kết quả từ 1 tới 7 trên 7

Ðề tài: Trích Thiên Tủy (nguồn từ tuvilyso.net)

  1. #1

    Mặc định Trích Thiên Tủy (nguồn từ tuvilyso.net)

    Người dịch vnn1269 (vnn1268)


    TÍCH THIÊN TỦY
    Mục Lục


    Phần I:
    Thông Thần Luận

    Chương 1: Thiên Đạo
    Chương 2: Địa Đạo
    Chương 3: Nhân Đạo
    Chương 4: Tri Mệnh
    Chương 5: Lý Khí
    Chương 6: Phối Hợp
    Chương 7: Thiên Can
    Chương 8: Địa Chi
    Chương 9: Can Chi Tổng Luận
    Chương 10: Hình Tượng
    Chương 11: Phương Cục
    Chương 12: Bát Cách
    Chương 13: Thể Dụng
    Chương 14: Tinh Thần
    Chương 15: Nguyệt Lệnh
    Chương 16: Sinh Thời
    Chương 17: Suy Vượng
    Chương 18: Trung Hòa
    Chương 19: Nguyên Lưu
    Chương 20: Thông Quan
    Chương 21: Quan Sát
    Chương 22: Thương Quan
    Chương 23: Thanh Khí
    Chương 24: Trọc Khí
    Chương 25: Chân Thần
    Chương 26: Giả Thần
    Chương 27: Cương Nhu
    Chương 28: Thuận Nghịch
    Chương 29: Hàn Thử
    Chương 30: Táo Thấp
    Chương 31: Ẩn Hiển
    Chương 32: Chúng Quả
    Chương 33: Chấn Đoài
    Chương 34: Ly Khảm

    Phần II:
    Lục Thân Luận

    Chương 1: Phu Thê
    Chương 2:Tử Nữ
    Chương 3: Phụ Mẫu
    Chương 4: Huynh Đệ
    Chương 5: Hà Tri Chương
    Chương 6: Nữ Mệnh
    Chương 7: Tiểu Nhân
    Chương 8: Tài Đức
    Chương 9: Phấn Úc
    Chương 10: Ân Oán
    Chương 11: Nhàn Thần
    Chương 12: Tòng Tượng
    Chương 13: Hóa Tượng
    Chương 14: Giả Tòng
    Chương 15: Giả Hóa
    Chương 16: Thuận Cục
    Chương 17: Phản Cục
    Chương 18: Chiến Cục
    Chương 19: Hợp Cục
    Chương 20: Quân Tượng
    Chương 21: Thần Tượng
    Chương 22: Mẫu Tượng
    Chương 23: Tử Tượng
    Chương 24: Tính Tình
    Chương 26: Tật Bệnh
    Chương 27: Xuất Thân
    Chương 28: Địa Vị
    Chương 29: Tuế Vận
    Chương 30: Trinh Nguyên



    P/S: Phần 1 Thông Thần Luận, Chương 29: có sách họ ghi là Hàn NoãnPhần I

    Thông Thần Luận

    Chương 1:

    Thiên Đạo
    Dục thức tam nguyên vạn pháp tông, tiên quan đế tái dữ thần công


    Nguyên chú:
    Thiên hữu âm dương,cố xuân mộc,hạ hỏa,thu kim,đông thủy,quý thổ, tùy thời hiển kì thần công, mệnh trung thiên địa nhân tam nguyên chi lí, tất bản vu thử.
    Dịch nghĩa:
    Trời có âm dương ; cho nên mùa xuân mộc, mùa hạ hỏa, mùa thu kim, mùa đông thủy, tứ quý thổ vậy; tùy theo thời lệnh mà hiển hiện sinh sát; trong mệnh có trời đất người tức lý tam nguyên, mọi thứ căn bản đều như thế cả.

    Nhâm thị viết
    Kiền vi thiên nguyên, chi vi địa nguyên, chi trung sở tàng vi nhân nguyên. Nhân chi bẩm mệnh, vạn hữu bất tề, tổng bất việt thử tam nguyên chi lý, sở vị vạn pháp tông dã. Âm dương bổn hồ thái cực, thị vị đế tái, ngũ hành bá vu tứ thì, thị vị thần công, nãi tam tài chi thống hệ, vạn vật chi bản nguyên. ”Tích Thiên Tủy” thủ minh Thiên đạo như thử.
    Dịch nghĩa:
    Can là thiên nguyên, chi là địa nguyên, trong chi tàng chứa nhân nguyên. Con người thụ mệnh, các khí không đồng đều, chung quy không vượt khỏi cái lý tam nguyên, nó chính là phương pháp tông vậy. Âm dương vốn là thái cực, mệnh danh vua nâng đỡ, ngũ hành đi khắp bốn mùa, là thần sinh sát, thống quản hệ tam tài, vạn vật bắt nguồn từ đó . “Trích thiên tủy” Chương Thiên đạo tỏ rõ như thế.

    Lời người dịch:
    Lời nói của người xưa thường ngắn gọn, súc tích đôi khi khó hiểu. Chương Thiên đạo này, cổ nhân muốn bàn đến cái nguồn gốc âm dương mà kinh dịch đã nói đến. Hai khí âm dương này cọ xát nhau mà có bốn mùa, mùa xuân mộc, mùa hạ hỏa, mùa thu kim, mùa đông thủy và bốn tháng cuối của bốn mùa là thổ khí (tháng 3, 6, 9, 12). Năm cái khí này tư lệnh bốn mùa, thuận thì sinh nghịch thì sát.
    Con người bẩm thụ cái thiên khí âm dương, ngũ hành mà thành hình tượng. Tuy thụ mệnh không đồng như nhau, nhưng tựu trung lại thì không vượt ra khỏi lý tam nguyên thiên địa nhân vậy. Mệnh bẩm thụ khác nhau thì cát hung cũng không giống nhau, thế gian có vạn vật tất có vạn sự.
    Thế cho nên người học đoán mệnh cái cần yếu nhất là hiểu được cái cơ động tịnh của âm dương, cái sinh vượng của ngũ hành trong tứ trụ có trong thiên can và địa chi được mệnh danh là tam tài thiên địa nhân. Cứ theo cái lẻ ấy mà luận đoán cát hung, đó là phương pháp chính tông vậy. Vì vậy mà cổ nhân mới khuyên chúng ta: muốn biết được lý tam nguyên thí trước phải xem sự động tịnh của âm dương sau đó mới xét đến cái lý của ngũ hành (Dục thức tam nguyên vạn pháp tông, tiên quan đế tái dữ thần công) là như thế đó.

    Chương 2:

    Địa Đạo
    Khôn nguyên hợp đức cơ giam thông, ngũ khí thiên toàn định cát hung

    Nguyên chú:
    Địa hữu cương nhu, cố ngũ hành sanh vu đông nam tây bắc trung, dữ thiên hợp đức, nhi cảm kì cơ giam chi diệu. Phú vu nhân giả, hữu thiên toàn chi bất nhất, cố cát hung định vu thử.

    Dịch nghĩa:
    Đất có cương nhu, mà ngũ hành sinh ở đông nam tây bắc và trung ương, trời đất giao cảm nhau mà sinh ra cái khí diệu dụng. Con người do bẩm thụ cái thiên khí không đồng đều nhau , cũng vì vậy mà cát hung theo đó cũng khác nhau như thế.

    Nhâm thị viết:
    “Đại tai kiền nguyên, vạn vật tư thủy ”, “chí tai khôn nguyên, vạn vật tư sanh ”, kiền chủ kiện, khôn chủ thuận. Thuận dĩ thừa thiên, đức dữ thiên hợp; hú uẩn phúc dục, cơ giam lưu thông. Đặc ngũ hành chi khí hữu thiên toàn, cố vạn vật chi mệnh hữu cát hung.

    Dịch nghĩa:
    “cao lớn thay đức của kiền, vạn vật từ đó”, “cao lớn thay đức của khôn, vạn vật được sinh”, kiền chủ cương cứng, khôn chủ chủ nhu thuận. Cương nhu theo nhau, mạnh yếu trợ nhau; đắp đổi nhau, qua lại đóng mở. Chỉ do cái khí ngũ hành thiên lệch, mà cát hung của mệnh nhân đó mới phát sinh vậy.

    Lời người dịch:
    Âm dương cọ sát nhau mà sinh ra tứ tượng, tứ tượng sinh bát quái. Đứng đầu quẻ dương là kiền, đứng đầu quẻ âm là khôn. Kiền chủ cương kiện là cái tượng ban đầu của sự vật, nên thánh nhân mới bảo “đại tai kiền nguyên”. Khôn chủ nhu thuận là cái hình của sự vật, nên thánh nhân mới bảo”chí tai khôn nguyên”.
    Hai khí kiền khôn này một cái cương một cái nhu cùng theo nhau, tương trợ nhau, cùng giao cảm nhau mà sinh ra sáu quẻ chấn tốn ly khảm cấn đoài. Vạn vật cũng từ đó mà tương sinh tương diệt.Thông cũng tượng cho quẻ Thái là thời mà âm dương tương giao tư sinh vạn vật. Giam cũng tượng cho quẻ Bĩ là thời mà hai khí âm dương bất tương giao vạn vật tất tương diệt.
    Nhân sinh bẩm thụ mệnh, khí ngũ hành thiên lệch bất toàn mà họa phúc, cát hung cũng từ đó mà sinh ra. Vì thế cho nên, thánh nhân khuyên người học đoán mệnh cần hết sức quan tâm sự thông thuận của hai khí âm dương, sự lệch lạc của ngũ hành mà quyết định cát hay hung, thành hay bại, thọ yểu cùng thông (Khôn nguyên hợp đức cơ giam thông, ngũ khí thiên toàn định cát hung) ý là như vậy đó.
    Ẩn cư

  2. #2

    Mặc định

    Chương 3:

    Nhân Đạo
    Đới thiên phúc địa nhân vi quý, thuận tắc cát hề hung tắc bội

    Nguyên chú:
    vạn vật mạc bất đắc ngũ hành nhi đái thiên lí địa, duy nhân đắc ngũ hành chi toàn, cố vi quý. kì hữu cát hung chi bất nhất giả, dĩ kì đắc vu ngũ hành chi thuận dữ bội dã.
    Dịch nghĩa:
    Vạn vật sinh ra trong trời đất không có giống nào mà chẳng thụ cái khí ngũ hành, duy chỉ con người thụ được cái khí ngũ hành toàn mà quý vậy. Nhưng cát hung chẳng đồng nhau là do ngũ hành đi thuận hay nghịch đó vậy.

    Nhâm thị viết:
    Nhân cư phúc tái chi trung, đới thiên lí địa, bát tự quý hồ thiên can địa chi thuận nhi bất bội dã. Thuận giả tiếp tục tương sanh, bội giả phản khắc vi hại, cố cát hung phán nhiên. Như thiên can khí nhược, địa chi sanh chi, địa chi thần suy, thiên can phụ chi, giai vi hữu tình nhi thuận tắc cát; như thiên can suy nhược, địa chi ức chi, địa chi khí nhược, thiên can khắc chi, giai vi vô tình nhi bội tắc hung dã. giả như can thị mộc, úy kim chi khắc, địa chi hữu hợi tý sanh chi, chi vô hợi tý, thiên can hữu nhâm quý dĩ hóa chi; can vô nhâm quý, địa chi hữu dần mão dĩ thông căn; chi vô dần mão, thiên can hữu bính đinh dĩ chế chi, mộc hữu sanh cơ, cát khả tri hĩ.Nhược thiên can vô nhâm quý, nhi pảan thấu chi dĩ mậu kỷ; chi vô hợi tý dần mão, nhi phản gia chi dĩ thìn tuất sửu mùi thân dậu, đảng trợ canh tân chi kim, mộc vô sinh lý, hung khả tri hĩ.Dư khả loại suy. Phàm vật mạc bất đằc ngũ hành, đới thiên lý địa, tức vũ mao lân giới, diệc các đắc ngũ hành chuyên khí nhi sinh, như vũ trùng chúc hỏa, mao chúc mộc, lân chúc kim, giới chúc thủy.
    duy nhân chúc thổ, thổ cư trung ương, nãi mộc hỏa kim thủy trung khí sở thành, độc thị ngũ hành chi toàn, vi quý. Thị dĩ nhân chi bát tựtối nghi tứ trụ lưu thong, ngũ hành sinh hóa, đại kị tứ trụ khuyết hãm, ngũ hành thiên khô.Ngụy thư vọng ngôn tứ mậu ngọ giả, thị thánh đế chi tạo, tứ quý hợi giả, thị trương hòan hầu chi tạo, cứu kỳ lý giai hậu nhân ngoa truyền. dư hành đạo dĩ lai, thôi quá tứ mậu ngọ, tứ đinh mùi, tứ quý hợi, tứ ất dậu, tứ tân mão, tứ canh thìn, tứ giáp tuất giả thậm đa, giai tác thiên khô luận, vô bất ứng nghiệm.
    đồng ấp sử tính giả tứ nhâm dần giả, dần trung hỏa thổ trường sinh, thực thần lộc vượng, thượng hữu sinh hóa chi cấp, nhi thê tài tử lộc, bất năng toàn mỹ, chích nhân dần trung hỏa thổ chi khí, vô tòng dẫn xuất, dĩ chí ấu tao cô khổ, trung thụ cơ hàn; chí tam tuần ngoại, vận chuyển nam phương, dẫn xuất dần trung hỏa khí, đắc tế ngộ , kinh doanh phát tài, hậu cánh vô tử, gia nghệip phân đoạt nhất không. Khả tri nhưng tác thiên khô luận dã. Do thử quan tri,mệnh quý trung hòa, thiên khô chung vu hữu tổn; lý cầu bình chánh, kì dị bất túc vi bằng.

    Dịch nghĩa:
    Con người sống giửa trời đất, đầu tiếp giáp trời chân tiếp giáp đất, bát tự cần nhất là thiên can và địa chi thông thuận chớ nên nghịch thường. Thuận thì được tương sinh, nghịch thì bị khắc hại, thế cho nên cát hung cũng từ đó mà phân rẻ vậy.
    Như thiên can khí nhược, được địa chi sinh, địa chi khí suy, được thiên can trợ chi, tức can chi thông thuận tất cát; giả như thiên can suy nhược mà còn bị địa chi ức chế, địa chi khí nhược mà còn bị thiên can khắc chế, tức can chi nghịch thường hung nguy vậy.
    Thí như thiên can mộc rất sợ hành kim khắc thiên can mộc, địa chi có tý hợi hóa kim sinh can; nếu địa chi không có tý hợi, mà thiên can có nhâm quý có thể hóa kim sinh mộc; còn như thiên can không có nhâm quý mà địa chi có dần mão mộc, tức thiên can thông gốc (thông căn); bằng như địa chi không có dần mão mộc, thiên can có bính đinh hỏa khắc chế kim, thiên can mộc có sinh cơ, sự cát có thể biết được.
    Nhược bằng thiên can không có nhâm quý, mà trái lại trên can còn hiển lộ can mậu kỷ; còn địa chi không có hợi tý dần mão, mà trái lại còn thấy xuất hiện thìn tuất sửu mùi thân dậu, thổ kim trùng trùng sinh trợ kim, thiên can mộc bị khắc vô sinh trợ, hung nguy có thể biết được vậy. Dư lại các loại cứ thế mà suy.
    Đại phàm vạn vật không vật nào mà chẳng mang thuộc tính ngũ hành, trên tiếp giáp với trời dưới tiếp giáp với đất, như loài chim bay trên trời cá bơi dưới nước, cỏ cây muôn thú chạy trên bờ đều mang thuộc tính ngũ hành khí chuyên sinh của nó, như loài mang bộ lông vũ thuộc hỏa, loài cỏ cây thuộc mộc, loài cá bơi lội dưới nước thuộc kim, duy con người thụ đắc khí thuộc thổ, cư trung ương gồm nắm cả kim mộc thủy hỏa, kim mộc thủy hỏa thành từ thổ, vì vậy tuy ngũ hành nhất khí nhưng rất tôn quý. Thế cho nên bát tự tối cần tứ trụ lưu thông, ngũ hành sinh hóa hữu tình, đại kỵ tứ trụ khuyết hãm, ngũ hành thiên khô. Ngụy thư vọng ngôn cho rằng tứ trụ tứ mậu ngọ là mệnh thánh đế, tứ quý hợi là mệnh của hầu bá, nghiên cứu cận lý mới biết hậu nhân ngoa truyền.
    Ta trong quá trình hành đạo, đã xem qua những tứ trụ có tứ mậu ngọ, tứ đinh mùi, tứ quý hợi, tứ ất dậu, tứ tân mão, tứ canh thìn, tứ giáp tuất và nhiếu hơn thế nửa, đều luận mệnh theo lẻ thiên khô, chẳng cái nào mà không ứng nghiệm.
    Thí như Càn tạo mệnh tứ trụ tứ nhâm dần, địa chi dần tàng chứa hỏa thổ trường sinh, thực thần lộc vượng, trên có nhâm thủy sinh cho, mặc dù thê tài tử tôn ngộ lộc, nhưng chẳng toàn mỹ, nguyên nhân là do hỏa thố trong dần không có chi dẫn xuất, cho nên tuổi thơ cô khổ, trung vận cơ hàn, mãi quá 30 tuổi, hạn hành phương nam dẫn xuất hỏa trong dần, kinh doanh phát tài, tuổi già không con, gia nghiệp bị phân chia tranh đoạt, có thể biết được như vậy nhờ luận theo cách cục thiên khô. Do vậy nghiệm ra rằng, mệnh cục quý trung hòa, thiên khô chung quy có tổn hại; mệnh cục cần ngũ hành cân bằng đầy đủ, mệnh cục kỳ dị bất túc lấy chi nương tựa vậy.


    Lời người dịch:
    Trời đất có âm dương ngũ hành, nhị khí giao cảm nhau mà sinh ra vạn vật. Thế cho nên, dưới thế gian không có giống loài nào mà không thụ đắc cái khí âm dương ngũ hành của trời đất.
    Con người là động vật chí linh, do bẩm thụ khí âm dương ngũ hành toàn vẹn. Nhưng do sự thụ khí bất đồng và sự lưu hành của khí âm dương ngũ hành thuận nghịch mà cát hung họa phúc không đồng nhau vậy.
    Âm dương ngũ hành trong bản mệnh chính là can chi, cần nhất là trung hòa, bất túc, khiếm khuyết dù có phú quý chăng nữa cũng bất toàn. Thế cho nên, thánh nhân khảo mệnh cần sự trung hòa đầy đủ theo thường lý, chớ nên kỳ dị khác lạ nghịch thường chung cuộc hung hại (Đới thiên phúc địa nhân vi quý, thuận tắc cát hề hung tắc bội).
    Ẩn cư

  3. #3

    Mặc định

    Chương 4:
    Tri Mệnh
    Yếu dữ nhân gian khai lung hội, thuận nghịch chi cơ tu lý hội

    Nguyên chú: bất tri mệnh giả như lung hội, tri mệnh vu thuận nghịch chi cơ năng lý hội chi, thứ khả dĩ khai thiên hạ chi lung hội.
    Nhâm thị viết: thử ngôn hữu chí lý, duy khủng hậu nhân học mệnh, bất cứu thuận nghịch chi cơ. Vọng đàm nhân mệnh, di ngộ bất thiển, hổn khan kì cách dị cục, nhất thiết thần sát, hoang đường thủ dụng, đào hoa hàm trì, chuyên luận nữ mệnh tà dâm, thụ trách quỷ thần; kim tỏa thiết xà, mậu chỉ tiểu nhi quan sát, ưu nhân phụ mẫu; bất luận nhật chủ chi suy vượng, tổng dĩ tài quan vi hỉ, thương sát vi tăng, định nhân chung thân; bất quản nhật chủ chi cường nhược, tẫn thực ấn vi phúc, kiêu kiếp vi ương, bất tri tài đẳng danh, vi lục thân thủ dụngnhi liệt, cánh nhân tác tài khả dưởng mệnh, quan khả vinh thân, hà kì ngu dã! Như taì khả dưởng mệnh, tắc tài đa thân nhược giả, bất chí yêu tiên, nhi thành hiển quý.
    Dư tường khảo cổ thư, tử bình chi pháp, toàn tại tứ trụ ngũ hành. Sát kì suy vượng, cứu kì thuận bội, thẩm kì tiến thối, luận kì hỉ kị, thị vi lý hội. chí vu kì cách dị cục, thần sát nạp ạm chư danh mục, nãi hảo sự vong tạo, phi quan mệnh lý hưu cữu. nhược cư thủ luận mệnh, tất chí dĩ chính vi mậu, dĩ thị vi phi, ngoa dĩ truyền ngoa, toại sử cát hung chi lý, hôn muội nan minh hỉ. thư vân:” dụng chi vi tài bất khả kiếp, dụng chi vi quan bất khảthương, dụng chi vi ấn bất khả phối, dụng chi vi thực thần bất khả đoạt”. thử tứ cú nguyên hữu chí lý, kì yếu tại nhất “dụng” tự. vô tri học mệnh giả, bất cứu “dụng” tự căn nguyên, chuyên dĩ tài quanvi trọng, bất tri bất dụng tài tinh tẫn khả kiếp, bất dụng quan tinh tẫn khả thương, bất dụng ấn thụ tẫn khả phối, bất dụng thực thần tẫn khả đoạt. thuận bội chi cơ bất lý hội, dữ lung hội hà dị khởi năng luận cát hung, biện hiền phủ, nhi hữu công vu thế tai! Phản ngộ thế hoặc nhân giả đa hĩ!

    Càn tạo mệnh:
    Tân Mão Đinh Dậu Canh ngọ Bính Tý
    Đại vận: Bính Thân ất Mùi Quý Tỵ Nhâm Thìn Canh Dần Kỷ Sửu Mậu Tý Đinh Hợi

    Thiên can canh tân bính đinh, chánh phối hỏa luyện thu kim; địa chi tý ngọ mão dậu, hựu phối khảm ly chấn đoài. Chi toàn tứ chính, khí quán bát phương, nhiên ngũ hành vô thổ, tuy đản thu lệnh, bất tác vượng luận. tối hỉ tý ngọ phùng xung, thủy khắc hỏa, sử ngọ hỏa bất phá dậu kim, túc dĩ phu chủ; canh diệu mão dậu phùng xung, kim khắc mộc, tắc mão mộc bất trợ ngọ hỏa, chế phục đắc nghi. Mão dậu vi chấn đoài, chủ nhân nghĩa chi nhân cực; tý ngọ vi khảm ly, tể thiên địa chi trung khí. Thả khảm ly đắc nhật nguyệt chi chính thể, vô tiêu vô diệt, nhất thuận nhất nguyên, tọa hạ đoan môn, thủy hỏa ký tế. sở dĩ bát phương tân phục, tứ hải du đồng, kim mã chu diên, tinh hải bản đồ chi nội, bạch lang huyền thố, hàm quy phúc trù chi trung, thiên hạ hi trữ dã.
    Càn tạo mệnh:
    &nbs p; &n bsp; CANH THÂN CANH THÌN MẬU THÌN MẬU NGỌ
    Đại vận: tân tỵ mậu ngọ quý mùi giáp thân ất dậu bính tuất đinh hợi mậu tý
    Đổng trung đường tạo, nhậ can mậu thổ, sinh vu quý xuân ngọ thời, tự hồ vượng tướng, đệ xuân thời hư thổ, phi bỉ lục cửu nguyệt chi nhật dã. Thả lưỡng thần súc thủy vi thấp, túc dĩ tiết hỏa sinh kim, can thấu lưỡng canh, chi hội than thìn, nhật chủ quá tiết, dụng thần tất tại ngọ hỏa. hỉ thủy mộc bất kiến, nhật chủ ấn thụ bất thương, tinh thần vượng túc, thunầ túy trung hòa. Nhất sinh hoạn hải vô ba, tam thập dư niên thái bình tương nghiệp, trực chí tử vậnhội thủy cục bất lộc, thọ dĩ bát tuần hĩ.

    Càn tạo mệnh:
    &nbs p; &n bsp; Tân Dậu Tân Sửu Kỷ Dậu Bính Dần
    đại vận: Nhâm Dần Quý Mão Giáp Thìn ất Tỵ Bính Ngọ Đinh Mùi Mậu Thân Kỷ Dậu
    thử tạo dữ thượng tạo dị khúc đồng công chi diệu, nhật can kỷ thổ, tuy đản sửu nguyệt, nhiên đông thổ hàn thấp, phi bỉ lục cửu nguyệt chi ôn hú. Thả sửu trung súc thủy hàm kim, can thấu lưỡng tân, chi hội sửu dậu, nhật chủ quá tiết, dụng thần tất tại bính hỏa. hỉ thời trung dần mộc, cửu hàn hồi dương, bính hỏa hữu căn. Nhân cực tiêm mĩ linh tú, tảo vận nhâm quý, thư hương hữu trở, tương lai tỵ ngọ mùi nam hỏa địa, tiền trình vị khả hạn lượng.(tân tăng).
    Càn tạo mệnh:
    &nbs p; &n bsp; Nhâm Thần Nhâm Dần Giáp Dần Canh Ngọ
    Đại Vận :Quý Mão Giáp Thần ất Tị Bính Ngọ Đinh Vị Mậu Thân Kỷ Dậu Canh Tuất
    đồng ấp vuong tính tạo. tục dĩ thân cường sát thiển luận, thủ canh kim vi dụng, vị xuân mộc phùng kim, tất tác đóng lương chi khí, khuyến kì độc thư tất phát; chí tam tuần ngoại, bất đản độc thư vị thu, nhi thả gia nghiệp tiệm tiêu, chúc dư thôi chi. Quan kì chi tọa lưỡng dần, thừa quyền đương lệnh, can thấu lưỡng nhâm, sinh trợ vượng thần, niên chi chi thìn thổ, nãi thủy chi khố, mộc chi dư khí, năng súc thủy dưởng mộc, bất năng sinh kim, nhất điểm canh kim, hưu tù dĩ cực, thả ngọ hỏa địch chi, nhâm thủy tiết chi, bất duy vô dụng, phản vi sinh thủy chi bệnh. Đại phàm vượng chi cực giả, nghi tiết nhi bất nghi khắc, nghi thuận kì khí thế, phất bôi kì tính dã. Dĩ ngọ hỏa vi dụng, tương lai vạn chí hỏa địa, tuy bất quý vu danh, định đương phú vu lợi, như tái thủ vân song, chung thân ngộ hỉ. bỉ tức khí nho tựu kinh doanh, chí bính ngọ vận, khắc tẫn canh kim chi bệnh, bất mãn thập niên , phát tài thập dư vạn, tắc canh kim vi bệnh minh hĩ.
    Càn tạo mệnh:
    &nbs p; &n bsp; Quý dậu Giáp Tý Quý Hợi Tân Dậu
    Đại vận: Quý Hợi Nhâm Tuất Tân Dậu Canh Thân Kỷ Mùi Mậu Ngọ Đinh Tỵ Bính Thìn
    thử phúc kiến nhân bất tri tính thị, canh ngọ đông, dư thôi chi, đại thủ kim thủy vận, bất thủ hỏa thổ.bỉ viết: kim thủy vượng cực, hà dĩ hựu thủ kim thủy?tắc mệnh thư bất túc bằng hồ? thư viết:” vượng tắc nghi tiết nghi thương”, kim mãn cục kim thủy, phản thủ kim thủy, thị mệnh thư vô bằng hĩ. Dư viết: mệnh thư hà vi vô bằng? giai nhân bất năng thức mệnh trung ngũ hành chi áo diệu nhĩ. Thử tạo thủy vượng phùng kim, kì thế trùng bôn, nhất điểm giáp mộc khô phù, nan tiết thủy khí như chỉ kì lưu, phản thành thủy hoạn, bất nhược thuận kì lưu vi mĩ. Sơ vận quý hợi, trợ kì vượng thần, ấm tý hữu dư; nhất giao nhâm tuất, thủy bất thong căn, nghịch kì khí thế, hình háo tịnh kiến; tân dậu canh thân, đinh tài tịnh vượng; kỷ mùi mậu ngọ, nghịch kì tính, bán sinh sự nghiệp, tẫn phó đông lưu, hình thê khắc tử, cô khổ vô y. thử sở vị “côn lôn chi thủy, khả thuận nhi bất khả nghịch dã”. thuận nghịch chi cơ, bất khả bất tri dã.
    càn tạo mệnh:
    &nbs p; &n bsp; Quý Dậu Quý Hợi Quý Hợi Tân Dậu
    Đại Vận: Nhâm Tuất Tân Dậu Canh Thân Kỷ Mùi Mậu Ngọ Đinh Tỵ Bính Thìn ất Mão
    nhược tư án, thượng tạo “tích thiên tủy” tác quý dậu/giáp tý/ quý hợi/ tân dậu, đản căn cư thôi toán, tư hồ yếu đáo đệ nhị thiên đích giáp tý nhật thần thơpì hậu phương tài giao tiết, na yêu kì bát tựu ứng cai vi quý dậu quý hợi quý hợi tân dậu . bỉ giác nhi ngôn, lưỡng tạo đô thị thủy thế vượng cực, cách cục pha vi tương cận, đại vận diệc tương soa bất quá sổ thập thiên, nhân thử tích thiên tủy đích luận đoán thị chính xác đích.
    Hựu dĩ nhâm thiết tiều thị đích học lực, đương bất hội hữu thử chủng giác ngộ, tòng thượng diện đích văn tự khan, mệnh chủ bổn nhân diệc thong hiểumệnh ký học, đại khái thử bát tự nãi chúc tự báo, phi nhâm sư thôi đắc. hành văn chí thử, diêu tư đương thời, bất cấm tâm khoáng thần di, vi chi khuynh đảo.


    Dịch nghĩa:
    &nbs p; Câu nói trên thật chí lý, chỉ sợ người học mệnh sau này chẳng nghiên cứu tường tận cái cơ thuận nghịch. Vội vàng đàm luận nhân mệnh, làm mê hoặc không ít, xem tạp cách hay cục lạ, hết thảy thần sát đem ra dùng một cách rất hoang đường, đào hoa hàm trì chuyên luận nữ mệnh tà dâm, cầu thọ quỷ thần, kim xà thiết tỏa sai lầm tiểu nhi quan sát, làm rối lòng cha mẹ; chẳng cần biết nhật chủ cường nhược đều cho ấn thực là phúc, kiêu kiếp là tai ương, mà không biết rằng tài quan ngang nhau, lấy lục thần ngang nhau, lại cho rằng nguồn tài có thể dưởng mệnh, quan có thể vinh thân thật là ngu muội quá thay!
    Ví như nguồn tài có thể dưởng mệnh mà tài nhiều thân nhược chẳng là nhà giàu có ma bần tiện đó sao, quan có thể vinh thân mà thân suy quan vượng chỉ lá quý hiển mà chết yểu, đê tiện đó. Ta từng khảo xét cổ thư, phương phương pháp tử bình, họa phúc cát hung thọ yểu toàn tại tứ trụ ngũ hành. Xem xét sự suy vượng, nghiên cứu sự thuận nghịch, xét đoán sự tiến thoái mà luận hỉ kỵ, ấy thế mà lỉnh hội được. đến như cách hay cục lạ, lấy đó làm chính lý tất sai lầm lớn, ngoa dĩ truyền ngoa, nhân đó làm lý cho sự cát hung, thật là hôm muội khó sáng vậy. thư vân:”dụng thần tài tinh không nên gặp kiếp tài, dụng thần quan tinh không nên gặp thương quan, dụng thần ấn tinh không nên gặp tài, dụng thần thương thực không nên gặp kiêu”, bốn câu trên thật chí lý, cốt yếu ở một chử “dụng”. người học mệnh không hiểu biết, không nghiên cứu căn nguyên cho tường tận, chuyên lấy tài quan làm trọng, mà không biết rắng:”dụng thần tài tinh có thể dụng kiếp, dụng thần quan tinh có thể dụng thương quan, dụng thần ấn tinh có thể dụng tài, dụng thần thương thực có thể dụng kiêu”. Cái cơ thuận nghịch không lĩnh hội được, mômg muội đến thế làm sao có thể luận cát hung, biện hiền ngu, làm mê hoặc kẻ hậu học như thế thật quá lắm vậy!
    Càn tạo mệnh:
    TÂN MÃO ĐINH DậU CANH NGọ BÍNH TÝ
    ĐạI VậN: BÍNH THÂN ấT MÙI QUÝ Tỵ NHÂM THÌN CANH DầN Kỷ SửU MậU TÝ ĐINH HợI
    Thiên can canh tân bính đinh, chính phối hỏa luyện thu kim; địa chi tý ngọ mão dậu, cư ở bốn cung khảm ly chấn đoài. Cả bốn chi đều ở tứ chính, khí quán tám phương, nhưng ngũ hành thiếu thổ, tuy sinh vào mùa thu đương lệnh, chẳng luận vượng. rất cần tý ngọ gặp xung , thủy khắc hỏa, khiến cho ngọ hỏa chẳng khắc phá dậu kim, mà sinh phù nhật chủ; đổi lại mão dậu gặp xung, kim khắc mộc, tắc mão mộc không thể sinh trợ ngọ hỏa, chế phục đắc cách, sinh hóa hữu tình. Mão dậu tức chấn đoài chủ nhân nghĩa hơn người; tý ngọ tức khảm ly, là khí đứng đầu trong trời đất. Với lại khảm ly đắc nhật nguyệt chi chính thể, vô tiêu vô diệt, một tươi nhuận một ấm áp, tọa tại đoan môn, thủy hỏa ký tế. Cho nên tám phương qui phục, bốn biển cùng về, thiên hạ thái bình thịnh thế vậy(Thanh cao tông-càn long. Trích trong ái tân giác la mệnh phổ).

    Đổng trung đường tạo mệnh:
    CANH THÂN CANH THÌN MậU THÌN MậU NGọ
    ĐạI VậN: TÂN Tỵ Nhâm NGọ QUÝ MÙI GIÁP THÂN ấT DậU BÍNH TUấT ĐINH HợI MậU Tý
    Nhật can mậu thổ, sinh vào tiết Quý xuân vào giờ ngọ, tựa như vượng tướng, tháng mùa xuân thổ hư khí, không như thổ tháng 6, 9 là thực thổ. Vả lại hai chi Thìn thấp thổ mộ khố của thủy, có thể tiết khí hỏa sinh kim, can thấu lưởng canh, chi hội thân Thìn, nhật chủ bị tiết chế quá độ, nên chọn dụng thần là đinh hỏa tàng trong chi ngọ sinh phù. Rất cần không thấy thủy mộc, nhật chủ ấn thụ không bị thương, tinh thần sung túc, thuần túy trung ḥa. Một đời chẳng gặp hoạn nạn, hơn ba mươi năm hưởng thái b́nh sự nghiệp, măi đến vận mậu tư hội thân tư Thìn thủy cục vượng thất lộc, hưởng thọ 80 tuổi vậy.
    Càn tạo mệnh:
    &nbs p; &n bsp; Tân dậu tân sửu kỷ dậu bính dần
    Đại vận: nhâm dần Quý Mão giáp Thìn ất tỵ bính ngọ đinh mùi mậu thân kỷ dậu
    Giống như cách tạo mệnh trên tuy có khác nhau về tiểu tiết nhưng đại loại th́ cũng như thế, nhật can kỷ thổ, tuy sinh vào tháng sửu thổ vượng, nhưng thổ mùa đông hàn thấp, sao bằng thổ tháng 6, 9 ôn táo. Với lại, nguyệt lệnh sửu hàm chứa kim thủy, can thấu hai tân, chi bán hội sửu dậu kim cục, nhật can bị tiết chế quá độ, dụng thần tất chọn bính hỏa. Rất may thời trụ dần mộc, hàn cực sinh dương, bính hỏa hữu căn. Tướng người nhân đức, tuấn tú, hành vận nhâm Quý thủy thi hương trắc trở, sang vận tỵ ngọ mùi hỏa địa, tiền tŕnh tốt đẹp không thể nói hết(Tân Tăng).
    Càn tạo mệnh:
    &nbs p; &n bsp; nhâm Thìn nhâm dần giáp dần canh ngọ
    Đại vận: Quý Mão giáp thần ất tị bính ngọ đinh vị mậu thân kỷ dậu canh tuất
    Họ vương tạo mệnh, luận theo lẻ thường cho rằng thân cường sát thiển, lấy canh kim thất sát làm dụng thần, mùa xuân mộc vượng gặp kim, tất là khí lương đóng, cố gắng độc thư tất sau nên danh; măi quá ba mươi không thấy ứng nghiệm, gia nghiệp tiêu hết dần, nên nhờ ta suy đoán. Ta thấy rằng chi tọa lưỡng dần, nguyệt lệnh đương quyền, can thấu hai nhâm, sinh trợ vượng thần, chi năm Thìn thổ là thủy khố, chứa thủy dưởng mộc, không thể sinh kim, một canh kim vừa hưu tù vô khí, vừa bị ngọ hỏa chế khắc, nhâm thủy tiết khí, không chỉ vô dụng mà c̣n trở lại sinh thủy. Đại phàm vượng cực, nên tiết khí không nên bị khắc, nên thuận theo thế thịnh, chẳng nên nghịch thế. Lấy ngọ hỏa làm dụng thần, tương lai vận hành hỏa địa, tuy chẳng hiển Quý, nhất định giàu có, bằng như chờ đợi vận hội, tất có ngày như thỏa nguyện. Rời bỏ nho học chuyển sang kinh doanh, tới vận bính ngọ, khắc mất canh kim, không quá mười năm, phát tài hơn mười vạn, cho nên canh kim là khắc thần vậy.
    Càn tạo mệnh:
    &nbs p; &n bsp; Quý Dậu Giáp Tý Quý Hợi Tân Dậu
    đại vận: Quý hợi Nhâm tuất Tân dậu Canh thân Kỷ mùi Mậu ngọ Đinh tỵ Bính Thìn
    Một người ở phúc kiến không tính danh, mùa đông năm canh ngọ, ta suy luận, đại loại lấy kim thủy làm dụng thần, chẳnng nên lấy hỏa thổ làm dụng. người ấy nói: kim thủy vượng cực, cớ ǵ lấy kim thủy làm dụng thần? Hay sách mệnh có thiếu sót gi chăng? Sách xưa thường viết:”vượng nên tiết nên thương”, kim vượng đầy tức cục kim thủy, trái lại lấy kim thủy làm dụng thần, tức mệnh thư không có khiếm khuyết hay sao? Ta nói: sách xưa không sai. Bởi do người học mệnh không thể hiểu hết cái ngũ hành ảo diệu trong mệnh cục. Thử tạo thủy vượng gặp kim, tất thành thế thủy thịnh, khô mộc bị trôi dạt, không tiết được thủy sinh mộc thủy vượng không nơi phát tiết tất thành thủy lưu, phản thành họa thủy, chẳng là điềm xấu hay sao. Sơ vận Quý hợi, Quý thủy sinh trợ dụng thần thủy vượng, sinh trợ có thừa; bước sang đại vận nhâm tuất thủy bất thông căn, khí thế nghịch hành, thủy bị h́nh phạt hao tán; tân dậu canh thân, đinh tài lưỡng vượng; kỷ mùi mậu ngọ nghịch khắc dụng thần, sự nghiệp trôi theo ḍng nước chảy, h́nh thê khắc tử, cô khổ bần hàn. Ví như “ nước sông Côn Lôn, thuận chảy xuôi ḍng, không nên nghịch ḍng mà gây họa”. Thế cho nên, cái cơ thuận nghịch không nên không biết tường tận vậy.
    Càn tạo mệnh:
    &nbs p; &n bsp; Quý Dậu Quý Hợi Quý Hợi Tân Dậu
    Đại vận: Nhâm Tuất Tân Dậu Canh Thân Kỷ Mùi Mậu ngọ Đinh Tỵ Bính Thìn Ất Mão
    Theo “Trích Thiên Tủy” chép cách tạo mệnh trên như Quý Dậu/Giáp Tý/Quý Hợi/Tân Dậu, căn cứ vào sự suy tính, tựa hồ sau ngày Giáp Tý mới là ngày giao tiết, những chi tiết nhỏ ấy nên suy ứng tựu chung ngày Quý hợi, bát tự như trên. Ta so sánh, cả hai cách tạo mệnh trên đại khái thủy cục đều vượng, cách cục tương đồng, đại vận sai lệch không quá mười ngày, nhân đó mà sách luận mệnh luận đoán chính xác. Với lại, họ nhâm thiết tiều sở đắc học mệnh, chẳng lẻ không biết được những điều ấy sao, về phương diện văn tự mà thấy đựơc, mệnh chủ vốn người thông hiểu mệnh lư, đại khái bát tự thuộc loại h́nh dự báo tự nhiên, chẳng cần phải dụng tâm nhiều mới thấu hiểu được. Cách hành văn cao siêu, ư tứ sâu xa vựơt thời đại, chẳng kiềm hăm cái tâm sáng thần minh, làm nghiêng ngữa ḷng người vậy.
    Lời người dịch:
    Âm dương thuận nghịch luân chuyển không ngừng, thuận tiến tức khí vượng, nghịch thoái tức khí suy. Ví như hỏa mùa hạ sinh vượng khí tức hành khí thuận tiến, cũng là khí tử tuyệt nghịch thoái của mùa đông vậy. Thế cho nên người học mệnh cần nên lĩnh hội được cái cơ ảo diệu thuận nghịch tiến thoái của âm dương ngũ hành. Thế cho nên thánh nhân mới bảo “thuận nghịch chi cơ tu lư hội” vậy.
    Ẩn cư

  4. #4

    Mặc định

    Chương 4:
    Tri Mệnh
    Yếu dữ nhân gian khai lung hội, thuận nghịch chi cơ tu lý hội

    Nguyên chú: bất tri mệnh giả như lung hội, tri mệnh vu thuận nghịch chi cơ năng lý hội chi, thứ khả dĩ khai thiên hạ chi lung hội.
    Nhâm thị viết: thử ngôn hữu chí lý, duy khủng hậu nhân học mệnh, bất cứu thuận nghịch chi cơ. Vọng đàm nhân mệnh, di ngộ bất thiển, hổn khan kì cách dị cục, nhất thiết thần sát, hoang đường thủ dụng, đào hoa hàm trì, chuyên luận nữ mệnh tà dâm, thụ trách quỷ thần; kim tỏa thiết xà, mậu chỉ tiểu nhi quan sát, ưu nhân phụ mẫu; bất luận nhật chủ chi suy vượng, tổng dĩ tài quan vi hỉ, thương sát vi tăng, định nhân chung thân; bất quản nhật chủ chi cường nhược, tẫn thực ấn vi phúc, kiêu kiếp vi ương, bất tri tài đẳng danh, vi lục thân thủ dụngnhi liệt, cánh nhân tác tài khả dưởng mệnh, quan khả vinh thân, hà kì ngu dã! Như taì khả dưởng mệnh, tắc tài đa thân nhược giả, bất chí yêu tiên, nhi thành hiển quý.
    Dư tường khảo cổ thư, tử bình chi pháp, toàn tại tứ trụ ngũ hành. Sát kì suy vượng, cứu kì thuận bội, thẩm kì tiến thối, luận kì hỉ kị, thị vi lý hội. chí vu kì cách dị cục, thần sát nạp ạm chư danh mục, nãi hảo sự vong tạo, phi quan mệnh lý hưu cữu. nhược cư thủ luận mệnh, tất chí dĩ chính vi mậu, dĩ thị vi phi, ngoa dĩ truyền ngoa, toại sử cát hung chi lý, hôn muội nan minh hỉ. thư vân:” dụng chi vi tài bất khả kiếp, dụng chi vi quan bất khảthương, dụng chi vi ấn bất khả phối, dụng chi vi thực thần bất khả đoạt”. thử tứ cú nguyên hữu chí lý, kì yếu tại nhất “dụng” tự. vô tri học mệnh giả, bất cứu “dụng” tự căn nguyên, chuyên dĩ tài quanvi trọng, bất tri bất dụng tài tinh tẫn khả kiếp, bất dụng quan tinh tẫn khả thương, bất dụng ấn thụ tẫn khả phối, bất dụng thực thần tẫn khả đoạt. thuận bội chi cơ bất lý hội, dữ lung hội hà dị khởi năng luận cát hung, biện hiền phủ, nhi hữu công vu thế tai! Phản ngộ thế hoặc nhân giả đa hĩ!

    Càn tạo mệnh:
    Tân Mão Đinh Dậu Canh ngọ Bính Tý
    Đại vận: Bính Thân ất Mùi Quý Tỵ Nhâm Thìn Canh Dần Kỷ Sửu Mậu Tý Đinh Hợi

    Thiên can canh tân bính đinh, chánh phối hỏa luyện thu kim; địa chi tý ngọ mão dậu, hựu phối khảm ly chấn đoài. Chi toàn tứ chính, khí quán bát phương, nhiên ngũ hành vô thổ, tuy đản thu lệnh, bất tác vượng luận. tối hỉ tý ngọ phùng xung, thủy khắc hỏa, sử ngọ hỏa bất phá dậu kim, túc dĩ phu chủ; canh diệu mão dậu phùng xung, kim khắc mộc, tắc mão mộc bất trợ ngọ hỏa, chế phục đắc nghi. Mão dậu vi chấn đoài, chủ nhân nghĩa chi nhân cực; tý ngọ vi khảm ly, tể thiên địa chi trung khí. Thả khảm ly đắc nhật nguyệt chi chính thể, vô tiêu vô diệt, nhất thuận nhất nguyên, tọa hạ đoan môn, thủy hỏa ký tế. sở dĩ bát phương tân phục, tứ hải du đồng, kim mã chu diên, tinh hải bản đồ chi nội, bạch lang huyền thố, hàm quy phúc trù chi trung, thiên hạ hi trữ dã.

    Càn tạo mệnh:
    &nbs p; &n bsp; CANH THÂN CANH THÌN MẬU THÌN MẬU NGỌ
    Đại vận: tân tỵ mậu ngọ quý mùi giáp thân ất dậu bính tuất đinh hợi mậu tý
    Đổng trung đường tạo, nhậ can mậu thổ, sinh vu quý xuân ngọ thời, tự hồ vượng tướng, đệ xuân thời hư thổ, phi bỉ lục cửu nguyệt chi nhật dã. Thả lưỡng thần súc thủy vi thấp, túc dĩ tiết hỏa sinh kim, can thấu lưỡng canh, chi hội than thìn, nhật chủ quá tiết, dụng thần tất tại ngọ hỏa. hỉ thủy mộc bất kiến, nhật chủ ấn thụ bất thương, tinh thần vượng túc, thunầ túy trung hòa. Nhất sinh hoạn hải vô ba, tam thập dư niên thái bình tương nghiệp, trực chí tử vậnhội thủy cục bất lộc, thọ dĩ bát tuần hĩ.

    Càn tạo mệnh:
    &nbs p; &n bsp; Tân Dậu Tân Sửu Kỷ Dậu Bính Dần
    đại vận: Nhâm Dần Quý Mão Giáp Thìn ất Tỵ Bính Ngọ Đinh Mùi Mậu Thân Kỷ Dậu
    thử tạo dữ thượng tạo dị khúc đồng công chi diệu, nhật can kỷ thổ, tuy đản sửu nguyệt, nhiên đông thổ hàn thấp, phi bỉ lục cửu nguyệt chi ôn hú. Thả sửu trung súc thủy hàm kim, can thấu lưỡng tân, chi hội sửu dậu, nhật chủ quá tiết, dụng thần tất tại bính hỏa. hỉ thời trung dần mộc, cửu hàn hồi dương, bính hỏa hữu căn. Nhân cực tiêm mĩ linh tú, tảo vận nhâm quý, thư hương hữu trở, tương lai tỵ ngọ mùi nam hỏa địa, tiền trình vị khả hạn lượng.(tân tăng).

    Càn tạo mệnh:
    &nbs p; &n bsp; Nhâm Thần Nhâm Dần Giáp Dần Canh Ngọ
    Đại Vận :Quý Mão Giáp Thần ất Tị Bính Ngọ Đinh Vị Mậu Thân Kỷ Dậu Canh Tuất
    đồng ấp vuong tính tạo. tục dĩ thân cường sát thiển luận, thủ canh kim vi dụng, vị xuân mộc phùng kim, tất tác đóng lương chi khí, khuyến kì độc thư tất phát; chí tam tuần ngoại, bất đản độc thư vị thu, nhi thả gia nghiệp tiệm tiêu, chúc dư thôi chi. Quan kì chi tọa lưỡng dần, thừa quyền đương lệnh, can thấu lưỡng nhâm, sinh trợ vượng thần, niên chi chi thìn thổ, nãi thủy chi khố, mộc chi dư khí, năng súc thủy dưởng mộc, bất năng sinh kim, nhất điểm canh kim, hưu tù dĩ cực, thả ngọ hỏa địch chi, nhâm thủy tiết chi, bất duy vô dụng, phản vi sinh thủy chi bệnh. Đại phàm vượng chi cực giả, nghi tiết nhi bất nghi khắc, nghi thuận kì khí thế, phất bôi kì tính dã. Dĩ ngọ hỏa vi dụng, tương lai vạn chí hỏa địa, tuy bất quý vu danh, định đương phú vu lợi, như tái thủ vân song, chung thân ngộ hỉ. bỉ tức khí nho tựu kinh doanh, chí bính ngọ vận, khắc tẫn canh kim chi bệnh, bất mãn thập niên , phát tài thập dư vạn, tắc canh kim vi bệnh minh hĩ.




    Càn tạo mệnh:
    &nbs p; &n bsp; Quý dậu Giáp Tý Quý Hợi Tân Dậu
    Đại vận: Quý Hợi Nhâm Tuất Tân Dậu Canh Thân Kỷ Mùi Mậu Ngọ Đinh Tỵ Bính Thìn
    thử phúc kiến nhân bất tri tính thị, canh ngọ đông, dư thôi chi, đại thủ kim thủy vận, bất thủ hỏa thổ.bỉ viết: kim thủy vượng cực, hà dĩ hựu thủ kim thủy?tắc mệnh thư bất túc bằng hồ? thư viết:” vượng tắc nghi tiết nghi thương”, kim mãn cục kim thủy, phản thủ kim thủy, thị mệnh thư vô bằng hĩ. Dư viết: mệnh thư hà vi vô bằng? giai nhân bất năng thức mệnh trung ngũ hành chi áo diệu nhĩ. Thử tạo thủy vượng phùng kim, kì thế trùng bôn, nhất điểm giáp mộc khô phù, nan tiết thủy khí như chỉ kì lưu, phản thành thủy hoạn, bất nhược thuận kì lưu vi mĩ. Sơ vận quý hợi, trợ kì vượng thần, ấm tý hữu dư; nhất giao nhâm tuất, thủy bất thong căn, nghịch kì khí thế, hình háo tịnh kiến; tân dậu canh thân, đinh tài tịnh vượng; kỷ mùi mậu ngọ, nghịch kì tính, bán sinh sự nghiệp, tẫn phó đông lưu, hình thê khắc tử, cô khổ vô y. thử sở vị “côn lôn chi thủy, khả thuận nhi bất khả nghịch dã”. thuận nghịch chi cơ, bất khả bất tri dã.
    càn tạo mệnh:
    &nbs p; &n bsp; Quý Dậu Quý Hợi Quý Hợi Tân Dậu
    Đại Vận: Nhâm Tuất Tân Dậu Canh Thân Kỷ Mùi Mậu Ngọ Đinh Tỵ Bính Thìn ất Mão
    nhược tư án, thượng tạo “tích thiên tủy” tác quý dậu/giáp tý/ quý hợi/ tân dậu, đản căn cư thôi toán, tư hồ yếu đáo đệ nhị thiên đích giáp tý nhật thần thơpì hậu phương tài giao tiết, na yêu kì bát tựu ứng cai vi quý dậu quý hợi quý hợi tân dậu . bỉ giác nhi ngôn, lưỡng tạo đô thị thủy thế vượng cực, cách cục pha vi tương cận, đại vận diệc tương soa bất quá sổ thập thiên, nhân thử tích thiên tủy đích luận đoán thị chính xác đích.
    Hựu dĩ nhâm thiết tiều thị đích học lực, đương bất hội hữu thử chủng giác ngộ, tòng thượng diện đích văn tự khan, mệnh chủ bổn nhân diệc thong hiểumệnh ký học, đại khái thử bát tự nãi chúc tự báo, phi nhâm sư thôi đắc. hành văn chí thử, diêu tư đương thời, bất cấm tâm khoáng thần di, vi chi khuynh đảo.


    Dịch nghĩa:
    &nbs p; Câu nói trên thật chí lý, chỉ sợ người học mệnh sau này chẳng nghiên cứu tường tận cái cơ thuận nghịch. Vội vàng đàm luận nhân mệnh, làm mê hoặc không ít, xem tạp cách hay cục lạ, hết thảy thần sát đem ra dùng một cách rất hoang đường, đào hoa hàm trì chuyên luận nữ mệnh tà dâm, cầu thọ quỷ thần, kim xà thiết tỏa sai lầm tiểu nhi quan sát, làm rối lòng cha mẹ; chẳng cần biết nhật chủ cường nhược đều cho ấn thực là phúc, kiêu kiếp là tai ương, mà không biết rằng tài quan ngang nhau, lấy lục thần ngang nhau, lại cho rằng nguồn tài có thể dưởng mệnh, quan có thể vinh thân thật là ngu muội quá thay!
    Ví như nguồn tài có thể dưởng mệnh mà tài nhiều thân nhược chẳng là nhà giàu có ma bần tiện đó sao, quan có thể vinh thân mà thân suy quan vượng chỉ lá quý hiển mà chết yểu, đê tiện đó. Ta từng khảo xét cổ thư, phương phương pháp tử bình, họa phúc cát hung thọ yểu toàn tại tứ trụ ngũ hành. Xem xét sự suy vượng, nghiên cứu sự thuận nghịch, xét đoán sự tiến thoái mà luận hỉ kỵ, ấy thế mà lỉnh hội được. đến như cách hay cục lạ, lấy đó làm chính lý tất sai lầm lớn, ngoa dĩ truyền ngoa, nhân đó làm lý cho sự cát hung, thật là hôm muội khó sáng vậy. thư vân:”dụng thần tài tinh không nên gặp kiếp tài, dụng thần quan tinh không nên gặp thương quan, dụng thần ấn tinh không nên gặp tài, dụng thần thương thực không nên gặp kiêu”, bốn câu trên thật chí lý, cốt yếu ở một chử “dụng”. người học mệnh không hiểu biết, không nghiên cứu căn nguyên cho tường tận, chuyên lấy tài quan làm trọng, mà không biết rắng:”dụng thần tài tinh có thể dụng kiếp, dụng thần quan tinh có thể dụng thương quan, dụng thần ấn tinh có thể dụng tài, dụng thần thương thực có thể dụng kiêu”. Cái cơ thuận nghịch không lĩnh hội được, mômg muội đến thế làm sao có thể luận cát hung, biện hiền ngu, làm mê hoặc kẻ hậu học như thế thật quá lắm vậy!

    Càn tạo mệnh:
    TÂN MÃO ĐINH DậU CANH NGọ BÍNH TÝ
    ĐạI VậN: BÍNH THÂN ấT MÙI QUÝ Tỵ NHÂM THÌN CANH DầN Kỷ SửU MậU TÝ ĐINH HợI
    Thiên can canh tân bính đinh, chính phối hỏa luyện thu kim; địa chi tý ngọ mão dậu, cư ở bốn cung khảm ly chấn đoài. Cả bốn chi đều ở tứ chính, khí quán tám phương, nhưng ngũ hành thiếu thổ, tuy sinh vào mùa thu đương lệnh, chẳng luận vượng. rất cần tý ngọ gặp xung , thủy khắc hỏa, khiến cho ngọ hỏa chẳng khắc phá dậu kim, mà sinh phù nhật chủ; đổi lại mão dậu gặp xung, kim khắc mộc, tắc mão mộc không thể sinh trợ ngọ hỏa, chế phục đắc cách, sinh hóa hữu tình. Mão dậu tức chấn đoài chủ nhân nghĩa hơn người; tý ngọ tức khảm ly, là khí đứng đầu trong trời đất. Với lại khảm ly đắc nhật nguyệt chi chính thể, vô tiêu vô diệt, một tươi nhuận một ấm áp, tọa tại đoan môn, thủy hỏa ký tế. Cho nên tám phương qui phục, bốn biển cùng về, thiên hạ thái bình thịnh thế vậy(Thanh cao tông-càn long. Trích trong ái tân giác la mệnh phổ).

    Đổng trung đường tạo mệnh:
    CANH THÂN CANH THÌN MậU THÌN MậU NGọ
    ĐạI VậN: TÂN Tỵ Nhâm NGọ QUÝ MÙI GIÁP THÂN ấT DậU BÍNH TUấT ĐINH HợI MậU Tý
    Nhật can mậu thổ, sinh vào tiết Quý xuân vào giờ ngọ, tựa như vượng tướng, tháng mùa xuân thổ hư khí, không như thổ tháng 6, 9 là thực thổ. Vả lại hai chi Thìn thấp thổ mộ khố của thủy, có thể tiết khí hỏa sinh kim, can thấu lưởng canh, chi hội thân Thìn, nhật chủ bị tiết chế quá độ, nên chọn dụng thần là đinh hỏa tàng trong chi ngọ sinh phù. Rất cần không thấy thủy mộc, nhật chủ ấn thụ không bị thương, tinh thần sung túc, thuần túy trung ḥa. Một đời chẳng gặp hoạn nạn, hơn ba mươi năm hưởng thái b́nh sự nghiệp, măi đến vận mậu tư hội thân tư Thìn thủy cục vượng thất lộc, hưởng thọ 80 tuổi vậy.

    Càn tạo mệnh:
    &nbs p; &n bsp; Tân dậu tân sửu kỷ dậu bính dần
    Đại vận: nhâm dần Quý Mão giáp Thìn ất tỵ bính ngọ đinh mùi mậu thân kỷ dậu
    Giống như cách tạo mệnh trên tuy có khác nhau về tiểu tiết nhưng đại loại th́ cũng như thế, nhật can kỷ thổ, tuy sinh vào tháng sửu thổ vượng, nhưng thổ mùa đông hàn thấp, sao bằng thổ tháng 6, 9 ôn táo. Với lại, nguyệt lệnh sửu hàm chứa kim thủy, can thấu hai tân, chi bán hội sửu dậu kim cục, nhật can bị tiết chế quá độ, dụng thần tất chọn bính hỏa. Rất may thời trụ dần mộc, hàn cực sinh dương, bính hỏa hữu căn. Tướng người nhân đức, tuấn tú, hành vận nhâm Quý thủy thi hương trắc trở, sang vận tỵ ngọ mùi hỏa địa, tiền tŕnh tốt đẹp không thể nói hết(Tân Tăng).
    Càn tạo mệnh:
    &nbs p; &n bsp; nhâm Thìn nhâm dần giáp dần canh ngọ
    Đại vận: Quý Mão giáp thần ất tị bính ngọ đinh vị mậu thân kỷ dậu canh tuất
    Họ vương tạo mệnh, luận theo lẻ thường cho rằng thân cường sát thiển, lấy canh kim thất sát làm dụng thần, mùa xuân mộc vượng gặp kim, tất là khí lương đóng, cố gắng độc thư tất sau nên danh; măi quá ba mươi không thấy ứng nghiệm, gia nghiệp tiêu hết dần, nên nhờ ta suy đoán. Ta thấy rằng chi tọa lưỡng dần, nguyệt lệnh đương quyền, can thấu hai nhâm, sinh trợ vượng thần, chi năm Thìn thổ là thủy khố, chứa thủy dưởng mộc, không thể sinh kim, một canh kim vừa hưu tù vô khí, vừa bị ngọ hỏa chế khắc, nhâm thủy tiết khí, không chỉ vô dụng mà c̣n trở lại sinh thủy. Đại phàm vượng cực, nên tiết khí không nên bị khắc, nên thuận theo thế thịnh, chẳng nên nghịch thế. Lấy ngọ hỏa làm dụng thần, tương lai vận hành hỏa địa, tuy chẳng hiển Quý, nhất định giàu có, bằng như chờ đợi vận hội, tất có ngày như thỏa nguyện. Rời bỏ nho học chuyển sang kinh doanh, tới vận bính ngọ, khắc mất canh kim, không quá mười năm, phát tài hơn mười vạn, cho nên canh kim là khắc thần vậy.

    Càn tạo mệnh:
    &nbs p; &n bsp; Quý Dậu Giáp Tý Quý Hợi Tân Dậu
    đại vận: Quý hợi Nhâm tuất Tân dậu Canh thân Kỷ mùi Mậu ngọ Đinh tỵ Bính Thìn
    Một người ở phúc kiến không tính danh, mùa đông năm canh ngọ, ta suy luận, đại loại lấy kim thủy làm dụng thần, chẳnng nên lấy hỏa thổ làm dụng. người ấy nói: kim thủy vượng cực, cớ ǵ lấy kim thủy làm dụng thần? Hay sách mệnh có thiếu sót gi chăng? Sách xưa thường viết:”vượng nên tiết nên thương”, kim vượng đầy tức cục kim thủy, trái lại lấy kim thủy làm dụng thần, tức mệnh thư không có khiếm khuyết hay sao? Ta nói: sách xưa không sai. Bởi do người học mệnh không thể hiểu hết cái ngũ hành ảo diệu trong mệnh cục. Thử tạo thủy vượng gặp kim, tất thành thế thủy thịnh, khô mộc bị trôi dạt, không tiết được thủy sinh mộc thủy vượng không nơi phát tiết tất thành thủy lưu, phản thành họa thủy, chẳng là điềm xấu hay sao. Sơ vận Quý hợi, Quý thủy sinh trợ dụng thần thủy vượng, sinh trợ có thừa; bước sang đại vận nhâm tuất thủy bất thông căn, khí thế nghịch hành, thủy bị h́nh phạt hao tán; tân dậu canh thân, đinh tài lưỡng vượng; kỷ mùi mậu ngọ nghịch khắc dụng thần, sự nghiệp trôi theo ḍng nước chảy, h́nh thê khắc tử, cô khổ bần hàn. Ví như “ nước sông Côn Lôn, thuận chảy xuôi ḍng, không nên nghịch ḍng mà gây họa”. Thế cho nên, cái cơ thuận nghịch không nên không biết tường tận vậy.

    Càn tạo mệnh:
    &nbs p; &n bsp; Quý Dậu Quý Hợi Quý Hợi Tân Dậu
    Đại vận: Nhâm Tuất Tân Dậu Canh Thân Kỷ Mùi Mậu ngọ Đinh Tỵ Bính Thìn Ất Mão
    Theo “Trích Thiên Tủy” chép cách tạo mệnh trên như Quý Dậu/Giáp Tý/Quý Hợi/Tân Dậu, căn cứ vào sự suy tính, tựa hồ sau ngày Giáp Tý mới là ngày giao tiết, những chi tiết nhỏ ấy nên suy ứng tựu chung ngày Quý hợi, bát tự như trên. Ta so sánh, cả hai cách tạo mệnh trên đại khái thủy cục đều vượng, cách cục tương đồng, đại vận sai lệch không quá mười ngày, nhân đó mà sách luận mệnh luận đoán chính xác. Với lại, họ nhâm thiết tiều sở đắc học mệnh, chẳng lẻ không biết được những điều ấy sao, về phương diện văn tự mà thấy đựơc, mệnh chủ vốn người thông hiểu mệnh lư, đại khái bát tự thuộc loại h́nh dự báo tự nhiên, chẳng cần phải dụng tâm nhiều mới thấu hiểu được. Cách hành văn cao siêu, ư tứ sâu xa vựơt thời đại, chẳng kiềm hăm cái tâm sáng thần minh, làm nghiêng ngữa ḷng người vậy.
    Lời người dịch:
    Âm dương thuận nghịch luân chuyển không ngừng, thuận tiến tức khí vượng, nghịch thoái tức khí suy. Ví như hỏa mùa hạ sinh vượng khí tức hành khí thuận tiến, cũng là khí tử tuyệt nghịch thoái của mùa đông vậy. Thế cho nên người học mệnh cần nên lĩnh hội được cái cơ ảo diệu thuận nghịch tiến thoái của âm dương ngũ hành. Thế cho nên thánh nhân mới bảo “thuận nghịch chi cơ tu lư hội” vậy.
    Ẩn cư

  5. #5

    Mặc định

    Chương 5: Lư Khí

    Lư thừa hành khởi hữu thường, tiến hề thoái hề nghi ức dương
    Nguyên chú: hạp quan văng lai giai thị khí, nhi lư hành hồ kỳ gian. Hành chi thủy nhi tiến, tiến chi cực tắc vi thoái chi cơ, như tam nguyệt chi giáp mộc thị dă; hành chi thịnh nhi thoái, thoái chi cự tắcc vi tiến chi cơ, như cửu nguyệt chi giáp mộc thị dă. học giả nghi ức dương kỳ thiển thâm, tư khả dĩ ngôn mệnh dă.
    Dịch nghĩa:
    Cái khí đóng mở qua lại, lưu hành trong khoảng trời đất. Cái khí đó khi ban đầu th́ nó tiến, tiến măi cùng cực th́ nó thoái, như giáp mộc vào tháng 3; một khi cái khí này tiến đến cực thịnh th́ nó thoái, như giáp mộc sinh vào tháng 9 vậy. Người học mệnh nên b́nh lặng mà ḍ xét nông sâu, ấy có thể là ngôn mệnh vậy.
    Nhâm thị viết: tiến thoái chi cơ, bất khả bất tri dă. phi trường sinh vi vượng, tư tuyệt vi suy, tất đương thẩm minh lư khí chi tiến thoái, thứ đắc suy vượng chi chân cơ hĩ. Phàm ngũ hành vượng tướng hưu tù, án tứ Quý nhi định chi. Tương lai giả tiến, thị vi tương; tiến nhi đương lệnh, thị vi vượng; công thành giả thoái, thị vị hưu; thoái nhi vô khí, thị hưu tù. Tu biện kỳ vượng tướng hưu tù, dĩ tri kỳ tiến thoái chi cơ. Vi nhật chủ, vi hỉ thần, nghi vượng tướng, bất nghi hưu tù; vi hung sát, vi kị thần, nghi hưu tù, bất nghi vượng tướng. Nhiên tương diệu vu vượng, vượng tắc cực thịnh chi vật, kỳ thoái phản tốc, tương tắc phương trường chi khí, kỳ tiến vô nhai dă. hưu thậm hồ tù, tù tắc kư cực chi thế, tất tương tiệm sanh; hưu tắc phương thoái chi khí, vị năng cự phục dă. thử lư khí tiến thoái chi chính luận dă, viên cử lưỡng tạo vi lệ.
    Đinh hợi canh tuất giáp Thìn nhâm thân
    Đại vận: kỷ dậu mậu thân đinh mùi bính ngọ ất tỵ giáp Thìn Quý Mão nhâm dần
    Giáp mộc hưu khốn dĩ cực, canh kim lộc vượng khắc chi, nhất điểm đinh hỏa, nan dĩ tương đối, gia chi lưỡng tài sinh sát, tự hồ sát trọng thân khinh, bất tri cửu nguyệt giáp mộctiến khí, nhâm thủy thiếp thân tương sinh, bất thương đinh hỏa. đinh hỏa tuy nhược, thông căn thân khố, tuất năi táo thổ, hỏa chi bổn căn, Thìn năi thấp thổ, mộc chi dư khí. Thiên can nhất sinh nhất chế, địa chi hựu ngộ trường sinh, tứ trụ sinh hóa hữu t́nh, ngũ hành bất tranh bất đố. Chí đinh vận khoa giáp liên đăng, dụng hỏa địch sát minh hĩ. Tuy cửu nhâm kinh quan, nhi hoạn tư phong tồn, giai nhất lộ quan phương vận dă.
    Nhược tư án, thử sơ khán tự yếu dụng ấn, nhiên cục hữu ấn, tắc thân dĩ tư, tất dụng thương quan chế sát dă. diệu tại giáp mộc tiến khí, tắc túc dĩ nhâm tiết nhâm chế, phủ tắc bất kham.

    Ất Hợi Canh Thìn Giáp Tuất Nhâm Thân

    đại vận: kỷ Mão mậu dần đinh sửu bính tư ất hợi giáp tuất Quý dậu nhâm thân
    thử dữ tiền đại đồng tiểu dị. dĩ tục luận chi, “giáp dĩ ất muội thê canh, hung vi cát triệu”, hàm hợp vong trùng, giác chi tiền tạo canh giai, hà bỉ tắc hàn uyển, thử tắc hàn thấp? bất tri ất canh hợp nhi hóa kim, phản trợ kỳ bạo. bỉ tắc giáp Thìn, Thìn năi thấp thổ, năng sinh mộc, thử tắc giáp tuất, tuất táo thổ bất năng sinh mộc; bỉ tắc thân Thìn củng hóa, thử tắc thân tuất sinh sát; bỉ tắc giáp mộc tiến khí, nhi canh kim thoái, thử tắc canh kim tiến khí, nhi giáp mộc thoái. Suy thử lưỡng tạo, thiên uyên chi cách, tiến thoái chi cơ, bất khả bất tri dă.
    Dịch nghĩa:
    Cái cơ tiến thoái, không thể không biết. Trường sinh thì sinh vượng tử tuyệt thì suy, cần nên biện rỏ cái lý tiến thoái, sau đến xem xét cái chân suy vượng vậy. Đại phàm ngũ hành vượng tướng hưu tù, dựa theo tứ quý mà định. Tương lai giả tiến, tức vượng tướng; tiến mà đương lệnh nắm quyền tức vượng cực; sau khi khí vượng cực tức hưu; thoái mãi vô khí tức tù. Cho nên, cần biện rỏ hưu tù vượng tướng, biết được cái cơ tiến thoái vậy. Là nhật chủ, là dụng thần tối cần vượng tướng, chẳng nên hưu tù vô khí; là hung sát, là kỵ thần chẳng nên vượng tướng, mà nên hưu tù tử tuyệt. Như cái khí ban đầu hành vượng, khí vượng vật tất thịnh, vượng thịnh khí chậm thoái, tướng là phương hướng khí trường sinh, hành khí cấp mạnh mẽ vô cùng tận. Hưu quá tức tù khí, khí tù là cái khí đã cực vượng, nên khí sinh chậm; cư nơi phương vị thoái khí, đang tiềm ẩn chưa hiển lộ. Vì vậy luận khí tiến thoái là phương pháp luận chính mà học giả cần phải chú tâm vậy.
    Viên cử lượng tạo mệnh:
    Đinh hợi canh tuất giáp thìn nhâm thân
    Đại vận: kỷ dậu mậu thân đinh mùi bính ngọ ất tỵ giáp thìn quý mão nhâm dần
    Giáp mộc cực hưu tù, canh kim lộc vượng chắc can giáp mộc, can năm đinh hỏa khả dĩ chế sát hộ thân, tối hiềm thìn tuất hai chi tài sinh sát khắc thân, mệnh cục tựa chừng như sát trọng thân khinh, người thường không biết rằng giáp mộc sinh tháng 3 khí đang tiến, nhâm thủy cùng với thân kim tương sinh nhật chủ, bất thương đinh hỏa. Đinh hỏa tuy nhược nhưng thộng căn tuất thổ, thìn thuộc thấp thổ, mộc thuộc dư khí. Thiên can nhật chủ nhất sinh nhất chế, địa chi gặp trường sinh, tứ trụ sinh hóa hữu tình, ngũ hành bất tranh bất kị. hạn hành đinh hỏa vận khoa giáp liên đăng, dụng thần hỏa chế sát quá tỏ rỏ
    Ẩn cư

  6. #6

    Mặc định

    Thuyết Đạo "hỗn nguyên" của trời đất

  7. #7

    Mặc định

    Chương 6:
    Phối Hợp
    Phối hợp chi cơ tử tế tường, đinh nhân phúc họa dữ tai tường
    Nguyên chú: thiên can địa chi, tương vi phối hợp, tử tế suy tường kỳ tiến thoái chi cơ, tắc khả dĩ đoán nhân chi họa phúc tai tường hĩ.
    Dịch nghĩa:
    Thiên can địa chi tương phối tương hợp, người học mệnh cần phải tế tâm suy tường cái cơ tiến thoái, mà có thể đoán định được họa phúc tai ương vậy.
    Nhâm thị viết: thử Chương nãi tích chi mậu chi yếu lĩnh dã. Phối hợp can chi, tất tu chính lý sưu tầm tường suy, dữ suy vượng hỉ kỵ chi lý, bất khả tương tứ trụ can chi phất luận, chuyên tòng kỳ cách, dị cục, thần sát đẳng loại vọng đàm, dĩ trí họa phúc vô bằng, cát hung bất nghiệm. Mệnh trung chí lý, chích tồn dụng thần, bất câu tài , quan, ấn thụ, bỉ kiếp, thực thương, kiêu kiếp, giai khả vi dụng, vật dĩ danh chi mỹ giả vi giai, ác giả vi tăng. Quả năng thẩm nhật chủ chi suy vượng, dụng thần chi hỉ kị, đương ức tắc ức, đương phù tắc phù, sở vị khứ lưu thư phối, thủ tài xác đương, tắc vận đồ phủ thái, hiển nhiên minh bạch, họa phúc tai tường, vô bất nghiệm hĩ.
    Giáp tý mậu thìn canh thân nhâm ngọ
    Đại vận: kỷ tỵ canh ngọ tân mùi nhâm thân quý dậu giáp tuất ất hợi bính tý

    Thử tạo dĩ luận tục chi, can thấu tam kỳ chi mỹ, chi phùng củng quý chi vinh, thả hữu hội cục bất trùng, quan tinh đắc dụng, chủ danh lợi song thu. Nhiên canh thân sinh vu quý xuân, thủy bản hưu tù, nguyên khả dụng quan, hiềm kỳ chi hội thủy cục, tắc khảm tăng kỳ thế, nhi ly thất kỳ uy, quan tinh tất thương, bất túc vi dụng. dục dĩ cường chúng địch quả nhi dụng nhâm thủy, canh hiềm tam kỳ thấu mậu, kiêu thâm đoạt thực, diệc nan tác dụng. giáp mộc chi tài, bản khả tá dụng, sơ thổ vệ thủy, tiết thương sinh quan, tự hồ hữu tình, bất tri giáp mộc thoái khí, mậu thổ đương quyền, nan dĩ sơ thông. Túng dụng giáp mộc, diệc thị giả thần, bất quá dong lục chi nhân. Huống vận tẩu tây nam giáp mộc hưu tù chi địa, tuy hữu tổ nghiệp, diệc nhất bại nhi tẫn, thả bất miễn hình thê khắc tử, cô khổ bất kham. Dĩ tam kỳ củng quý đẳng cách luận mệnh, nhi bất khán dụng thần giả, giai hư mậu nhĩ.
    Càn tạo mệnh:
    Bính tý kỷ hợi ất sửu nhâm ngọ
    Đại vận: canh tý tân sửu nhâm dần quý mão giáp thìn ất tỵ bính ngọ đinh mùi

    Thử sơ tạo khán, nhất vô khả thủ, thiên can nhâm bính nhất khắc, địa chi tý ngọ diêu trùng, thả hàn mộc hỉ dương, chính ngọ thủy thế phiếm lạm, hỏa khí khắc tuyệt, tự hồ sdanh lợi vô thành. Dư tế thôi chi, tam thủy nhị thổ nhị hỏa, thủy thế tuy vượng, hỉ vô kim; hỏa bản hưu tù, hỉ hữu thổ vệ, vị nhân năng cứu mẫu; huong61 thiên can nhâm thủy sinh ất mộc, bính hỏasinh kỷ thổ, các lập môn hộ, tương xinh hữu tình, tất vô tranh vô khắc chi ý. Địa chi tuy bắc phương, nhiên hỉ kỷ thổ nguyên thầmn thấu xuất, thông căn lộc vượng, hổ tương tư hộ, kỳ thế túc dĩ chỉ thủy vệ hỏa, chính vị hữu bệnh đắc dược. thả nhất dương hậu vạn vật hoài thai, mộc hỏa tiến khí, dĩ thương quan tú khí vi dụng. trung niên vận tẩu đông nam, dụng thần sinh vượng, tất thị giáp đệ trung nhân. Giao dần, hỏa sinh mộc vượng,vận đăng giáp bản, nhập hàn uyển, thị dĩ thanh vân trực thượng. do thử lưởng tạo quan chi, phối hợp can chi chi lý, kỳ khả hốt hồ?


    Dịch nghĩa:
    Nhâm thị viết: Chương này cốt làm sáng tỏ những sai lầm ngụy tạo. Phối hợp can chi, cần sưu tầm nghiệm suy chính lý, cùng vượng suy hỉ kị của ngũ hành, không thể không luận can chi tứ trụ, chuyên lấy kỳ cách dị cục, thần sát các loậi mà vọng đàm, mới biết họa phúc lấy chi làm bằng cớ, cát hung không nghiệm. cái lý của mệnh, tồn đọng ở dụng thần, chẳng nên phân biệt câu nệ tài, quan, ấn thụ, kiêu kiếp, thương thực, mà điều có thể làm dụng thần, cho rằng đẹp thì tốt cát lợi, ác tức xấu, tăng đạo. Nên cần nhất xem xét nhật chủ cường vượng, dụng thần hỉ kị, cần đè nén, ức chế thì đè nén ức chế, cần sinh phù thì sinh phù, do cái sự phối hợp qua lại mà xác định nên bỏ hay nên lấy, từ đó biết được vận đồ bỉ thái, họa phúc tai ương, chẳng không ứng nghiệm vậy.

    Càn tạo mệnh:
    Giáp tý mậu thìn canh thân nhâm ngọ
    Đại vận: kỷ tỵ canh ngọ tân mùi nhâm thân quý dậu giáp tuất ất hợi bính tý
    Luận theo thói thường, thiên can thấu tam kỳ thì cát, địa chi quý nhân củng hợp là vinh, vả lại, thân tý thìn tam hợp hội cục không gặp xung, quan tinh đắc dụng, chủ danh lợi song toàn. Tuy nhiên canh kim sinh vào trọng xuân, thủy vốn hưu tù, nguyên có thể lấy quan tinh làm dụng thần, hiềm vì chi hội thủy cục, tất khảm thủy khí thế cường vượng, tức ly hỏa khí thế suy nhược, quan tinh thụ thương, không thể dùng làm dụng thần được. muốn lấy nhâm thủy vượng cực đối địch khắc thần, chỉ hiềm canh kim đắc tam kỳ thấu mậu, kiêu vượng đoạt thực, cũng không thể lấy làm dụng thần. giáp mộc tài tinh vốn có thể phù trợ dụng thần, làm thông thổ bảo vệ thủy, tiết thương sinh quan, tứ trụ dường như hữu tình, mà không biết rằng giáp mộc thoái khí, mậu thổ đưong quyền, không thể thông thổ. Lấy giáp mộc làm dụng thần, cũng là giả dụng thần, chẳng qua cũng chỉ là người bình thường mà thôi. Huống chi đại vận hành phương tây nam, giáp mộc ở đất hưu tù, tuy được của cải tổ nghiệp truyền lại, cũng bằng không, còn hình thê khắc tử, cô khổ bần hàn. Lấy cách tam kỳ củng quý nhân luận mệnh, chẳng xem dụng thần sinh vượng, thật hư ngụy quá lắm.

    Càn tạo mệnh:
    Bính tý kỷ hợi ất sửu nhâm ngọ
    Đại vận: canh tý tân sửu nhâm dần quý mão giáp thìn ất tỵ bính ngọ đinh mùi

    Thiên can nhâm thủy khắc bính hỏa, địa chi tý thủy xung khắc ngọ hỏa, hàn mộc hỉ dương, chính ngọ hỏa thủy thế vượng thịnh, tất hỏa khí bị khắc tuyệt, tựa hồ danh lợi không thành. Ta suy nghĩ, ba thủy hai thổ hai hỏa, thủy thế tuy vượng, không có nguồn; hỏa vốn hưu tù cần thổ bảo vệ che chở, nhân đó mà dược cứu; huống chi thiên can nhâm thủy sinh ất mộc, bính hỏa sinh kỷ thổ, đều lập nên môn hộ, tương sinh hữu tình, không có cái ý tương tranh tương khắc. Địa chi tuy cư bắc phương, nhưng hỉ kỷ thổ nguyên thần thấu xuất, thông căn lộc vượng, hổ tương che chở giúp đở, cần nên ngăn thủy bảo vệ hỏa, chính là có bệnh mà được cứu vậy. Với lại khí nhất dương vạn vật bắt đầu sinh sôi, mộc hỏa tiến khí, do đó thương quan dụng thần tú khí. Trung niên vận tẩu đông nam, dụng thần sinh vượng, tuổi trung niên thi đậu. Giao vận dần, hỏa sinh mộc vựơng, đăng khoa giáp bản, nhập cung vua, thanh vân đắc lộ vận trình tiến tới. Từ hai cách tạo mệnh trên cho thấy, phối hợp can chi có lý, có thể xem xét qua loa được ư?


    Chương 7: Thiên Can

    Ngũ dương giai dương bính vi tối, ngũ âm giai âm quý vi chí

    Nguyên chú: giáp, bính, mậu, canh, nhâm vi dương, độc bính hỏa bỉnh dương chi tinh, nhi vi dương trung chi dương; ất, đinh, kỷ, tân, quý vi âm, độc quý thủy bỉnh âm chi tinh, nhi vi âm trung chi âm.

    Dịch nghĩa:
    Giáp, bính, mậu, canh, nhâm thuộc dương, duy chỉ bính hỏa mang khí thuần dương, dương trong dương; ất, đinh, kỷ, tân, quý thuộc âm, duy chỉ quý thủy mang khí thuần âm, âm trong âm.
    Nhâm thị viết: bính nãi thuần dương chi hỏa, vạn vật mạc bất do thử nhi phát, đắc thử nhi liễm; quý nãi thuần âm chi thủy, vạn vật mạc bất đắcdo thử nhi sinh, đắc thử nhi mậu.
    Dương cực tắc âm sinh, cố bính tân hóa thủy; âm cực tắc âm sinh, cố mậu quý hóa hỏa. âm dương tương tể, vạn vật hữu sinh sinh chi diệu. Phu thập can chi khí, dĩ tiên thiên ngôn chi, cố nhất nguyên đồng xuất, dĩ hậu thiên ngôn chi, diệc nhất khí tương bao. Giáp ất nhất mộc dã, bính đinh nhất hỏa dã, mậu kỷ nhất thổ dã, canh tân nhất kim dã, nhâm quý nhất thủy dã, tức phân biệt sở dụng, bất quá dương cương âm nhu, dương kiện ạm thuận nhi dĩ. Thiết quái mệnh gia tác ca vi phú, bỉ nghĩ thất luận, cánh dĩ giáp mộc vi lương đống, ất mộc vi hoa quả; bính tác thái dương, đinh tác đăng chúc; mậu tác thành tường, kỷ tác điền viên; canh vi ngoan thiết, tân tác châu ngọc; nhâm vi giang hà, quý nhi vũ lộ. tương duyên dĩ cửu, lao bất khả phá, dụng chi luận mệnh, thành đại mậu dã. như vị giáp vi vô căn tử mộc, ất vị hữu căn hoạt mộc, đồng thị mộc nhi phân sinh , khởi dương mộc độc bẩm tử khí, âm mộc độc bẩm sinh khí hồ? luận đoán chư can, như thử chi loại, bất nhất nhi túc, đương tẫn tị chi, dĩ tuyệt tương lai chi mậu.

    Dịch nghĩa:
    Bính thuộc hỏa khí thuần dương, vạn vật không thứ nào mà chẳng do nó mà phát triển, thu liễm; quý thuộc thủy khí thuần âm, vạn vật không thứ nào mà chẳng do nó mà sinh ra, tươi tốt. Dương cực thì âm sinh, do vậy bính tân hợp hóa thủy; âm cực thì dương sinh, do vậy mậu quý hợp hóa hỏa. Âm dương tương giao, vạn vật khéo sinh sôi vậy. Đến như khí của mười can, theo tiên thiên mà nói thì khí đó đồng nhất khí (tức là do âm dương nhị khí sinh ra vậy-ND), theo hậu thiên mà luận thì khí đó cũng do hai khí tương hợp nhau mà thành. Giáp ất thuộc mộc, bính đinh thuộc hỏa, mậu kỷ thuộc thổ, canh tân thuộc kim, nhâm quý thuộc thủy cũng do phân biệt thể dụng mà ra, nhưng cũng không ngoài cái khí âm nhu thuận, cái dương khí cương kiện đó. Các mệnh gia nông cạn, làm ra các bài phú tạo mệnh, với cách nghĩ sai lệch, cho rằng giáp mộc làm lương đóng, ất mộc làm hoa quả; bính hỏa thuộc thái dương, đinh hỏa thuộc đèn đuốc; mậu thổ làm thành quách, kỷ thổ tức điền viên; canh kim thuộc sắt cứng, tận kim thuộc châu ngọc; nhâm thủy thuộc sông ngòi, quý thủy thuộc mưa móc. Luận theo đó đã lâu, bền chắc không thể phá được. Ví như giáp dương mộc không gốc rể gọi là tử mộc, ất âm mộc có gốc rể gọi là hoạt mộc, cũng đồng một thứ mộc mà phân ra sinh tử, chẳng là dương mộc chỉ thụ khí tử tuyệt, còn âm mộc chỉ độc thụ khí sinh vượng hay sao? Luận đoán thiên can các loại thiếu sót, bất nhất,xa vời thực tế như thế, làm sai lầm cho người sau vậy.

    Ngũ dương tòng khí bất tòng thế, ngũ âm tòng thế vô tình nghĩa
    Nguyên chú: ngũ dương đắc dương chi khí, tức năng thành hồ dương cương chi thế, bất úy tài sát chi thế; ngũ âm đắc âm chi thế, tức năng thành hồ âm thuận chi nghĩa, cố mộc thịnh tất tòng mộc, hỏa thịnh tất tòng hỏa, thổ thịnh tất tòng thổ, kim thịnh tất tòng kim, thủy thịnh tất tòng thủy. vu tình nghĩa chi sở tại giả, kiến kỳ thế suy, tất kị chi hĩ, cái phụ nhân chi tình dã. như thử, nhược đắc khí thuận lý chính giả, diệc vị tất tòng thế nhi vong nghĩa, tuy tòng diệc tất chính hĩ.

    Dịch nghĩa:
    Ngũ dương do thụ cái khí dương, mà thành thế dương cương, chẳng sợ tài sát; ngũ âm do thụ cái khí âm, mà thành thế âm thuận, thế cho nên mộc thịnh thì tòng mộc, hỏa thịnh thì tòng hỏa, thổ thịnh thì tòng thổ, kim thịnh thì tòng kim, thủy thịnh thì tòng thủy. Do theo tình nghĩa mà nương náu, gặp thế suy yếu thời hung kị, như người con gái theo chồng vậy. Thế cho nên, khi đặng cái khí thuận chính, mà tòng thế bỏ nghĩa, tuy tòng nhưng cũng thuận chính đó.

    Nhâm thị viết: ngũ dương khí tỵ, quang hanh chi tượng dịch quan; ngũ âm khí hấp, bao hàm chi uẩn nan trắc. ngũ dương chi tính cương kiện, cố bất úy tài sát nhi hữu trắc ẩn chi tâm, kỳ xử thế bất cẩu thả; ngũ ạm nhi tính nhu thuận, cố kiến thế vong nghĩa, nhi hữu bỉ lận chi tâm, kỳ xử thế đa kiêu siểm. thị dĩ nhu năng khắc chế cương, cương bất năng chế khắc nhu dã. đại để xu lợi vong nghĩa chi đồ; giai âm khí chi vi lệ dã; hào hiệp khẳng khái chi nhân, giai dương khí chi độc chung. Nhiên thượng hữu dương trung chi âm, âm trung chi dương, hựu hữu dương ngoậi âm nội, âm ngoại dương nội, diệc đương biện chi. Dương trung chi âm, ngoại nhân nghĩa nhi nội gian trá; âm trung chi dương, ngoại âm hiển nhi nội nhân từ; dương ngoại âm nội giả, bao tàng họa tâm; âm ngoại dương nội giả bỉnh trì trực đạo. thử nhân phẩm chi đoan tà? Cố bất khả dĩ bất biện. yếu tại khí thế thuận chính, tứ trụ ngũ hành đình quân, thứ bất thiên ỷ, tự vô tổn nhân lợi kỷ chi tâm. Phàm trì thân thiệp thề chi đạo, xu tỵ tất tiên tri nhân, cố vân”trạch kỳ thiện giả nhi tòng chi”, tức thử ý dã.

    Dịch nghĩa:
    Ngũ dương khí tán, có cái tượng sáng sủa hanh thông; ngũ âm khí hợp, bao hàm ẩn dấu khó lường. Khí ngũ dương tính cương kiện, chẳng sợ tài sát nên có lóng trắc ẩn, xử thế không cẩu thả; khí ngũ âm tính nhu thuận, theo lợi quên nghĩa, nên có cái lòng bỉ lận, xử thế nhiều kiêu căng nịnh nọt. Cái khí âm nhu này có thể khắc chế cái khí dương cương, chứ cái khí dương cương đó không thể khắc chế cái khí âm nhu được. Nói chung lệ là: “âm khí là hạng người thấy lợi quên nghĩa; còn dương khí là hạng người hào hiệp khẳng khái”. Như trên trong dương có âm, trong âm có dương, lại có ngoài dương mà trong âm, ngoài âm mà trong dương, theo đó mà luận bàn. Như ngoài thì dương mà bên trong thì âm tức hạng người ngoài thì nhân nghĩa mà lòng thì gian trá, tất có cái họa ần chứa bên trong; còn ngoài thì âm nhu mà trong thì dương cương tức hạng người ngoài thì trông có vẻ gian trá nhưng lòng thì nhân nghĩa bao dung cương trực. Cứ theo đó chẳng lẻ nào mà không biết được nhân phẩm đoan chính hay gian tà sao? Cho nên không thể không biện biệt cho tường tận vậy. Thiết yếu tại khí thế thuận chính, tứ trụ ngũ hành bình hòa, không nên thiên lệch không có chổ nương tựa, không làm lợi mình hại người. Phàm con người muốn giử được cái đạo thiệp thế, xu cát tỵ hung trước hết phải biết người, xưa có câu”nên phân biệt được cái thiện để mà theo”, là như vậy đó.

    Giáp mộc sâm thiên, thoát thai yếu hỏa. xuân bất dung kim, thu bất dung thổ. Hỏa sí thừa long, thủy đãng kị hổ. Địa nhuận thiên hòa, thực lập thiên cổ.

    Nguyên chú: thuần dương chi mộc, tham thiên hùng tráng. Hỏa giả mộc chi tử dã, vượng mộc đắc hỏa nhi dũ phu vinh. Sinh vu xuân tắc khi kim, nhi bất năng dung kim dã; sinh vu thu tắc trợ kim, nhi bất năng dung thổ dã. dần ngọ tuất, bính đinh đa kiến nhi tọa thìn, tắc năng quy; thân tý thìn, nhâm quý đa kiến nhi tọa dần, tắc năng nạp. Sử thổ khí bất can, thủy khí bất tiêu, tắc năng trường sinh hĩ.

    Dịch nghĩa:
    Giáp vốn là mộc thuần dương, [trên trời thuộc địa phận sao Sâm] khí thế rất ư hùng tráng. Hỏa nhiều mộc bị chết cháy, vượng mộc mà đắc hỏa càng phú quý trọn đầy. Sinh vào mùa xuân mộc vượng kim suy mà không thể dung kim được; sinh vào mùa thu mộc suy kim vượng đi trợ kim không thể dung thổ được. Thấy dần ngọ tuất, bính đinh nhiều nhật chủ tọa chi thìn thổ có thể quy về; thấy thân tý thìn, nhâm quý nhiều nhật chủ tọa dần có thể thu nạp. Gía khiến không có thiên can khí thổ, cái thủy khí không nơi nào tiêu đi, tức năng trường sinh vậy.
    Nhâm thị viết: giáp vi thuần dương chi mộc, thể bản kiên cố, tham thiên chi thế, hựu cực hùng tráng. Sinh vu xuân sơ, mộc nộn khí hàn, đắc hỏa nhi phát vinh; sinh vu trọng xuân, vượng cực chi thế, nghi tiết kỳ tinh anh. Sở vị cường mộc đắc hỏa, phương hóa kỳ ngoan. Khắc chi giả kim, nhiên kim chúc hưu tù, dĩ suy kim nhi khắc vượng mộc, mộc kiên kim khuyết, thế sở tất nhiên, cố xuân bất dung kim dã. sinh vu thu, thất thời tựu suy, đãn chi diệp tuy điêu lạc tiệm hi, căn khí khước thu liễm hạ đạt, thụ khắc giả thổ. thu thổ sinh kim tiết khí, tối vi hư bạc. dĩ hư khí chi thổ, ngộ hạ công chi mộc, bất năng hồi mộc chi căn, tất phản tao kỳ khuynh hãm, cố thu bất dung thổ dã. trụ trung dần ngọ tuất tòan, hựu thấu bính đinh, bất duy tiết khí thái quá, nhi mộc thả bị phần, nghi tọa thìn, thìn vi thủy khố, kỳ thổ thấp, thấp thổ năng sinh mộc tiết hỏa, sở v ị hỏa khí thừa long dã. thân tý thìn toàn hựu thấu nhâm quý, thủy phiếm mộc phù, nghi tọa dần, dần nãi hỏa thổ sinh địa, mộc chi lộc vượng, năng nạp thủy khí, bất trí phù phiếm, sở vị thủy đãng kị hổi dã. như quả kim bất duệ, thổ bất táo, hoả bất liệt, thủy bất cuồng, phi thực lập thiên cổ nhi đắc trường sinh giả tai!

    Dịch nghĩa:
    Giáp mộc thuộc khí thuần dương, thế vốn kiên cố, [ trên trời thuộc địa phận sao Sâm] khí thế rất hùng tráng. Sinh vào tháng sơ xuân (tháng dần-ND), khí mộc còn non yếu hàn lạnh, đắc hỏa mà phát quý; sinh vào tháng trọng xuân (tháng mão-ND), mộc khí vượng cực, cần nên tiết khí vượng đắc dụng. Sở dĩ mộc vượng đắc hỏa, mà kim trở nên cứng dòn. Kim khí hưu tù khắc mộc sinh vượng, mộc cứng kim bị khuyết, lý lẻ đương nhiên là thế, cho nên mới nói mộc mùa xuân không dung kim được vậy. Sinh vào mùa thu, giáp mộc khí suy, cành khô lá rụng, nguyên khí thu tàng thông suốt, mà khắc chế được thổ khí. Thổ mùa thu sinh kim tiết khí nhiều nên rất bạc nhược. do cái thổ khí hư nhược mà còn bị khí mộc ở dưới công phá, chẳng những không thể tài bồi cho khí mộc suy được, mà còn trở lại che lấp cái mộc khí suy đó nữa, cho nên giáp mộc mùa thu không thể dung thổ vậy. trong trụ dần ngọ tuất đầy đủ, trên can lại thấu bính đinh, chẳng là do mộc tiết khí thái quá, nên mộc bị cháy khô, như nhật chủ tọa thìn, thìn thuộc thủy khố, khí thuộc thấp thổ, mà có khả năng sinh mộc tiết khí hỏa vượng nên mộc được cứu, thế nên hỏa khí thừa long là vậy. thân tý thìn đầy đủ trên can lại thấu nhâm quý, thủy nhiều mộc bị trôi dạt, như nhật chủ tọa dần, địa chi dần tàng chứa can hỏa thổ là đất trường sinh, giáp lộc tại dần, nên có thể dung nạp được thủy dư, mà mộc không còn phù phiếm nữa, thế nên thủy đãng kị hổ là vậy. ví như kim không bén nhọn, thổ không khô cứng, hỏa không mãnh liệt, thủy không cuồng thịnh, thì cái vốn có nghìn năm không thể lâu dài được!

    ất mộc tuy nhu, khuê dương giải ngưu. Hoài đinh bão bính, khóa phượng thừa hầu. hư thấp chi địa, kị mã diệc ưu. Đằng la hệ giáp, khả xuân khả thu.

    Nguyên chú: ất mộc giả, sinh vu xuân như đào lí, hạ như hòa giá, thu như đồng quế, đông như kỳ ba. Tọa sửu mùi năng chế nhu thổ, như cát tể dương, giải cát ngưu nhiên, chích yếu hữu nhất bính đinh, tắc tuy sinh thân dậu nguyệt, diệc bất vị chi; sinh vu tý nguyệt, nhi hựu nhâm quý phát thấu giả, tắc tuy tọa ngọ, diệc năng phát sinh. Cố ích tri tọa sửu mùi nguyệt tri vi mỹ. Giáp dữ dần tự đa kiến, đệ tòng huynh nghĩa, thí chi đằng la phụ kiều mộc, bất úy chước phạt dã.

    Dịch nghĩa:
    Can ất thuộc mộc, sinh vào mùa thu như đào lý, mùa hạ như lúa mạ, mùa thu như cây đồng cây quế, mùa đông như hoa thơm cỏ lạ. Tọa sửu mùi có thể chế khắc nhu thổ, dể như giết dê mổ trâu, chủ yếu là có can bính đinh, tức tuy sinh vào tháng thân dậu, cũng chẳng lo chi; sinh vào tháng tý mà trên can lại thấu xuất nhâm quý thủy, mặc dù nhật chủ tọa ngọ cũng không có thể phát sinh được. Cho nên biết rằng tọa tháng sửu mùi thật là tốt đẹp vậy. Can giáp cùng chi dần xuất hiện nhiều trong trụ, thuận tòng theo huynh đệ, lấy dây cột vào cây cầu mà làm thí dụ, chẳng sợ bị chặt vậy.

    Nhâm thị viết: ất mộc giả, giáp chi chất, nhi thừa giáp chi sinh khí dã. xuân như đào lí, kim khắc tắc điêu; hạ như hòa gia, thủy tư đắc sinh; thu như đồng quế, kim vượng hỏa chế; đông như kỳ ba, hỏa thấp thổ bồi. Sinh vu xuân nghi hỏa giả, hỉ kỳ phát vinh dã; sinh vu hạ nghi thủy giả, nhuận địa chi táo dã; sinh vu thu nghi hỏa giả, sử kì khắc kim dã; sinh vu đông nghi hỏa giả, giải thiên chi đống dả. cát dương giải ngưu giả, sinh vu sửu mùi nguyệt, hoặc ất mùi ất sửu nhật, mùi nãi mộc khố, đắc dĩ bàn căn, sửu nãi thấp thổ, khả dĩ thụ khí dã. hoài đinh bão bính, khóa phượng thừa hầu giả, sinh vu thân dậu nguyệt, hoặc ất dậu nhật, đắc bính đinh thấu xuất thiên can, hữu thủy bất tương tranh khắc, chế hóa đắc nghi, bất úy kim cường. hư thấp chi địa, kị mã diệc ưu giả, sinh vu hợi tý nguyệt, tứ trụ vô bính đinh, hựu vô tuất mùi táo thổ, tức sử niên chi hữu ngọ, diệc nan phát sinh dã. thiên can thâu giáp, điậ chi dần tàng, thử vị thiên la hệ tùng bách, xuân cố đắc trợ, thu diệc hợp phù, cố khả xuân khả thu, ngôn tứ quý giai khả dã.

    Dịch nghĩa:
    Can ất thuộc mộc, là chất của giáp, do khí của giáp mà thành. Mùa xuân như đào lý, gặp kim được điêu khắc; mùa hạ như lúa mạ, gặp thủy tức được sinh; mùa thu như cây đồng cây quế, kim vượng được hỏa chế mộc được cứu; mùa đông như hoa thơm cỏ lạ, hỏa thấp thổ bồi. Sinh vào mùa xuân gặp hỏa, tức phát quý vinh; sinh vào mùa hạ gặp thủy, đất được tươi nhuận khô ráo; sinh vào mùa thu gặp hỏa, khiến hỏa chế khắc kim khí mà không khắc mộc; sinh vào mùa đông gặp hỏa, giải bớt khí hàn lạnh. Cát dương giải ngưu, sinh vào tháng sửu mùi (tháng 12, 6-ND), hoặc ngày ất sửu ất mùi, mùi thuộc mộc khố, ất mộc có gốc, sửu thuộc thấp thổ, có thể nuôi dưỡng khí mộc. Hoài đinh bão bính, khóa phượng thừa hầu, như sinh vào tháng thân dậu(tháng 7, 8-ND), hoặc ngày ất dậu, mà trên can thấu xuất bính đinh, có thủy cũng không tương tranh, chế khắc đắc nghi, chẳng sợ kim cứng. Hư thấp chi địa, kị mã diệc ưu, như sinh vào tháng hợi tý(tháng 10, 11-ND), tứ trụ không bính đinh, lại chẳng có chi tuất mùi táo thổ, ngay khiến như chi năm có chi ngọ, cũng không phát sinh được. Thiên can thấu giáp, địa chi tàng dần, gọi là mộc rừng cây tùng cây bách, mùa xuân được trợ giúp, mùa thu được hợp phù, cho nên nói xuân thu không sợ, bốn mùa chẳng kiêng vậy.


    Ngũ dương tòng khí bất tòng thế, ngũ âm tòng thế vô tình nghĩa

    Nguyên chú: ngũ dương đắc dương chi khí, tức năng thành hồ dương cương chi thế, bất úy tài sát chi thế; ngũ âm đắc âm chi thế, tức năng thành hồ âm thuận chi nghĩa, cố mộc thịnh tất tòng mộc, hỏa thịnh tất tòng hỏa, thổ thịnh tất tòng thổ, kim thịnh tất tòng kim, thủy thịnh tất tòng thủy. vu tình nghĩa chi sở tại giả, kiến kỳ thế suy, tất kị chi hĩ, cái phụ nhân chi tình dã. như thử, nhược đắc khí thuận lý chính giả, diệc vị tất tòng thế nhi vong nghĩa, tuy tòng diệc tất chính hĩ.

    Dịch nghĩa:
    Ngũ dương do thụ cái khí dương, mà thành thế dương cương, chẳng sợ tài sát; ngũ âm do thụ cái khí âm, mà thành thế âm thuận, thế cho nên mộc thịnh thì tòng mộc, hỏa thịnh thì tòng hỏa, thổ thịnh thì tòng thổ, kim thịnh thì tòng kim, thủy thịnh thì tòng thủy. Do theo tình nghĩa mà nương náu, gặp thế suy yếu thời hung kị, như người con gái theo chồng vậy. Thế cho nên, khi đặng cái khí thuận chính, mà tòng thế bỏ nghĩa, tuy tòng nhưng cũng thuận chính đó.

    Nhâm thị viết: ngũ dương khí tỵ, quang hanh chi tượng dịch quan; ngũ âm khí hấp, bao hàm chi uẩn nan trắc. ngũ dương chi tính cương kiện, cố bất úy tài sát nhi hữu trắc ẩn chi tâm, kỳ xử thế bất cẩu thả; ngũ ạm nhi tính nhu thuận, cố kiến thế vong nghĩa, nhi hữu bỉ lận chi tâm, kỳ xử thế đa kiêu siểm. thị dĩ nhu năng khắc chế cương, cương bất năng chế khắc nhu dã. đại để xu lợi vong nghĩa chi đồ; giai âm khí chi vi lệ dã; hào hiệp khẳng khái chi nhân, giai dương khí chi độc chung. Nhiên thượng hữu dương trung chi âm, âm trung chi dương, hựu hữu dương ngoậi âm nội, âm ngoại dương nội, diệc đương biện chi. Dương trung chi âm, ngoại nhân nghĩa nhi nội gian trá; âm trung chi dương, ngoại âm hiển nhi nội nhân từ; dương ngoại âm nội giả, bao tàng họa tâm; âm ngoại dương nội giả bỉnh trì trực đạo. thử nhân phẩm chi đoan tà? Cố bất khả dĩ bất biện. yếu tại khí thế thuận chính, tứ trụ ngũ hành đình quân, thứ bất thiên ỷ, tự vô tổn nhân lợi kỷ chi tâm. Phàm trì thân thiệp thề chi đạo, xu tỵ tất tiên tri nhân, cố vân”trạch kỳ thiện giả nhi tòng chi”, tức thử ý dã.

    Dịch nghĩa:
    Ngũ dương khí tán, có cái tượng sáng sủa hanh thông; ngũ âm khí hợp, bao hàm ẩn dấu khó lường. Khí ngũ dương tính cương kiện, chẳng sợ tài sát nên có lóng trắc ẩn, xử thế không cẩu thả; khí ngũ âm tính nhu thuận, theo lợi quên nghĩa, nên có cái lòng bỉ lận, xử thế nhiều kiêu căng nịnh nọt. Cái khí âm nhu này có thể khắc chế cái khí dương cương, chứ cái khí dương cương đó không thể khắc chế cái khí âm nhu được. Nói chung lệ là: “âm khí là hạng người thấy lợi quên nghĩa; còn dương khí là hạng người hào hiệp khẳng khái”. Như trên trong dương có âm, trong âm có dương, lại có ngoài dương mà trong âm, ngoài âm mà trong dương, theo đó mà luận bàn. Như ngoài thì dương mà bên trong thì âm tức hạng người ngoài thì nhân nghĩa mà lòng thì gian trá, tất có cái họa ần chứa bên trong; còn ngoài thì âm nhu mà trong thì dương cương tức hạng người ngoài thì trông có vẻ gian trá nhưng lòng thì nhân nghĩa bao dung cương trực. Cứ theo đó chẳng lẻ nào mà không biết được nhân phẩm đoan chính hay gian tà sao? Cho nên không thể không biện biệt cho tường tận vậy. Thiết yếu tại khí thế thuận chính, tứ trụ ngũ hành bình hòa, không nên thiên lệch không có chổ nương tựa, không làm lợi mình hại người. Phàm con người muốn giử được cái đạo thiệp thế, xu cát tỵ hung trước hết phải biết người, xưa có câu”nên phân biệt được cái thiện để mà theo”, là như vậy đó.

    Giáp mộc sâm thiên, thoát thai yếu hỏa. xuân bất dung kim, thu bất dung thổ. Hỏa sí thừa long, thủy đãng kị hổ. Địa nhuận thiên hòa, thực lập thiên cổ.

    Nguyên chú: thuần dương chi mộc, tham thiên hùng tráng. Hỏa giả mộc chi tử dã, vượng mộc đắc hỏa nhi dũ phu vinh. Sinh vu xuân tắc khi kim, nhi bất năng dung kim dã; sinh vu thu tắc trợ kim, nhi bất năng dung thổ dã. dần ngọ tuất, bính đinh đa kiến nhi tọa thìn, tắc năng quy; thân tý thìn, nhâm quý đa kiến nhi tọa dần, tắc năng nạp. Sử thổ khí bất can, thủy khí bất tiêu, tắc năng trường sinh hĩ.

    Dịch nghĩa:
    Giáp vốn là mộc thuần dương, [trên trời thuộc địa phận sao Sâm] khí thế rất ư hùng tráng. Hỏa nhiều mộc bị chết cháy, vượng mộc mà đắc hỏa càng phú quý trọn đầy. Sinh vào mùa xuân mộc vượng kim suy mà không thể dung kim được; sinh vào mùa thu mộc suy kim vượng đi trợ kim không thể dung thổ được. Thấy dần ngọ tuất, bính đinh nhiều nhật chủ tọa chi thìn thổ có thể quy về; thấy thân tý thìn, nhâm quý nhiều nhật chủ tọa dần có thể thu nạp. Gía khiến không có thiên can khí thổ, cái thủy khí không nơi nào tiêu đi, tức năng trường sinh vậy.

    Nhâm thị viết: giáp vi thuần dương chi mộc, thể bản kiên cố, tham thiên chi thế, hựu cực hùng tráng. Sinh vu xuân sơ, mộc nộn khí hàn, đắc hỏa nhi phát vinh; sinh vu trọng xuân, vượng cực chi thế, nghi tiết kỳ tinh anh. Sở vị cường mộc đắc hỏa, phương hóa kỳ ngoan. Khắc chi giả kim, nhiên kim chúc hưu tù, dĩ suy kim nhi khắc vượng mộc, mộc kiên kim khuyết, thế sở tất nhiên, cố xuân bất dung kim dã. sinh vu thu, thất thời tựu suy, đãn chi diệp tuy điêu lạc tiệm hi, căn khí khước thu liễm hạ đạt, thụ khắc giả thổ. thu thổ sinh kim tiết khí, tối vi hư bạc. dĩ hư khí chi thổ, ngộ hạ công chi mộc, bất năng hồi mộc chi căn, tất phản tao kỳ khuynh hãm, cố thu bất dung thổ dã. trụ trung dần ngọ tuất tòan, hựu thấu bính đinh, bất duy tiết khí thái quá, nhi mộc thả bị phần, nghi tọa thìn, thìn vi thủy khố, kỳ thổ thấp, thấp thổ năng sinh mộc tiết hỏa, sở v ị hỏa khí thừa long dã. thân tý thìn toàn hựu thấu nhâm quý, thủy phiếm mộc phù, nghi tọa dần, dần nãi hỏa thổ sinh địa, mộc chi lộc vượng, năng nạp thủy khí, bất trí phù phiếm, sở vị thủy đãng kị hổi dã. như quả kim bất duệ, thổ bất táo, hoả bất liệt, thủy bất cuồng, phi thực lập thiên cổ nhi đắc trường sinh giả tai!

    Dịch nghĩa:
    Giáp mộc thuộc khí thuần dương, thế vốn kiên cố, [ trên trời thuộc địa phận sao Sâm] khí thế rất hùng tráng. Sinh vào tháng sơ xuân (tháng dần-ND), khí mộc còn non yếu hàn lạnh, đắc hỏa mà phát quý; sinh vào tháng trọng xuân (tháng mão-ND), mộc khí vượng cực, cần nên tiết khí vượng đắc dụng. Sở dĩ mộc vượng đắc hỏa, mà kim trở nên cứng dòn. Kim khí hưu tù khắc mộc sinh vượng, mộc cứng kim bị khuyết, lý lẻ đương nhiên là thế, cho nên mới nói mộc mùa xuân không dung kim được vậy. Sinh vào mùa thu, giáp mộc khí suy, cành khô lá rụng, nguyên khí thu tàng thông suốt, mà khắc chế được thổ khí. Thổ mùa thu sinh kim tiết khí nhiều nên rất bạc nhược. do cái thổ khí hư nhược mà còn bị khí mộc ở dưới công phá, chẳng những không thể tài bồi cho khí mộc suy được, mà còn trở lại che lấp cái mộc khí suy đó nữa, cho nên giáp mộc mùa thu không thể dung thổ vậy. trong trụ dần ngọ tuất đầy đủ, trên can lại thấu bính đinh, chẳng là do mộc tiết khí thái quá, nên mộc bị cháy khô, như nhật chủ tọa thìn, thìn thuộc thủy khố, khí thuộc thấp thổ, mà có khả năng sinh mộc tiết khí hỏa vượng nên mộc được cứu, thế nên hỏa khí thừa long là vậy. thân tý thìn đầy đủ trên can lại thấu nhâm quý, thủy nhiều mộc bị trôi dạt, như nhật chủ tọa dần, địa chi dần tàng chứa can hỏa thổ là đất trường sinh, giáp lộc tại dần, nên có thể dung nạp được thủy dư, mà mộc không còn phù phiếm nữa, thế nên thủy đãng kị hổ là vậy. ví như kim không bén nhọn, thổ không khô cứng, hỏa không mãnh liệt, thủy không cuồng thịnh, thì cái vốn có nghìn năm không thể lâu dài được!

    ất mộc tuy nhu, khuê dương giải ngưu. Hoài đinh bão bính, khóa phượng thừa hầu. hư thấp chi địa, kị mã diệc ưu. Đằng la hệ giáp, khả xuân khả thu.
    Nguyên chú: ất mộc giả, sinh vu xuân như đào lí, hạ như hòa giá, thu như đồng quế, đông như kỳ ba. Tọa sửu mùi năng chế nhu thổ, như cát tể dương, giải cát ngưu nhiên, chích yếu hữu nhất bính đinh, tắc tuy sinh thân dậu nguyệt, diệc bất vị chi; sinh vu tý nguyệt, nhi hựu nhâm quý phát thấu giả, tắc tuy tọa ngọ, diệc năng phát sinh. Cố ích tri tọa sửu mùi nguyệt tri vi mỹ. Giáp dữ dần tự đa kiến, đệ tòng huynh nghĩa, thí chi đằng la phụ kiều mộc, bất úy chước phạt dã.
    Dịch nghĩa:
    Can ất thuộc mộc, sinh vào mùa thu như đào lý, mùa hạ như lúa mạ, mùa thu như cây đồng cây quế, mùa đông như hoa thơm cỏ lạ. Tọa sửu mùi có thể chế khắc nhu thổ, dể như giết dê mổ trâu, chủ yếu là có can bính đinh, tức tuy sinh vào tháng thân dậu, cũng chẳng lo chi; sinh vào tháng tý mà trên can lại thấu xuất nhâm quý thủy, mặc dù nhật chủ tọa ngọ cũng không có thể phát sinh được. Cho nên biết rằng tọa tháng sửu mùi thật là tốt đẹp vậy. Can giáp cùng chi dần xuất hiện nhiều trong trụ, thuận tòng theo huynh đệ, lấy dây cột vào cây cầu mà làm thí dụ, chẳng sợ bị chặt vậy.
    Nhâm thị viết: ất mộc giả, giáp chi chất, nhi thừa giáp chi sinh khí dã. xuân như đào lí, kim khắc tắc điêu; hạ như hòa gia, thủy tư đắc sinh; thu như đồng quế, kim vượng hỏa chế; đông như kỳ ba, hỏa thấp thổ bồi. Sinh vu xuân nghi hỏa giả, hỉ kỳ phát vinh dã; sinh vu hạ nghi thủy giả, nhuận địa chi táo dã; sinh vu thu nghi hỏa giả, sử kì khắc kim dã; sinh vu đông nghi hỏa giả, giải thiên chi đống dả. cát dương giải ngưu giả, sinh vu sửu mùi nguyệt, hoặc ất mùi ất sửu nhật, mùi nãi mộc khố, đắc dĩ bàn căn, sửu nãi thấp thổ, khả dĩ thụ khí dã. hoài đinh bão bính, khóa phượng thừa hầu giả, sinh vu thân dậu nguyệt, hoặc ất dậu nhật, đắc bính đinh thấu xuất thiên can, hữu thủy bất tương tranh khắc, chế hóa đắc nghi, bất úy kim cường. hư thấp chi địa, kị mã diệc ưu giả, sinh vu hợi tý nguyệt, tứ trụ vô bính đinh, hựu vô tuất mùi táo thổ, tức sử niên chi hữu ngọ, diệc nan phát sinh dã. thiên can thâu giáp, điậ chi dần tàng, thử vị thiên la hệ tùng bách, xuân cố đắc trợ, thu diệc hợp phù, cố khả xuân khả thu, ngôn tứ quý giai khả dã.
    Dịch nghĩa:
    Can ất thuộc mộc, là chất của giáp, do khí của giáp mà thành. Mùa xuân như đào lý, gặp kim được điêu khắc; mùa hạ như lúa mạ, gặp thủy tức được sinh; mùa thu như cây đồng cây quế, kim vượng được hỏa chế mộc được cứu; mùa đông như hoa thơm cỏ lạ, hỏa thấp thổ bồi. Sinh vào mùa xuân gặp hỏa, tức phát quý vinh; sinh vào mùa hạ gặp thủy, đất được tươi nhuận khô ráo; sinh vào mùa thu gặp hỏa, khiến hỏa chế khắc kim khí mà không khắc mộc; sinh vào mùa đông gặp hỏa, giải bớt khí hàn lạnh. Cát dương giải ngưu, sinh vào tháng sửu mùi (tháng 12, 6-ND), hoặc ngày ất sửu ất mùi, mùi thuộc mộc khố, ất mộc có gốc, sửu thuộc thấp thổ, có thể nuôi dưỡng khí mộc. Hoài đinh bão bính, khóa phượng thừa hầu, như sinh vào tháng thân dậu(tháng 7, 8-ND), hoặc ngày ất dậu, mà trên can thấu xuất bính đinh, có thủy cũng không tương tranh, chế khắc đắc nghi, chẳng sợ kim cứng. Hư thấp chi địa, kị mã diệc ưu, như sinh vào tháng hợi tý(tháng 10, 11-ND), tứ trụ không bính đinh, lại chẳng có chi tuất mùi táo thổ, ngay khiến như chi năm có chi ngọ, cũng không phát sinh được. Thiên can thấu giáp, địa chi tàng dần, gọi là mộc rừng cây tùng cây bách, mùa xuân được trợ giúp, mùa thu được hợp phù, cho nên nói xuân thu không sợ, bốn mùa chẳng kiêng vậy.

    Bính hỏa mãnh liệt, khi sương vũ tuyết. năng đoán canh kim, phùng tân phản khiếp. thổ chúng thành từ, thủy xương hiển tiết. hổ mã khiển hương, giáp mộc nhược lai, tất đương phần diệt(nhất bản tác hổ mã khuyển hương, giáp lai thành diệt).
    Nguyên chú: hỏa dương tinh dã, bính hỏa chước dương chi chí, cố mãnh liệt, bất úy thu nhi khi sương, bất úy đông nhi vũ tuyết. canh kim tuy ngoan, lực năng đoán chi, tân kim bản nhu, hợp nhi phản nhựơc. Thổ kỳ tử dã, kiến mậu kỷ đa nhi thành từ ái chi đức; thủy kỳ quân dã, ngộ nhâm quý vượng nhi hiển trung tiết chi phong. Chí vu vị toại viêm thượng chi tính, nhi ngộ dần ngọ tuất tam vị giả, lộ giáp mộc tắc táo nhi phần diệt dã.
    Dịch nghĩa:
    Bính hỏa thuộc khí dương trong suốt, sáng tỏ, có cái khí thế mãnh liệt, không sợ khí sát của mùa thu và chẳng sợ tiết sương giáng, chẳng sợ khí mùa đông và vũ tuyết. Canh kim tuy cứng, nhưng không khắc chế bính hỏa được, tân kim vốn mền yếu, nhưng hợp bính hỏa mà thành nhu nhược. Thổ là con của bính, nên tứ trụ thấy nhiều mậu kỷ mà trở nên đức từ ái; thủy là vua của vạn vật, gặp nhâm quý vượng mà hiển hiện trung nghĩa tiết tháo vậy. Bính hỏa có tính cháy lớn mãnh liệt bốc lên cao, lại thêm địa chi gặp dần ngọ tuất, mà trên thiên can lộ giáp mộc tức mộc bị đốt cháy vậy.
    Nhâm thị viết: bình nãi thuần dương chi hỏa, kỳ thế mãnh liệt, khi sương vũ tuyết, hữu trừ hàn giải đống chi công. Năng đoán canh kim, ngộ cường bạo nhi thi khắc phạt dã; phủng tân phản khiếp, hợp nhu thuận nhi ngụ hòa bình dã. thổ chúng thành từ, bất lăng hạ dã; thủy xương hiển tiết , bất viên thượng dã. hổ mã khuyển hương giả, chi tọa dần ngọ tuất, hỏa thế dĩ quá vu mãnh liệt, nhược tái kiến giáp mộc lai sinh, chuyển trí phần diệt dã. do thử luận chi, tiết kỳ uy, tu dụng kỷ thổ; át kỳ diễm, tất yếu nhâm thủy; thuận kỳ tính, hoàn tu tân kim. Kỷ thổ ti thấp chi thế, năng thu nguyên dương chi khí; mậu thổ cao táo, kiến bính hỏa nhi tiêu sách hĩ. Nhâm thủy cương trung chi đức, năng chế bạo liệt chi hỏa; quý thủy âm nhu, phùng bình hỏa nhi hạc kiến hĩ. Tân kim nhu nhuyễn chi vật, minh tác hợp nhi tương thân, ám hóa thủy nhi tương tể; canh kim cương kiện, cương hựu phùng cương, thế bất lưỡng lập. thử tuy cử nhi luận, nhiên thế sự nhân tình, hà mạc bất nhiên!

    Dịch nghĩa:
    Bính thuộc hỏa khí thuần dương, khí thế mãnh liệt, không sợ khí sương giáng vũ tuyết, có công năng trừ hàn sưởi ấm. Có thể khắc chế canh kim, giống như gặp cường bạo mà ra tay trừ diệt, gặp tân kim lại trở nên nhu hòa, bính tân hợp hóa nhu thuận có ý hòa hợp vậy. Thổ nhiều trở nên từ ái, mà không đè xuống dưới; thủy cuồng vượng hiển hiện, mà không vượt lên trên. Dần ngọ tuất là nơi hỏa địa, địa chi trong tứ trụ có dần ngọ tuất tức khí hỏa mãnh liệt, trong trụ còn có giáp mộc tư sinh tức mộc bị hỏa khí vượng thịnh đốt cháy vậy. Theo đó mà luận, để tiết chế bớt khí hỏa thịnh thì cần dụng thổ; để ngăn cản khí hỏa mãnh liệt thì cần dụng thủy; để làm cho khí hỏa nhu thuận thì cần dụng tân kim hợp hóa. Kỷ thổ khí thế ti thấp, có thể thu nguyên khí tư sinh của bính hỏa; mậu thổ khí thế khô táo, gặp bính hỏa mà trở nên khô cứng nứt nẻ vậy. Nhâm thủy có cái đức trung chính cương kiện, có thể chế khắc hỏa mãnh liệt; quý thủy âm nhu, gặp bính hỏa mãnh liệt mà bị cạn kiệt. Tân kim thể tính nhu nhuyễn, hợp hóa bính hỏa tương thân hóa thành thủy mà thành việc; canh kim cương cứng, cương gặp cương đều không thể toàn vẹn. Thế nên tuy đơn cứ mà luận mọi thế sự nhân tình, há chẳng phải là như vậy hay sao!

    Đề nghị sửa "nhưng hợp Bính hỏa mà thành nhu nhược" thành "nhưng Bính hỏa (vì) hợp mà thành nhu nhược" vì cái nhu nhược ở đây ám chỉ đặc tính của Bính hỏa khi bị Tân hợp.

    Bính hỏa mãnh liệt, khi sương vũ tuyết. năng đoán canh kim, phùng tân phản khiếp. thổ chúng thành từ, thủy xương hiển tiết. hổ mã khiển hương, giáp mộc nhược lai, tất đương phần diệt(nhất bản tác hổ mã khuyển hương, giáp lai thành diệt).

    Nguyên chú: hỏa dương tinh dã, bính hỏa chước dương chi chí, cố mãnh liệt, bất úy thu nhi khi sương, bất úy đông nhi vũ tuyết. canh kim tuy ngoan, lực năng đoán chi, tân kim bản nhu, hợp nhi phản nhựơc. Thổ kỳ tử dã, kiến mậu kỷ đa nhi thành từ ái chi đức; thủy kỳ quân dã, ngộ nhâm quý vượng nhi hiển trung tiết chi phong. Chí vu vị toại viêm thượng chi tính, nhi ngộ dần ngọ tuất tam vị giả, lộ giáp mộc tắc táo nhi phần diệt dã.

    Dịch nghĩa:
    Bính hỏa thuộc khí dương trong suốt, sáng tỏ, có cái khí thế mãnh liệt, không sợ khí sát của mùa thu và chẳng sợ tiết sương giáng, chẳng sợ khí mùa đông và vũ tuyết. Canh kim tuy cứng, nhưng không khắc chế bính hỏa được, tân kim vốn mền yếu, liệt bính hỏa hợp tân kim mà trở nên nhu nhược vậy. Thổ là con của bính, nên tứ trụ thấy nhiều mậu kỷ mà trở nên đức từ ái; thủy là vua của vạn vật, gặp nhâm quý vượng mà hiển hiện trung nghĩa tiết tháo vậy. Bính hỏa có tính cháy lớn mãnh liệt bốc lên cao, lại thêm địa chi gặp dần ngọ tuất, mà trên thiên can lộ giáp mộc tức mộc bị đốt cháy vậy.

    Nhâm thị viết: bình nãi thuần dương chi hỏa, kỳ thế mãnh liệt, khi sương vũ tuyết, hữu trừ hàn giải đống chi công. Năng đoán canh kim, ngộ cường bạo nhi thi khắc phạt dã; phủng tân phản khiếp, hợp nhu thuận nhi ngụ hòa bình dã. thổ chúng thành từ, bất lăng hạ dã; thủy xương hiển tiết , bất viên thượng dã. hổ mã khuyển hương giả, chi tọa dần ngọ tuất, hỏa thế dĩ quá vu mãnh liệt, nhược tái kiến giáp mộc lai sinh, chuyển trí phần diệt dã. do thử luận chi, tiết kỳ uy, tu dụng kỷ thổ; át kỳ diễm, tất yếu nhâm thủy; thuận kỳ tính, hoàn tu tân kim. Kỷ thổ ti thấp chi thế, năng thu nguyên dương chi khí; mậu thổ cao táo, kiến bính hỏa nhi tiêu sách hĩ. Nhâm thủy cương trung chi đức, năng chế bạo liệt chi hỏa; quý thủy âm nhu, phùng bình hỏa nhi hạc kiến hĩ. Tân kim nhu nhuyễn chi vật, minh tác hợp nhi tương thân, ám hóa thủy nhi tương tể; canh kim cương kiện, cương hựu phùng cương, thế bất lưỡng lập. thử tuy cử nhi luận, nhiên thế sự nhân tình, hà mạc bất nhiên!

    Dịch nghĩa:
    Bính thuộc hỏa khí thuần dương, khí thế mãnh liệt, không sợ khí sương giáng vũ tuyết, có công năng trừ hàn sưởi ấm. Có thể khắc chế canh kim, giống như gặp cường bạo mà ra tay trừ diệt, gặp tân kim lại trở nên nhu hòa, bính tân hợp hóa nhu thuận có ý hòa hợp vậy. Thổ nhiều trở nên từ ái, mà không đè xuống dưới; thủy cuồng vượng hiển hiện, mà không vượt lên trên. Dần ngọ tuất là nơi hỏa địa, địa chi trong tứ trụ có dần ngọ tuất tức khí hỏa mãnh liệt, trong trụ lại còn có giáp mộc tư sinh tức mộc bị hỏa khí vượng thịnh đốt cháy vậy. Theo đó mà luận, để tiết chế bớt khí hỏa thịnh thì cần dụng thổ; để ngăn cản khí hỏa mãnh liệt thì cần dụng thủy; để làm cho khí hỏa nhu thuận thì cần dụng tân kim hợp hóa. Kỷ thổ khí thế ti thấp, có thể thu nguyên khí tư sinh của bính hỏa; mậu thổ khí thế khô táo, gặp bính hỏa mà trở nên khô cứng nứt nẻ vậy. Nhâm thủy có cái đức trung chính cương kiện, có thể chế khắc hỏa mãnh liệt; quý thủy âm nhu, gặp bính hỏa mãnh liệt mà bị cạn kiệt. Tân kim thể tính nhu nhuyễn, hợp hóa bính hỏa tương thân hóa thành thủy mà thành việc; canh kim cương cứng, cương gặp cương đều không thể toàn vẹn. Thế nên tuy đơn cứ mà luận mọi thế sự nhân tình, há chẳng phải là như vậy hay sao!

    Đinh hỏa nhu trung, nội tính chiêu dung. Bảo ất nhi hiếu, hợp nhâm nhi trung. Vựơng nhi bất liệt, suy nhi bất cùng, như hữu đích mẫu, khả thu khả đông.

    Nguyên chú: đinh can chúc âm, hỏa tính tuy âm, nhu nhi đắc kỳ trung hĩ. Ngoại nhu thuận nhi nội văn minh, nội tính khởi bất chiêu dung hồ? ất phi đinh chi đích mẫu dã, ất úy tân nhi tân bảo chi, bầt nhược bính bảo giáp nhi phản năng phần giáp mộc dã, bất nhược ất bảo đinh nhi phản năng hối đinh hỏa dã, kỳ hiếu dị hồ nhân hĩ. Nhâm vi đinh chi chánh quân dã, nhâm úy mậu nhi đinh hợp chi , ngoại tắc phủ tuất mậu thổ, năng sử mậu thổ bất khi nhâm dã, nội tắc ám hóa mộc thần, nhi sử mậu thổ bất cảm kháng hồnhâm dã, kỳ trung dị hồ nhân hĩ. Sinh vu thu đông, đất nhất giáp mộc, tắc ỷ chi bất diệt, nhi diễm chí vô cũng dã, cố viết khả thu khả đông. Giai nhu chi đạo dã.

    Dịch nghĩa:
    Đinh thuộc can âm, hỏa tính tuy âm nhu nhưng được khí trung chính. Bên ngoài tuy nhu thuận nhưng bên trong rất sáng đẹp, cái tính bên trong há chẳng sáng rỏ hay sao? ất mộc không sinh được đinh hỏa, ất mộc tối úy tân kim nhờ có đinh hỏa khắc chế tân kim mà cứu ất, không giống như bính hỏa khắc chế canh kim bảo vệ giáp mộc mà còn trở lại đốt cháy mộc, cũng như ất mộc bảo vệ đinh hỏa mà trở ngược lại làm cho đinh hỏa mờ ám tối tăm, đó chẳng phải là trái với đạo hiếu thường sao. Nhâm là vua của đinh, nhâm thủy rất sợ mậu thổ mà đi hợp với đinh, cái đinh hỏa này bề ngoài có vẻ như sinh trợ mậu thổ, nhưng bên trong ngầm hợp với nhâm thủy hóa mộc khắc chế thổ, khiến cho thổ không thể khắc thủy được, điều đó chẳng là trái với cái đạo trung quân sao. Sinh vào mùa thu mùa đông, thiên can trong tứ trụ có một giáp mộc, tức hỏa có nguồn nên sáng đẹp vô cùng không lo sợ phải bị tắt ngấm, cho nên mới nói khả thu khả đông. Đó là cái đạo nhu vậy.

    Nhâm thị viết: đinh phi đăng chúc chi vị, giác bính hỏa tắc nhu trung nhĩ. Nội tính chiêu dung giả, văn minh chi tượng dã. bảo ất nhi hiêú, minh sử tân kim bất thương ất mộc dã; hợp nhâm nhi trung, ám sử mậu thổ bất thương nhâm thủy dã. duy kỳ nhu trung, cố vô thái qúa bất cập chi lệ, tuy thời đương thừa vượng, nhi bất chí hách viêm; tức thời trị tựu suy, nhi bất chí vu tức diệt. can thấu giáp ất, thu sinh bất úy kim; chi tàng dần mão, đông sản bất kỵ thủy.

    Dịch nghĩa:
    Đinh chẳng phải là đèn đuốc, so với bính đinh hỏa thuộc khí nhu thuận trung chính vậy. Bên trong sáng đẹp, có cái tượng văn minh. Khắc chế tân kim bảo vệ ất mộc, tân kim không thể khắc ất mộc do đó mà ất mộc được cứu; hợp nhâm thủy hóa mộc bảo vệ thủy, mậu thổ không thể khắc được nhâm thủy cho nên nhâm thủy được cứu. Do tính nhu thuận trung chính, mà không đi đến thái quá hay bất cập, tuy thời khí đang thừa vượng cũng không cháy rực; gặp lúc thất thời khí suy cũng không tận diệt. Thiên can trong tứ trụ thấu giáp ất mộc, sinh mùa thu chẳng sợ kim cường, địa chi trong tứ trụ tang chứa dần mão mộc, sinh vào mùa đông giá rét không sợ thủy vượng.

    Mậu thổ cố trọng, ký trung thả chính.Tĩnh hấp đông tích, vạn vật ty mệnh. Thủy nhuận vật sinh, hỏa táo vật bệnh. Nhược tại cấn khôn, phạ trùng nghi tĩnh.
    Nguyên chú: mậu thổ phi thành tường đê ngạn chi vị dã, giác kỷ đặc cao hậu cương táo, nãi kỷ thổ phát nguyên chi địa, đắc hồ trung khí nhi thả chính đại hĩ. Xuân hạ tắc khí tích nhi sinh vạn vật, thu đông tắc khí hấp nhi thành vạn vật, cố vi vạn vật chi ty mệnh dã. kỳ khí chúc dương, hỉ nhuận bất hỉ táo, tỏa dần phạ thân, tọa thân phạ dần. cài trùng tắc căn động, phi địa đạo chi chính dã, cố nghi tĩnh.

    Dịch nghĩa:
    Mậu thổ chẳng là tường vách, so với kỷ thổ mậu thổ có tính chất khô cứng cao hậu, cùng kỷ thổ là nơi phát nguyên đại địa, nên đắc được cái khí trung chính to lớn vậy. Mùa xuân mùa hạ thì khí phát tích mà sinh vạn vật, mùa thu mùa đông thì khí thu vào mà thành vạn vật, do vậy mà làm chủ vạn vật. Mậu thổ có tính khí thuộc dương, nên ưa thích nhuận trạch không thích khô táo, tọa dần sợ thân xung, tọa thân sợ dần xung. Nếu bị xung tức căn gốc bị động, chẳng là mất đi cái khí trung chính cho nên cần tĩnh không nên động vậy.

    Nhâm thị viết: mậu vi dương thổ, kỳ khí cố trọng, cư trung đắc chính. Xuân hạ khí động nhi tỵ, tắc phát sinh, thu đông khí tĩnh nhi hấp, tắc thu tàng, cố vi vạn vật chi ty mệnh dã. kỳ khí cao hậu, sinh vu xuận hạ, hỏa vượng nhi thủy nhuận chi, tắc vạn vật phát sinh, táo tắc vật khô; sinh vu thu đông, thủy đa nghi hỏa noãn chi, tắc vạn vật hóa thành, thấp tắc vật bệnh. Cấn khôn giả, dần thân chi nguyệt dã. xuân tắc thụ khắc, khí hư nghi tĩnh; thu tắc đa tiết, thể bạc phạ trùng. Hoặc tạo dần thân nhật, diệc hỉ tĩnh kỵ trùng. Hựu sinh tứ quý nguỵêt giả, tối hỉ canh thân tân dậu chi kim, tú khí lưu hành, định vi quý cách, kỷ thổ diệc nhiên. Như trụ kiến mộc hỏa, hoặc hành vận ngộ chi, tắc phá hĩ.

    Dịch nghĩa:
    Mậu thuộc dương thổ, khí thế cố trọng, cư nơi trung chính. Mùa xuân mùa hạ khí động nên phát ra, tức khí phát sinh, mùa thu mùa đông khí tĩnh nên thu vào, tức khí thu tàng, do vậy mà làm chủ vạn vật. Có cái khí cao hậu, nên sinh vào mùa xuân mùa hạ hỏa khí thời vượng cần có thủy làm nhuận thổ, tắc vạn vật sinh sôi, khô táo tắc vạn vật chết khô; sinh vào mùa thu mùa đông, thủy nhiều cần hỏa sưởi ấm, tắc vạn vật hóa thành, thấp tắc vạn vật thụ bệnh. Sinh vào tháng dần nguyệt tọa cung cấn sinh vào tháng thân nguyệt tọa cung khôn. Thổ mùa xuân bị mộc khắc khí chất hư nhược cần nên tĩnh; thổ mùa thu bị tiết khí nhiều quá thể chất bạc nhược không nên gặp xung. Tứ trụ, nhật chủ tọa dần thân ưa thích yên tĩnh tối kỵ gặp xung. Như sinh vào bốn tháng tứ quý (thìn, tuất, sửu, mùi), tối hỷ nhật chủ canh thân tân dậu khí kim, tú khí lưu hành bất tận tắc đoán định quý cách, kỷ thổ cũng đồng như thế. Bằng như tứ trụ gặp mộc hỏa, hay vận hành hỏa mộc tắc phá cách vậy.

    Kỷ thổ ty thấp, trung chính súc tàng. Bất sấu mộc thịnh, bất úy thủy cuồng. hỏa thiểu hỏa hối, kim đa kim quang. Nhược yếu vật vượng, nghi trợ nghi bang.

    Nguyên chú: kỷ thổ ty bạc nhuyễn thấp, nãi mậu thổ chi diệp chi địa, , diệc chủ trung chính nhi năng súc tàng vạn vật. Nhu thổ năng sinh mộc, phi mộc sở năng khắc, cố bất sầu mộc thịnh; thổ thâm nhi năng nạp thủy, phi thủy sở năng đãng, cố bất úy thủy cuồng. vô căn chi hỏa, bất năng sinh thấp thổ, cố hỏa thiểu nhi hỏa phản hối; thấp thổ năng nhuận kim khí, cố kim đa nhi kim quang thải, phản thanh oánh khả quan. Thử kỳ vộ vi nhi hữu vi chi diệu dụng. nhược yếu vạn vật sung thịnh trường vượng, duy thổ thế thâm cố, hựu đắc hỏa khí nõan hòa phương khả.
    Dịch nghĩa:
    Kỷ thổ khí chất ẩm thấp mỏng manh, cùng mậu thổ là chổ phát nguyên đại địa, cũng có tính trung chính mà có khả năng nuôi dưỡng vạn vật. Nhu thổ có khả năng sinh mộc, chứ mộc không thể khắc được nhu thổ, do đó mà không lo mộc vượng; thổ sâu có thể chứa thủy, thủy không thể nhiều đồng đãng, do vậy mà không sợ thủy cuồng. Hỏa yếu không gốc chẳng những không thể sinh thấp thổ, mà ngược lại còn bị thổ làm cho mất sáng; thấp thổ có thể làm tươi nhuận khí kim, cho nên kim nhiều kim sáng, mà trở nên trong suốt ưa nhìn. Đó là vô vi lấy hữu vi làm diệu dụng vậy. Nhược bằng vạn vật sung thịnh cường vượng, chỉ có thổ thế thâm sâu, được hỏa khí sưởi ấm tắc bốn phương thuận hòa vậy.

    Nhâm thị viết: kỷ thổ vi âm thấp chi địa, trung chính súc tàng, quán bát phương nhi vượng tứ quý, hữu tư sinh bất tức chi diệu dụng yên. Bất sầu mộc thịnh giả, kỳ tính nhu hòa, mộc tạ dĩ bồi dưỡng, mộc bất khắc dã. bất úy thủy cuồng giả, kỳ thể đoan ngưng, thủy đắc dĩ nạp tàng, thủy bất trùng dã. thủy thiểu hỏa hối giả, đinh hỏa dã, âm thổ năng liễm hỏa, hối hỏa dã. kim đa kim quang giả, tân kim dã, thấp thổ năng sinh kim, nhuận kim dã. trụ trung thổ khí thâm cố, hựu đắc bính hỏa khứ kỳ âm thấp chi khí, canh túc dĩ tư sinh vạn vật, sở vị nghi trợ nghi bang giả dã.

    Dịch nghĩa:
    Kỷ thổ thuộc đất ẩm ướt, khí thế trung chính tàng chứa, khí quán tám phương mà vượng bốn mùa, có cái công tư sinh diệu dụng không ngừng nghĩ vậy. Chẳng lo mộc thịnh, có tính nhu thuận cho nên tài bồi dưỡng mộc mà không khắc mộc. Chẳng sợ thủy cuồng, có tính chất ngưng đọng cho nên thủy có thể được dung nạp mà không xung khắc vậy. Thủy ít hỏa tối, đinh hỏa chẳng sinh âm thổ mà còn bị thấp thổ làm cho che lấp mất sáng. Kim nhiều kim sáng, thấp thổ có thể sinh kim, làm nhuận kim. Trong trụ thổ nhiều tức thổ dầy, lại còn được bính hỏa xua đẩy khí ẩm ướt, đủ để tư sinh vạn vật. Cho nên nói nghi trợ nghi bang là như thế.
    viết nhầm "Chẳng lo mộc thịnh, có tính nhu thuận cho nên tài bồi dưỡng mộc mà không khắc mộc".
    xin chua lại:"Chẳng lo mộc thịnh, có tính nhu thuận cho nên tài bồi dưỡng mộc mà không bị mộc khắc".
    Canh kim đái sát, cương kiện vi tối. đắc thủy nhi thanh, đắc hỏa nhi duệ. Thổ thuận tắc sinh, thổ can tắc thúy. Năng doanh giáp huynh, thâu vu ất muội.
    Nguyên chú: canh kim nãi thiên thượng chi thái bạch, đái sát nhi cương kiện. kiện nhi đắc thủy, tắc khí lưu nhi thanh; cương nhi đắc hỏa, tắc khí thuần nhi duệ. Hữu thủy chi thổ, năng tòan kỳ sinh; hữu hỏa chi thổ, năng sử kỳ thúy. Giáp mộc tuy cường, lực túc phạt chi; ất mộc tuy nhu, hợp nhi phản nhược.
    Dịch nghĩa:
    Canh kim trên trời là thái bạch kim tinh, tính cương kiện lại hay sát, kim vượng gặp thủy, tắc kim bạch thủy thanh dòng chảy không ngừng; kim cứng gặp hỏa, tắc khí tinh thuần mà sắc bén. Có thổ có thủy có thể tương sinh liên tục; có thổ có hỏa làm cho kim trở nên giòn yếu. Giáp mộc tuy cứng, nhưng có đủ sức khắc phạt; ất mộc tuy nhu nhưng hợp canh, canh kim trở nên nhu nhược.
    Nhâm thị viết: canh nãi thu thiên túc sát chi khí, cương kiện vi tối. đắc thủy nhi thanh giả, nhâm thủy dã, nhâm thủy phat`1 sinh, dẫn thông cương sát chi tính, tiện giác thối lệ tinh oánh. Đắc hỏa nhi duệ giả, đinh hỏa dã, đinh hỏa âm nhu, bất dữ canh kim vi địch, lương dã tiêu dong, toại thành kiếm kích, hồng lô đoán luyện, thời lộ phong châm. Sinh vu xuân hạ, kỳ khí sảo nhược, ngộ sửu thìn chi thấp thổ tắc sinh, phùng mùi tuất chi táo thổ tắc thúy. Giáp mộc chính địch, lực năng phạt chi; dữ ất tương hợp, chuyển giác hữu tình. Ất phi tẫn hợp canh nhi trợ bạo, canh diệc phi tẫn hợp ất nhi phản nhược dã, nghi cường biện chi.
    Dịch nghĩa:
    Canh kim thuộc khí túc sát mùa thu, tính rất cương kiện. thủy được kim thì xanh trong, nhâm thủy có thể dẫn xuất canh kim sinh xuất thủy tinh anh. Canh kim được hỏa thì trở nên sắc bén, đinh hỏa khí âm nhu, không cùng với canh kim thù địch, mà còn đi trợ kim biến thành lò luyện nung nấu kiếm kích bén nhọn. sinh vào mùa xuân mùa hạ khí thế còn non yếu, gặp được chi sửu thìn thấp thổ tức được sinh, gặp chi mùi tuất táo thổ bị giòn yếu. canh kim đích thị là cừu địch của giáp mộc, có thể khắc phạt giáp mộc; cùng với ất mộc tương hợp mà trở nên hữu tình. Ất mộc không cùng canh hợp hóa đi trợ bạo, canh kim cũng chẳng phải cùng ất hợp hóa thành nhu nhược, cần nên tỏ tường biện bạch cho rỏ ràng vậy.
    Tân kim nhuyễn nhược, ôn nhuận nhi thanh. úy thổ chi diệp, nhạc thủy chi doanh. Năng phù xã tắc, năng cứu sinh linh. Nhiệt tắc hỷ mẫu, hàn tắc hỷ đinh.
    Nguyên chú: tân nãi âm kim, phi châu ngọc chi vị dã. phàm ôn nhuyễn thanh nhuận giả, giai tân kim giả. Mậu kỷ thổ đa nhi năng mai, cố úy chi; nhâm quý thủy đa nhi tất tú, cố nhạc chi. Tân vi bính chi thần dã, hợp bính hóa thủy, sử bính hỏa thần phục nhâm thủy, nhi an phù xã tắc; tân vi giáp chi quân dã, hợp bính hóa thủy, sử bính hỏa bất phần giáp mộc, nhi cứu viên sinh linh. sinh vưu cữu hạ nhi đắc kỷ thổ, tắc năng hối hỏa nhi tồn chi; sinh vưu long đông nhi đắc đinh hỏa, tắc năng địch hàn nhi dưỡng chi. Cố tân kim sinh vưu đông nguyệt, kiến bính hỏa tắc nam mệnh bất quý, tuy quý diệc bất trung; nữ mệnh khắc phu, bất khắc diệc bất hòa. Kiến đinh nam nữ giai quý thả thuận.
    Dịch nghĩa:
    Tân thuộc âm kim, chẳng phải là châu ngọc. Đại phàm vật nhu nhuyễn thanh nhuận điều thuộc tân kim. Mậu kỷ thổ nhiều có thể bị chôn lấp, cho nên cũng không hay; nhâm quý thủy nhiều thì đẹp đẻ, cho nên mừng gặp. Tân kim lấy bính hỏa làm thần, hợp bính hỏa hóa thủy, khiến bính hỏa đi thần phục nhâm thủy mà phò trợ xã tắc; tân kim lấy bính hỏa làm vua, hợp bính hỏa hóa thành thủy sinh giáp, khiến cho bính hỏa không thể đốt cháy giáp mộc, mà cứu giúp sinh linh. Sinh vào cuối hạ còn gặp thổ tức có thể làm cho hỏa yếu tối mà bảo tồn tân kim; sinh vào cuối đông còn gặp đinh hỏa tức đinh hỏa có thể xua hàn sưởi ấm tân kim. Cho nên tân kim sinh vào tháng mùa đông gặp bính hỏa tắc nam mệnh không hiển quý, dù có hiển quý cũng không bền; nữ mệnh khắc phu, không thì cũng bất hòa. Gặp đinh hỏa nam nữ mệnh thải điều quý hiển vậy.
    Nhâm thị viết: tân kim nãi nhân gian ngũ kim chi chất, cố thanh nhuận khả quan. Úy thổ chi diệp giả, mậu thổ thái trọng, nhi hạc thủy mai kim; nhạc thủy chi doanh giả, nhâm thủy hữu dư, nhi nhuận thổ dưỡng kim dã. tân vi giáp chi quân dã, bính hỏa năng phần giáp mộc, hợp nhi hóa thủy, sử bính hỏa bất phần giáp mộc, phản hữu tương sinhchi tượng; tân vi bính chi thần dã, bính hỏa năng sinh mậu thổ, hợp bính hóa thủy, sử bính hỏa bất sinh mậu thổ, phản hữu tương trợ chi mỹ. khởi phi phù xã tắc cứu sinh linh hồ? sinh vưu hạ nhi hỏa đa, hữu kỷ thổ tắc hối hỏa nhi sinh kim; sinh vưu đông nhi thủy vượng, hữu đinh hỏa tắc ôn thủy nhi dưỡng kim. Sở vị nhiệt tắc hỷ mẫu, hàn đắc hỷ đinh dã.
    Dịch nghĩa:
    Tân thuộc khí kim ở chốn nhân gian, cho nên thanh nhuận dễ nhìn. Sợ thổ nhiều, thổ trọng mà thủy cạn kiệt kim bị chôn lấp; thủy đẹp đủ đầy, nhâm thủy có dư thừa mà có thể nhuận thổ dưỡng kim. Tân kim lấy giáp làm vua, bính hỏa có thể đốt cháy giáp mộc, may nhờ tân hợp bính hóa thủy khắc hỏa, khiến cho bính hỏa không thể đốt cháy giáp mộc, trở nên tương sinh; tân lấy bính làm thần, bính hỏa có thể sinh mậu thổ, tân hợp bính hóa thủy, khiến cho không thể sinh mậu thổ, trở nên tương trợ. Há không phải phò trợ xã tắc cứu sinh linh sao? Sinh vào mùa hạ mà gặp nhiều hỏa, tứ trụ có kỷ thổ tức hỏa yếu tối kỷ thổ có thể sinh kim; sinh vào mùa đông gặp lúc thủy vượng, gặp hỏa tức hỏa làm ấm thủy mà dưỡng kim. Vì vậy mà nói nhiệt tắc hỷ mẫu, hàn tắc hỷ đinh là như thế.


    Nhâm thủy thông hà, năng tiết kim khí, cương trung chi đức, chu lưu bất trệ. Thông căn thấu quý, xung thiên bôn địa. hóa tắc hữu tình, tòng tắc tương tể.
    Nguyên chú: nhâm thủy tức quý thủy chi phát nguyên, côn lôn chi thủy dã; quý thủy tức nhâm thủy chi quy túc, phù tang chi thủy dã. hữu phân hữu hợp, vận hành bất tức, sở dĩ vi bách xuyên giả thử dã, diệc vi vũ lộ giả thử dã, thị bất khả kỳ nhi nhị chi. Thân vi thiên quan, nãi thiên hà chi khẩu, nhâm thủy trường sinh vu thử, năng tiết tây phương kim khí. Chu lưu chi tính, trùng tiến bất trệ, cương trung chi đức do nhiên dã. nhược thân tý thìn toàn nhi hựu thấu quý, tắc kỳ thế trùng bôn, bất khả át dã. như đông hải bản phát đoan vu thiên hà, phục thành thủy họan, mệnh trung ngộ chi, nhược vô tài quan giả, kỳ họa đương hà như tai! Hợp đinh hóa mộc, hựu sinh đinh hỏa, tắc khả vị hữu tình; năng chế bính hỏa, bất sử kỳ đoạt đinh chi ái, cố vi phu nghĩa nhi vi quân nhân. Sinh vu cửu hạ, tắc tỵ, ngọ, mùi, thân hỏa thổ chi khí, đắc nhâm thủy huân chưng nhi thành vũ lộ, cố tuy tòng hỏa thổ, vị thường bất tương tể dã.
    Dịch nghĩa:
    Nhâm thủy tức là phát nguyên của quý thủy, là nước song côn lôn; quý thủy tức là nới quy về của nhâm thủy, là nước biển đông. Có phân có hợp, lưu chảy không ngừng, cho nên gọi là nước của trăm song, cũng là nước mưa móc thật khó mà phân biệt. Thân thuộc thiên quan, là nơi cửa sông thiên hà, vị trường sinh của nhâm thủy, có thể tiết chế khí kim túc sát tây phương. Có tính lưu chuyển chuyển động không ngừng, có đức tính cương trung tư nhiên vậy. Như trong tứ trụ có đủ thân tý thìn mà trên can còn thấu quý thủy, tức khí thế xung động mạnh, không thể ngăn cản nổi. Giống như nước biển đông vốn phát khởi ở thiên hà, trở thành họa thủy, trong tứ trụ bằng như gặp phải mà trong mệnh không có tài quan, tất gách lấy tai họa vậy thai! Nhâm hợp đinh hóa mộc mà sinh hỏa, có thể nói là hữu tình; nhâm thủy có thể chế bính hỏa chẳng khiến
    Nhâm thị viết: nhâm vi dương thủy. thông hà giả, tức thiên hà dã, trường sinh tại thân, thân tại thiên hà chi khẩu, hựu tại khôn phương, nhâm thủy sinh thử, năng tiết tây phương túc sát khí, sở dĩ vi cương trung chi đứcdã. Bách xuyên chi nguyên, chu lưu bất trệ, dịch tiến nhi năng thoái dã. như thận tý thìn toàn, hựu thấu quý thủy, kỳ thế phiếm lạm, túng hữu mậu kỷ chi thổ, diệc bất năng chỉ kỳ lưu, nhược cường chế chi, phản trùng kíchnhi thành thủy họan, tất tu dụng mộc tiết chi, thuận kỳ khí thế, bất chí vu trùng bôn dã. hợp đinh hóa mộc, hựu năng sinh hỏa, bất tức chi diệu, hóa tắc hữu tình dã. sinh vu tứ, ngũ, lục nguyệt, trụ trung hỏa thổ thịnh vượng, biệt vô kim thủy tương trợ. Hỏa vượng thấu can tắc tòng hỏa, thổ vượng thấu can tắc tòng thổ, điều hòa nhuận trạch, nhưng hữu tương trợ chi công dã.
    Dịch nghĩa:
    Nhâm thuộc dương thủy. Là nước sông dài tức thiên hà, trường sinh tại thân, thân tức là cửa sông thiên hà, vị trí tại cung khôn, có thể tiết khí tây phương kim túc sát, cho nên gọi là cương trung chi đức vậy. Là nguồn phát nguyên của trăm sông, lưu chuyển không ngừng, di chuyển tiến tới không thoái lui. Như trong trụ tam hợp thân tý thìn đầy đủ, như lại còn thấu quý thủy, tất khí thế phiếm lạm, dù có mậu kỷ thổ cũng không có thể ngăn nổi dòng chảy, giống như lấy cương chế cương phản thành xung kích mà thành họa thủy, tất cần dụng mộc tiết chế bớt khí thế nhâm thủy, thuận theo khí thế chẳng nên xung động. Nhâm hợp đinh hóa mộc có thể sinh hỏa, diệu dụng vô cùng hợp hóa thật hữu tình. Sinh vào các tháng tư năm sáu, trong trụ hỏa thổ thịnh vượng, chẳng hề có kim thủy tương trợ. Hỏa vượng thấu can tắc tòng hỏa, thổ vượng thấu can tắc tòng thổ, điều hòa nhuận trạch, nhân đó mà có cái công tương trợ vậy.
    Quý thủy chí nhược, đạt vu thiên tân. Đắc long nhi vận, công hóa tư thần. Bất sầu hỏa thổ, bất luận canh tân. Hợp mậu kiến hỏa, hóa tượng tư chân.
    Nguyên chú: quý thủy nãi âm chi thuần nhi chí nhược, cố phù tang nhược thủy dã. Đạt vu thiên tân, tùy thiên nhi vận, đắc long dĩ thành vân vũ, nãi năng nhuận trạch vạn vật, công hóa tư thần. Phàm trụ trung hữu giáp ất dần mão, giai năng vận thủy khí, sinh mộc chế hỏa, nhuận thổ dưỡng kim, định vi quý cách, hỏa thổ tuy đa bất úy. Chí vu canh kim, tắc bất tại kỳ sinh, diệc bất kị kỳ đa. Duy hợp mậu thổ hóa hỏa dã, mậu sinh dần, quý sinh mão, giai chúc đông phương, cố năng sinh hỏa. Thử cố nhất thuyết dã, bất tri địa bất mãn đông nam, mậu thổ chi cực xử, tức quý thủy chi tận xử, nãi thái dương khởi phương dã, cố hóa hỏa. Phàm mậu quý đắc bính đinh thấu giả, bất luận vượng suy, thu đông giai năng hóa hỏa, tối vi chân dã.
    Dịch nghĩa:
    Quý thủy thuộc khí thuần âm mà khí thế cực nhược, nên gọi là nước biển phù tang. Thông đến bến trời, tùy theo thời hành vận, gặp long mà hóa vân vũ, có công năng làm nhuận trạch muôn loài, làm cho vạn vật sinh sôi nảy nở. Phàm trong trụ có giáp ất dần mão mộc, lại còn gặp thủy vận, thủy vừa chế hỏa vừa sinh mộc lại nhuận thổ dưỡng kim, cho là quý cách, dù cho có hỏa thổ nhiều cũng không lo sợ. Đến như canh kim, chẳng sinh được quý thủy nhưng cũng không sợ kim nhiều. Duy quý thủy hợp mậu thổ hóa hỏa, mậu trường sinh tại dần, quý trường sinh tại mão, đều thuộc mộc phương đông, cho nên nói mậu quý hợp hóa hỏa vậy. Có thuyết nói: “Nhiều người không biết rằng đất phương đông nam bốn bề khuyết hãm, mậu thổ vị ở cực cao, tức quý thủy vị ở cực thấp, là nơi vầng dương bắt đấu ló dạng, cho nên mậu quý hợp hóa hỏa vậy”. Phàm mậu quý gặp bính đinh thấu can, chẳng cần luận vượng suy, sinh vào mùa thu mùa đông đều luận hóa hỏa, thật là chân lý luận vậy.
    Nhâm thị viết: quý thủy chi vũ lộ chi vị, nãi thuần âm chi thủy. phát nguyên tuy trường, kỳ tích cực nhược, kỳ thế tối tĩnh, năng nhuận thổ dưỡng kim, phát dục vạn vật, đắc long nhi vận, biến hóa bất trắc. Sở vị phùng long tức hóa, long tức thìn dã, phi chân long nhi năng biến hóa dã. Đắc thìn nhi hóa giả, hóa thần chi nguyên thần phát lộ dã, phàm thập can phùng thìn vị, tất can thấu hóa thần, thử nhất định bất dịch chi lý dã. Bất sầu hỏa thổ giả, chí nhược chi tính, kiến hỏa thổ đa tức tòng hóa hỷ; bất luận canh kim giả, nhược thủy bất năng tiết kim khí, sở vị kim đa phản trọc, quý thủy thị dã. Hợp mậu kiến hỏa giả, âm cực tắc dương sinh, mậu thổ táo hậu, trụ trung đắc bính hỏa thấu lộ, dẫn xuất hóa thần, nãi vi chân dã. Nhược thu đông kim thủy vượng địa, túng thủy chi ngộ thần long, can thấu bính đinh, diệc nan tòng hóa, nghi tế tường chi.


    Dịch nghĩa:
    Quý thủy thuộc mưa mốc, là thủy thuần âm. Phát nguyên tuy trường nhưng tính lại nhược, khí thế cực tĩnh lặng, có thể nhuận thổ dưỡng kim, sinh sôi và phát triển vạn vật, gặp long vận biến hóa khó lường. Sở dĩ gặp long mà hóa là do long là thìn, chẳng phải chân long (tức thìn) thì không thể hóa. Gặp thìn thì hóa, hóa thần là nguyên thần phát lộ, phàm thập can gặp chi thìn, tức can thấu thần, cái luận lý ấy bất di bất dịch vậy. Bất sầu hỏa thổ, quý thủy khí thế cực nhược, gặp hỏa thổ nhiều tức tòng hóa; bất luận canh kim, quý thủy không thể tiết khí được canh kim, thế cho nên kim nhiều thủy trở nên đục. Quý thủy hợp mậu hóa hỏa, âm cực tức dương sinh, mậu thổ khí khô dày, trong trụ trên can thấu lộ bính hỏa thấu lộ, dẫn xuất hóa thần, đều là lý luận chân chính vậy. Sinh vào mùa thu mùa đông kim thủy vượng địa, trong tứ trụ địa chi có chi thìn thổ, thiên can thấu bính đinh cũng không thể hóa được, cho nên cần phải tế phân cho tường tận vậy.
    Ẩn cư

Thread Information

Users Browsing this Thread

There are currently 1 users browsing this thread. (0 members and 1 guests)

Similar Threads

  1. Các Cõi Trong Tam Thiên Đại Thiên Thế Giới...!
    By U Minh Giáo Chủ in forum Đạo Phật
    Trả lời: 5
    Bài mới gởi: 27-10-2017, 05:22 PM
  2. Trả lời: 16
    Bài mới gởi: 11-08-2013, 10:29 PM
  3. Cậu bé trở vê từ thiên đường sau cái chết (đưa tin ngày 7/3/2011 trên thời sự vtc14)
    By blackcatpro9x in forum Tâm linh – Tín ngưỡng – Siêu hình học – Ngoại cảm
    Trả lời: 0
    Bài mới gởi: 10-03-2011, 10:50 AM
  4. Các mặt dây chuyền từ đá quý thiên nhiên thạch anh tím đeo rất tốt cho sức khỏe !!!
    By thachanhtim.com in forum Nơi Rao vặt, Trao đổi, Hiến tặng ...
    Trả lời: 3
    Bài mới gởi: 02-03-2011, 09:58 AM

Bookmarks

Quyền Hạn Của Bạn

  • You may not post new threads
  • You may not post replies
  • You may not post attachments
  • You may not edit your posts
  •