kết quả từ 1 tới 3 trên 3

Ðề tài: QUANG MINH TU ĐỨC NHẬT TỤNG YẾU LƯỢC

  1. #1

    Mặc định QUANG MINH TU ĐỨC NHẬT TỤNG YẾU LƯỢC

    QUANG MINH TU ĐỨC NHẬT TỤNG YẾU LƯỢC

    QUAN ÂM TUYẾT SƠN NHẬT TỤNG YẾU LƯỢC


    Tiểu dẫn

    Bộ kinh này nghĩa lý huyền riệu ý tứ, cao thâm, câu văn rõ ràng, mà cảm động. Thật chưa có bộ kinh nào khuyên giậy kỹ lưỡng như vậy. Bình đọc qua một lần, ai cũng tận kính, tận thành, hết dạ hoan nghênh, hết lòng sám hối. Thực là một bộ kinh vô cùng tôn trọng, quý báu. Thiện nam tín nữ nhận được nên thể lòng từ bi, in phát thật nhiều, công đức thật vô biên, vô lượng.

    ĐIỀU TỐI CẦN: Xin chư tôn giữ gìn cho cẩn thận: những chỗ nước, chỗ lửa và chỗ không được sạch sẽ, xin chớ để kinh vào mà mang tội. Khi xem tụng xong, lại cung kính để lên án tiền. Mình đã am hiểu rồi, nên truyền bá mọi nghĩa lý trong kinh cho rộng ra; các nơi tư gia, các chốn chùa chiền và các đàn thiện, các vị phụ huynh và các vị thượng tọa, sáng tối mỗi ngày, nên tuyên đọc cho các đàn na, thiện tín được rõ. Thứ nhất được người trên bình trước, rồi mọi người dưới họa theo thì hay quá. Khiến ai nấy miệng đọc điều đức thiện, tai nghe tiếng từ bi, như in vào óc, như thấm vào lòng, cho dẫu cỏ cây cũng phải cảm giác, huống chi người. Hễ theo được một điều thiện bé, xửa được một điều lỗi nhỏ, thì công đức chư tôn to lắm lắm.

    RẤT ƯỚC MONG: Ta cùng nhau quyết vun giồng các kỳ hoa dị thảo, khắp bốn phương giời long lanh lá ngọc cành vàng, sực nức tiên nhang quế xạ, tường vân năm sắc chưng điềm lạ, hào quang muôn đạo chiếu Ta Bà, Phúc hà xa, Đức hà xa. Tôi xin hinh hương mà cầu nguyện.

    NA MÔ A DI ĐÀ PHẬT

  2. #2

    Mặc định

    QUANG MINH TU ĐỨC NHẬT TỤNG YẾU LƯỢC

    TUÂN LỆNH:

    Cha Hiền, Mẹ Báu và đức Thượng Phật Cửu Tằng ban truyền sắc lệnh cho các thiện tín phải nguyện cầu mỗi ngày bốn buổi:
    TÝ – NGỌ – MÃO – DẬU
    Theo những bài sau này:

    BUỔI SÁNG: MÃO

    Bài cầu Cha Hiền
    (Chân quỳ tay chắp, ngoảnh mặt về phương Đông cầu bài này):

    Lậy đức Thượng Đế,
    Quyền phép vô biên,
    Lập địa khai thiên,
    Hóa sinh muôn giống,
    Chúng con xa đắm,
    Lòng dạ tối tăm.
    Đọa vòng gian truân,
    Mắc vòng tội lỗi,
    Ngày giờ sám hối,
    Giây phút ăn năn,
    Cho lòng con trong,
    Dạ con sạch sáng,
    Phá chất si ám,
    Khai trí tuệ căn,
    Khẩu ý thân tâm,
    Nguyện rèn uốn nắn,
    Ma tà xa lánh,
    Quỷ mị bất xâm,
    Sạch rũ bụi trần,
    Nghiệp căn đoạn tuyệt,
    Cho lòng kiên quyết,
    Niệm niệm chú văn,
    Đội đức từ nhân,
    Vô cùng vô cực,
    Tiên hương sực nức,
    Truyền cảm cửu thiên,
    Chí tín tận thiền,
    Đức Cha chứng giám.

    Làm phép:
    NHẬT NGUYỆT QUANG MINH TÂM

    [COLOR="rgb(139, 0, 0)"]Bài cầu Mẹ Báu[/COLOR]
    (Chân quỳ tay chắp, ngoảnh mặt phương Tây đọc tám câu này):

    Lậy đức Di Đà cõi Lạc Bang,
    Sót thương kẻ thế khác chi con.
    Đôi hàng lệ ngọc cùng tuôn nhỏ,
    Một lá gan vàng lại héo hon.
    Công đức che chùm trong vũ trụ,
    Từ bi cứu độ khắp càn khôn.
    Muôn loài muôn giống đồng xưng niệm:
    “Phật Tổ Di Đà Mẹ Báu tôn”.

    (Đọc bài này xong rồi lễ 3 lễ, rồi chắp tay vào ngực mà niệm Phật):

    Na mô A Di Đà Phật (10 lần)
    Na mô Quán Thế Âm bồ tát (10 lần)
    Na mô Đại thế Chí bồ tát (10 lần)
    Na mô Thanh tịnh đại hải chúng bồ tát (10 lần)


    Niệm Phật xong, cầu tiếp đến bài này:

    Khấu đầu tây hướng lậy quỳ,
    Bái triều Mẹ Báu A Di chứng lòng:
    Chúng con mê muội ngu đần,
    Xa vòng tội lỗi, đọa vòng gian truân.
    Đội ơn Đức Mẹ từ nhân,
    Ra tay vớt kẻ trầm luân, lạcloài.
    Thương con giọt lệ tuôn rơi,
    Muốn cho khắp hết ai ai đến bờ.
    Cho nên Mẹ nặng lời thề:
    “Chúng sinh con muốn sinh về nước ta”
    “Mười câu niệm Phật Di Đà,”
    “Không sinh ta nguyện đọa xa bực hèn”
    Một lời Mẹ đã phát nguyền,
    Khuôn vàng đúc ngọc như in rõ ràng.
    Con nay một tấm lòng vàng,
    Vun giồng cây đức sửa sang nền từ.
    Nguyện sinh Tịnh Độ Liên trì,
    Hồng danh sáu chữ A Di chuyên cần,
    Bao nhiêu thánh trí mở lòng,
    Ma quân bặt dấu, nợ nần rũ thanh.
    Mây tan tỏ ánh quang minh,
    Hết cơn giông tố biển bình sóng yên.
    Một tòa Cửu phẩm Kim liên,
    Mẹ nâng Mẹ dắt con lên Bảo Đài.

    Làm phép:
    NHẬT NGUYỆT QUANG MINH TÂM

    (Đọc xong bài cầu nguyện Cha Hiền, Mẹ Báu rồi lại đọc bài tự quy này):

    Tự quy y Phật, đương nguyện chúng sinh, thể giải đại đạo, phát vô lượng tâm.
    Tự quy y Pháp, đương nguyện chúng sinh, thâm nhập kinh tạng, trí huệ như hải.
    Tự quy y Tăng, đương nguyện chúng sinh, thống lý đại chúng, nhất thiết vô ngại, HÒA NAM THÁNH CHÚNG.

    Nguyện dĩ thử công đức
    Phổ cập ư nhất thiết,
    Ngã đẳng dữ chúng sinh,
    Giai cộng THÀNH PHẬT ĐẠO.


    Bài Bảo Hiệu

    (Chân quỳ tay chắp, ngoảnh mặt vào bàn thờ hay bất cứ phương nào, cầu bài này):

    Bảo Hiệu linh linh chí riệu huyền,
    Quang Minh biến chiếu tận tam thiên.
    Phụng tôn sắc lệnh thiên thần giáng,
    Phúc lượng vô cùng phúc quả viên.

    Chúng con kính tôn,
    Chắp tay quỳ gối:
    Phật là Mẹ Báu,
    Giời chính Cha Hiền,
    Lòng con đảo điên,
    Dạ con đen tối,
    Vấn vương chỉ rối,
    Tội chất non kiêu,
    Khấu đầu bái triều,
    Con xin quy sám.
    Linh quang ứng giáng,
    Soi dạ con nay,
    Nguyện xin từ đây,
    Ăn năn hối tội,
    Đeo tấm Bảo Hiệu,
    Sét tính soi lòng,
    Cha Mẹ thương cùng,
    Đàn con ngu dại,
    Xá con vạn tội,
    Đoạn lũy kiếp oan,
    Kìa bốn chữ vàng:
    “QUANG MINH NHẬT NGUYỆT”
    Đôi bên rõ rệt,
    Chữ VẠN chữ TÂM,
    Soi khắp Tây Đông,
    Hai ngọn đèn tỏ,
    Thờ một chúa tể,
    Chính thực Tâm ta,
    Trục khu nội tà,
    Đẹp trừ ngoại quỷ,
    Rất tôn rất quý
    Tối hiển tối linh,
    Chẳng nhờn chẳng khinh,
    Tự răn tự tỉnh,
    Đeo hiệu Minh Kính,
    Cẩn cẩn phòng phòng,
    Dẫu hủy hoại thân,
    Chẳng hề phạm tội,
    Lòng như sắt nguội,
    Trí tựa thép gang,
    Thấy vàng chẳng tham,
    Ngó sắc không động,
    Chê thì không giận,
    Khen cũng chẳng mừng,
    Bỏ tính kiêu căng,
    Bỏ lòng ác độc,
    Đánh mắng chẳng bực,
    Khinh ghét không hờn,
    Chẳng câu gian ngoan,
    Không nhời xiểm nịnh,
    Ý thân thanh tịnh,
    Miệng lưỡi giữ gìn,
    Gặp biến chẳng chồn,
    Lâm nguy vẫn vững,
    Đừng mê đừng lẫn,
    Chớ hãi chớ kinh,
    Tâm phải thinh thinh,
    An nhàn tự tại,
    Không ngăn không ngại,
    Mặc ý tung hoành,
    Hết sóng biển bình,
    Rõ bày muôn tượng
    Đèn trong tỏ rạng,
    Tuyết sạch trăng in,
    Tắt sạch cảnh duyên,
    Dứt đường tình vọng.
    Tính tướng bình đẳng,
    Thể tựa hư không,
    Còn chi quả nhân,
    Còn chi dấu vết,
    QUANG MINH NHẬT NGUYỆT,
    Chiếu riệu muôn trùng,
    Nọ nọ vừng Hồng,
    Non Đông đã hé,
    Ham chi cõi uế,
    Kíp vượt sang bờ,
    Kìa thuyền đón chờ,
    Mẹ Cha trông đợi,
    Mau mau bước tới,
    Kẻo muộn kẻo trưa,
    Nhuần thấm móc mưa,
    Mẹ Cha rẩy tưới,
    Tòa vàng choi chói,
    Mẹ dắt con lên.

    Làm phép:
    NHẬT NGUYỆT QUANG MINH TÂM

    BUỔI TRƯA: NGỌ

    Bài Luyện Tâm

    (Ngồi kim cương, tay cầm ấn kim cương, đọc bài này):

    Thiên Đàng Địa Ngục tại Tâm ta,
    Tu tỉnh Tâm kia chớ đắm xa!
    Tâm sáng, sạch, trong Tâm tức Phật,
    Tối, đen, gợn, đục biến vi tà.

    Tâm tối quan hệ,
    Tâm là chúa tể,
    Tâm chính cỗi rễ,
    Trong một thân ta.
    Thiên Đàng, Địa Ngục,
    Nào có đâu xa,
    Tâm đục là tà,
    Tâm trong tức Phật,
    Cảm động Giời xanh,
    Một tấm lòng thành,
    Tâm là quý nhất,
    Ta chớ coi khinh,
    Bao quát càn khôn,
    Vô lượng hư không,
    Tâm tối linh thông,
    Chí huyền chí riệu,
    Tâm phải cho định,
    Cho chính cho minh,
    Thu nhiếp tâm linh,
    Chuyên tâm bất dịch,
    Chớ nghi chớ hoặc,
    Chớ khá phân vân,
    Tâm phải chí chân,
    Tĩnh nhiên thủ nhất,
    Cho khiết cho tịnh,
    Tâm phải thinh thinh,
    Đừng mê đừng loạn,
    Chớ hãi chớ kinh,
    Đừng nhiễm sa trần,
    Chớ biến động Tâm,
    Im lìm vắng lặng,
    Dưỡng tính an thần,
    Tâm phải luyện rèn,
    Cho cần cho chuyên,
    Tâm phải quyết kiên,
    Cho vững cho bền,
    Cám dỗ Tâm ta,
    Quỷ, mị, ma, tà,
    Tâm chớ đắm xa,
    Việt siêu dũng mãnh,
    Xui khiến Tâm ta,
    Tật dục ngoại cảm,
    Tâm chớ mờ ám,
    Tinh tiến uy cường,
    Tâm tối nan trị,
    Ta chớ khinh khi,
    Ngẫm nghĩ xét xuy,
    Rũa mài nắn uốn,
    Kiến tính minh tâm,
    Phật hiện tại Tâm,
    Minh Tâm kiến Phật,
    Phật tức thị Tâm,
    Tâm trong trí sáng,
    Là thuốc trường sinh,
    Tu Đức Quang Minh,
    Tiên đan Phật dược,
    Đan tại Tâm ta,
    Há phải đâu xa,
    Muốn được chân truyền,
    Ngẫm nghĩ cho ra.

    Làm phép:
    NHẬT NGUYỆT QUANG MINH TÂM


    Bài Rèn Tâm Nhẫn Nhục

    (Ngồi kim cương, tay cầm ấn kim cương, đọc bài này):

    “Nhẫn” kia quý hóa nhất đời,
    Đạo cao vô lượng đức thời rộng to.
    Quan sang nào dám đọ so?
    Bảo châu khó sánh của kho khôn bì.
    Này xem chữ “Nhẫn” tuyệt kỳ:
    Trên hai dao cắt dưới thì chữ Tâm.
    Đau như đứt ruột khôn cầm,
    Mặt ngoài không đổi trong lòng trơ trơ.
    Rỗng rang chẳng chút bụi nhơ,
    Vắng lặng như tờ đâu khởi cảnh duyên.
    Gặp người giận dữ ghét ghen,
    Dèm phê phỉ báng tâm yên như tờ.
    Gặp người riễu cợt nhạo cười,
    Tâm kia chẳng chuyển dạ thời thinh thinh.
    Gặp người ganh tỵ, tranh dành,
    Rủa, nguyền, đánh, mắng, tâm tình chẳng lay.
    Chẳng sinh hờn giận mảy may,
    Tâm kia như sắt, dạ này quá gang.
    Gặp người hết dạ yêu đương,
    Ngợi khen, quý mến, kính tôn cúng dàng.
    Không ưa ham, muốn, thích, mừng;
    Tâm trong sáng tỏ tựa vừng trăng cao.
    Gặp khi thời tiết đổi giao,
    Nóng thiêu, rét buốt, mưa ào, gió lay.
    Tâm ta cũng chẳng đổi thay,
    Bền vững dạ này, chẳng oán trách chi.
    Lâm cơn tai biến tối nguy,
    Trái duyên, nghịch cảnh, tâm kia chẳng nhàm.
    Có câu “chữ Nhẫn tương vàng”,
    Chữ “Nhẫn” rõ ràng ấy thật bảo châm.
    Lập thân lấy “Nhẫn” bản căn,
    Suối tham, nguồn dục, lửa sân dẹp trừ.
    Giới luật chẳng khuyết chẳng hư,
    Tám vạn tế hạnh oai nghi ba ngàn.
    “Nhẫn” kia linh diệu lạ nhường,
    Tám gió chẳng chuyển, năm bùn không nhơ.
    Đi về cảnh giới tam ma,
    Đoạn hoặc diệt tà, kiến tính minh tâm.
    Lục căn tức hóa lục thông,
    Ngũ nhỡn, tứ trí, tam thân rõ ràng.
    Nào ai muốn được hảo hoàn,
    Lấy “Nhẫn” làm gốc mọi đàng ước nên.
    Gia đình trong ấm ngoài êm,
    Vợ chồng quý mến, anh em thuận hòa.
    Muôn nước hợp lại một nhà,
    Chẳng phân nòi giống, mầu da trắng vàng.
    Ai ai giữ đức Nhịn nhường,
    Sinh lòng nhân hậu, vuông tròn, kính yêu.
    Chẳng khi, chẳng trá, chẳng kiêu,
    Chẳng hề ganh tỵ, chẳng điều đua chen.
    Muôn loài tựa thể anh em,
    Tắt dập lửa phiền, cắt đứt giây oan.
    Còn chi tranh chiến, lầm than,
    Còn chi kiếp vận, tai nàn gớm ghê.
    Huyết hồ chuyển hóa Liên trì,
    Địa Ngục tức thì hóa cảnh Bồng Lai.

    Ngọc Bảng kìa danh đã chép đề,
    Mau mau chóng chóng luyện rèn đi,
    Nhịn nhường báu ấy vàng khôn sánh,
    Đức rộng, bao trùm khắp chở che.

    Làm phép:
    NHẬT NGUYỆT QUANG MINH TÂM


    BUỔI TỐI: DẬU

    Bài cầu Cha Hiền

    (Chân quỳ tay chắp, ngoảnh mặt phương Đông cầu bài này):

    Đội ơn Thượng Đế,
    Thương xót muôn loài,
    Đại đạo hoằng khai,
    Vớt người chìm đắm,
    Quang Minh yểm ánh,
    Biến chiếu Tây Đông,
    Sạch rửa mọi lòng,
    Trục khu hắc khí,
    Kiên tâm quyết chí,
    Con nguyện quy y,
    Lậy đức Từ Bi,
    Xá con tội lội,
    Hoàng hôn buổi tối,
    Đông hướng quỳ tâu,
    Tay chắp miệng cầu,
    Chính tâm chính niệm,
    Rèn rèn luyện luyện,
    Bền dạ tu trì,
    Xét xét suy suy,
    Ra công luyện đạo,
    Đoạn tuyệt oan báo,
    Lũy kiếp tội khiên,
    Bệnh tật triền miên,
    Phi tai nghiệp chướng,
    Giải trừ ác tướng,
    Quái mộng bất tường,
    Thủy hỏa đao thương,
    Đạo tặc sâm nhiễu,
    Cha ban sắc chiếu,
    Bát bộ Long thần,
    Thập đại Thiên quân,
    Đồng lai ủng hộ,
    Một lòng ngưỡng mộ,
    Chuyển chú niệm kinh,
    Thấu đạt Thiên Đình,
    Cảm thông Tam giới,
    Bảng vàng choi chói,
    Bút ngọc châu phê,
    Đội đức từ bi,
    Vô biên vô lượng,
    Lậy Đức Tối Thượng,
    Chí cao chí tôn,
    Chí đức chí nhân,
    Linh quang ứng hiện,
    Cho con sở nguyện,
    Như ý tòng tâm,
    Con đươc mong ân,
    Viên hoàn Phúc quả.

    Làm phép:
    NHẬT NGUYỆT QUANG MINH TÂM


    Bài cầu chung Cha Mẹ

    (Chân quỳ tay chắp, ngoảnh mặt bàn thờ hay bất cứ phương nào, cầu bài này):

    Chắp tay lậy đức Cha Hiền,
    Quỳ gối đàn tiền lậy Mẹ chí tôn.
    Thương con nước mắt rào tuôn,
    Công ơn trời bể núi non khôn tầy.
    Thương con u ám mê say,
    Mắc vòng tội lỗi, đọa đầy trầm luân.
    Vậy nên ức kiếp xả thân,
    Giáng sinh xuống cõi hồng trần cứu con.
    Tùy phương, tùy xứ, tùy căn,
    Thuyết kinh, thuyết kệ, thuyết văn dậy đời.
    Hiện thân khắp hết nơi nơi,
    Khi giáng làm Chúa, khi thời Phật thân.
    Khi thời chuyển hóa Thánh nhân,
    Khi thời hiện Đại Chân Nhân rõ ràng.
    Một thân biến hiện muôn vàn,
    Thiên cơ huyền bí mơ màng ai hay.
    Khấu đầu quỳ gối chắp tay,
    Nguyện hết dạ này trọng Mẹ tôn Cha.
    Nguyện xin bỏ nẻo ma tà,
    Theo đường chân chính, Mẹ Cha chứng lòng.
    Chẳng tham, chẳng nhiễm bụi hồng,
    Vui miền nước Trí, non Nhân tháng ngày.
    Gió từ mát mẻ hây hây,
    Sen Vàng nay đã đến ngày khai hoa.
    Đồng tâm trọng Mẹ, tôn Cha,
    Bốn bể một nhà, biện cảnh Bồng Doanh.
    Một giờ tắt lửa bất bình,
    Yên cơn giông bão, sóng kềnh lặng ngay.
    Thương đàn con dại đần ngây,
    Đỏ hoe đôi mắt Mẹ nay mong chờ.
    Mau mau con bước lên bờ,
    Còn ngơ, còn ngẩn, còn ngờ chi con.
    Vừng Hồng đã hé đầu non,
    Con mau bừng mắt, tỉnh cơn mộng sầu.
    Ngọc Văn thành khẩn ngưỡng cầu,
    Cha thương, Mẹ quý phép mầu lại ban.
    Tuy rằng cốt cách tục phàm,
    Tức chuyển mình vàng, cốt cách Phật Tiên.
    Thượng Đế Nguyên Dương,
    Là Cha đại hiền,
    Phật Tổ Tây thiên,
    Chính thực Mẹ Báu.
    Róc xương rỏ máu,
    Cứu chuộc muôn loài,
    Muốn cho ai ai,
    Ăn năn hối ngộ,
    Rưới rưới Cam lộ,
    Cứu bệnh khổ nguy.
    Rọi đuốc huyền vi,
    Soi đêm đen tối,
    Tanh hôi ao máu,
    Chuyển hóa Sen Vàng,
    Cốt cách tục phàm,
    Chuyển thành tiên cách.
    Nhất tâm tu đức,
    Tâm Đạo quy y,
    Mẹ Cha chứng chi,
    Châu phê bút ngọc,
    Non Tây đỏ rực,
    Chín phẩm Kim Lien,
    Cha dắt tay lên,
    Mẹ nâng Mẹ đỡ.

    Làm phép:
    NHẬT NGUYỆT QUANG MINH TÂM


    Bài cầu Mẹ Báu

    (Chân quỳ tay chắp, ngoảnh mặt phương Tây đọc bài kinh này):

    Bể khổ mông mênh sóng rập rờn,
    Gió cuồng trăm trận bão nghìn cơn,
    Chèo chèo xin quyết chèo qua bến,
    Kẻo Mẹ mong chờ giọt lệ tuôn.
    Chúng con rất kính rất tôn,
    Khấu đầu lậy Mẹ sót thương con cùng.
    Đêm này lo sợ hãi hùng,
    Trí đen khói ám mà lòng gợn dơ.
    Mẹ hằng thương lũ con thơ,
    Đôi hàng nước mắt như mưa ướt đầm.
    Thương con xa xuống hang hầm,
    Như dao cắt lòng, chín khúc quặn đau.
    Thần thông pháp lực nhiệm mầu,
    Mẹ dắt con khỏi vực sâu hang hầm.
    Từ bi, quảng đại, khoan hồng,
    Muôn kiếp lỗi nhầm Mẹ xá cho con.
    Công ơn Giời bể núi non,
    Như nước trong nguồn lai láng chẩy ra.
    Chắp tay lậy Mẹ trên tòa,
    Đức Đại Di Đà giáo chủ Tây Phương.
    Từ bi độ khắp nhân hoàn,
    Bốn mươi tám nguyện mở đàng vãng sanh.
    Con chuyên một niệm kính thành,
    Mẹ hiện chân hình ứng giáng linh linh.
    Khu tà, điền duyệt ma tinh,
    Soi lòng sáng tỏ giăng thanh giữa giời.
    Ví ham danh lợi chơi bời,
    Càng xa bể khổ, càng vào sông mê.
    Từ nay quyết chí tu trì,
    Lục trần tam độc sân si tuyệt trừ.
    Khấu đầu lậy Mẹ đại từ,
    Nguyện diệt lòng tà, đoạn ác chủng căn.
    Khấu đầu lậy Mẹ đại nhân,
    Tam nghiệp khẩu, ý, thân tâm nguyện rèn.
    Khấu đầu lậy Mẹ đại hiền,
    Ngọc Văn sáng, tối, ngày, đêm nguyện cầu.
    Quang Minh biến chiếu đâu đâu,
    Bảo Hiệu nhiệm mầu, hiển hiển ứng linh.
    Bốn chữ “NHẬT NGUYỆT QUANG MINH”
    Đôi bên dành dành chữ Vạn chữ Tâm.
    Nguyện rằng dẫu hủy hoại thân,
    Chẳng hề phạm tội, ăn năn hãi hùng.
    Chính tâm, diệt dục, thanh lòng,
    Khoan dung, đại độ, công bằng, từ bi.
    Bao chùm khắp hết chở che,
    Hỷ xả, nhẫn nhục, đức kia hải hà.
    Tịnh tâm, tâm tức Di Đà,
    Cầu nguyện một giờ cảm ứng linh thay.
    Di Đà Mẹ ngự phương Tây,
    Sen vàng choi chói, hương bay ngạt ngạt.
    Mong con lòng Mẹ khát khao,
    Giọt lệ tuôn rào, đôi mắt đỏ hoe.
    Con mau mau chóng tìm về,
    Mẹ nâng, Mẹ đỡ, tiếp về Lạc Bang.
    Vui nơi nhà ngọc, đất vàng,
    Oai nghiêm tướng mạo, rỡ ràng kim thân.
    Một tòa Sen Báu chín từng,
    Thung dung Mẹ dắt con cùng bước lên.

    Làm phép:
    NHẬT NGUYỆT QUANG MINH TÂM


    (Làm phép xong niệm bài này):

    A Di Đà Phật thân kim sắc,
    Tưởng hảo đoan nghiêm vô đẳng luân.
    Bạch hào uyển chuyển ngũ Tu Di,
    Hám mục chừng thanh tứ đại hải.
    Quang trung hóa Phật vô số ức,
    Hóa Bồ tát chúng riệc vô biên.
    Tứ thập bát nguyện độ chúng sinh,
    Cửu phẩm hàm linh đăng bỉ ngạn.

    NAM MÔ TÂY PHƯƠNG CỰC LẠC THẾ GIỚI Đ5I TỪ ĐẠI BI TIẾP DẪN ĐẠO SƯ A DI ĐÀ PHẬT (Hai mươi chữ này đọc ba lần)

    Nam mô A Di Đà Phật (108 lần)
    Nam mô Quan thế Âm bồ tát (10 lần)
    Nam mô Đại thế chí bồ tát (10 lần)
    Nam mô Thanh tịnh đại hải chúng bồ tát (10 lần)

    (Niệm Phật xong rồi lại đọc tiếp bài Tự quy này):

    Tự quy y Phật, đương nguyện chúng sinh, thể giải đại đạo, phát vô thượng tâm.
    Tự quy y Pháp, đương nguyện chúng sinh, thâm nhập kinh tạng, trí tuệ như hải.
    Tự quy y Tăng, đương nguyện chúng sinh, thống lý đại chúng, nhất thiết vô ngại, HÒA NAM THÁNH CHÚNG.

    Nguyện dĩ thử công đức
    Phổ cập ư nhất thiết,
    Ngã đẳng dữ chúng sinh,
    Giai cộng THÀNH PHẬT ĐẠO.


    BAN ĐÊM: TÝ

    Bài sám tạ Đức Cha Hiền

    (ngoảnh hướng đông, quỳ gối, chắp tay, cúi đầu, đọc bài này):

    Im liềm tịch mịch lúc đêm thinh,
    Sám tạ Ba Tòa Thượng Thánh Minh.
    Muôn kiếp lỗi nhầm, Cha đại xá,
    Rửa lòng đục, vẩn, gợn, hôi, tanh.

    Rửa lòng đục, vẩn, gợn, hôi, tanh,
    Cha hiện thần thông ứng giáng linh,
    Khu trục nội tà, trừ ngoại quỷ,
    Cho con nan nợ rũ lầu thanh.

    Cho con nan nợ rũ lầu thanh,
    Chắp cánh tiên bay Thượng Từ Đình.
    Bệ Ngọc, Tòa Vàng đời ngự tọa,
    Thân Thiên, cốt Phật, ánh quang minh.

    Lúc giờ Tý đêm khuya canh vắng,
    Hướng đông phương tán thán ngợi khen,
    Đức Cha lập địa, sinh thiên,
    Sinh Phật, sinh Thánh, sinh Tiên, sinh Thần.
    Phóng hào quang xa gần sáng tỏ,
    Một bàn tay che chở nơi nơi,
    Bao hàm, dưỡng dục muôn loài,
    Xét soi thiện ác ty hào phân minh.
    Nay con quyết đinh ninh một dạ,
    Hết lòng thành cảm tạ thiên ân.
    Cha ban áo mặc, cơm ăn;
    Yêu thương, quý mến, đỡ đần, nưng niu.
    Con tự xét tội nhiều, phúc ít,
    Nghiệp chướng dầy, quả kiếp nặng nề.
    Vô minh màng ấy phủ che,
    Ngẩn ngơ giữa lúc đêm khuya, canh trường.
    Tính nóng nẩy, cương cường, bạo ngược,
    Lòng tham lam, uế trược, bùn nhơ.
    Muôn đời, ngàn kiếp đến giờ,
    Sông mê lặn ụp, nhấp nhô bể trầm.
    Con bao xiết hãi hùng, bối rối,
    Nguyện cầu xin sám hối từ nay.
    Cha thương con dại đần ngây,
    Xá nhầm, xá lỗi, cởi giây oan thù.
    Trục nội tà, khu trừ ngoại quỷ,
    Tấm lòng trong tựa thể trăng rằm.
    Cốt phàm hóa cốt tiên thần,
    Bao nhiêu nghiệp chướng, nợ nần rũ thanh.
    Ghi sổ quế thánh minh bút tứ,
    Trên ba tòa Thượng Đế ban ân,
    Cho con bạch nhật thượng thăng,
    Treo cao gương sáng khắp trong cõi đời.
    Nguyện cha mẹ sống thời tăng thọ,
    Khi lâm chung siêu độ Tây Thiên,
    Cửa nhà nguyện được bình yên,
    Vợ chồng quý mến, anh em thuận hòa.
    Nguyện con cháu vinh hoa, phú quý,
    Hiếu, trung, trinh, lễ, nghĩa, tín, nhân.
    Nguyện xin thân thích xa gần,
    Gội nhuần thánh trạch, thiên ân rồi rào,
    Nguyện bốn phương bích, đào, lan, cúc,
    Nguyện ba cõi phức ức xạ tiên,
    Xinh tươi quả phúc, hoa duyên,
    Muôn loài nguyện được ngự lên Liên Đài.

    Làm phép:
    NHẬT NGUYỆT QUANG MINH TÂM


    Bài sám tạ Mẹ Báu

    (Ngoảnh hướng tây, quỳ gối, chắp tay, cúi đầu, đọc bài này):

    Tự xét mình con tội nặng nề;
    Sáng ngày thức dậy đến đêm khuya,
    Sáu căn ba nghiệp đen sì bụi,
    Sám hối nay con cúi lậy quỳ.

    Sám hối nay con cúi lậy quỳ,
    Di Đà Mẹ Báu đại từ bi;
    Xá nhầm, xá lỗi cho con trẻ,
    Mẹ sót, Mẹ thương, Mẹ độ trì.

    Mẹ sót, Mẹ thương, Mẹ độ trì,
    Dắt con thoát khỏi vũng bùn mê,
    Cho con quả phúc viên hoàn hảo,
    Nhẹ bước thung dung tới Ngọc Trì.

    Đêm khuya canh vắng,
    Tây hướng lậy quỳ,
    Triều đức A Di,
    Cực lạc Giáo Chủ.
    Chúng con là kẻ,
    Mê muội lỗi nhầm,
    Gợn đục, tối tăm,
    Tanh hôi, u ám.
    Lậy đức Mẹ Báu,
    Giúp đỡ yêu thương,
    Cho con biết đường,
    Ăn năn, hối ngộ.
    Sát sinh, hại vật,
    Trộm cướp, gian tham,
    Bạo ngịch, hung tàn,
    Khấu đầu sám hối.
    Đường ngang ngõ tối,
    Sắc dục, dâm tà,
    Bài bạc, rượu chè,
    Khấu đầu sám hối.
    Lời ăn, tiếng nói,
    Ác độc, chua ngoa,
    Nguyền rủa, hét la,
    Khấu đầu sám hối.
    Ăn không nói có,
    Lừa dưới gạt trên,
    Nói quàng nói xiên,
    Khấu đầu sám hối.
    Giầu sang tìm tới,
    Ngèo khổ tránh xa,
    Siểm nịnh a dua,
    Khấu đầu sám hối.
    Ăn nói hai lưỡi,
    Trước mặt ngợi khen,
    Sau lưng chê liền,
    Khấu đầu sám hối.
    Mắt hay ngắm sắc,
    Ý nẩy dâm tà,
    Tính quỷ, hồn ma,
    Khấu đầu sám hối.
    Tai nghe câu nói,
    Nịnh hót, phỉnh phờ,
    Tiếng dâm, tiếng tà,
    Khấu đầu sám hối.
    Mũi hay thích ngửi,
    Những mùi ngát thơm,
    Siêu động chân tâm,
    Khấu đầu sám hối.
    Lưỡi hay thèm nếm,
    Ngon, ngọt, béo, bùi,
    Hải vị sơn hào,
    Khấu đầu sám hối.
    Thân hay ưa muốn,
    Ôm ấp, vuốt ve,
    Gấm, vóc, nhung, tơ,
    Khấu đầu sám hối.
    Lòng hay loạn rối,
    Mơ ước, thèm thuồng,
    Nghĩ bậy, tưởng càn,
    Khấu đầu sám hối.
    Tội cao non núi,
    Oan tựa bể sâu,
    Chín khúc quặn đau,
    Đôi hàng lệ nhỏ,
    Con kinh, con sợ,
    Con hãi, con hùng,
    Phát nguyện một lòng,
    Từ nay không phạm.
    Cúi đầu bái sám,
    Lạy Mẹ từ ân,
    Muôn kiếp lỗi nhầm,
    Mẹ thương Mẹ xá.
    Lọc chong cặn bã,
    Ngời tỏ tâm châu,
    Phật pháp nhiệm mầu,
    Vô biên vô lượng.
    Bao nhiêu tội nặng,
    Một phút tiêu tan,
    Chín phẩm Sen Vàng,
    Đời đời ngự tọa.
    Nguyện khắp thiên hạ,
    Ca dao thái bình,
    Muôn loài hữu tình,
    Nguyện THÀNH PHẬT ĐẠO.

    Làm phép:
    NHẬT NGUYỆT QUANG MINH TÂM

    Tự quy y Phật, đương nguyện chúng sinh, thể giải đại đạo, phát vô thượng tâm.
    Tự quy y Pháp, đương nguyện chúng sinh, thâm nhập kinh tạng, trí tuệ như hải.
    Tự quy y Tăng, đương nguyện chúng sinh, thống lý đại chúng, nhất thiết vô ngại. HÒA NAM THÁNH CHÚNG.

    Nguyện dĩ thử công đức,
    Phổ cập ư nhất thiết,
    Ngã đẳng dữ chúng sinh,
    Giai cộng THÀNH PHẬT ĐẠO.


    Bài niệm thực

    (Nhời dặn: Khi ta ăn cơm, uống nước, ăn trầu, và các phẩm thực khác, hay lúc ốm đau phải uống thuốc, hoặc lúc mặc quần áo mới thì phải đọc như sau này):

    Ăn cơm đọc là phẩm thực.
    Ăn quả đọc là quả thực.
    Uống thuốc đọc là dược thực.
    Uống nước trà đọc là trà thực.
    Mặc quần áo mới đọc là y phục.


    Bài niệm

    (Khi niệm phải chắp tay cung kính mà niệm bài này):

    Một lòng tưởng niệm,
    Niệm tạ Từ ân,
    Chí thành chí chân,
    Đức Cha chứng giám.
    Một lòng tưởng cảm,
    Chuyển đạt thượng chân,
    Đức Cha ban ân,
    Chúng con đội đức.
    Cha ban ngũ cốc,
    Nuôi dưỡng muôn dân,
    Chúng con mông ân,
    Vô cùng vô cực.
    Cha ban phẩm thực (hoặc quả thực, hoặc trà thực, hoặc dược thực, hoặc y phục)
    Đội đức từ nhân,
    Chúng con ân cần,
    Cảm cầu tưởng niệm.
    Cho con sở nguyện,
    Lòng được ăn năn.
    Cho con nghiệp căn,
    Đoạn tiêu trừ duyệt.
    Cảm thông thiên quyết,
    Niệm niệm chú văn,
    Ứng ứng linh thông,
    Huyền huyền riệu riệu.

    Làm phép:
    NHẬT NGUYỆT QUANG MINH TÂM


    Phụ bản

    Tại sao mỗi ngày phải cầu đủ mười bài trong bốn giờ Tý Ngọ Mão Dậu?

    Căn tính chúng sinh về đời mạt pháp, rất là hèn thấp. Bụi trần che lấp – Gương thiện ám mờ - Gợn đục bùn nhơ – Lòng châu đen tối – Tạo tội như non núi – Gây oan tựa bể sâu – Mà cái tội thông thường của chúng sinh hay mắc nhất là tội lười biếng – Từ người tại gia cho đến người xuất gia – đã mắc tội đó – thường bị hư hại hết mọi việc – Cái tội lười biếng – thường dắt theo con ma buồn ngủ - con ma mệt mỏi – con ma chán nản – khiến cho người cùng năm mãn tháng – cứ hết ăn rồi lại nằm – hết nằm rồi ngồi – hết ngồi rồi chơi – thiền không tham – Phật không niệm – kinh không tụng – giới không trì – mà quên hẳn cái bổn sự của mình – chẳng bao giờ quan sát tới cả - Bẩy vía say mê – ba hồn phảng phất – đến khi nhắm mắt bị đọa âm cung – lộn lộn lăn lăn – trong ba đường ác – này dẫu muôn kiếp khó được thân người – để văn kinh thính pháp – cái tội biếng nhác – nguy hiểm vô cùng.

    Vì thế, trăm nghìn người tu, mà khó có một người được nên công quả.

    Cha Hiền, Mẹ Báu xét rõ căn linh cho nên phải tùy phương ứng hiện thuyết pháp độ sinh, khai Bảo Hiệu, giáng Ngọc Văn. Vì Bảo Hiệu có một thần thông lực rất nên mầu nhiệm, an ủi lòng ta, hàn gắn các vết thương cho ta, ngoài hàng phục quỷ mị yêu ma, trong khu trục giun trùng, rắn rết, giải oan giải kết, giải muộn giải sầu, giải tật giải ách, giải nạn giải tai. Vì thế Ngài truyền cho chúng sinh phải đeo luôn ở người một đạo linh phù để hộ mệnh. Còn Ngọc Văn truyền học thuộc lòng để hàng ngày sáng, trưa, tối, đêm nghĩa là bốn giờ TÝ NGỌ MÃO DẬU phải cầu nguyện. Giờ TÝ bắt đầu từ mười hai giờ đêm, giờ đó khuya ít người cầu được, cho nên Ngài cũng tùy pháp phương tiện mà cho chúng sinh không thể cầu vào giờ đó thì cầu vào lúc chín giờ, mười giờ cũng được.

    Sáng ngoảnh mặt hướng Đông cầu Cha, ngoảnh mặt hướng Tây cầu Mẹ xong hướng trung ương cầu Bảo Hiệu. Cầu xong ba bài ngồi kết dà hoặc kim cương tay cầm ấn Dược Sư niệm câu: NAM VÔ TIÊU TAI DUYÊN THỌ DƯỢC SƯ PHẬT. Nhiều ít tùy tâm. Rồi trông thẳng về phía mặt giời mọc lậy năm lậy, mỗi lậy đọc danh hiệu NAM VÔ THÁI DƯƠNG MINH MINH CHÂU QUANG PHẬT. Rồi luyện phép hô hấp nếu tụng thêm được cả kinh văn đức Thái Dương thì càng hay.

    Trưa cầu bài luyện tâm và bài rèn tâm nhẫn nhục.

    Tối ngoảnh mặt hướng Đông cầu Cha, hướng trung ương cầu chung Cha Mẹ, rồi ngoảnh mặt hướng Tây cầu Mẹ.

    Đêm cầu bài sám tạ đức Cha Hiền và bài sám tạ đức Mẹ Báu.

    Cầu các bài xong ngồi kết dà tay cầm ấn Cha Hiền, tâm niệm Mẹ Báu.

    Xong cầm ấn Mẹ Báu để cầu Mẹ giáng. Các phép luyện nếu rỗi nhàn theo được càng hay, không cứ theo đủ mười bài NGỌC VĂN cũng được. Lại phải nhớ người theo đạo Quang Minh bao giờ cũng phải ngồi kết dà hay kim cương chứ không được ngồi kiểu khác.

    Ngoài mười bài NGỌC VĂN hằng ngày cầu nguyện lại thêm BÀI NIỆM THỰC để ăn uống gì chúng sinh chắp tay tạ ơn đức Cha Hiền. Kẻ bận rộn có thể đi cầu, đứng cầu. Kẻ yếu đau có thể ngồi cầu, nằm cầu. Nói rút lại từ người tại gia đến người xuất gia ăn chay hoặc ăn mặn có vợ chồng hay chưa, người sạch sẽ hay uế nhơ (thí dụ đàn bà khi sinh nở và kỳ nguyệt lệ), người giầu sang hay nghèo khó, ai ai cũng có thể cầu được, ai ai cũng có thể tu được. NGỌC VĂN lý rất huyền diệu lại rõ ràng, nghĩa thật cao sâu mà cảm động, khiến từ kẻ thượng trí đến người hạ căn ai ai cũng có thể hiểu được mà có hiểu mới có cảm, có cảm mới hay sám hối. Miệng tụng tâm suy, miệng cầu tâm sám. Sáng sám, trưa sám, tối sám, đêm sám, ngồi sám, nằm sám, đi sám, đứng sám, sáng nguyện, trưa nguyện, tối nguyện, đêm nguyện, ngồi nguyện, nằm nguyện, đi nguyện, đứng nguyện, chẳng lúc nào mà chẳng sám ở lòng, chẳng lúc nào mà chẳng nguyện ở Tâm. Vậy Phật có lúc nào mà chẳng ở Tâm. Tâm có lúc nào mà chẳng phải Phật. Còn có phiền não nào mà chẳng lìa xa. Còn có tà ma nào mà dám quấy nhiễu. Huống hồ lại nhờ được ánh linh quang Cha Hiền Mẹ Báu lúc nào cũng soi sáng lòng ta khác chi trèo một quả núi mà đằng trước có người dắt, đằng sau lại có người đẩy, có lẽ nào mà chẳng thành công? Dễ biết dễ hiểu, dễ học, dễ tu, rất thiết, rất cần, thật tôn, thật quý, công trình rất ít mà kết quả cực to. Chúng ta thử xét lại muốn làm ông nghè ở cõi nhân gian cũng phải học tập siêng năng, lao tâm khổ tứ, mà cho dẫu có thành công đi nữa cũng chỉ sung sướng một trăm năm là cùng. Huống hồ làm ông Tiên ông Phật ở cõi Cực Lạc hưởng phúc vô cùng. Hai đàng so sánh thật khác nhau một giời một vực.

    Chúng ta há có phụ lòng đại từ đại bi của Cha Hiền, Mẹ Báu đã quá thương yêu nhân loại, khai Bảo Hiệu, giáng Ngọc Văn, thu ngắn tấc gang con đường vạn dặm mà cố sức ra công sáng tối chuyện cần ngày đêm rèn luyện cho thành đạo Chính chân Chính giác ư?

    Vậy có thơ rằng:
    Thương đàn con trẻ dại ngu đần,
    Mẹ Báu, Cha Hiền giáng hiện thân.
    Thuyết kệ thuyết kinh khai Bảo Hiệu,
    Muôn năm mừng gặp hội Long Vân.

    NA MÔ A DI ĐÀ PHẬT.

  3. #3

    Mặc định

    QUANG MINH TU ĐỨC NỘI ĐẠO PHẬT THÁNH

    QUAN ÂM TUYẾT SƠN NHẬT TỤNG YẾU LƯỢC


    NAM HẢI QUÁN ÂM GIÁNG:

    1. Thi
    Niệm Phật Quán Âm ứng cảm liền,
    Trưa, chiều, sáng, tối niệm cần chuyên,
    Chẳng lui chẳng thoái không lay chuyển
    Mỗi lúc, mỗi ngày một tiến lên.

    2. Thi
    Mỗi lúc, mỗi ngày một tiến lên,
    Phật ban “Phúc Lộc Thọ” duyên niên
    Phật hằng giúp đỡ, nâng niu quý,
    Bát Nhã con thuyền đã đợi bên.

    Buổi Sáng: Giờ Mão

    Sáng ngày thức dậy,
    Trí sáng tâm thanh.
    Một dạ đinh ninh.
    Quán Âm trì niệm.
    Thần thông Phật hiện.
    Sen báu nức nhà.
    Khí độc khí tà.
    Đều tiêu tan hết.
    Trùng độc rắn rết,
    Tức lánh phương xa.
    Quỷ quái yêu ma,
    Kinh hồn mất vía.
    Rồng vàng mây tía.
    Thụy khí tường quang.
    Giải tai giải ương.
    Cứu nạn cứu khổ.
    Nhà cửa vui vẻ.
    Già trẻ bình an.
    Niệm hiệu Tuyết Sơn.
    Vô cùng linh ứng.

    Na mô Nam Hải giáng sinh Quán Thế Âm Linh Cảm Bạch Y Tuyết Sơn Bồ tát (Niệm 10 lần trở lên)

    Buổi Trưa: Giờ Ngọ

    Buổi trưa vừa đúng.
    Niệm hiệu Quán Âm.
    Con nguyện tu tâm.
    Sạch trong sáng suốt.
    Lửa sân thiêu đốt.
    Nóng nảy xin chừa.
    Phật ban cam lồ.
    Phật rưới nước phép.
    Lửa sân dập tắt.
    Lòng dạ hoan hùy.
    Vô lượng thần uy.
    Quán Âm pháp lực.
    Nguyện chừa tham độc.
    Ghen ghét đua tranh.
    Phật ánh quang minh,
    Khai con trí tuệ.
    Thơm tho lan huệ.
    Sực nức nhang trầm.
    Niệm Phật Quán Âm.
    Vô cùng linh hiển.

    Na mô Nam Hải giáng sinh Quán Thế Âm Linh Cảm Bạch Y Tuyết Sơn Bồ tát (Niệm 10 lần trở lên)

    Buổi Chiều: Giờ Dậu

    Buổi chiều vừa đến.
    Niệm Phật Quán Âm.
    Phật chứng giám tâm.
    Con xin sám hối.
    Lòng con đen tối.
    Lòng con uế nhơ.
    Lòng con u mờ.
    Lòng con nghi hoặc.
    Nguyện trừ sáu giặc.
    Mắt mũi tai mồm.
    Đức Phật Tuyết Sơn.
    Xin ngài chứng giám.
    Mắt nguyện trông ngắm
    Chẳng lệch, chẳng thiên.
    Mũi ngửi hương tiên.
    Lưỡi nếm đạo vị.
    Tai nghe kinh kệ.
    Ý nguyện kính thành.
    Thân khiết, tịnh, thanh.
    Sáu trần tiêu diệt.

    Na mô Nam Hải giáng sinh Quán Thế Âm Linh Cảm Bạch Y Tuyết Sơn Bồ tát (Niệm 10 lần trở lên)

    Ban Đêm: Giờ Tý

    Đêm khuya niệm Phật.
    Nam Hải Quán Âm.
    Nhất niệm nhất tâm.
    Chí thành chí kính.
    Lấy tâm lấy tính.
    Thay hương thay hoa.
    Lấy trí tuệ ta.
    Thay đèn thay nến.
    Niệm Phật một biến.
    Tức đắc sinh Thiên.
    Phật hiện nhỡn tiền.
    Phật ban pháp bảo.
    Oan gia nghiệp báo.
    Một phút tiêu tan.
    Thân thể nhẹ nhàng.
    Tinh thần tươi tốt.
    Niệm tôn Bồ Tát.
    Công đức vô biên.

    Na mô Nam Hải giáng sinh Quán Thế Âm Linh Cảm Bạch Y Tuyết Sơn Bồ tát (Niệm 10 lần trở lên)


    Nhời dặn rất cần

    Các Đệ tử theo Quang Minh Nội Đạo nên nhớ kỹ rằng mười bài thứ nhất “Quang Minh Nhật Tụng Yếu Lược” và bốn bài “Quán Âm Tuyết Sơn Nhật Tụng Yếu Lược” nhất định bắt buộc phải học thuộc lòng để cầu nguyện hàng ngày. Vị nào cầu thiếu tức là không theo luật lệ kỷ cương của Đạo. Thiên Thần kiểm soát ắt có lỗi lo.

    Còn 10 bài Ngọc Văn Sám thứ hai này “Đệ NhịNgọc Văn Sám” thì tùy theo sức mình và tùy theo thì giờ nhàn rỗi hay bận rộn. Nếu có thể theo được thì càng hay. Cũng như gấm thêm hoa.

    Đường tu hành của các vị lại thêm tăng tiến lên một bực nữa. Bản Đạo hết sức ngợi khen tán thán và chúc các vị mau thành Chính Quả.

    Quang Minh Nội Đạo Giáo Chủ
    PHẠM HƯƠNG SƠN


    Buổi Sáng: Giờ Mão

    (1-Ngoảnh mặt phương đông):

    1. CẦU CHA (quỳ)

    Cúi đầu sấp mặt đông phương
    Lậy Cha giúp đỡ, sót thương con cùng.
    Chúng con chẳng chủ được lòng.
    Thiện chân gương sáng bụi hồng phủ che.
    Nào là lúc tỉnh, lúc mê.
    Lúc lành, lúc dữ lòng kia rối bời.
    Giây tơ vướng vít trong ngoài,
    Oan gia, nghiệp báo theo hoài ngày đêm.
    Biết bao tội trướng triền miên,
    Quyết lòng sám hối, nguyện xin tu trì.
    Trưa, chiều, sáng, tối, đêm khuya,
    Ngày, giờ, giây, phút xét suy hỏi lòng?
    Lậy Cha mở lượng khoan hồng,
    Linh Quang chiếu riệu soi lòng cho con.
    Cho con tội trướng tiêu mòn,
    Rũ thanh nan nợ, vê tròn phúc duyên.
    Tòa Sen chín phẩm Tây thiên,
    Bảng vàng choi chói ở trên Thiên Đàng.
    Đức Cha là Chúa Thiên Đàng.
    Sinh thiên lập địa, nhân gian muôn loài.
    Chỉ vì kẻ tục trần ai,
    Ở ăn hung dữ lạc sai lòng Giời.
    Đức Cha thương xót loài người.
    Chỉ vì kẻ thế lòng thời đảo điên.
    Gây nên nghiệp chướng liên miên,
    Thiện chân gương nọ tối đen ám mờ.
    Gốc kia có tưới bao giờ,
    Khinh thường đạo đức, nghi ngờ chẳng tin.
    Tự mình tác nghiệp gây nên,
    Đắm xa bể khổ, não phiền, bi ai.
    Sống thời bệnh tật, gian tai,
    Thác đi hồn phải lạc loài trầm luân.
    Đức Cha đại thiên, đại nhân,
    Muốn cho kẻ thế ăn năn tu trì.
    Đức Cha Thượng Đế đại bi,
    Muốn cho khắp cõi thế ni đến bờ.
    Ai ơi! tỉnh lại một giờ!
    Cửa Giời hằng mở đợi chờ thiện nhân.
    Sót thương kẻ thế tối tăm,
    Muôn ngàn ức kiếp xả thân cứu đời.
    Quang Minh xuất tự lòng Giời,
    Tuyệt tiêu phiền não, sạch bời tâm can.
    Quang Minh Phật dược Tiên đan,
    Đoạn trừ oan báo, tiêu tan nghiệp trần.
    Tinh anh sáng suốt muôn phần,
    Thoát vòng trần tục phi đằng Tiên cung.

    Làm phép:
    NHẬT NGUYỆT QUANG MINH TÂM

    (2-Ngoảnh mặt phương Tây):

    2. CẦU MẸ (Quỳ)

    Đức Mẹ ngự sen vàng choi chói,
    Thương muôn loài đắm đuối trầm luân.
    Đức Mẹ vô lượng phép thần thông,
    Hào quang chiếu xa gần nhân thế.
    Nay chúng con phụng tôn, triều bái,
    Hướng Tây phương quỳ gối chấp tay.
    Nén tâm hương thấu chín từng mây,
    Quyết sám hối từ nay tu tỉnh.
    Tôn hiệu đạo Quang Minh Bảo Kính,
    Đức Mẹ thương vạn Thánh phù trì.
    Soi chiếu lòng ánh hiện quang huy,
    Phá tan chất ngu si đen tối.
    Ngọn đèn Tâm tỏ soi thế giới,
    Thanh gươm Trí choi chói sáng lòa
    Ngoài hàng phục vạn quỷ, thiên ma,
    Trong sạch tẩy trần sa phiền não.
    Quét mây mù tan cơn giông bão,
    Qua bến mê vượt khỏi luân hồi.
    Một mái chèo thong thả lượn bơi,
    Dạo khắp chốn vớt người đắm đuối.
    Sang Cực Lạc bái triều Mẹ Báu,
    Thân ngọc vàng choi chói hào quang,
    Quang Minh Bồ tát, Phật, Kim Cương,
    Ngát quế xạ trầm hương sực nức.

    Làm phép:
    NHẬT NGUYỆT QUANG MINH TÂM

    (3-Ngoảnh mặt trung ương):

    3. CẦU CHUNG CHA MẸ (Quỳ)

    1.Thành sầu man mát – Bể thảm mênh mông.
    Sóng vỗ nghìn trùng – Đắm chìm khách tục.

    2. Mông ơn đội đức – Thượng Đế Nguyên Dương.
    Vô thủy Thiên tôn – Chí cao tối đại.

    3. Thương xót vạn loại – Tựa thể đàn con.
    Nước mắt rào tuôn – Ruột đau chín khúc.

    4. Đại bi đại đức – Chí Thánh chí Chân.
    Muốn cho muôn dân – Một giờ tỉnh lại.

    5. Quyết lòng hối cải – Tỏ tính Chân Như.
    Thoát chốn lao tù – Qua vòng đen tối.

    6. Phương tiện mở lối – Thương lũ con đần.
    Bách ức hóa thân – Khai đạo lập giáo.

    7. Khi giáng làm Chúa – Chuộc tội muôn loài.
    Cứu bệnh diệt tai – Đoạn căn trừ trướng.

    8. Có khi giáng xuống – Hóa hiện Phật thân.
    Vớt kẻ trầm luân – Thuyết kinh thuyết kệ.

    9. Có khi giáng thế - Hóa hiện Thánh nhân.
    Dạy đạo Di luân – Tam cương bát mục.

    10. Có khi giáng tục – Hiện Đại Chân Nhân.
    Đạo đức ni thâm – Giáo trưởng vạn pháp.

    11. Đạo tuy có khác – Song ở một nguồn.
    Tùy xứ tùy phương – Tùy phong tùy tục.

    12. Phân chia nhiều thật – Gốc một nguyên thần.
    Đồng khí đồng căn – Đồng tính đồng thể.

    13. Chớ nên chia rẽ - Đạo nọ giáo kia.
    Phỉ báng khen chê – Tranh dành ganh tỵ.

    14. Chớ nên biện ngụy – Trọn Mẹ khinh Cha.
    Tội ác khó tha – Lưới Giời khôn tránh.

    15. Chắp tay cung kính – Lậy đức Hoàng thiên.
    Là Cha Đại Hiền – Thương con vô cực.

    16. Cảm đội công đức – Phật Tổ mười phương.
    Rất trọng rất tôn – Chính là Mẹ Báu.

    17. Này trần lụy cấu – Ham tiếc mà chi.
    Chong chóng bước đi – Đến cùng Cha Mẹ.

    18. Rơi tuân giọt lệ - Cha Mẹ thương con.
    Giáng ứng linh quang – Mở đường Cực Lạc.

    19. Mau mau khử ác – Tụ thiện tu nhân.
    Theo đường chính chân – Diệt lòng tà khúc.

    20. Quế hòe lan cúc – Xuân sắc tốt tươi.
    Muôn nước muôn loài – Giời Cha Phật Mẹ.

    21. Chẳng nên chia rẽ - Đen trắng đỏ vàng.
    Khắp người thế gian – Anh em xương thịt.

    22. Coi nhau như một – Hòa thuận yêu đương.
    Chẳng ai ghen tuông – Không hề tranh cạnh.

    23. Giời quang mây tạnh – Tỏ ánh Quang Minh.
    Tắt lửa bất bình – Dẹp ma phiền não.

    24. Yên cơn giông bão – Lặng sóng kình nghê.
    Mây gấm phủ che – Sen Vàng đua nở.

    25. Vừng hồng sáng tỏ - Sao Phúc hiện ra.
    Hạc khiếu hoan ca – Rồng bay phượng múa.

    26. Đất đai đỏ ối – Đầy ngọc đầy vàng.
    Nức mùi tiên nhang – Giời mưa hoa báu.

    27. Rừng gươm ao máu – Hóa lại Thiên Đàng.
    Địa ngục đao san – Chuyển thành Cực Lạc.

    28. Cha ban phúc lộc – Mẹ giáng ân hồng.
    Phả nguyên đồng nhân – Cộng thành Chính Giác.

    Làm phép:
    NHẬT NGUYỆT QUANG MINH TÂM


    Buổi Trưa: Giờ Ngọ

    1. Cầu về BẢO HIỆU
    (Quỳ ngoảnh mặt trung ương)

    1. Thi
    Tây phương đại đức đại Di Đà,
    Độ tận quần sinh xuất ái hà.
    Khổ hải trùng trùng thiên ức lãng,
    Mê xuyên điệp điệp vạn thiên ba.
    Đề tê lục đạo tam đồ thoát,
    Độ tận cửu huyền thất tổ hòa,
    Phổ chiếu Quang Minh Tâm Bảo Hiệu,
    Âm dương quân lợi phúc hà xa…

    2. Thi
    Sáng soi thế giới khắp ba nghìn,
    Tâm Đạo Quang Minh thật riệu huyền
    Luyện Pháp bảo trục khu quỷ mị,
    Rèn tâm linh trảm diệt ma duyên.
    Dương buồm tế độ qua bờ giác,
    Quạt gió từ bi tắt lửa phiền.
    Đường sáng mau mau củng cố bước,
    Một lòng tín ngưỡng đức vô biên…

    3. Ca
    Sáng soi khắp ba nghìn thế giới,
    Nọ non đông choi chói vừng hồng.
    Quang Minh Đạo hiển ứng linh thông,
    Tát cạn nước trăm luân khổ hải.
    Gương sáng tỏ treo thiên vạn tải,
    Bốn phương giời sĩ tử quy y,
    Khấu đầu triều bái đức A Di,
    Chính thực Mẹ đại bi đại thiện.
    Chắp tay nhất tâm thành tưởng niệm,
    Đức Nguyên Dương Vô Thượng Đế Sư,
    Chính thực Cha đại đức đại từ,
    Một ngôi hiện ba Tòa Thượng Thánh.
    Chúng con nguyện tịch tà quy chính,
    Phụng tôn hiệu Bảo Kính Quang minh.
    Lượng từ bi bất cập phàm tình,
    Lậy Cha Báu thần linh giáng hiện.
    Bốn chữ vàng Quang Minh Nhật Nguyệt,
    Chính giữa in rõ rệt chữ Tâm.
    Chẳng đắm say trong giấc mê nồng,
    Hằng thức tỉnh soi lòng xét tính.
    Chẳng khi trá cung cung kính kính,
    Tôn thờ Tâm vi thánh tối linh,
    Xét thế gian muôn sự dành dành,
    Nhất thiết do tự Tâm mình tạo.
    Tâm ấy gây nên thành các tội,
    Mọi phúc lành cũng tạo như Tâm.
    Nọ Phật, Tiên, Ma, Quỷ, Thánh, Thần,
    Ngọc với đá cùng đồng một cỗi.
    Chẳng chủ nhất tự tâm biến đổi.
    Tự buộc ràng tự cởi gỡ ra.
    Kìa chữ Tâm hiện trước mắt ta,
    Càng gắng sức để mà tu tỉnh,
    Trông chữ Vạn tăng lòng cung kính
    Phật ngự tiền đức tính viên dung.
    Bao hàm khắp thế giới hư không,
    Muôn ức sự gồm trong chữ Vạn.
    Quanh bốn mặt rừng gươm mưa đạn,
    Nào nội tà ngoại cảm yêu ma,
    Chữ Vạn ấy hiệu đức Mẹ ta,
    Hàng tróc hết tà ma nội ngoại.
    Chẳng điên đảo Tâm vô quải ngoại,
    Tâm tự nhiên, tự tại, yên vui.
    Trận gió từ mát mẻ thảnh thơi,
    Thổi tan khí tanh hội, đen tối.
    Tấm Bảo Hiệu hiện hình Bát Quái,
    Ý siêu việt nghĩa tối cao thâm,
    Khi hỗn độn Giời đất chưa phân,
    Đức vô cực sinh thân Thái Cực,
    Khối linh quang chói lòa sáng khắp,
    Do Thái Cực sinh đức Lưỡng Nghi.
    Đức hà xa khắp hết chở che,
    Lưỡng Nghi riệu kỳ sinh Tứ Tượng.
    Phép thần bí vô cùng vô lượng,
    Do Tứ Tượng sinh hóa Ngũ Hành.
    Đại thần thông trí tuệ Quang Minh,
    Ngũ hành riệu kỳ sinh Bát Quái.
    Đoạn hoặc nghiệp trừ điều tà kiến,
    Chẳng thoái lui tinh tiến uy hùng,
    Kề sinh linh ức triệu tôn sùng,
    Hiệu Bát Quái vô cùng biến hóa.
    Giáng phúc ân, xá khiên, xá quá,
    Tôn Bảo Hiệu Thiên tá Thần phù,
    Cha Mẹ thương mở một lối tu,
    Đường vạn dậm ngắn thu gang tấc,
    Bừng mắt giậy khuyên ai tỉnh giấc,
    Mau gắng công ra sức tu hành,
    Quy Chính Giáo, cầu Sám Văn Linh,
    Muôn ngàn thủa khai minh một hội.
    Nhất tâm thành phụng tôn Bảo Hiệu,
    Thật vô cùng ích lợi âm công:
    Giải tai nạn, giải ách, giải truân,
    Đoạn phiền não, đoạn căn, đoạn chướng.
    Ngoài xã hội yên cơn gió sóng,
    Trong gia đình đầm ấm, yêu đương.
    Hóa Cực Lạc, hiện cảnh Thiên Đường,
    Khắp mặt đất Sen Vàng đua nở.
    Nguyện Tâm Đạo Quang Minh hoằng mở,
    Cứu muôn loài thoát khỏi trầm luân,
    Nguyện chúng sinh khắp cõi hồng trần,
    Chứng Vô Thượng Chính Chân Chính Giác.

    Làm phép:
    NHẬT NGUYỆT QUANG MINH TÂM

    2. Cầu về VĂN SÁM
    (Quỳ ngoảnh mặt trung ương)

    1. Kính cẩn thành cảm – Nguyện cầu Sám Văn,
    Sắc giáng Thiên Thần – Đồng lai hộ vệ.

    2. Nội khu quỷ mị - Ngoài phục ma tà,
    Nguyện cầu Mẹ Cha – Soi lòng tịnh khiết.

    3. Nguyện cho kẻ chết – Hồi lại tỉnh ra,
    Cầu kẻ điếc lòa – Được nghe được thấy.

    4. Ruộng Phước vun cấy – Nền Đức đắp xây,
    Nguyện khắp đó đây – Nẩy bông Bát Nhã.

    5. Gạn lọc cặn bã – Trắng sạch tuyết băng,
    Bạch nhật thượng thăng – Nguyện cầu Văn Sám.

    6. Soi đêm u ám – Soi ngọn đèn Tâm,
    Phổ nguyện đồng nhân – Phụng tôn Bảo Hiệu.

    7. Thơm tho lan huệ - Xanh tốt bách tòng,
    Nguyện khắp hồng trần – Quy y Tâm Đạo.

    8. Chí huyền chí riệu – Tối hiển tối kỳ,
    Văn Sám nguyện cầu – Dung thông ứng cảm.

    9. Trí đen khói ám – Tuệ đặc bùn nhơ,
    Văn Sám nguyện cầu – Chuyển nên trí tuệ.

    10. Chẳng chủ chẳng trị - Tâm bắc Tâm nam,
    Văn Sám nguyện liền – Chuyển nên chính định.

    11. Chán ngán tức bực – Phiền não lo âu,
    Văn Sám nguyện cầu – Chuyển nên hoan hỷ.

    12. Hại nhân ích kỷ - Sảo quyệt gian tham,
    Văn Sám nguyện liền – Chuyển nên chân trực.

    13. Thề nguyền rủa độc – Nóng giận hét la,
    Văn Sám nguyện cầu – Chuyển nên thuần thục.

    14. Lẳng lơ cười cợt – Chớt nhả nô đùa,
    Văn Sám nguyện cầu – Chuyển nên đoan chính.

    15. Chẳng thành chẳng tín – Hay hoặc nghi ngờ,
    Văn Sám nguyện cầu – Chuyển nên tín kính.

    16. Hợm hĩnh xấu tính – Kiêu ngạo nết hư,
    Văn Sám nguyện cầu – Chuyển nên khiêm nhượng.

    17. Nghĩa nhẹ tiền nặng – Mặt trắng lòng đen,
    Văn Sám nguyện liền – Chuyển nên liêm khiết.

    18. Tung giời quen nết – Hoang phí xa hoa,
    Văn Sám nguyện cầu – Chuyển nên tiết kiệm.

    19. Quen tính lười biếng – Hay thói giông giài,
    Văn Sám nguyện cầu – Chuyển nên tinh tiến.

    20. Mệnh vị ngắn kém – Cung số yểu non,
    Văn Sám nguyện liền – Chuyển tăng thọ mệnh.

    21. Đường sinh hiếm muộn – Cung số không con,
    Văn Sám nguyện liền – Chuyển sinh quý tử.

    22. Túng tiền túng của – Thiếu áo thiếu cơm,
    Văn Sám nguyện liền – Chuyển nên phong phú.

    23. Lỗi đạo tôi chúa – Chẳng thảo mẹ cha,
    Văn Sám nguyện cầu – Chuyển nên trung hiếu.

    24. Gốc mục ngọn héo – Lá úa cành khô,
    Văn Sám nguyện cầu – Chuyển nên tươi tốt.

    25. Ưa bề nịnh hót – Quen thói phỉnh phờ,
    Văn Sám nguyện cầu – Chuyển nên nhân thiện.

    26. Như bào như tiện – Tựa nấu tựa nung,
    Văn Sám nguyện liền – Chuyển nên mát mẻ.

    27. Khi mê khi tỏ - Lúc dữ lúc lành,
    Văn Sám nguyện linh – Chuyển nên an định.

    28. Khinh khi Thiên mệnh – Hủy báng Phật Thần,
    Văn Sám nguyện cầu – Chuyển nên cung kính.

    29. Thói quen tranh chiến – Lòng độc sát sinh,
    Văn Sám nguyện linh – Chuyển nên nhân ái.

    30. Dèm pha nhạo báng – Oán trách chê khen,
    Văn Sám nguyện liền – Dứt đường nhân ngã.

    31. Ưa bề dâm đãng – Quen thói nguyệt hoa,
    Văn Sám nguyện cầu – Tắt lửa tình dục.

    32. Mưu thâm kế độc – Ý ác Tâm tà,
    Văn Sám nguyện cầu – Tuyệt trừ căn ác.

    33. Bài bạc ca hát – Thuốc sái rượu chè,
    Văn Sám nguyện cầu – Thói hư chừa hết.

    34. Nhỡn nhỉ tỵ thiệt – Sáu bụi nhiễm dơ,
    Văn Sám nguyện cầu – Rửa gội bụi tục.

    35. Tham sân si độc – Ba lưới buộc ràng,
    Văn Sám nguyện cầu – Cắt đứt giây lưới.

    36. Tội cao non núi – Oan tực bể sâu,
    Văn Sám nguyện cầu – Rũ thanh man rợ.

    37. Gập khi hãi sợ - Lâm cảnh biến nguy,
    Văn Sám nguyện cầu – Tiêu trừ nạn khổ.

    38. Sài lang báo hổ - Mối rết trăn xà,
    Văn Sám nguyện cầu – Phương xa tức lánh.

    39. Cùm chói roi đánh – Dao chém giáo đâm,
    Văn Sám nguyện cầu – Bảo toàn tính mệnh.

    40. Muốn tiêu tật bệnh – Muốn giải hung tinh,
    Văn Sám nguyện linh – Chuyển hung thành cát.

    41. Phàm cách tục cốt – Ô uế nặng nề,
    Văn Sám nguyện cầu – Chuyển thành Tiên cốt.

    42. Nhất tâm Tu Đức – Tâm đạo quy y,
    Văn Sám nguyện trì – Phúc vô lượng số.

    43. Cảm đức Phật Tổ - Thấu đạt Hồng quân,
    Sắc giáng Hồng Ân – Châu phê bút ngọc.

    44. Tựa vừng Hồng Nhật – Cây đức vững vàng.
    Treo cõi nhân gian – Tấm gương sáng suốt.

    45. Ngôi cao Ngọc Quyết – Tòa báu Kim Liên,
    Cha Mẹ dắt lên – Đời đời ngự tọa.

    Làm phép:
    NHẬT NGUYỆT QUANG MINH TÂM


    Buổi Tối: Giờ Dậu

    (1-Quỳ ngoảnh mặt phương Đông):

    CẦU CHA

    1. Thi
    Bốn phía giao công sóng gió cồn,
    Ma Vương hút vía quỷ thu hồn.
    Mày nhăn mặt ủ châu chan chứa,
    Phổi cháy gan khô ruột héo hon.
    Ách, tai, tật, bệnh trăm đường khốn,
    Còn, mất, hợp, tan đủ nỗi buồn.
    Này cái cảnh đời kinh chán tởm,
    Đến cùng Cha Báu đợi mong con.

    2. Ca
    Chí tôn Cha ngự tòa vàng,
    Hào quang sáng khắp nhân gian xa gần.
    Lòng đau như cắt như dần,
    Thương lũ con đần giọt lệ chứa chan.
    Muốn cho khắp cõi thế gian,
    Tỉnh giấc mơ màng tỏ tính chân như.
    Con sao còn ngẩn còn ngờ,
    Cùng nhau con bước xuống đò vượt sang.
    Ham chi lò lửa hầm than?
    Con khá vội vàng bước đến cùng Cha.
    Sám Văn khuya sớm nguyện cầu,
    Cha thương, Cha quý đợi chờ mong con.
    Vui thay cảnh sắc thượng phương!
    Một giờ Cha hiện linh quang tiếp về.
    Chẳng lo sống, chết, bệnh, già,
    Thân vàng cốt ngọc liên hoa hóa hình.
    Ngày ngày ngậm kệ đọc kinh,
    Ra vào Kim Quyết Ngọc Đình vẻ vang.
    Đi về nhanh chóng nhẹ nhàng,
    Triều Cha bái Mẹ lòng vàng thảnh thơi.
    Độ mình sau lại độ người,
    Độ được Cửu Tổ tức thời siêu thăng.

    3. Ca

    1. Hồng mông hỗn độn – Thượng Đế Nguyên Dương,
    Vô Thủy Thiên Tôn – Chí cao tối thượng.

    2. Bao hàm vạn tượng – Biến hóa vô ngần,
    Trí tuệ biện tài – Thần oai mạc trắc.

    3. Đại bi đại đức – Chí Thánh chí Chân,
    Tự bản tự căn – Vô vi riệu tướng.

    4. Không số, không lượng – Không bóng, không hình,
    Không diệt, không sinh – Không không, không có.

    5. Không nơi, không chỗ - Không ngoài, không trong,
    Không tiếng, không tăm – Không động, không tĩnh.

    6. Chẳng khá biện luận – Không thể kiếm tìm,
    Chí ứng chí huyền – Tối linh tối riệu.

    7. Sinh Thiên, sinh Địa – Sinh Đạo, sinh Nhân,
    Sinh Thánh, sinh Thần – Sinh Tiên, sinh Phật.

    8. Chắp tay cúi mặt – Lậy đức Tổ Sư,
    Là Cha đại từ - Thương con vô cực.

    9. Trí đen tựa mực – Lòng gợn bùn nhơ,
    Những sợ cùng lo – Những phiền cùng não.

    10. Điên điên đảo đảo – Lộn lộn nhào nhào,
    Như nạo như bào – Như nung như nấu.

    11. Lụy trần uế cấu – U ám đủ điều,
    Phúc ít tội nhiều – Trước dầy tuệ mỏng.

    12. Nội tà ngoại cảm – Âm quỷ dương ma,
    Giao công bốn bề - Rừng gươm mưa đạn.

    13. Khá kinh khá rợn – Thật hãi thật hùng,
    Muôn lớp sóng cồn – Nghìn cơn giông bão.

    14. Quấn mình thừng chão – Vấn vít giây tơ,
    Lạy đức Cha Từ - Xá con nan nợ.

    15. Con kẻ có tội – Con kẻ lỗi nhầm,
    Chẳng chú được tâm – Chẳng trì được trí.

    16. Nay con thành ý – Cầu Ngọc Sám Văn,
    Cha giáng linh thần – Như lôi như điện.

    17. Cha ban sắc lệnh – Vạn Thánh thiên Thần,
    Đồng lai giáng trần – Hộ thân hộ thể.

    18. Tà yêu chúng quỷ - Chẳng dám nhiễu sâm,
    Cha giáng linh thần – Soi lòng soi dạ.

    19. Lọc trong cặn bã – Tắt dập lửa phiền,
    Sóng lặng gió yên – Mây tan giăng tỏ.

    20. Cứu nạn cứu khổ - Giải ách giải nguy,
    Chí riệu chí kỳ - Tối linh tối hiển.

    21. Chẳng thoái chẳng chuyển – Cầu Ngọc Sám Văn,
    Vô lượng âm công – Vô biên âm đức.

    22. Ba cõi phức ức – Quế xạ tiên nhang,
    Nhất đạo Minh Quang – Cha thương Cha quý.

    Làm phép:
    NHẬT NGUYỆT QUANG MINH TÂM

    Chí tâm triều lễ - Đế Sư Vô Thượng, tiên thiên hỗn độn, hồng mông thủy hỏa, sinh nhất thủy tổ, khai hoang Nguyên Dương Thượng Đế Phu Lê Vô thủy Thiên Tôn.
    (1 lễ)

    Chí tâm triều lễ - Đế Sư sinh Đạo, sinh Thiên, sinh Địa, sinh Nhân, sinh Phật, sinh Tiên, tự bản tự căn, vô vi riệu tướng, thái sơ huyền nguyên thiên sư Nguyên Dương Thượng Đế.
    (1 lễ)

    Chí tâm triều lễ - Đế Sư tiên thiên hỗn độn, khai minh tam cảnh, thiểm châu thuyết pháp, vô lượng độ nhân, chưởng giáo vạn pháp chi tổ, hỗn nguyên thượng đức Hoàng Đế Chí Cao Thiên Tôn.
    (1 lễ)


    (2-Quỳ ngoảnh mặt phương Tây)

    CẦU MẸ

    1. Thi
    Ngoảnh mặt Tây Phương lậy Mẹ Hiền,
    Thương con u ám tối mờ đen,
    Gây oan tạo tội như non núi,
    Chìm đắm sông mê đọa bể phiền.

    2. Thi
    Chìm đắm sông mê đọa bể phiền,
    Than hồng cháy phổi đốt gan tim.
    Gọng kìm cắt thịt dao đâm ruột,
    Kinh sợ hãi hùng dạ chẳng yên.

    3. Thi
    Kinh sợ hãi hùng dạ chẳng yên,
    Nay con sám hối trước đàn tiền,
    Nguyện bao tội nặng tiêu trừ duyệt,
    Chín phẩm Sen Vàng Mẹ dắt lên.

    NA MÔ TÂY PHƯƠNG CỰC LẠC THẾ GIỚI ĐẠI TỪ ĐẠI BI TIẾP DẪN ĐẠO SƯ A DI ĐÀ PHẬT (Đọc 3 lần lễ 3 lễ)

    4. Ca
    Khấu đầu Tây hướng lậy quỳ,
    Trước tòa sen báu oai nghi vô cùng.
    Dưới trên đèn tỏ nến chong,
    Hoa tươi quả đẹp hương xông ngạt ngào,
    Chúng con lo sợ xiết bao,
    Gây oan tạo tội núi cao muôn trùng.
    Nào khi chẳng chủ được lòng,
    Giận dỗi nóng nẩy lửa hồng đốt thiêu.
    Nào khi thấy sắc mỹ miều,
    Lòng con riêng những mến yêu thèm thuồng.
    Nào khi thấy bạc, thấy vàng,
    Lòng trong bỗng hóa đen ngòm tanh hôi.
    Nào khi tự đại tự kiêu,
    Khoe khoang, hợm hĩnh đủ điều xấu xa.
    Nào khi sảo trá, điêu ngoa,
    Chê bai, phỉ báng, dèm pha, nhạo cười.
    Nào khi sát hại mọi loài,
    Nào khi trộm cắp, bạc bài bê tha.
    Nào khi đàn dịch, sướng ca,
    Nào khi rượu sớm, trà trưa dông dài.
    Nào khi lỗi đạo làm người,
    Nào khi chẳng kính Phật Giời, Tổ Tiên.
    Buộc ràng chín kết, mười triền,
    Đắm say ba độc, đua chen sáu trần.
    Biết bao oan trái, nợ nần,
    Lửa phiền thiêu đốt, tơ tầm vấn vương.
    Xét mình ô uế đủ đường,
    Đêm khuya phảng phất, canh trường ngẩn ngơ.
    Lậy xin Đức Mẹ đại từ,
    Thương đàn con dại ngây thơ, ngu đần.
    Con xin sám hối một lòng,
    Nguyện bao tội chướng, nợ nần rũ thanh.
    Từ nay quyết chí tu hành,
    Làm duyên, làm phúc, làm lành, làm nhân.
    Bụi trần rũ sạch lâng lâng,
    Thói ư, nết xấu quyết tâm xin chừa.
    Chuyên cần luyện đạo sớm trưa,
    Say mê Tịnh Độ, hững hờ trần duyên.
    Bẻ cành ngọc quế cung thiềm,
    Xương phàm như chắp cánh tiên nhẹ nhàng.
    Đẹp như hoa cúc khoe vàng,
    Hoa đào tươi thắm, hoa lan trắng ngần.
    Xanh như cây bách, cây tòng,
    Đỏ như vầng nhật non đông chói lòa.
    Mát trong như nước Cam Lồ,
    Thơm tho thuốc thánh, nõn nà đào tiên.
    Ngạt ngào mặt nước bông sen,
    Giữa giời vằng vặc giăng đêm hôm rằm.
    Ngọc trong tuyết sạch trắng ngần,
    Vàng mười đỏ ối, sơn hồng thắm tô.
    Hương tâm thoang thoảng gió đưa,
    Tỏ ngời đuốc tuệ, thơm tho hoa đàm.
    Thảnh thơi, mát mẻ, nhẹ nhàng,
    Ngọc thay cốt tục, Sen Vàng hóa thân.
    Tổ tiên nguyện được siêu thăng,
    Cháu con nguyện được đức nhân thảo hiền.
    Họ hàng thân thích dưới trên,
    Nguyện cầu phúc lộc, bình yên, thọ tràng.
    Tây Phương chín phẩm Sen Vàng,
    Nguyện cầu khắp cõi nhân hoàn cùng lên.

    NA MÔ TÂY PHƯƠNG CỰC LẠC THẾ GIỚI ĐẠI TỪ ĐẠI BI TIẾP DẪN ĐẠO SƯ A DI ĐÀ PHẬT (Đọc 3 lần lễ 3 lễ)

    A Di Đà Phật thân kim sắc,
    Tướng hảo Quang Minh vô đẳng luân.
    Bạch hào uyển chuyển ngũ Tu Di,
    Hám mục chừng thanh tứ đại hải,
    Quang trung hóa Phật vô số ức,
    Hóa Bồ tát chúng riệc vô biên.
    Tứ thập bát nguyện độ chúng sinh,
    Cửu phẩm hàm linh đăng bỉ ngạn.

    NA MÔ TÂY PHƯƠNG CỰC LẠC THẾ GIỚI ĐẠI TỪ ĐẠI BI TIẾP DẪN ĐẠO SƯ A DI ĐÀ PHẬT (Đọc 3 lần lễ 3 lễ)

    Na mô A Di Đà Phật (108 lần)
    Na mô Quan thế Âm Bồ tát (10 lần)
    Na mô Đại Thế Chí Bồ tát (10 lần)
    Na mô Địa tạng vương Bồ tát (10 lần)
    Na mô Tuyết Sơn Bồ tát (10 lần)
    Na mô Thanh tịnh đại hải chúng Bồ tát (10 lần)

    Tự quy y Phật đương nguyện chúng sinh, thể giải đại đạo, phát vô thượng tâm.
    Tự quy y Pháp đương nguyện chúng sinh, thâm nhập kinh tạng, trí tuệ như hải.
    Tự quy y Tăng đương nguyện chúng sinh, thống lý đại chúng, nhất thiết vô ngại – HÒA NAM THÁNH CHÚNG.

    Nguyện dĩ thử công đức
    Phổ cập ư nhất thiết
    Ngã đẳng dữ chúng sinh
    Giai cộng THÀNH PHẬT ĐẠO


    (3-Ngoảnh mặt trung ương)

    CẦU CHUNG CHA MẸ

    1. Thi
    Này có ra chi cái cảnh đời,
    Ai ơi ngoảnh lại ngắ mà coi.
    Lo quanh, nghĩ quẩn tơ vò rối,
    Tức hão, giận sằng lửa đốt sôi.
    Luyến sắc, tham tài đen quá mực,
    Vong ân, bội nghĩa bạc hơn vôi.
    Thật kinh, thật chán ham chi mãi,
    Mau kíp qua bờ vượt bể khơi.

    2. Ca
    Bể khơi mau kíp vượt sang!
    Ham chi cõi thế lầm than dãi dầu?
    Khi cười, lúc khóc thảm sầu,
    Ách kia chưa hết, nạn sau nối liền.
    Hết lo rồi lại đến phiền,
    Sớm còn, tối mất nổi chìm bao phen.
    Bệnh kia, tật nọ triền miên,
    Như dao cắt ruột, tựa kim đâm mề.
    Nay điềm, mai mộng mà ghê,
    Sâu kia đục óc, trùng thì nhấm gan.
    Giai thì quỷ quyệt, gian tham,
    Gái kia bất chính lòng ham dâm hào.
    Ghen tuông rồi lại oán cừu,
    Nhiều câu trách móc, lắm điều chê khen.
    Lòng người điên đảo, đảo điên,
    Bạc hơn vôi trắng, tối đen quá bùn.
    Đủ điều nhơ nhớp, tanh nhờn,
    Bão giông muôn trận, gió cuồng nghìn cơn.
    Con mau bỏ giả tìm chơn,
    Xuống thuyền con kíp chèo sang qua bờ.
    Cửa then hằng mở đợi chờ,
    Chồn hơi Mẹ gọi, Cha hò kêu con.
    Đôi hàng lệ ngọc rơi tuôn,
    Gan vàng một lá héo hon, rãi rầu,
    Con mau, mau chóng quay đầu,
    Quy y Chính Giáo, nguyện cầu Linh Văn.
    Cha thương, Mẹ quý muôn phần,
    Bách quan hộ thể, thiên thần hộ thân.
    Vui chơi nước trí, non nhân,
    Hoa đàm, đuốc tuệ ca ngâm thi đề.
    Thung dung về chốn Liên Trì,
    Quanh mình Bồ tát, bốn bề Kim Cương.
    Chói lòa muôn đạo hào quang,
    Xạ tiên sực nức, quế nhang ngạt ngào.
    Phỉ nguyền nay ước mai ao,
    Vui miền Cực Lạc tiêu rao Non Bồng.

    3. Thi
    Đội ơn Đức Mẹ đại từ bi,
    Khai Đạo mở đường dắt kẻ mê.
    Chữ Vạn chữ Tâm in rõ rệt,
    Bên Cha bên Mẹ thật uy nghi.
    Phụng tôn Bảo hiệu hà xa phúc,
    Ánh hiện Quang Minh ứng hiển kỳ.
    Sẵn lối tu hành con khá bước,
    Khuyên con mau chóng kíp quy y.

    4. Ca
    Quy y quỳ trước đàn tiền,
    Lậy Đức Cha Hiền, Mẹ Báu chứng minh.
    Lòng con chí kính, chí thành,
    Cha Mẹ mẫn tình muôn đội ơn trên.
    Xá con lũy kiếp tội khiên,
    Con quyết một niềm sám hối từ đây.
    Chúng con ngu dại, đần ngây,
    Đảo điên, điên đảo mê say đắm chìm.
    Như cùm, như kẹp, như kìm,
    Như nung, như nấu lửa phiền đốt tâm.
    Quyết lòng luyện tính, tu chân,
    Cha thương, Mẹ quý đỡ đần, nưng niu.
    Chúng con phúc ít tội nhiều,
    Khấu đầu bái triều Cha Mẹ thương con.
    Nguyện tôn Bảo Hiệu Minh Quang,
    Thấu đạt Thiên Đàng, cảm Phật mười phương.
    Ba cõi phức ức tiên hương,
    Thiên Thần vạn Thánh dương dương giáng đàn.
    Ân hồng Ngọc chỉ Cha ban,
    Quả ngọc, hoa vàng cây đức tốt tươi.
    Linh Quang Cha Mẹ chiếu soi,
    Lòng dạ sạch bời nguyệt tỏ, gương trong.
    Dạo thuyền Bát Nhã thung dung,
    Thảnh thơi về chốn Doanh Bồng Lạc bang.
    Ngôi cao chín phẩm Sen Vàng,
    Treo cõi nhân hoàn gương sáng nghìn thu.

    Làm phép:
    NHẬT NGUYỆT QUANG MINH TÂM


    Ban đêm: Giờ Tý

    1. (Quỳ ngoảnh mặt phương đông):

    Cầu CHA

    Đức Thượng Đế chí cao vô thượng,
    Lòng từ bi vô lượng vô biên,
    Thật là đại đức Cha Hiền,
    Kính tôn, tán thán, ngợi khen, không cùng…
    Lúc nào cũng một lòng cảm tạ,
    Tạ ơn Giời hết dạ thương ta,
    Lúc nào cũng nhớ đến Cha,
    Cúi đầu sấp mặt thiết tha nguyện cầu.
    Phép Giời thật nhiệm mầu linh ứng,
    Đạo Giời thật chí chính chí công!
    Uống nước nhớ đến nguồn sông,
    Ăn quả phải nhớ đến công vun giồng.
    Thế mới đáng đứng trong Giời Đất,
    Thế mới là con đức CHA HIỀN.
    Chúng con là kẻ ngu hèn,
    Là kẻ có tội, bạc đen trăm đường.
    Hằng để cho linh hồn nhuốm tục,
    Hằng để cho tâm đục, ý nhơ,
    Lạy CHA thương lũ con thơ,
    Con xin sám hối quyết tu từ giầy.
    Hằng thức tỉnh phút giây cầu nguyện,
    Lạy xin CHA giáng hiện THÁNH LINH,
    THÁNH LINH ngự ở bên mình,
    Yêu thương, giúp đỡ tâm tình yên vui.
    Trăm giống quỷ đều lui trở gót,
    Muôn loài ma hoảng hốt kinh hồn.
    Thực là riệu pháp huyền môn,
    Bao nhiêu nghiệp chướng, tội côn( căn) sạch lầu.
    Quanh khắp mình hương giời sực nức,
    Bước lên đường TU ĐỨC QUANG MINH.
    Nõn nà tuyết sạch băng thanh,
    Thắm tươi vàng đỏ, trắng tinh ngọc ngà.
    Trí tuệ nở bùng hoa Bát Nhã,
    Cốt tục phàm bỗng hóa cốt tiên,
    Chúng con đội đức CHA HIỀN,
    Vô phân, vô lượng, vô biên, vô cùng.
    Nguyện ai nấy đều bừng tỉnh lại,
    Nguyện muôn loài hối cải từ đây,
    Tội cao non núi chất đầy,
    Niệm tôn Thượng Đế sạch ngay tức thì.
    Đức Thượng Đế đại bi, đại tạo,
    Sẵn lòng tha thứ tội chúng con,
    Lúc nào Cha cũng yêu thương…

    Làm phép:
    NHẬT NGUYỆT QUANG MINH TÂM
    Đạo Giời vạn đại! vạn vạn đại!

    2. (Quỳ ngoảnh mặt phương Tây):

    Cầu MẸ

    1. Sám hối nguyện Đức Mẹ hộ trì,
    Khể thủ, khấu thủ quy y chân thành. (1 lễ)
    (Từ dưới cứ đọc hai câu lại lễ 1 lễ như trên)
    2. Tam nghiệp nguyện khiết tịnh thanh,
    Tham sân si ám, lục căn đoạn trừ.
    3. Định tâm nguyện bất dịch di,
    Chẳng điên đảo tính, chẳng mê loạn thần.
    4. Thành ý nguyện tin một đường,
    Chẳng rẽ nẻo quỷ, lạc đường tà ma.
    5. Tuệ căn nguyện khai mở ra,
    QUANG MINH chiếu riệu gần xa muôn trùng.
    6. Chân lý nguyện sáng tỏ tường,
    Qua vòng hôn ám tới đường chính chân.
    7. Nghiệp trần nguyện rũ sạch thanh,
    Tội khiên tiêu diệt, chủng căn đoạn trừ.
    8. Thân tâm nguyện chẳng hoại hư,
    Tinh anh kết ngọc chân như vững bền.
    9. Bồ đề nguyện chứng hoàn viên,
    Đời đời ngự tọa Kim Liên Ngọc Đài.


    Tự quy y Phật đương nguyện chúng sinh, thể giải đại đạo, phát vô thượng tâm.
    Tự quy y Pháp đương nguyện chúng sinh, thâm nhập kinh tạng, trí tuệ như hải.
    Tự quy y Tăng đương nguyện chúng sinh, thống lý đại chúng, nhất thiết vô ngại.
    HÒA NAM THÁNH CHÚNG.

    Nguyện dĩ thử công đức
    Phổ cập ư nhất thiết
    Ngã đẳng dữ chúng sinh
    Giai cộng THÀNH PHẬT ĐẠO

Thread Information

Users Browsing this Thread

There are currently 1 users browsing this thread. (0 members and 1 guests)

Similar Threads

  1. Thiệu Tử Thần Số & Hà Lạc Lý Số
    By VinhL in forum Dịch học ( Dịch số, Thái Ất, Kỳ Môn Ðộn Giáp, Hoa Mai, Bát tự hà lạc,…)
    Trả lời: 49
    Bài mới gởi: 02-03-2013, 08:32 AM
  2. Tìm kinh!
    By Nhất Niệm in forum Đạo Phật
    Trả lời: 13
    Bài mới gởi: 22-10-2012, 09:14 PM
  3. .Kinh Quan Âm Tuyết Sơn nhật tụng yếu lược
    By duonghoanghai in forum Sách Tôn Giáo
    Trả lời: 0
    Bài mới gởi: 20-12-2011, 12:18 AM
  4. Trả lời: 1
    Bài mới gởi: 26-06-2011, 11:42 PM
  5. Ý Nghĩa Của Công Đức Và Phúc Đức
    By dinhlong64 in forum Đạo Phật
    Trả lời: 0
    Bài mới gởi: 11-04-2011, 10:45 AM

Bookmarks

Quyền Hạn Của Bạn

  • You may not post new threads
  • You may not post replies
  • You may not post attachments
  • You may not edit your posts
  •