm.
Chẳng đắm say trong giấc mê nồng,
Hằng thức tỉnh soi lòng xét tính.
Chẳng khi trá cung cung kính kính,
Tôn thờ Tâm vi thánh tối linh,
Xét thế gian muôn sự dành dành,
Nhất thiết do tự Tâm mình tạo.
Tâm ấy gây nên thành các tội,
Mọi phúc lành cũng tạo như Tâm.
Nọ Phật, Tiên, Ma, Quỷ, Thánh, Thần,
Ngọc với đá cùng đồng một cỗi.
Chẳng chủ nhất tự tâm biến đổi.
Tự buộc ràng tự cởi gỡ ra.
Kìa chữ Tâm hiện trước mắt ta,
Càng gắng sức để mà tu tỉnh,
Trông chữ Vạn tăng lòng cung kính
Phật ngự tiền đức tính viên dung.
Bao hàm khắp thế giới hư không,
Muôn ức sự gồm trong chữ Vạn.
Quanh bốn mặt rừng gươm mưa đạn,
Nào nội tà ngoại cảm yêu ma,
Chữ Vạn ấy hiệu đức Mẹ ta,
Hàng tróc hết tà ma nội ngoại.
Chẳng điên đảo Tâm vô quải ngoại,
Tâm tự nhiên, tự tại, yên vui.
Trận gió từ mát mẻ thảnh thơi,
Thổi tan khí tanh hội, đen tối.
Tấm Bảo Hiệu hiện hình Bát Quái,
Ý siêu việt nghĩa tối cao thâm,
Khi hỗn độn Giời đất chưa phân,
Đức vô cực sinh thân Thái Cực,
Khối linh quang chói lòa sáng khắp,
Do Thái Cực sinh đức Lưỡng Nghi.
Đức hà xa khắp hết chở che,
Lưỡng Nghi riệu kỳ sinh Tứ Tượng.
Phép thần bí vô cùng vô lượng,
Do Tứ Tượng sinh hóa Ngũ Hành.
Đại thần thông trí tuệ Quang Minh,
Ngũ hành riệu kỳ sinh Bát Quái.
Đoạn hoặc nghiệp trừ điều tà kiến,
Chẳng thoái lui tinh tiến uy hùng,
Kề sinh linh ức triệu tôn sùng,
Hiệu Bát Quái vô cùng biến hóa.
Giáng phúc ân, xá khiên, xá quá,
Tôn Bảo Hiệu Thiên tá Thần phù,
Cha Mẹ thương mở một lối tu,
Đường vạn dậm ngắn thu gang tấc,
Bừng mắt giậy khuyên ai tỉnh giấc,
Mau gắng công ra sức tu hành,
Quy Chính Giáo, cầu Sám Văn Linh,
Muôn ngàn thủa khai minh một hội.
Nhất tâm thành phụng tôn Bảo Hiệu,
Thật vô cùng ích lợi âm công:
Giải tai nạn, giải ách, giải truân,
Đoạn phiền não, đoạn căn, đoạn chướng.
Ngoài xã hội yên cơn gió sóng,
Trong gia đình đầm ấm, yêu đương.
Hóa Cực Lạc, hiện cảnh Thiên Đường,
Khắp mặt đất Sen Vàng đua nở.
Nguyện Tâm Đạo Quang Minh hoằng mở,
Cứu muôn loài thoát khỏi trầm luân,
Nguyện chúng sinh khắp cõi hồng trần,
Chứng Vô Thượng Chính Chân Chính Giác.

Làm phép:
NHẬT NGUYỆT QUANG MINH TÂM

2. Cầu về VĂN SÁM
(Quỳ ngoảnh mặt trung ương)

1. Kính cẩn thành cảm – Nguyện cầu Sám Văn,
Sắc giáng Thiên Thần – Đồng lai hộ vệ.

2. Nội khu quỷ mị - Ngoài phục ma tà,
Nguyện cầu Mẹ Cha – Soi lòng tịnh khiết.

3. Nguyện cho kẻ chết – Hồi lại tỉnh ra,
Cầu kẻ điếc lòa – Được nghe được thấy.

4. Ruộng Phước vun cấy – Nền Đức đắp xây,
Nguyện khắp đó đây – Nẩy bông Bát Nhã.

5. Gạn lọc cặn bã – Trắng sạch tuyết băng,
Bạch nhật thượng thăng – Nguyện cầu Văn Sám.

6. Soi đêm u ám – Soi ngọn đèn Tâm,
Phổ nguyện đồng nhân – Phụng tôn Bảo Hiệu.

7. Thơm tho lan huệ - Xanh tốt bách tòng,
Nguyện khắp hồng trần – Quy y Tâm Đạo.

8. Chí huyền chí riệu – Tối hiển tối kỳ,
Văn Sám nguyện cầu – Dung thông ứng cảm.

9. Trí đen khói ám – Tuệ đặc bùn nhơ,
Văn Sám nguyện cầu – Chuyển nên trí tuệ.

10. Chẳng chủ chẳng trị - Tâm bắc Tâm nam,
Văn Sám nguyện liền – Chuyển nên chính định.

11. Chán ngán tức bực – Phiền não lo âu,
Văn Sám nguyện cầu – Chuyển nên hoan hỷ.

12. Hại nhân ích kỷ - Sảo quyệt gian tham,
Văn Sám nguyện liền – Chuyển nên chân trực.

13. Thề nguyền rủa độc – Nóng giận hét la,
Văn Sám nguyện cầu – Chuyển nên thuần thục.

14. Lẳng lơ cười cợt – Chớt nhả nô đùa,
Văn Sám nguyện cầu – Chuyển nên đoan chính.

15. Chẳng thành chẳng tín – Hay hoặc nghi ngờ,
Văn Sám nguyện cầu – Chuyển nên tín kính.

16. Hợm hĩnh xấu tính – Kiêu ngạo nết hư,
Văn Sám nguyện cầu – Chuyển nên khiêm nhượng.

17. Nghĩa nhẹ tiền nặng – Mặt trắng lòng đen,
Văn Sám nguyện liền – Chuyển nên liêm khiết.

18. Tung giời quen nết – Hoang phí xa hoa,
Văn Sám nguyện cầu – Chuyển nên tiết kiệm.

19. Quen tính lười biếng – Hay thói giông giài,
Văn Sám nguyện cầu – Chuyển nên tinh tiến.

20. Mệnh vị ngắn kém – Cung số yểu non,
Văn Sám nguyện liền – Chuyển tăng thọ mệnh.

21. Đường sinh hiếm muộn – Cung số không con,
Văn Sám nguyện liền – Chuyển sinh quý tử.

22. Túng tiền túng của – Thiếu áo thiếu cơm,
Văn Sám nguyện liền – Chuyển nên phong phú.

23. Lỗi đạo tôi chúa – Chẳng thảo mẹ cha,
Văn Sám nguyện cầu – Chuyển nên trung hiếu.

24. Gốc mục ngọn héo – Lá úa cành khô,
Văn Sám nguyện cầu – Chuyển nên tươi tốt.

25. Ưa bề nịnh hót – Quen thói phỉnh phờ,
Văn Sám nguyện cầu – Chuyển nên nhân thiện.

26. Như bào như tiện – Tựa nấu tựa nung,
Văn Sám nguyện liền – Chuyển nên mát mẻ.

27. Khi mê khi tỏ - Lúc dữ lúc lành,
Văn Sám nguyện linh – Chuyển nên an định.

28. Khinh khi Thiên mệnh – Hủy báng Phật Thần,
Văn Sám nguyện cầu – Chuyển nên cung kính.

29. Thói quen tranh chiến – Lòng độc sát sinh,
Văn Sám nguyện linh – Chuyển nên nhân ái.

30. Dèm pha nhạo báng – Oán trách chê khen,
Văn Sám nguyện liền – Dứt đường nhân ngã.

31. Ưa bề dâm đãng – Quen thói nguyệt hoa,
Văn Sám nguyện cầu – Tắt lửa tình dục.

32. Mưu thâm kế độc – Ý ác Tâm tà,
Văn Sám nguyện cầu – Tuyệt trừ căn ác.

33. Bài bạc ca hát – Thuốc sái rượu chè,
Văn Sám nguyện cầu – Thói hư chừa hết.

34. Nhỡn nhỉ tỵ thiệt – Sáu bụi nhiễm dơ,
Văn Sám nguyện cầu – Rửa gội bụi tục.

35. Tham sân si độc – Ba lưới buộc ràng,
Văn Sám nguyện cầu – Cắt đứt giây lưới.

36. Tội cao non núi – Oan tực bể sâu,
Văn Sám nguyện cầu – Rũ thanh man rợ.

37. Gập khi hãi sợ - Lâm cảnh biến nguy,
Văn Sám nguyện cầu – Tiêu trừ nạn khổ.

38. Sài lang báo hổ - Mối rết trăn xà,
Văn Sám nguyện cầu – Phương xa tức lánh.

39. Cùm chói roi đánh – Dao chém giáo đâm,
Văn Sám nguyện cầu – Bảo toàn tính mệnh.

40. Muốn tiêu tật bệnh – Muốn giải hung tinh,
Văn Sám nguyện linh – Chuyển hung thành cát.

41. Phàm cách tục cốt – Ô uế nặng nề,
Văn Sám nguyện cầu – Chuyển thành Tiên cốt.

42. Nhất tâm Tu Đức – Tâm đạo quy y,
Văn Sám nguyện trì – Phúc vô lượng số.

43. Cảm đức Phật Tổ - Thấu đạt Hồng quân,
Sắc giáng Hồng Ân – Châu phê bút ngọc.

44. Tựa vừng Hồng Nhật – Cây đức vững vàng.
Treo cõi nhân gian – Tấm gương sáng suốt.

45. Ngôi cao Ngọc Quyết – Tòa báu Kim Liên,
Cha Mẹ dắt lên – Đời đời ngự tọa.

Làm phép:
NHẬT NGUYỆT QUANG MINH TÂM


Buổi Tối: Giờ Dậu

(1-Quỳ ngoảnh mặt phương Đông):

CẦU CHA

1. Thi
Bốn phía giao công sóng gió cồn,
Ma Vương hút vía quỷ thu hồn.
Mày nhăn mặt ủ châu chan chứa,
Phổi cháy gan khô ruột héo hon.
Ách, tai, tật, bệnh trăm đường khốn,
Còn, mất, hợp, tan đủ nỗi buồn.
Này cái cảnh đời kinh chán tởm,
Đến cùng Cha Báu đợi mong con.

2. Ca
Chí tôn Cha ngự tòa vàng,
Hào quang sáng khắp nhân gian xa gần.
Lòng đau như cắt như dần,
Thương lũ con đần giọt lệ chứa chan.
Muốn cho khắp cõi thế gian,
Tỉnh giấc mơ màng tỏ tính chân như.
Con sao còn ngẩn còn ngờ,
Cùng nhau con bước xuống đò vượt sang.
Ham chi lò lửa hầm than?
Con khá vội vàng bước đến cùng Cha.
Sám Văn khuya sớm nguyện cầu,
Cha thương, Cha quý đợi chờ mong con.
Vui thay cảnh sắc thượng phương!
Một giờ Cha hiện linh quang tiếp về.
Chẳng lo sống, chết, bệnh, già,
Thân vàng cốt ngọc liên hoa hóa hình.
Ngày ngày ngậm kệ đọc kinh,
Ra vào Kim Quyết Ngọc Đình vẻ vang.
Đi về nhanh chóng nhẹ nhàng,
Triều Cha bái Mẹ lòng vàng thảnh thơi.
Độ mình sau lại độ người,
Độ được Cửu Tổ tức thời siêu thăng.

3. Ca

1. Hồng mông hỗn độn – Thượng Đế Nguyên Dương,
Vô Thủy Thiên Tôn – Chí cao tối thượng.

2. Bao hàm vạn tượng – Biến hóa vô ngần,
Trí tuệ biện tài – Thần oai mạc trắc.

3. Đại bi đại đức – Chí Thánh chí Chân,
Tự bản tự căn – Vô vi riệu tướng.

4. Không số, không lượng – Không bóng, không hình,
Không diệt, không sinh – Không không, không có.

5. Không nơi, không chỗ - Không ngoài, không trong,
Không tiếng, không tăm – Không động, không tĩnh.

6. Chẳng khá biện luận – Không thể kiếm tìm,
Chí ứng chí huyền – Tối linh tối riệu.

7. Sinh Thiên, sinh Địa – Sinh Đạo, sinh Nhân,
Sinh Thánh, sinh Thần – Sinh Tiên, sinh Phật.

8. Chắp tay cúi mặt – Lậy đức Tổ Sư,
Là Cha đại từ - Thương con vô cực.

9. Trí đen tựa mực – Lòng gợn bùn nhơ,
Những sợ cùng lo – Những phiền cùng não.

10. Điên điên đảo đảo – Lộn lộn nhào nhào,
Như nạo như bào – Như nung như nấu.

11. Lụy trần uế cấu – U ám đủ điều,
Phúc ít tội nhiều – Trước dầy tuệ mỏng.

12. Nội tà ngoại cảm – Âm quỷ dương ma,
Giao công bốn bề - Rừng gươm mưa đạn.

13. Khá kinh khá rợn – Thật hãi thật hùng,
Muôn lớp sóng cồn – Nghìn cơn giông bão.

14. Quấn mình thừng chão – Vấn vít giây tơ,
Lạy đức Cha Từ - Xá con nan nợ.

15. Con kẻ có tội – Con kẻ lỗi nhầm,
Chẳng chú được tâm – Chẳng trì được trí.

16. Nay con thành ý – Cầu Ngọc Sám Văn,
Cha giáng linh thần – Như lôi như điện.

17. Cha ban sắc lệnh – Vạn Thánh thiên Thần,
Đồng lai giáng trần – Hộ thân hộ thể.

18. Tà yêu chúng quỷ - Chẳng dám nhiễu sâm,
Cha giáng linh thần – Soi lòng soi dạ.

19. Lọc trong cặn bã – Tắt dập lửa phiền,
Sóng lặng gió yên – Mây tan giăng tỏ.

20. Cứu nạn cứu khổ - Giải ách giải nguy,
Chí riệu chí kỳ - Tối linh tối hiển.

21. Chẳng thoái chẳng chuyển – Cầu Ngọc Sám Văn,
Vô lượng âm công – Vô biên âm đức.

22. Ba cõi phức ức – Quế xạ tiên nhang,
Nhất đạo Minh Quang – Cha thương Cha quý.

Làm phép:
NHẬT NGUYỆT QUANG MINH TÂM

Chí tâm triều lễ - Đế Sư Vô Thượng, tiên thiên hỗn độn, hồng mông thủy hỏa, sinh nhất thủy tổ, khai hoang Nguyên Dương Thượng Đế Phu Lê Vô thủy Thiên Tôn.
(1 lễ)

Chí tâm triều lễ - Đế Sư sinh Đạo, sinh Thiên, sinh Địa, sinh Nhân, sinh Phật, sinh Tiên, tự bản tự căn, vô vi riệu tướng, thái sơ huyền nguyên thiên sư Nguyên Dương Thượng Đế.
(1 lễ)

Chí tâm triều lễ - Đế Sư tiên thiên hỗn độn, khai minh tam cảnh, thiểm châu thuyết pháp, vô lượng độ nhân, chưởng giáo vạn pháp chi tổ, hỗn nguyên thượng đức Hoàng Đế Chí Cao Thiên Tôn.
(1 lễ)


(2-Quỳ ngoảnh mặt phương Tây)

CẦU MẸ

1. Thi
Ngoảnh mặt Tây Phương lậy Mẹ Hiền,
Thương con u ám tối mờ đen,
Gây oan tạo tội như non núi,
Chìm đắm sông mê đọa bể phiền.

2. Thi
Chìm đắm sông mê đọa bể phiền,
Than hồng cháy phổi đốt gan tim.
Gọng kìm cắt thịt dao đâm ruột,
Kinh sợ hãi hùng dạ chẳng yên.

3. Thi
Kinh sợ hãi hùng dạ chẳng yên,
Nay con sám hối trước đàn tiền,
Nguyện bao tội nặng tiêu trừ duyệt,
Chín phẩm Sen Vàng Mẹ dắt lên.

NA MÔ TÂY PHƯƠNG CỰC LẠC THẾ GIỚI ĐẠI TỪ ĐẠI BI TIẾP DẪN ĐẠO SƯ A DI ĐÀ PHẬT (Đọc 3 lần lễ 3 lễ)

4. Ca
Khấu đầu Tây hướng lậy quỳ,
Trước tòa sen báu oai nghi vô cùng.
Dưới trên đèn tỏ nến chong,
Hoa tươi quả đẹp hương xông ngạt ngào,
Chúng con lo sợ xiết bao,
Gây oan tạo tội núi cao muôn trùng.
Nào khi chẳng chủ được lòng,
Giận dỗi nóng nẩy lửa hồng đốt thiêu.
Nào khi thấy sắc mỹ miều,
Lòng con riêng những mến yêu thèm thuồng.
Nào khi thấy bạc, thấy vàng,
Lòng trong bỗng hóa đen ngòm tanh hôi.
Nào khi tự đại tự kiêu,
Khoe khoang, hợm hĩnh đủ điều xấu xa.
Nào khi sảo trá, điêu ngoa,
Chê bai, phỉ báng, dèm pha, nhạo cười.
Nào khi sát hại mọi loài,
Nào khi trộm cắp, bạc bài bê tha.
Nào khi đàn dịch, sướng ca,
Nào khi rượu sớm, trà trưa dông dài.
Nào khi lỗi đạo làm người,
Nào khi chẳng kính Phật Giời, Tổ Tiên.
Buộc ràng chín kết, mười triền,
Đắm say ba độc, đua chen sáu trần.
Biết bao oan trái, nợ nần,
Lửa phiền thiêu đốt, tơ tầm vấn vương.
Xét mình ô uế đủ đường,
Đêm khuya phảng phất, canh trường ngẩn ngơ.
Lậy xin Đức Mẹ đại từ,
Thương đàn con dại ngây thơ, ngu đần.
Con xin sám hối một lòng,
Nguyện bao tội chướng, nợ nần rũ thanh.
Từ nay quyết chí tu hành,
Làm duyên, làm phúc, làm lành, làm nhân.
Bụi trần rũ sạch lâng lâng,
Thói ư, nết xấu quyết tâm xin chừa.
Chuyên cần luyện đạo sớm trưa,
Say mê Tịnh Độ, hững hờ trần duyên.
Bẻ cành ngọc quế cung thiềm,
Xương phàm như chắp cánh tiên nhẹ nhàng.
Đẹp như hoa cúc khoe vàng,
Hoa đào tươi thắm, hoa lan trắng ngần.
Xanh như cây bách, cây tòng,
Đỏ như vầng nhật non đông chói lòa.
Mát trong như nước Cam Lồ,
Thơm tho thuốc thánh, nõn nà đào tiên.
Ngạt ngào mặt nước bông sen,
Giữa giời vằng vặc giăng đêm hôm rằm.
Ngọc trong tuyết sạch trắng ngần,
Vàng mười đỏ ối, sơn hồng thắm tô.
Hương tâm thoang thoảng gió đưa,
Tỏ ngời đuốc tuệ, thơm tho hoa đàm.
Thảnh thơi, mát mẻ, nhẹ nhàng,
Ngọc thay cốt tục, Sen Vàng hóa thân.
Tổ tiên nguyện được siêu thăng,
Cháu con nguyện được đức nhân thảo hiền.
Họ hàng thân thích dưới trên,
Nguyện cầu phúc lộc, bình yên, thọ tràng.
Tây Phương chín phẩm Sen Vàng,
Nguyện cầu khắp cõi nhân hoàn cùng lên.

NA MÔ TÂY PHƯƠNG CỰC LẠC THẾ GIỚI ĐẠI TỪ ĐẠI BI TIẾP DẪN ĐẠO SƯ A DI ĐÀ PHẬT (Đọc 3 lần lễ 3 lễ)

A Di Đà Phật thân kim sắc,
Tướng hảo Quang Minh vô đẳng luân.
Bạch hào uyển chuyển ngũ Tu Di,
Hám mục chừng thanh tứ đại hải,
Quang trung hóa Phật vô số ức,
Hóa Bồ tát chúng riệc vô biên.
Tứ thập bát nguyện độ chúng sinh,
Cửu phẩm hàm linh đăng bỉ ngạn.

NA MÔ TÂY PHƯƠNG CỰC LẠC THẾ GIỚI ĐẠI TỪ ĐẠI BI TIẾP DẪN ĐẠO SƯ A DI ĐÀ PHẬT (Đọc 3 lần lễ 3 lễ)

Na mô A Di Đà Phật (108 lần)
Na mô Quan thế Âm Bồ tát (10 lần)
Na mô Đại Thế Chí Bồ tát (10 lần)
Na mô Địa tạng vương Bồ tát (10 lần)
Na mô Tuyết Sơn Bồ tát (10 lần)
Na mô Thanh tịnh đại hải chúng Bồ tát (10 lần)

Tự quy y Phật đương nguyện chúng sinh, thể giải đại đạo, phát vô thượng tâm.
Tự quy y Pháp đương nguyện chúng sinh, thâm nhập kinh tạng, trí tuệ như hải.
Tự quy y Tăng đương nguyện chúng sinh, thống lý đại chúng, nhất thiết vô ngại – HÒA NAM THÁNH CHÚNG.

Nguyện dĩ thử công đức
Phổ cập ư nhất thiết
Ngã đẳng dữ chúng sinh
Giai cộng THÀNH PHẬT ĐẠO


(3-Ngoảnh mặt trung ương)

CẦU CHUNG CHA MẸ

1. Thi
Này có ra chi cái cảnh đời,
Ai ơi ngoảnh lại ngắ mà coi.
Lo quanh, nghĩ quẩn tơ vò rối,
Tức hão, giận sằng lửa đốt sôi.
Luyến sắc, tham tài đen quá mực,
Vong ân, bội nghĩa bạc hơn vôi.
Thật kinh, thật chán ham chi mãi,
Mau kíp qua bờ vượt bể khơi.

2. Ca
Bể khơi mau kíp vượt sang!
Ham chi cõi thế lầm than dãi dầu?
Khi cười, lúc khóc thảm sầu,
Ách kia chưa hết, nạn sau nối liền.
Hết lo rồi lại đến phiền,
Sớm còn, tối mất nổi chìm bao phen.
Bệnh kia, tật nọ triền miên,
Như dao cắt ruột, tựa kim đâm mề.
Nay điềm, mai mộng mà ghê,
Sâu kia đục óc, trùng thì nhấm gan.
Giai thì quỷ quyệt, gian tham,
Gái kia bất chính lòng ham dâm hào.
Ghen tuông rồi lại oán cừu,
Nhiều câu trách móc, lắm điều chê khen.
Lòng người điên đảo, đảo điên,
Bạc hơn vôi trắng, tối đen quá bùn.
Đủ điều nhơ nhớp, tanh nhờn,
Bão giông muôn trận, gió cuồng nghìn cơn.
Con mau bỏ giả tìm chơn,
Xuống thuyền con kíp chèo sang qua bờ.
Cửa then hằng mở đợi chờ,
Chồn hơi Mẹ gọi, Cha hò kêu con.
Đôi hàng lệ ngọc rơi tuôn,
Gan vàng một lá héo hon, rãi rầu,
Con mau, mau chóng quay đầu,
Quy y Chính Giáo, nguyện cầu Linh Văn.
Cha thương, Mẹ quý muôn phần,
Bách quan hộ thể, thiên thần hộ thân.
Vui chơi nước trí, non nhân,
Hoa đàm, đuốc tuệ ca ngâm thi đề.
Thung dung về chốn Liên Trì,
Quanh mình Bồ tát, bốn bề Kim Cương.
Chói lòa muôn đạo hào quang,
Xạ tiên sực nức, quế nhang ngạt ngào.
Phỉ nguyền nay ước mai ao,
Vui miền Cực Lạc tiêu rao Non Bồng.

3. Thi
Đội ơn Đức Mẹ đại từ bi,
Khai Đạo mở đường dắt kẻ mê.
Chữ Vạn chữ Tâm in rõ rệt,
Bên Cha bên Mẹ thật uy nghi.
Phụng tôn Bảo hiệu hà xa phúc,
Ánh hiện Quang Minh ứng hiển kỳ.
Sẵn lối tu hành con khá bước,
Khuyên con mau chóng kíp quy y.

4. Ca
Quy y quỳ trước đàn tiền,
Lậy Đức Cha Hiền, Mẹ Báu chứng minh.
Lòng con chí kính, chí thành,
Cha Mẹ mẫn tình muôn đội ơn trên.
Xá con lũy kiếp tội khiên,
Con quyết một niềm sám hối từ đây.
Chúng con ngu dại, đần ngây,
Đảo điên, điên đảo mê say đắm chìm.
Như cùm, như kẹp, như kìm,
Như nung, như nấu lửa phiền đốt tâm.
Quyết lòng luyện tính, tu chân,
Cha thương, Mẹ quý đỡ đần, nưng niu.
Chúng con phúc ít tội nhiều,
Khấu đầu bái triều Cha Mẹ thương con.
Nguyện tôn Bảo Hiệu Minh Quang,
Thấu đạt Thiên Đàng, cảm Phật mười phương.
Ba cõi phức ức tiên hương,
Thiên Thần vạn Thánh dương dương giáng đàn.
Ân hồng Ngọc chỉ Cha ban,
Quả ngọc, hoa vàng cây đức tốt tươi.
Linh Quang Cha Mẹ chiếu soi,
Lòng dạ sạch bời nguyệt tỏ, gương trong.
Dạo thuyền Bát Nhã thung dung,
Thảnh thơi về chốn Doanh Bồng Lạc bang.
Ngôi cao chín phẩm Sen Vàng,
Treo cõi nhân hoàn gương sáng nghìn thu.

Làm phép:
NHẬT NGUYỆT QUANG MINH TÂM


Ban đêm: Giờ Tý

1. (Quỳ ngoảnh mặt phương đông):

Cầu CHA

Đức Thượng Đế chí cao vô thượng,
Lòng từ bi vô lượng vô biên,
Thật là đại đức Cha Hiền,
Kính tôn, tán thán, ngợi khen, không cùng…
Lúc nào cũng một lòng cảm tạ,
Tạ ơn Giời hết dạ thương ta,
Lúc nào cũng nhớ đến Cha,
Cúi đầu sấp mặt thiết tha nguyện cầu.
Phép Giời thật nhiệm mầu linh ứng,
Đạo Giời thật chí chính chí công!
Uống nước nhớ đến nguồn sông,
Ăn quả phải nhớ đến công vun giồng.
Thế mới đáng đứng trong Giời Đất,
Thế mới là con đức CHA HIỀN.
Chúng con là kẻ ngu hèn,
Là kẻ có tội, bạc đen trăm đường.
Hằng để cho linh hồn nhuốm tục,
Hằng để cho tâm đục, ý nhơ,
Lạy CHA thương lũ con thơ,
Con xin sám hối quyết tu từ giầy.
Hằng thức tỉnh phút giây cầu nguyện,
Lạy xin CHA giáng hiện THÁNH LINH,
THÁNH LINH ngự ở bên mình,
Yêu thương, giúp đỡ tâm tình yên vui.
Trăm giống quỷ đều lui trở gót,
Muôn loài ma hoảng hốt kinh hồn.
Thực là riệu pháp huyền môn,
Bao nhiêu nghiệp chướng, tội côn( căn) sạch lầu.
Quanh khắp mình hương giời sực nức,
Bước lên đường TU ĐỨC QUANG MINH.
Nõn nà tuyết sạch băng thanh,
Thắm tươi vàng đỏ, trắng tinh ngọc ngà.
Trí tuệ nở bùng hoa Bát Nhã,
Cốt tục phàm bỗng hóa cốt tiên,
Chúng con đội đức CHA HIỀN,
Vô phân, vô lượng, vô biên, vô cùng.
Nguyện ai nấy đều bừng tỉnh lại,
Nguyện muôn loài hối cải từ đây,
Tội cao non núi chất đầy,
Niệm tôn Thượng Đế sạch ngay tức thì.
Đức Thượng Đế đại bi, đại tạo,
Sẵn lòng tha thứ tội chúng con,
Lúc nào Cha cũng yêu thương…

Làm phép:
NHẬT NGUYỆT QUANG MINH TÂM
Đạo Giời vạn đại! vạn vạn đại!

2. (Quỳ ngoảnh mặt phương Tây):

Cầu MẸ

1. Sám hối nguyện Đức Mẹ hộ trì,
Khể thủ, khấu thủ quy y chân thành. (1 lễ)
(Từ dưới cứ đọc hai câu lại lễ 1 lễ như trên)
2. Tam nghiệp nguyện khiết tịnh thanh,
Tham sân si ám, lục căn đoạn trừ.
3. Định tâm nguyện bất dịch di,
Chẳng điên đảo tính, chẳng mê loạn thần.
4. Thành ý nguyện tin một đường,
Chẳng rẽ nẻo quỷ, lạc đường tà ma.
5. Tuệ căn nguyện khai mở ra,
QUANG MINH chiếu riệu gần xa muôn trùng.
6. Chân lý nguyện sáng tỏ tường,
Qua vòng hôn ám tới đường chính chân.
7. Nghiệp trần nguyện rũ sạch thanh,
Tội khiên tiêu diệt, chủng căn đoạn trừ.
8. Thân tâm nguyện chẳng hoại hư,
Tinh anh kết ngọc chân như vững bền.
9. Bồ đề nguyện chứng hoàn viên,
Đời đời ngự tọa Kim Liên Ngọc Đài.


Tự quy y Phật đương nguyện chúng sinh, thể giải đại đạo, phát vô thượng tâm.
Tự quy y Pháp đương nguyện chúng sinh, thâm nhập kinh tạng, trí tuệ như hải.
Tự quy y Tăng đương nguyện chúng sinh, thống lý đại chúng, nhất thiết vô ngại.
HÒA NAM THÁNH CHÚNG.

Nguyện dĩ thử công đức
Phổ cập ư nhất thiết
Ngã đẳng dữ chúng sinh
Giai cộng THÀNH PHẬT ĐẠO