Mình đã gửi phần hai Giáo trình tâm linh Nhân Diện phần 2 ở "Dừng đăng giáo trình tâm linh Nhân diện của bạn Richardhieu05".nên giờ mình gửi tiếp phần cuối tại đây :

KHOA HỌC TÂM LINH
CHƯƠNG XXI: CON NGƯỜI MỚI - VÔ DANH

HVNĐ: Kính thưa Thầy! Muốn có tự do để đi giúp người bớt đau khỏi bệnh, làm dịu những bế tắc trong đời sống chúng con phải biết vô danh. Xin kính trình Thầy bổ túc thêm cho chúng con về chủ đề này.

Thầy: Đã có lần Thầy nói với anh chị em rằng "Thầy và anh chị em là những chiến sỹ vô danh, giúp cho nhân loại và muôn loài tiến hoá". Nhiều lần trong các lớp học Triết Học Đông Phương, Thầy nhắc lại ý này và hôm nay nhân câu hỏi anh chị em đưa ra, Thầy chia sẻ đôi điều mới nhất để tất cả anh chị em cùng học hỏi.
Ngay ở tiền sảng Đền thờ Tổ tiên Nhân loại đặt tại Úc châu, Thầy cho đặt tượng đài Chiến sỹ Vô danh, để tưởng niệm những người đã có công tạo dựng nên thế giới này trong mọi thời đại. Ở bất cứ quốc gia nào cũng có những người anh hùng của từng thời đại được dân chúng ngưỡng mộ lập bia tưởng niệm, có nhiều nơi còn lập đền thờ tôn vinh họ như những Thánh nhân. Điển hình là đền thờ ông Quan Công có ở nhiều nơi trên đất nước Trung Hoa, đền thờ Đức thánh Trần Hưng Đạo ở Việt Nam.
Lịch sử thế giới là lịch sử của chiến tranh và dường như trong cái thời buổi được coi là văn minh tiến bộ này, chưa lúc nào thế giới thật sự có hoà bình dù chỉ là một ngày. Đâu đó vẫn còn bom rơi đạn lạc và những cái chết thương tâm của người vô tội. Thượng Đế tạo dựng thế giới này bằng cách sinh ra con người và muôn loài theo ý muốn của Ngài, vậy sao Thượng Đế lại không cho con người được hưởng hoà bình? Đây là một câu hỏi trách cứ vô minh.
Thật vậy, hình mẫu khởi thuỷ của con người là vô danh, giống như muôn loài sinh vật trên thế gian này và thời tiền sử đâu có chiến tranh. Từ khi con người xuất hiện đầu óc phân biệt, phân biệt sự khác nhau giữa họ để nhận diện, thì việc đặt tên cho từng cá nhân ra đời và nếu dừng lại chừng đó thì vô sự. Nhưng vì lạm dụng sự phân biệt “tính có” của các vật thể hữu hình, thảm cảnh của cái được anh chị em triết học gọi là ‘sùng bái cá nhân’ bắt đầu nảy nở từ đây. Các mẫu hình người anh hùng được đặt ra với ý đồ tốt đẹp là để con người ngưỡng mộ và học theo, nhưng làm sao con người lại học được hết bài học của người khác, nếu có chỉ một phần nhỏ của những khía cạnh đương đồng mà thôi. Hoàn cảnh thay đổi lại càng khó khăn hơn trong việc học hỏi các mẫu hình con người cụ thể.
Tuy hiên hình mẫu người anh hùng trong thời đại ngày nay vẫn cần vì anh chị em có một sáng kiến, một quyết định mang lại lợi ích to lớn cho dân chúng, cộng đồng, nhưng nếu anh chị em không có địa vị thủ lĩnh như những vị anh hùng, thì liệu cái ý tưởng cống hiến của anh chị em có được mấy ai làm theo. Ở lớp học 19, trong những tâm sự ngoài lớp học với anh chị em đã có lần Thầy nói: nếu thương nhân loại thực sự thì anh chị em phải biết yêu thương, biết dùng công thức nhân điện phục vụ những giới lãnh đạo, các thương gia, các giáo chủ và các nhà khoa học. Vì họ đang làm việc cho Thượng Đế, thay Thượng Đế cai quản nhân loại, tạo ra những bài học theo sự chỉ dẫn của Ngài, mà có thể họ không biết. Truyền điện cho các vị này để các vị khỏe mạnh, tâm lương rộng mở sẽ có những quyết định lợi cho hòa bình, cho no ấm hạnh phúc của nhân loại, ngoài ra không có mục đích nào khác.
Sử sách để lại cho thấy các vị anh hùng đều thương con dân sứ mình và có vị rất khiêm nhường đáng để dân chúng tôn vinh. Điều quan trọng nhất là không mấy ai trong các vị khi còn sống trên đời lại định ra mục đích mình sẽ thành danh này, danh danh kia và thành Thánh cả. Thời gian trôi đi, các sử gia, các nhà văn hóa, ngày càng bình phẩm, nếu không nói là tô vẽ, xây dựng nên hình mẫu những người anh hùng, rồi gắn tên bất diệt cho những anh hùng, đó là công ăn việc làm của họ. Hơn nữa còn phân biệt, phân chia các trường phái tư tưởng đạo đức v.v. Thực sự họ đã phân chia loài người theo những hình mẫu mà họ đặt ra, có tên thật, người thật. Từ đó các xu thế tư tưởng, đoàn chủng được nhóm người ‘vô danh’ gắn tư tưởng mình vào tư tưởng của các vị anh hùng, hay các nhà tư tưởng và điều này dường như diễn ra ngay cả trong tôn giáo và khoa học.
Tư tưởng này, trường phái này, tôn giáo này bài xích các tư tưởng, trường phái, tôn giáo khác là chuyện thường tình. Thảm họa động đất sóng thần trong lòng con người hiện đại sảy ra chính là cái ý này.
Người tốt việc tốt thì được tôn vinh, người xấu việc xấu thì để trách cứ là ‘pháp môn’ gắn người chủ thể hành động với hành động và được nhân loại sử dụng với mục đích tạo ra xu thế hướng tới cái thiện lương, hoàn hảo, bài bỏ thói hư tật xấu. Đây là một xu thế tiến bộ xét về mặt lý thuyết. Nhưng thực hiện được thì khó khăn thử thách vô cùng và có khi phải trả giá quá đắt. Vì rằng cách làm này thực ra tiềm ẩn yếu tố ‘loại bỏ’ cả sự việc và chủ thể hành động của nó là rất đáng tiếc.
Vì sao vậy? Người ta hôm nay làm việc dở ta chê, nhưng mai họ làm việc hay, việc tốt liệu ta có khen không? Khen việc, chê việc thì nên, còn khen người chê người thì nên cân nhắc để tránh những sai lầm không đáng có và minh triết giác ngộ chính là cái ý này. Tâm khoan dung độ lượng, từ bi, yêu thương đồng loại chính là điểm mấu chốt này. Thầy nhắc lại để anh chị em ứng dụng, chúng ta nhắc nhở việc dở, việc ác để chủ thể hành động điều chỉnh và hy vọng ngày mai, lần sau việc đó không tái diễn, chứ ta không nên phê phán, chỉ trích chủ thể gây ra hành động dở. Vì càng chỉ trích nó, nó lại càng dữ tợn hơn đó. Đây là cách chúng ta biến dở thành tốt, biến bóng tối, sử dụng bóng tối làm nguyên liệu chế tạo ra ánh sáng văn minh cho thời đại mới. Nếu không có cơ duyên tiếp xúc trực tiếp với họ thì anh chị em đã có phương tiện các công thức nhân điện Thầy trao, anh chị em truyền điện cho họ thay lời nhắc nhở họ và tác dụng giúp họ tiến bộ còn hơn điều anh chị em mong muốn.
Nó làm việc dở bằng cặp mắt của anh chị em, nhưng chủ thể hành động này đang làm việc cho Thượng Đế mà họ không biết đấy. Sao Thượng Đế lại xếp đặt người ta làm việc dở đây? Việc dở tạo ra bài học dở cho nhân loại học hỏi. Vì bài học dở nhân loại chưa học được bao, thì nay Ngài tạo ra nhiều bài học dở để nhân loại học. Học xong bài học dở thì hết dở.
Thầy đã nói với anh chị em linh hồn không ăn, không mặc, không danh, không lợi, không tình và do vậy linh hồn không có bất cứ lỗi lầm nào, đó là tầm nhìn minh triết giác ngộ, từ bi, thương cảm, độ lượng khoan dung.
Trong bất cứ ngành nghề nào trong xã hội loài người, mà người ta biết chấp nhận cái dở, phân tích học hỏi để rút tỉa ra bài học, thì ngành nghề đó nhất định sẽ phát triển. Đàng này cái hay thì nhận, không hay cũng cho là hay mới chết chứ. Cái dở của mình thì không nhận, dấu kín và còn dùng lý luận đổ thừa cho người khác. Đây là cái bệnh trầm kha của nhân loại hiện nay, gây biết bao đau khổ cho con người.
Còn học bài học hay thì dễ hơn bài học dở nhiều. Sứ dân trồng lúa nước, chân lấm tay bùn, quê Việt Nam Thầy có câu “hữu xạ tự nhiên hương” ý muốn nói cái hay tự nó tỏa hương, tỏa sáng, đâu cần phải tuyên truyền quảng cáo nhiều. Ngành nhân điện cũng vậy, khỏi cần anh chị em phải tuyên truyền thái quá, nếu tốt, nếu hay, nếu hiệu quả công dụng, thì nó sẽ tự lan tỏa. Tuy nhiên Thầy biết rằng anh chị em học nhân điện, thấy nó làm thay đổi cuộc đời mình, rồi anh chị em thương những người khác gần gũi anh chị em, tuyên truyền vận động họ đi học, như vậy cũng không có lầm lỗi gì.
Hình mẫu người anh hùng thì nhiều mà sự chọn lựa để theo chỉ là một đối với cá nhân mỗi con người và đây chính là nguyên nhân dẫn đến sự rắc rối trong đời sống. Xuất phát từ lý do đi tìm mẫu số chung cho những mẫu hình người có công gầy dựng nền văn minh con người mà Đền thờ Tổ tiên Nhân loại được thành lập.

HVNĐ: Kính thưa Thầy sống vô danh, nói thì dễ nhưng làm thì khó khăn vô cùng và xin Thầy chia sẻ kinh nghiệm để chúng con học hỏi?

Thầy: Nói vô danh thì dễ, nhưng bây giờ làm cũng dễ, chứ không như xưa nữa vì anh chị em có phương tiện Thầy trao là các công thức sử dụng năng lượng vũ trụ. Khi bắt đầu nhập môn nhân điện đã có nhiều anh chị em cho Thầy biết rằng: anh chị em khó chê trách người khác và khi nhận lời khen của người khác cũng không cảm thấy phấn khích, quan trọng như xưa nữa. Đó là biểu hiện cái hữu danh của anh chị em đang chuyển mình hội nhập với cái vô danh, với Thượng Đế vô danh. Đó chính là thước đo đơn giản nhất sự tiến bộ tâm linh của anh chị em. Còn thích hữu danh, thích Thầy khen, thích gần Thầy, thích được cái gì cũng báo cáo Thầy với thiện tâm làm việc để cống hiến cho nhân điện thì còn phải học nhiều. Đừng bao giờ anh chị em xây dựng cái danh cho nhân điện.
Anh chị em hãy thực hành thực hiện các công thức nhân điện đi, sẽ thấy công năng ‘vô danh’ ‘vô hình’ ‘vô ảnh’ của năng lượng vũ trụ, năng lượng tình thương vô lượng của Đấng Thượng Thiên, hiệu năng như thế nào, lợi ích như thế nào, cho đời sống nhân sinh, cho sự hòa hợp của những cái hữu danh thành cái vô danh. Đây là bài học mới nhất Thầy nhận được từ Thượng Thiên để trao lại cho anh chị em ở thời điểm này và anh chi em nghe cho rõ mà hành động.
Đền thờ Tổ tiên Nhân loại, Tượng đài Chiến sỹ Vô danh đặt tại Úc châu là biểu tượng hữu hình cho sự hợp nhất những cái hữu danh của nhân loại xưa và nay thành cái vô danh. Khi anh chị em truyền điện cho các nơi chốn linh thiêng ở bất cứ nơi nào trên thế giới là anh chị em đã mời các Đấng “hữu danh” về ngự ở Đền thờ Tổ tiên Nhân loại để các Đấng dự tập huấn học bài học mới tâm linh và tình hình đau khổ bế tắc của nhân loại sẽ thay đổi rất nhanh. Chứ anh chị em truyền điện với cái tâm thức là: cái nơi chốn này dở, mê tín dị đoan v.v thì anh chị em đã vi phạm quyền tự do của các vị ngự ở đó. Hãy truyền điện với quán tưởng kính mời các vị hợp tác với nhân điện và về ngự chung ở Đền thờ Tổ tiên Nhân loại thì không muốn về các băng tần sóng điện ngự ở đó cũng tự động về hết.
Thế giới đa dạng thể ở khía cạnh hữu danh, và thế giới đồng nhất thể ở khía cạnh vô danh. Cái hữu danh của một cá nhân hiện có được là vàng, thì nay Thầy đang giúp anh chị em đổi vàng lấy kim cương, anh chị em có làm không? hay anh chị em tiếc vàng quá không chịu chuyển đổi nó thành những giá trị còn quý hơn trăm ngàn lần cái mà anh chị em đang có. Đổi đây là đổi lấy sức khỏe, lấy sự may mắn và hạnh phúc cho cá nhân, cho gia đình, cho cộng đồng xã hội nơi anh chị em ở, cho quốc gia và nhân loại. Thầy không bắt anh chị em bỏ vàng, mà thầy khuyên anh chị em thay đổi thang giá trị mới, tâm linh mới, con người mới, từ bài học mới. Những giá trị mới này là vô giá và không thể so sánh, thậm chí có vàng hay kim cương thật, cũng không thể mua được. Đó là sự an nhiên tự tại, đó là sức khỏe, đó là tâm lương rộng mở và minh tuệ (thông minh và giàu tình thương).
Hôm nay dở mai tốt là thuộc tính của sự biến đổi, mà Thầy đã nói với anh chị em nhiều lần rằng: biến đổi là bản chất, là động lực của tiến hóa tâm linh và anh chị em sẽ có tất cả. Nên khi chia xẻ bằng lời với những câu hỏi của anh chị em trong lớp học Thầy thường nói: học nhân điện không chỉ để chữa bệnh mà còn nhiều ý nghĩa khác phục vụ cho tiến hóa, đó là thay đổi tầm nhìn, tầm nhìn hội nhập, sáng xuốt, minh triết giác ngộ.
Anh chị em đừng chờ đợi bất cứ một quyền năng phi thường nào khi tập và thực hành nhân điện, mà chỉ cần anh chị em khiêm nhường, âm thầm hành động nhân điện giúp người, vô danh với những thành quả đạt được trong hành động nhân điện sẽ đạt kết quả ngoài mong đợi thầm kín của anh chị em.
Ngành nhân điện là ngành hành động và học hỏi minh triết giác ngộ bằng hành động nhân điện, chứ Thầy không có dạy anh chị em những triết lý cao xa, khó hiểu. Còn sách vở ngoài đời như thế nào là chuyện của người ta, không có năng lực tâm linh để hành động thì nói hay đến mấy cũng chỉ là lý thuyết.

HVNĐ: Ông Lão Tử cùng thời với Đức Phật Thích Ca có đưa ra triết lý “âm dương” và ý nói vạn sự trên đời hàm chứa hai phần tương phản đó là dương – âm, trắng - đen, phải -trái, thiện lương - ác tà, ngày – đêm, nam – nữ, chiến tranh – hòa bình, hạnh phúc – bất hạnh v.v. Như vậy cứ có một khái niệm đặt ra là kèm theo một khái niệm phản nghĩa đã làm cho vạn sự hàm chứa mâu thuẫn và mâu thuẫn sẽ dẫn tới sung đột. Điều này làm chúng con khó hiểu. Xin Thầy chỉ dạy cho chúng con về điều này.

Thầy: Vừa dạy cho anh chị em bài học thực hành nhân điện ở câu hỏi trên, thì lại hỏi Thầy luôn câu hỏi lý thuyết, bài học triết học, thuyết “âm dương” của Đức Lão Tử đã có hơn 2500 năm về trước. Thôi được muốn hiểu lý thuyết thì Thầy sẽ chỉ ra cái mới nhân câu hỏi này để anh chị em cùng học hỏi tiến hóa. Vạn sự ẩn chứa hai mặt tương phản trắng đen, nhân loại đã ứng dụng mãi rồi, đâu có thấy mấy ai tiến hóa và thậm chí còn tiến hóa tụt lùi là đàng khác.
Thầy kính trọng những cống hiến của Đức Lão Tử cho nhân loại, nhưng nhân loại đã không hiểu hết ý nghĩa thâm sâu của triết lý này, nên đã mang họa cho mình suốt cả mấy ngàn năm nay. Thật vậy, các đệ tử sau này của Lão Tử đã phát triển và áp dụng học thuyết này vào đời sống một cách vội vàng và ngay cả giới khoa học ngày nay cũng vậy. Những cơ sở căn bản của thuyết âm dương đã là nền tảng của nhiều ngành khoa học như toán học, hóa học, tin học v.v.
Cái hồn của học thuyết “âm dương” là: sự phân chia vật chất, vật thể, sự việc ra hai phần tương phản, nhưng nội hàm bên trong là thống nhất. Nội hàm bên trong là gì? Là năng lượng tâm linh vô hình giữ cho các phần tương phản kia thống nhất, không sung đột, chống nhau, để sự tồn tại song hành giữa hai mảng đó được cân bằng hài hòa. Thầy luôn luôn nhắc anh chị em rằng: bất cứ một sự vật, sự việc nào trên thế gian này cũng như các hoạt động của vũ trụ lại không có bàn tay sắp đặt của Thượng Thiên vô danh, yếu tố giữ cho vạn vận hài hòa. Mấy ổng không quán tưởng đến yếu tố “số không” vô danh này và cho rằng mình chính là Ngài nên không khỏi mắc phải sai lầm và đã dẫn dắt nhân loại đi nhầm đường tiến hóa.
Thật vậy, mấy ổng không hiểu được ẩn ý thâm sâu của Tạo Hóa, cứ phân tách hai phần tương phản đó ra, phần dương tạm gọi là có giá trị, bán được thì dùng, còn phần âm thì loại bỏ. Loại bỏ đi đâu đây? Khi mà bất cứ vật thể nào cũng không lọt ra ngoài cái vũ trụ này. Rồi phần âm kia tách ra, vẫn cứ còn đấy, ngày mỗi ngày tích dồn lại, gây ra những thảm họa sinh thái, mất cân bằng các-bon trên hành tinh này.
Về những vấn đề xã hội cũng vậy chiến tranh có bên thắng bên thua. Tiền nhân Việt Nam dạy con cháu rằng “thắng làm vua, thua làm giặc”. Ý nhắc nhở con cháu đừng có sung đột lẫn nhau, mà nên chung sống hòa bình, nương tựa vào nhau mà sống. Thật vậy, cái phần âm, cái phần tà kia nó cứ còn đó và không thương nó thì nó làm giặc đó. Chiến tranh nhỏ lại đẻ ra chiến tranh to và các cuộc chiến tranh, sung đột đoàn chủng cứ diễn ra triền miên trong chiều dài lịch sử hàng ngàn năm qua.

HVNĐ: Kính thưa Thầy ở thế giới vô hình có chiến tranh tâm linh không? Và vì sao ở thế giới hữu hình này chiến tranh sung đột lại cứ sảy ra liên miên như vậy?

Thầy: Ở nơi chốn vô hình đâu có chiến tranh. Nếu có thì đó chính là động đất sóng thần trong lòng con người. Hàng đêm bên tai Thầy vẫn vẳng tiếng kêu oan của những người vô tội, nạn nhân của sung đột đoàn chủng và chiến tranh. Anh chị em thấy đấy kết thúc các lớp học Thầy thường hát cho anh chị em nghe và có bản Thầy ca mang đậm nét buồn về sự u minh của nhân loại, về các cuộc chiến tranh tâm linh trong lòng con người.
Như cái ý Thầy thường nói với anh chị em rằng nhân loại mới học được bài học chân lý thứ 100, kiểu bài học thuyết “âm dương”, mấy ổng đã vội vàng xuống núi hành đạo thì không khỏi mắc phải sai lầm. Thầy nói mở rộng như vậy để anh chị em dễ tiếp thu bài học mới vô danh thôi, chứ Thầy không có ý khen chê bất cứ ai. Nhưng ai đó thấy bất cứ một triết lý nào hay, tư tưởng nào hay, cứ việc tôn vinh, cứ việc áp dụng và nếu thành công, mang lại ấm no hạnh phúc bền vững cho nhân loại, thì ngành nhân điện cũng sẽ “tầm sư học đạo” liền.
Khi phát động những cuộc chiến tranh, những vị lãnh đạo tinh thần luôn nhân danh nhân loại, nhân danh đất nước hoặc nhân danh cộng đồng, chứ có ai nhân danh chính mình đâu. Rồi chiến tranh sảy ra, hậu quả thì ai cũng biết và cái vốn liếng còn lại sau các cuộc chiến tranh là những diện mạo của những anh hùng ra đời, cái tính hữu danh của thế giới hữu hình. Rồi con người lại thờ phụng các anh hùng và phấn đấu trở thành người anh hùng này người anh hùng kia, danh này, chức kia v.v. Ông Quan Công trong Tam Quốc Chí cũng đã từng cầm thanh long đao, cưỡi ngựa xích thố đi tới đâu, đầu phía đối phương rơi tới đó. Người Trung Hoa có tôn thờ ông thì phải hiểu là tôn thờ cái nghĩa khí dũng mãnh, lòng cương trực, trung thành của vị tướng này với ông Lưu Bị, mà người dân Trung Hoa thời đó cho là Thiên Tử, giáng trần để thực hiện mệnh Trời.
Những người bị rơi đầu như Nhan Lương và Văn Sú thì sao? Họ cũng được phía bênh kia tôn thờ chứ? và anh chị em nghĩ sao? Bên nào cũng có cái lý của họ chứ? Liệu học thuyết “âm dương” phân vạn vật ra hai phần tương phản trắng đen, bên đúng - bên sai, liệu có chỗ đứng trong ngữ cảnh này không? Phải học bài học thực hành nhân điện 101 mà Thầy đang rao giảng mới cảm nhận được lý thuyết “âm đương” thâm sâu của Đức Lão Tử và còn lại thì không. Ở đời vẫn có cái đúng cái sai chứ, cái đúng thuộc về kẻ mạnh, còn cái sai thuộc về kẻ yếu. Đúng sai là khái niệm mà do con người đặt ra, chứ đối với thế giới tâm linh Thượng Đế, thế giới từ bi, khoan dung độ lượng, thế giới tình thương thật, không có khái niệm này.
Phải chăng loài người đang thờ phụng những cấu hình tư tưởng của các vị anh hùng. Chúng ta học bài học minh triết giác ngộ nào đây từ các cuộc chiến tranh? Thầy chỉ cho anh chị em biết nè: những mâu thuẫn lợi ích đoàn chủng, cộng đồng, quốc gia là mầm mống của chiến tranh. Phía nào cũng có đủ lý lẽ thuyết phục dân chúng về ý nghĩa của phát động chiến tranh. Nhưng mà bài học chiến tranh quý giá lắm vì trong đau thương đã khơi dậy tình thương của con người, luyện tình thương con người. Đối với Thượng Thiên chiến tranh không nằm trong khái niệm của Ngài, chỉ có con người với có khái niệm này để học đủ bài học tình thương đó.
Thật vậy, cái danh phải trả giá bằng xương máu nhân loại là bài học dở, nhưng nó quý giá vô cùng để gây dựng tình thương đích thực của con người. Quê Việt Nam Thầy, chiến tranh triền miên và người Việt Nam hơn ai hết hiểu được hết ý nghĩa của bài học tình thương và đó là nền tảng tiến hóa của quốc gia này. Quốc gia Việt Nam của Thầy sẽ phát triển vượt bậc và nơi đây có thể coi là nơi xuất phát nền văn minh hậu con người. Đúng là Thượng Thiên không có khái niệm lựa chọn, nhưng quốc gia Việt Nam đã hội đủ những điều kiện để đón nhận đầy đủ tình thương vô lượng của Ngài, mà phát triển tiến hóa đến bến bờ minh triết giác ngộ, như điều kì vọng của cá nhân Thầy, một công dân Việt Nam xuất thân bình phàm.
Trước khi sảy ra chiến tranh nếu các vị lãnh đạo tinh thần thương con dân của mình, biết ngồi lại với nhau phân trần những thiệt thòi đất đai hoặc quyền lợi vật chất khác của xứ dân mình. Rồi lấy mẫu số chung là sự bình an cho trăm họ và thương nhau để cùng tiến bộ văn minh, thì đâu còn những thảm họa chiến tranh triền miên nữa. Nhưng vì các vị lãnh đạo tinh thần kia cứ tưởng mình là Thiên Tử thật (cái danh cao cấp nhất) nên họ không chịu dung hòa, khoan nhượng với mộng tưởng thắng được thì làm vua thiên hạ và tên tuổi được lưu truyền muôn đời v.v. Sự mâu thuẫn trong ngữ cảnh này được hiểu đó là sự thay đổi của các hình thức sống, các hình thức xã hội của nhân loại, mà con người gọi là cuộc cách mạng này hay cuộc cách mạng kia.
Mọi sự đều không nằm ngoài bàn tay xếp đặt của Thượng Thiên. Giải quyết mâu thuẫn bằng sự hiểu biết lẫn nhau, giúp nhau tiến bộ, tiến hóa, đấy chính là đường hướng cách mạng mới, bài học rút tỉa từ các cuộc chiến tranh triền miên, là ý Thượng Thiên trong thời kỳ giác ngộ cuối cùng này của nhân loại. Làm theo Thiên ý sẽ được tiếp tục sống và phát triển, còn chống lại Thiên ý thì tự chuốc họa diệt vong và nhân loại tự quyết định số phận của mình.
Cách giải quyết bằng sung đột chiến tranh phải chăng từ sự lầm tưởng của những cá nhân, những người anh hùng hữu danh. Thầy nhắc lại để anh chị em nhớ, các Đấng Thiêng Liêng Cao Cả, Đấng Thượng Thiên Tối Cao là vô danh và ngoài ra thì anh chị em nên xem lại. Khi Ngài mượn thể xác của những cá nhân trong lịch sử để thực hiện Thiên ý thì ta có tên các vị anh hùng hữu danh.
Nói như vậy Thầy không bảo anh chị em không thờ phụng ai, mà Thầy nhắc anh chị em nhận thức cho đúng về ý nghĩa thờ phụng, tôn thờ những tinh thần, tôn thờ những nghĩa khí, ẩn chứa vô hình, trợ giúp vô hình cho những vị anh hùng, những nhà tư tưởng, những giáo chủ, những nhà khoa học, những người đã có công tạo dựng thế giới này trong mọi thời đại. Đó chính là ý nghĩa triết học, ý nghĩa tâm linh cao siêu nhất, mà Đền Thờ Tổ Tiên Nhân Loại ở Úc châu Thầy được Thượng Thiên chỉ dẫn cho phép xây dựng.
Nhân đây Thầy nhắc nhở để anh chị em rõ, bất cứ những vi phạm nào của anh chị em như vi phạm quyền tự do tâm linh của người khác, ghanh đua nhau dẫn đến mất đoàn kết trong phạm vi ngành nhân điện, đừng có trình Thầy phân xử vì việc phân xử này đã có các Chiến sỹ Vô danh ở Đền thờ Tổ tiên Nhân loại lo. Đừng trách Thầy vì Thượng thiên sắp đặt như vậy nghe. Vi phạm ráng mà chụi.
Đền thờ Tổ Tiên Nhân Loại ở Úc Châu Thầy dựng lên từ học phí anh chị em đóng góp trong các lớp học, là để tưởng nhớ các Đấng Vô Hình, đã ban cho nhân loại các vị có công tạo lập nền văn minh con người ở tất cả các quốc gia dân tộc trên thế giới, trong mọi thời đại. Với ước mong, hòa hợp tất cả các biểu tượng tinh thần, những nghĩa khí xưa và nay thành những biểu tượng tâm linh vô danh. Cái tên dung dị của sự hòa hợp đó là các “Chiến Sỹ Vô Danh” và nếu có danh rồi thì hợp nhất thành vô danh, thành biểu tượng tinh thần chung của nhân loại. Đó chính là ý nghĩa triết học hợp nguyên, toàn nguyên, không nguyên của nhân điện đó.
Trả lại tên thật cho các vị Thiên Tử này là những Chiến Sỹ Vô Danh, đó là cách làm, là phương tiện để chúng ta hội nhập các tư tưởng, các giá trị tinh thần, các hoài bão xưa và nay của loài người. Để các bên đối kháng có các vị anh hùng hữu danh, đều được toại nguyện, để âm dương hòa hợp, làm nền tảng cho sự hòa bình, hòa hợp sớm được kiến tạo. Đó chính là mẫu số chung cho sự hợp nhất Thiên - Địa – Nhân.
Thầy tuyên dương sự hợp tác của những anh chị em đã tự nguyện đến Đền Thờ Tổ Tiên Nhân Loại ở Úc châu, thay nhau sống và làm việc ở đó. Anh chị em đã thay Thầy trông coi thờ phượng nguyên khí nhân loại hàng ngày. Đây là những nghĩa cử thánh thiện, nặng lòng yêu thương mẹ nhân loại, rất đáng để các anh chị em khác học tập.
Những anh chị em nào có tâm nguyện dâng cúng những biểu tượng tâm linh, nhỏ thôi, không cần đắt tiền cao sang, để Đền Thờ thêm được trang trọng, đều được thỏa tâm nguyện và từ hôm nay Thầy cho phép như vậy. Bảo tàng viện Chiến Sỹ Vô Danh, Thầy trù sẽ thành lập nay mai dựa vào những kỷ vật tâm linh dung dị từ các nước, từ các tôn giáo, từ các kỷ vật tâm linh của anh chị em Năm Châu tặng Thầy và sau này là những kỷ vật tâm linh khác do chính anh chị em dâng cúng Đền Thờ.

HVNĐ: Kính thưa Thầy! Những hoạt động nhân đạo của ngành nhân điện nên được tổ chức như thế nào cho phù hợp với hoàn cảnh thực tế hiện nay là có rất nhiều những thảm họa sảy ra cho nhân loại? Xin đệ trình Thầy chỉ bảo cho chúng con.

Thầy: Thầy yêu quý tất cả các giá trị vật chất và tinh thần mang lại từ các nhà khoa học, từ các nhà kinh doanh, từ các nhà tư tưởng, từ các giáo chủ, các nhà chính trị của mọi thời đại với ước mong đóng góp xây dựng một sự nghiệp hợp nhất với Đấng Thượng Thiên, để các thảm họa không đáng có như thảm họa môi sinh, động đất sóng thần, dịch bệnh, chiến tranh, bạo động được giảm thiểu tác hại (tính có hữu hình). Điều Thầy trăn trở nhất là bão tố sóng thần đang trỗi dậy trong lòng con người (tính không vô hình) đó là sự tham lam ích kỷ, lòng thù hận, ghen ghét đố kỵ, ghi ngờ, phân biệt đoàn chủng, giai cấp.
Thật vậy, với sức mạnh kinh tế hiện nay của các quốc gia trên thế giới và với lòng nhân ái yêu thương nhân loại, sự trợ giúp nhân đạo của thế giới cho các nạn nhân sóng thần vừa qua ở các nước Á Châu vào cuối năm 2004, đã nói lên rằng: loài người có đủ khả năng để giúp nhau về vật chất khi gặp hoạn nạn.
Nhưng còn những đợt bão tố và sóng thần đang diễn ra trong lòng con người thì trị sao đây? Phương thuốc trị các thảm họa này chỉ có thể là phương thuốc tâm linh. Muốn sử dụng thành công năng lượng vũ trụ thì phải thay đổi tâm linh. Thay đổi tâm linh không có nghĩa là thay đạo của anh chị em bằng đạo mới “nhân điên”. Ngành nhân điện là ngành nghiên cứu và phát triển tâm linh, năng lượng vũ trụ và nó không trực hệ bất cứ một thứ đạo giáo nào, nó dung dị là khoa học tâm linh nhân điện (nhân điện là con người mang năng lực, điện năng Thượng Đế).
Kinh nghiệm rút ra từ thực tế là các anh chị em ở bất cứ đạo giáo nào cũng đều bình đẳng với nhau khi học nhân điện và đều thân thiện với nhau. Nhân điện là mẫu số chung cho anh chị em. Những đóng góp của anh chị em cho cộng đoàn mình làm Thầy vui lắm. Vì các vị giáo chủ của anh chị em đã nhờ Thầy giúp anh chị em tiến hóa tâm linh và anh chị em sử dụng được năng lượng tâm linh để chữa bệnh, chữa đau khổ là anh chị em đã thay các giáo chủ của mình, cứu giúp cộng đoàn mình ra khỏi những vòng cám dỗ vô minh. Đó mới đích thực là hoàng hóa Phật pháp hay rao giảng tin mừng. Các giáo chủ của anh chị em ắt cũng mừng và sẽ ban phước lành và độ trì cho anh chị em nhiều lắm, khỏi lo đi nghe.
Nếu nhân điện được anh chị em ứng dụng có hiệu quả, thì anh chị em hãy cám ơn Thượng Thiên, Trời Phật, Đức Chúa, Đức Tiên Tri và các chư vị Thánh Thần đã giúp anh chị em, chứ anh chị em đừng bao giờ phải trả ơn Thầy. Thầy chỉ là Thầy Đáng trong nơi sâu kín vô danh của anh chị em là Thầy vui lắm rồi.
Thầy đề ra học phí học nhân điện là Thầy muốn anh chị em đừng bao giờ phải phụ thuộc vào Thầy, để anh chị em hoàn toàn tự do tiếp tục nghiên cứu phát triển tâm linh nhân điện hay chối bỏ nó. Đây là cái ẩn ý Thượng Thiên tạo ra để giúp anh chị em tự do hoàn toàn. Thầy là Thầy Đáng của anh chị em và Thầy đang sử dụng hình thức mang ‘tính có’ hữu hình giả tạm để thực sự tạo ra quyền tự do tuyệt đối cho anh chị em đó. Thấy lợi ích thì học hỏi, nghiên cứu và tiếp tục tiến hóa, còn anh chị em thấy nhân điện không có công dụng, ích lợi thì anh chị em tự do, tự động trở về trạng thái trước khi mở luân xa và đơn giản vậy thôi. Anh chị em hoàn toàn tự do quyết định con đường đi của mình.
Thầy ăn một ngày có mấy chén cơm thôi, tiêu sài đơn giản như những người bình thường. Tiền dạy học Thầy dùng cho việc trợ giúp phát triển Khoa học Tâm linh Nhân điện toàn cầu, vì Thầy biết rằng công cụ hữu hình tiền bạc vẫn có những giá trị nhất thời của nó. Ở đâu đó vẫn cần tiền bạc, mà Thầy đại diện cho anh chị em làm việc trợ giúp nhân đạo này. Vì Thầy và anh chị em là con người bình phàm và những ứng xử nhân đạo bằng tiền bạc vẫn còn cần thiết, chứ Thầy không nhủ anh chị em đi làm từ thiện bằng tiền bạc, một mình Thầy đại diện cho anh chị em là đủ rồi. Đóng học phí học nhân điện là góp vào quỹ từ thiện nhân điện để giúp đời minh triết giác ngộ.
Anh chị em hãy làm từ thiện bằng năng lượng vũ trụ, cái vô hạn cho bao nhiêu cũng được, còn làm từ thiện bằng tiền biết bao nhiêu cho vừa. Anh chị em nghèo cũng làm từ thiện được, truyền điện cho những nơi gặp thiên tai, cho những người đau bệnh quanh anh chị em đi, đó là làm từ thiện và còn hơn thế nữa.

HVNĐ: Thầy kính yêu! Chúng con cũng đã thực hiện vô danh mình, nhưng khó quá chưa làm được mấy. Xin Thầy chia sẻ với chúng con về kinh nghiệm này.

Thầy: Vượt qua những thử thách danh lợi cũng là việc mà người tu nhân điện phải làm, anh chi em theo Thầy tu bằng năng lượng vũ trụ cũng vậy thôi. Vì khi chưa vượt được khung giá trị truyền thống danh lợi, thì kết quả thực hành nhân điện bị hạn chế. Thầy không thể làm khác được và Thầy biết rằng mình phải thực hiện những việc mà thực lòng Thầy không muốn làm. Còn anh chị em nào trách cứ Thầy cũng không sao, vì sự nghiệp nhân điện mà Thầy và anh chị em đang làm là tuân theo những chỉ dẫn của Thượng Thiên, có sao nói vậy đó là nhân cách Nam Bộ, đời thường của Thầy.
Thầy mừng là những công thức nhân điện được Thượng Thiên cho phép sử dụng thông qua anh chị em, đang có nhiều kết quả, thành quả ngoạn mục, phục vụ nhân sinh, đáng ghi nhận là bài học 101 và được xã hội loài người biết đến. Người ta sợ cái danh của Thầy là một lầm lẫn đáng tiếc vì thực ra Thầy là người vô danh ở miền sông nước Cửu Long Việt Nam.
Thầy đang nói về chủ đề vô danh với anh chị em và những điều Thầy vừa nói ở trên không phải không có ý nghĩa. Thầy mà phát triển nhân điện để có danh có phận như những người khác thì cơ hội có thể nói là nhiều lắm. Thầy đã kể cho anh chị em nghe trong các lớp học là có rất nhiều những sự mời gọi hậu hĩnh của những người giàu có, của các quốc gia, muốn sử dụng Thầy, sử dụng nhân điện cho những mục đích riêng với những món được trả về danh lợi biết mấy và nếu nhận lời, cái danh của Thầy to lắm rồi. Thầy không nhận lời không phải là Thầy không thích danh lợi, mà chỉ dung dị là Thầy nhìn thấy trước được cái danh lợi chỉ giả tạm, cái hữu danh chỉ giả tạm, cái vô danh mới là cái tên thật mà Thượng Thiên ban cho loài người. Vô danh thì có quyền năng khả năng để giúp đời. Nguyện làm người vô danh là tâm nguyện của Thầy và anh chị em đó.
Có bao nhiêu tiền của, lâu đài, biệt thự sang trọng, chết có ai mang theo được đâu và người đời chỉ mong còn để lại cái danh lại cho đời. Đây là một lầm lẫn đáng tiếc của nhân loại đã làm cho những người còn sống ở thế gian này đau khổ. Vì sao? Vì rằng cả một thời đại, triều đại được mấy cái danh để lại cho đời? Vậy phần đa nhân loại không có được cái danh này, họ sẽ than thân trách phận, trách cả trời gần trời xa sao mà không công bằng với họ. Vô danh, hòa hợp những cái hữu danh thành cái vô danh Thượng Đế là bài học hôm nay Thầy dạy cho anh chị em đó.
Những anh chị em được Thầy bổ nhiệm thay Thầy hướng dẫn các lớp cao nhân điện hãy nghe Thầy chỉ dẫn nè: khi anh chị em đứng lớp, Thầy gửi các Đấng đến giúp anh chị em hoàn thành nhiệm vụ, khi hết nhiệm vụ ai về mức tiến hóa của người đó để anh chị em tự mình tu tâm dưỡng trí để tiến hóa, chứ các Đấng không làm thay anh chị em được. Nói như vậy để anh chị em biết khiêm nhường với anh chị em học cấp dưới, còn dĩ nhiên khi đứng lớp anh chị em sẽ được sự chỉ bảo đặc biệt của Thầy và anh chị em tiến bộ tâm linh nhanh lắm. Thầy nhắc cho anh chị em biết là không có gì tiến bộ nhanh bằng tiến bộ tâm linh, không có gì lợi ích bằng lợi ích phát triển tâm linh.
Thầy giúp đỡ anh chị em và cùng anh chi em đi vào thế giới vô danh, cái tên đích thực của con người khi mới được sinh ra lần đầu tiên ở thế giới này. Đứa trẻ mới lọt lòng mẹ đâu có tên, nó hồn nhiên, tự nhiên và đáng yêu như thế nào. Còn sau đó cha mẹ và người thân của nó nuôi dạy nó theo các khuôn mẫu định sẵn để thành danh, để thỏa mãn cái danh cái lợi của chính họ, mà họ cứ tưởng cho con họ. Đó là nguy cơ suy thoái giáo dục của một bộ phận công chúng ở nhiều nước như Việt Nam, Nam Hàn v.v. Thầy biết các cháu là con em nhân điện ở Việt Nam ngay từ lớp mẫu giáo mầm non đã đi học thêm, cho ai? Cho bố mẹ các cháu hay cho các cháu? Nên trả lại tuổi thơ đáng yêu cho con cháu mình.
Thầy cũng đã nghĩ đến việc anh chị em sử dụng hình Thầy, danh Thầy và trong những lớp học nhân điện Thầy đã nhắc nhở rồi. Không những thế từ lớp 6, Thầy cho phép anh chị em khỏi phải cầu Thầy mà trực tiếp cầu cho các linh hồn bất diệt bất tử, tái kiếp đi tu hoặc siêu thoát về với Thượng Thiên, anh chị em có nhớ không? Vậy mà đâu đó, Thầy biết anh chị em tôn sùng Thầy, ghép cái danh Thầy với Đấng này Đấng kia và còn mượn danh Thầy nữa. Rồi còn to nhỏ rằng còn nhiều Đấng mới sắp ra đời v.v. Đó là mê tín dị đoan đó! Hãy thương Thầy và trả lại cái linh hồn vô danh cho Thầy. Cũng không có gì lỗi lầm cả khi anh chị em còn cần cầu Thầy, cứ làm, nhưng Thầy chỉ lưu ý anh chị em rằng: bao giờ không phải cầu Thầy khi thực hành nhân điện thì Thầy mừng lắm vì anh chị em đã đến độ trưởng thành.
Có lần Thầy nói: rồi đây sẽ có nhiều Lương Minh Đáng mới ra đời cũng nằm trong cái ước vọng này của Thầy có phải vậy không? Không phải tự nhiên ra đời những đứa trẻ thần đồng đâu, mà từ kết quả các Gen Thượng Đế ẩn chứa trong con người được kích chấn bằng năng lượng vũ trụ thì mới có các thần đồng. Anh chị em không là thần đồng thì là gì đây, khi mà anh chị em nhập môn nhân điện với 3 buổi học đơn sơ đơn giản trong 6 tiếng đồng hồ tổng cộng, Thầy biết. Rồi ngày hôm sau đi truyền điện chữa bệnh, giúp người ta khỏi bệnh và còn chữa được bệnh trầm cảm, thần kinh giả cho thiên hạ nữa thì không phải là thần đồng thì là gì đây? Anh chị em cứ ngẫm cho thiệt kỹ mà coi.
Cái quyền năng khả năng tiềm ẩn trong anh chị em thì anh chị em không ngưỡng mộ và quý giá nó, anh chị em cứ đi tìm kiếm cái mơ hồ đâu đâu, chụp hình, chụm ảnh những cái bóng hình lơ mơ ngoài tự nhiên, thì kháo nhau là con ma này con ma kia. Nếu có người gọi cái bóng tròn anh chị em chụp được là Đấng này, Đấng kia thì anh chị em giải thích sao đây? đó là mê tín dị đoan. Chuyện thiên hạ kháo nhau về những hiện tượng tâm linh là chuyện của người ta, anh chị em đừng có giải thích gì hết vì Thầy có dạy anh chị em đâu nào. Thầy chỉ dạy anh chị em biết cách sử dụng năng lượng tâm linh để giúp mình, giúp người có duyên mới mình và giúp muôn loài thôi. Đàng này một số anh chị em lại thích cái danh, thích giải thích này nọ về các hiện tượng tâm linh để chứng tỏ mình có hiểu biết tâm linh sẽ không mắc phải những sai lầm đáng tiếc.
Khi những công thức nhân điện sử dụng năng lượng vũ trụ được anh chị em sử dụng thành công, là lúc báo hiệu những trưởng thành về năng lực tâm linh của anh chị em, là lúc mà những tác động ngoại giới không còn ảnh hưởng đến anh chị em, là lúc tiềm năng đặc biệt ẩn chứa trong anh chị em được trỗi dậy, là lúc các gen Thượng Thiên được cấy trong anh chị em và kết quả là anh chị em minh tuệ, giác ngộ, tìm ra ý nghĩa chân ngã, ‘tính không’ tiềm ẩn trong thể xác hữu hình của anh chị em.
Ai cũng có tiềm năng này, vấn đề là ai biết cách sử dụng năng lượng vũ trụ kích chấn nó sẽ thành công. Học nhân điện, Thầy không có chọn lọc học viên này mà không nhận học viên kia cho dù anh chị em là bất cứ ai, vì Thầy biết năng lực tâm linh, năng lực phản vật chất đang tiềm ẩn ở tất cả nhân loại. Thầy mở luân xa cho anh chị em là bước đầu quan trọng Thầy kích chất tiềm năng kháng bệnh, tiềm năng tâm linh, tiềm năng tình thương, tiềm năng từ bi hỷ xả, tiềm năng thông minh cho anh chị em.
Nói một cách dễ hiểu để anh chị em áp dụng là: muốn cho những khả năng tiềm ẩn của con người thức dậy thì các học viên nhân điện cần lưu ý cái tính ‘vô danh’ của các Đấng đang giúp mình thực hành nhân điện. Khiêm nhường học hỏi, không xưng danh tánh, âm thầm phục vụ vô điều kiện cho nhân loại, tôn trọng hiện hữu, tôn trọng pháp luật là anh chị em đã vô danh rồi đó.
Những điều Thầy tâm sự với anh chị em này là những thông điệp gửi tới anh chị em và nếu nó có hay, có đúng, có lợi ích cho anh chị em, thì nó cũng chỉ có giá trị nhất thời thôi. Anh chi em đừng coi nó là chân lý. Vì chân lý là sự biến đổi, là sự thật thay đổi, là cái mà chúng ta chưa được Đấng Thượng Thiên cho phép biết lúc này, thời điểm này. Học nhân điện là học sự thay đổi, thay đổi trong từng giây từng phút để nâng cao tốc độ tiến hóa của nhân loại kịp với nhịp sự xoay vần của vũ trụ, giúp cho nhân loại được sự may mắn và hạnh phúc, để nền văn minh con người được bảo tồn và sự sống muôn loài được sinh sôi nảy nở, để các thảm họa tự nhiên giảm thiểu, để hành tinh này mãi xanh trong tình yêu thương vô lượng, bất diệt của Ngài.