Nguyên tác: THE SECRET DOCTRINE

Tác giả: H. P. Blavatsky

Người dịch: Đỗ Bất Nhị
———————————————— ————————————————-
LỜI NÓI ĐẦU

Tác giả – người tổng hợp thì đúng hơn – cảm thấy cần thiết phải gửi lời xin lỗi đến độc giả, vì sự chậm trễ kéo dài trong việc xuất bản tác phẩm này. Một phần do bệnh tật thường xuyên và cũng do những dự tính lớn lao về vấn đề muốn bàn luận. Ngay cả khi hai tập sách này hoàn tất, không hẳn là công việc đã xong xuôi, bởi vì tác giả nói chưa đủ nhiều về tâm linh huyền bí. Khi mà một khối lượng lớn các tài liệu bí truyền đã được chuẩn bị, đó là lịch sử các thuyết huyền bí trong cuộc sống của các cao-đồ (Adepts) thuộc giống dân Aryan, và sự ảnh hưởng của nó đến đời sống của chúng ta trong mấy nghìn năm nay. Nếu hai tập sách này được chào đón nồng nhiệt, thì chúng tôi sẽ gắng sức hoàn thành các tập tiếp theo. Tập thứ ba, hay thứ tư đã chờ sẵn lên khuôn.

Ban đầu, sau khi xuất bản tác phẩm Nữ-thần-Isis-lộ-diện (Isis Unveiled), chúng tôi định soạn quyển Giáo lý bí truyền (Secret Doctrine) với ý đồ hiệu đính nó. Dần dần trong quá trình biên soạn, chúng tôi cảm thấy rằng cần phải có một phương pháp trình bày khác giúp độc giả dễ dàng tiếp cận các vấn đề đã nói tới trong quyển Nữ-thần-Isis-lộ-diện và tuyển tập về nội môn bí giáo. Vì vậy, tác phẩm này sẽ có khoảng 20 trang được trích từ những tập sách mà chúng tôi đã xuất bản trước đây.

Tác giả cảm thấy đã phụ lòng mong mỏi của quý độc giả, các nhà phê bình về phong cách văn chương thể hiện trong sách này. Bởi vì tác giả là người ngoại quốc, nên tiếng Anh không được hoàn hảo cho lắm. Tác giả quyết định sử dụng Anh ngữ vì nó là ngôn ngữ phổ thông, thuận tiện cho việc truyền đạt những chân lý cổ xưa ra cộng đồng thế giới, mà đó lại là nhiệm vụ hàng đầu mà tác giả được giao phó.

Những chân lý được trình bày dưới đây không mang ý nghĩa như một lời mặc khải; và tác giả cũng chẳng nhận mình là kẻ tiết lộ thiên cơ đầu tiên trong lịch sử. Đó là vì những điều được viết trong tác phẩm này, đã hiện diện từ lâu trong hàng ngàn quyển thánh thư, rải rác ở các tôn giáo khắp từ Á sang Âu. Nó ẩn mình dưới lối viết bằng chữ tượng hình hay biểu tượng, cho nên người đời chưa ai cố công vén lên bức màng ẩn tàng nhiều điều lý thú ấy. Nay, chúng tôi cố gắng thu thập những giáo lý lâu đời nhất, kết hợp chúng lại với nhau và trình bày theo hiểu biết của mình, sao cho mạch lạc nhất. Lợi thế duy nhất mà người viết đã có, là nhận được sự truyền dạy trực tiếp từ các bậc huynh trưởng của mình, chỉ một vài chi tiết là do công tác giả tự tìm tòi nghiên cứu. Việc công bố những kiến thức trong tập sách này, cũng hầu mong trả lại cho môn huyền bí những giá trị chân chính đã thất truyền; vì trong nhiều năm qua, những người theo đuổi nó do đã quá say mê, mà mù quáng tạo nên các suy luận hoang đường mê tín.

Những cũng không cần thiết phải giải thích rằng, tác phẩm này không phải là toàn bộ các giáo lý bí truyền đang tồn tại, nó chỉ là một mảnh nhỏ, một vài nguyên lý cơ bản được rút ra. Và điều đặc biệt, chúng tôi đã chú trọng đến những dữ kiện mà có một số tác giả đã cố tình bóp méo và xuyên tạc.

Nhưng có lẽ chúng tôi cũng nên nói rõ ràng rằng, những giáo lý rời rạc trong tập sách này, không thuộc về một tôn giáo duy nhất nào. Mà đó là tập hợp những tôn giáo đã tồn tại trên trái đất này, của cả người Hindu, người Zoroastrian, hay người Chaldea… Giáo lý bí truyền là cội nguồn, là tinh hoa của tất cả tôn giáo từ Ai Cập, Hồi, Kitô hay Phật giáo. Nó là căn bản, là khởi đầu, làm nền tảng cho sự phát triển của các tôn giáo lớn, mà chúng ta nhìn thấy hiện nay.

Có lẽ là sau khi xem xong quyển sách này, độc giả cho rằng người viết quả là giàu trí tưởng tượng, bởi vì nó giống như các câu truyện cổ tích xa xưa không hề tồn tại. Hầu như chưa có ai từng nghe nói về Thiền-định-chân-kinh (Book of Dzyan) lần nào đâu?

Do đó, tác giả sẵn sàng chịu trách nhiệm về những phát biểu có trong tác phẩm này, thậm chí phải đối mặt với chỉ trích cho rằng mình đã “phát minh” ra nó. Tác giả ý thức được, nhiều người sẽ nhìn nhận nó như là sự hoang đường không đáng tin cậy. Nhưng với lý luận có gắn kết hợp lý và nhất quán, tác giả tin rằng tập sách này đáng được xem là một Sáng-thế-ký (Genesis) mới, đủ tự tin xếp ngang hàng với các “giả thuyết” khoa học đình đám hiện nay. Hơn nữa, người ta sẽ xem xét đến nó, không vì nó được chống lưng bởi một tôn giáo nào; mà điều cốt yếu là những lý luận này bám vào quy luật thiên nhiên, kiểu “đồng thanh tương ứng đồng khí tương cầu”. Như vậy, mục tiêu ấy là:

- Cho thấy rằng thiên nhiên không phải là “sự tập hợp ngẫu nhiên của các nguyên tử”.

- Gán cho con người vị trí đúng đắn trong sơ đồ của vũ trụ.

- Phục hồi các chân lý cổ xưa – nền tảng của mọi tôn giáo ngày nay. Và mức độ nào đó, sẽ khám phá sự thống nhất giáo lý về một mối.

- Chứng tỏ rằng có những điều ẩn tàng trong thiên nhiên chưa bao giờ được nền văn hiện tại tiếp cận.

Nếu mong mỏi trên được hoàn thành, thì với tác giả không có gì vui vẽ bằng. Những dòng chữ dưới đây hầu để phụng sự nhân loại, và có lẽ phải đợi đến tương lai, hậu thế mới hiểu hết tấm lòng người viết. Còn hiện tại ư, tác giả vẫn quyết tâm chống lại miệng đời, và quen luôn với việc bị vu khống hàng ngày.

H.P.B.

London, October, 1888.

LỜI GIỚI THIỆU

1


Kể từ khi các tác phẩm của Thông Thiên Học xuất hiện ở Anh, người ta quen gọi giáo lý Thông Thiên Học là “Phật giáo bí truyền”. Tình trạng này có vẽ giống như câu thành ngữ mà ta từng quen thuộc, “lỗi lầm thì lăng xuống vực, còn chân lý phải lết lên đồi” (“Error runs down an inclined plane, while Truth has to laboriously climb its way up hill”).

Những lời minh triết của người xưa thường tỏ ra vô cùng hữu lý. Tâm trí con người thật khó mà thoát vòng định kiến, cho nên khi tìm hiểu một vấn đề mới mẻ nào, người ta hay lấy kiến thức mình có được rồi đem ra so sánh. Điều này dẫn đến hai lỗi lầm phổ biến với cách hiểu Thông Thiên Học. Một là, giới hạn Thông Thiên Học vào Phật giáo. Hai là, lẫn lộn những điều Đức Phật đã giảng với ý kiến được nêu ra trong quyển “Phật giáo bí truyền” của ông Sinnett. Đây có lẽ là sai lầm trầm trọng nhất. Nó tạo điều kiện cho những kẻ thiếu hiểu biết có luận điệu công kích chúng ta, điển hình là một học giả có tiếng tăm về ngôn ngữ Pali tuyên bố rằng, nó “không phải bí truyền, và chẳng xứng đáng là đứa con của Phật giáo”. Nhưng sự thật là, những chân lý được viết trong tác phẩm của ông Sinnett, kể từ thời điểm được công bố, nó đã không còn là bí truyền gì nữa. Cũng giống như những giáo lý của Đức Phật, bây giờ có nhiều kinh sách được viết ra để giải thích, thì nó không thể gọi là bí mật. Còn quyển “Phật giáo bí truyền” thì đơn giản là nó trình bày những vấn đề mà nhiều học giả chưa nói tới. Dù vậy, không hẳn là toàn bộ những bí ẩn từ Phương Đông, chỉ cần vài trăm trang giấy kia mà bao quát hết. Có những chủ đề lớn lao hơn đang nằm đằng sau bức màn huyền bí, nếu không được cho phép, không một vị Chơn sư nào có quyền tiết lộ nó – cho dù ông ta muốn. Vì chân lý không để dành cho những kẻ ngờ ngệch nhạo báng và ngờ vực.

Có thể nói quyển “Phật giáo bí truyền” (Esoteric Buddh-ism) là một tác phẩm kinh điển, nhưng với cái tên này nó đã rước vào mình nhiều lời phê phán. Sự thật đã chứng minh, người đời luôn có thói quen đánh giá mọi việc qua bề ngoài, mà chẳng thèm liếc mắt xem ý nghĩa của chúng là gì. Hiểu lầm này trầm trọng đến mức ngay cả những Hội viên Thông Thiên Học cũng bị vạ lây. Đầu tiên là những người Bà-la-môn và những người khác tổ chức biểu tình, phản đối cách đặt tựa đề như vậy. Thật lòng mà nói, mặc dù đây là cuốn sách hay, nhưng cách tác giả dùng phương pháp ghép âm hai chữ “Budh” và “ism” để đặt tên tác phẩm, đã làm người ta hiểu sai và phẩn nộ.

Trách nhiệm này, trước hết thuộc về những Hội viên Thông Thiên Học Ấn Độ, chúng ta đã đem chủ đề này ra trước công luận, nhưng lại thiếu sót không chỉ ra sự khác biệt từ ngữ giữa “Buddhism” và “Buddh-ism”. “Buddhism” – là hệ thống giáo lý đạo đức do Đức Phật (Gautama) thuyết giảng, và tiền tố “Buddh” được lấy từ danh hiệu của Ngài, Phật (Buddha) – Đấng Giác Ngộ. Còn “Buddh-ism” hình thành từ chữ “Budh” – sự hiểu biết, và “Vidya” – sự tri thức; các từ ngữ trên có nguồn gốc Bắc Phạn (Sanskrit).

Những sai sót này đã được nhìn nhận và cải chính. Chúng ta thay vì dùng từ “Buddhism”, nên đổi thành “Budhism”, cũng cần đọc đầy đủ là “Buddhaism”, và gọi tín đồ của nó là “Buddhaists”.

Lời giải thích này hoàn toàn cần thiết trong thời điểm mọi công việc chỉ mới được bắt đầu. Các Tôn giáo Minh triết là di sản kế thừa của tất cả các quốc gia trên toàn thế giới, mặc dù trong quyển “Phật giáo bí truyền” có nêu: “Hai năm trước đây (tức năm 1983), tôi cũng như bao người Âu Châu sống ở đất nước này, không biết chút gì về khoa huyền môn…”. Sự thờ ơ, thiếu kiến thức đã dẫn đến sự hiểu lầm không đáng có.

Những điều tiết lộ trong quyển “Phật giáo bí truyền” không có gì lạ lùng với tác giả, do nhiều năm trước đó (1880) tác giả đã nhận nhiệm vụ từ các Chơn sư, công bố một phần Minh triết bí truyền đến đại chúng. Hai người Châu Âu đầu tiên được lựa chọn, đó là ông Sinnett (tác giả cuốn “Phật giáo bí truyền”), và Đại tá H.S.Olcott – đồng nghiệp của tôi sau này. Ông Sinnett đã thuyết giảng triết lý này nhiều nơi tại Mỹ, trước cả khi quyển “Nữ thần Isis lộ diện” được xuất bản. Còn ông H.S.Olcott thì lần lượt nhận sự giáo huấn trực tiếp ba vị Đạo sư: một người Hungary, một người Ai Cập và một người Hindu.

Hiện tại còn có nhiều người nữa biết đến những giáo lý này, nhưng vì họ không được phép công khai, nên chẳng có lời nào luận bàn về nó. Còn Đại tá Olcott hay ông Sinnett, vì được lệnh, những người này đã dùng nhiều phương pháp để phổ biến chúng đến mọi người.

2

Từ ngữ “Adi” – nghĩa là “Đấng-duy-nhất”, “Đấng-đầu-tiên”; “Budha” – nghĩa là “Minh-triết-tối-cao”, “Minh-triết-tuyệt-đối”. Các từ này đã được Đức Aryasanga sử dụng trong bộ luận bí mật của mình và ngày nay các Phật tử thần bí Bắc tông đều dùng đến. Nó là một thuật ngữ tiếng Phạn, do những người Aryan (Ấn Âu) dùng để xưng danh vị Thượng đế của mình. Từ này được sử dụng trước cả từ “Brahma”, vốn chưa hề xuất hiện trong kinh Veda và những quyển cổ kinh. Và “Adi-Bhuta” được Fitzedward Hall dịch là “nguyên sinh của vạn vật”. Có lẽ vào một thời điểm rất xa xưa, trước tiên danh từ này được dùng phổ biến trong nhân gian, sau đó nó được nhân cách hóa trở thành tôn danh, và chỉ đặc biệt dùng cho những vị có tình bác ái rộng lớn, trí tuệ minh triết cao siêu.

“Bodha” có nghĩa là “sở hữu trí tuệ thiên phú bẩm sinh”; còn Buddhi là “tiếp thu tri thức bằng nổ lực và công đức cá nhân”. Trong khi “Buddhi” là các kênh quang năng (cognizing) dùng để thu thập kiến thức nhằm đạt đến Chân ngã (Ego), đi tới nhận biết thiện và ác, đi tới linh hồn tối thượng, đi tới hiện thể của Atma. Khi “trực giác” (Buddhi) hấp thụ ngã thức (Ego-tism) của chúng ta, ngã thức bị hủy diệt, cùng với tất cả rối loạn (Vikaras) của nó. Đức Quán Thế Âm (Avaloki Teshvara) trở thành biểu hiện của chúng ta, Niết Bàn (Nirvana) hay Giải Thoát (Mukti) sẽ đạt tới. Nirvana hoặc Mukti, nghĩa là thoát khỏi ảo ảnh của thế giới này (Maya). “Bodhi” cũng là một trạng thái đạt tới sự xuất thần (Trance) đại định (Samadhi), của một người đạt tới đỉnh cao trí tuệ tâm linh.

Quả là thiếu khôn ngoan và mù quáng, nếu người nào đó tỏ ra bài Phật giáo và phủ nhận luôn “Giáo lý bí truyền” (mà nó cũng là giáo lý của những người Bà-la-môn) trong thời điểm này, chỉ vì cái tựa đề gợi lên cho họ quan niệm phiếm thần. Nhưng họ đâu biết rằng, trong thời đại vật chất hỗn độn này, chỉ có triết lý bí truyền mới chống đỡ được các cuộc tấn công liên tục làm con người suy sụp tâm thần, khủng hoảng tâm linh trầm trọng. Những triết gia chân chính, các môn đồ của khoa minh triết bí truyền, hầu như đã không còn phàm ngã, không còn niềm tin vào giáo điều và phân biệt riêng rẽ tôn giáo nào. Giáo lý bí truyền dung hợp mọi tôn giáo, lột trần những lớp võ được con người tô vẽ, và trả lại cội nguồn của chính của nó. Nó chứng tỏ sự cần thiết của một Thượng Đế tuyệt đối trong tự nhiên. Nó phủ nhận Thượng Đế không khác nào phủ nhận Mặt Trời. Triết lý bí truyền không bao giờ chối bỏ thượng đế trong tự nhiên, và Thượng Đế trên cương vị là Thực thể tuyệt đối và trừu tượng. Nó chỉ không chấp nhận bất kỳ vị thần thánh nào của cái gọi là tôn giáo độc thần, các vị thần được tạo ra bởi con người theo tưởng tượng của mình. Những hình họa đó dù đẹp đến đâu, cũng chỉ là bức biếm họa báng bổ thần linh không hơn không kém.

Hơn nữa, các tài liệu mà chúng tôi có trong tay, chúng được sưu tập từ các giáo lý bí truyền khắp nơi trên thế giới, và nó còn có trước cả loài người chúng ta nữa kia. Và dĩ nhiên huyền môn Phật giáo chiếm số lượng lớn nhất trong công trình này. Ví dụ như những đoạn bí ẩn trong Thánh Kinh “Dan” [1], “Ja-na” (Dhyan) đều thuộc giáo lý siêu hình của Đức Phật…

Nhà cải cách Hindu giáo (Đức Phật) chỉ nói đến minh triết tôn giáo, khía cạnh đạo đức con người, trong các bài thuyết giảng công truyền. Còn những điều “không nhận thấy và vô hình”, những bí ẩn của trái đất, của vũ trụ ngài chỉ giảng cho một số môn đồ chọn lọc, các vị La-hán (Arhats). Những vị La-hán này được ngài diểm đạo ở hang động động Saptaparna (Thất Diệp) gần núi Baibhar. Động này ở thành Rajagriha (Vương-xá), thủ đô cổ xưa của Vương quốc Mogadha (Ma-kiệt-đề) và cũng là động Cheta của Đức Fa-hian (Pháp-hiển), mà một vài nhà khảo cổ đã đưa ra giả thuyết.

Thời gian và trí tưởng tượng của con người đã làm những triết lý này biến đổi, nó bắt đầu đánh mất sự thuần khiết khi theo chân các vị La-hán trên đường truyền đạo. Chắc hẵn khi được đưa vào Trung Quốc, Nhật Bản, Thái Lan hay Miến Điện (Burmah), các bậc Thánh nhân này đã tùy vào căn cơ của các vị đạo đồ, ở mỗi vùng đất khác nhau mà có sự chắt lọc cần thiết. Vì vậy, làm thế nào mà tìm thấy được triết lý tinh khiết ban đầu, khi mà nền tảng “Phật giáo bí truyền” đã được canh tân trong một gương mặt tôn giáo hoàn toàn mới. Đó là các trường phái Phật giáo có mặt ở Trung Quốc, hay các nước Phật giáo khác; kể cả khá nhiều trường phái ở Tây Tạng, nơi được các vị Lạt-ma (Lamas) chưa hề được điểm đạo và các nhà cải cách Mông Cổ sáng lập.

Vì vậy, người đọc cần ghi nhớ sự khác biệt rất quan trong giữa Phật giáo chính thống – tức là các giáo lý công truyền của Đức Phật, và Phật giáo bí truyền. Tuy nhiên, giáo lý bí truyền của Đức Thích Ca không khác với giáo lý của những đạo sĩ Bà-la-môn được điểm đạo cùng thời với ngài. Đức Phật là cư dân của chủng tộc Ấn-Âu (Aryan), một người Hindu chính tông, một giai cấp vương tộc (Kshatrya), và đệ tử của những vị được “sinh ra hai lần trong đời” (những người Bà-la-môn được điểm đạo) hoặc Dvijas (những người đặc biệt được hưởng quyền ưu đãi của Bà-la-môn). Do đó, giáo lý của ngài không thể khác với giáo lý của họ, vì toàn bộ cuộc cải cách để hình thành Phật giáo chỉ cốt đưa ra bên ngoài một phần các giáo lý chỉ dành cho các vị Bà-la-môn được điểm đạo và những nhà tu hành khổ hạnh. Vì phải giữ lời hứa, nên Đức Phật không thể dạy tất cả những gì đã đã được truyền đạt, mặc dù triết lý của ngài được dày công xây dựng trên nền tảng thực hành khoa huyền bí. Ngài chỉ đưa ra thế gian phần xác, còn phần hồn tinh túy ngài giữ lại và truyền cho các môn đồ ưu tú. Trong các học giả Đông Phương, nhiều người Trung Quốc đã từng nghe nói tới “tâm pháp” (Soul Doctrine), nhưng không ai hiểu được tầm quang trọng của nó.

Các giáo lý này được giữ gìn vô cùng cẩn mật, bên trong những thánh đường vắng lặng và hiểm trở. Sự bí mật này cùng với nguyện vọng tìm đến Niết Bàn (Nirvana) đã kích thích sự tò mò của những học giả nghiên cứu về nó, thế nhưng họ không tìm được đáp số của bài toán học búa này, và giải quyết nhanh gọn nó bằng cách tuyên bố: Niết Bàn có nghĩa là “sự hủy diệt tuyệt đối”.

3

Vào cuối thế kỷ XIX này, một trào lưu văn học mới xuất hiện trên thế giới, đó là những bài báo về các cuộc khảo cứu tôn giáo được khoát dưới lớp áo khoa học, của những nhà ngữ học Bắc Phạn, những nhà Đông Phương học nói chung. Họ nói về Ấn Độ Giáo, Ai Cập giáo, và các tôn giáo cổ xưa khác bằng cách suy đoán mơ hồ qua những câu chuyện thần thoại; khiến cho người đời chỉ tin tưởng vào cái thô thiển bên ngoài mà đánh mất bản chất tốt đẹp bên trong. Các tác phẩm này được chú ý nhờ sự suy đoán tài tình, phô trương lòng tôn sùng tính dục và biểu tượng dương vật hơn là vì học thuật chân chính.

Đây có lẽ là lý do thực sự, tại sao một vài phát thảo về chân lý căn bản của giáo lý bí truyền cổ xưa được phép truyền ra công chúng, sau hàng nghìn năm dài nằm trong im lặng. Tôi nói “một vài chân lý”, một cách thận trọng, bởi vì còn hàng trăm điều thâm sâu nhất cần phải được giữ lại, nó không thể truyền đạt trong thời điểm hiện nay, khi mà phong trào cuồng tín cực đoan (Sadducees) đang phát triển mạnh. Nhưng vài điều được đưa ra như thế là tốt lắm rồi, còn hơn phải chịu im lặng hoàn toàn, nhất là với các chân lý thật sự quan trọng.

Thế giới ngày nay, trong cơn điên cuồng chạy về phía vật chất, nơi mà con người nhầm lẫn rằng, đó chính là mục đích cao nhất của mình. Nhưng mọi rắc rối đã xảy ra, khi nó trở thành đấu trường, một thung lũng thật sự cho sự bất hòa và xung đột triền miên cho Thánh-linh (phần hồn) của chúng ta. Những thế hệ sau này, cứ thế, ngày càng tê liệt và suy nhược. Vì thế “những kẻ mất đức tín và trụy lạc” – cách nói của Greeley – không ưa gì sự hồi sinh những chân lý trong quá khứ, mà chỉ có một số ít môn sinh mới được tiếp cận. Cho dù đó là mười năm trước đây, khi quyển “Nữ thần Isis lộ diện” được xuất bản, hay là trong thời điểm tác phẩm này ra đời, với nhiệm cố gắng giải thích vài điều bí truyền đã được phổ biến.

Một trong những sự phản đối quan trọng nhất, là thiếu tin tưởng vào nguồn gốc của những đoạn Thánh-kinh (Stanzas) được trích dẫn trong quyển sách này. Dù rằng, phần lớn các đoạn trích đó được lấy từ các tác phẩm Bắc Phạn, Trung Quốc và Mông Cổ; một vài nhà nghiên cứu Đông Phương học cũng biết những quyển kinh này, nhưng nó hoàn toàn không tồn tại ở các thư viện châu Âu. Như cuốn “Thiền định chân kinh” (Book of Dzyan), thì không một nhà nghiên cứu nào biết đến, thậm chí chẳng bao giờ nghe nghe nói tới cái tên này. Tất nhiên, đấy là sự thiệt thòi cho ai muốn nghiên cứu theo phương pháp khoa học, nhưng đối với các môn đồ bí giáo thì nó chẳng có mấy ý nghĩa. Một vài giáo lý của quyển sách này đã được rút ra, nằm rải rác trong hàng trăm nghìn bản thảo tiếng Phạn; nhưng đáng tiếc rằng nó bị bóp méo bởi cách diễn giải tầm phào. Do đó, độc giả có cơ hội xác minh và kiểm chứng từ các đoạn văn có nguồn gốc ở trên. Một vài giáo lý khác từ trước đến nay đều được khẩu truyền, nó hiện diện trong nền văn học thánh điện của những người Bà-la-môn, Trung Quốc và Tây Tạng.

Cho dù có nhận được những lời chỉ trích ác tâm đi nữa, tác giả vẫn chắc chắn rằng. Những môn sinh của một số trường phái bí truyền, ở bên kia sườn núi Hy-mã-lạp-sơn, nhưng nơi đào tạo đệ tử có thể tìm thấy ở Trung Quốc, Nhật Bản, Tây Tạng, thậm chí ở cả Syria, cũng như bên Nam Mỹ. Những nơi này cũng có sở hữu các bộ kinh sách thiêng liêng về triết lý bí truyền. Bởi vì, kinh sách này đã được dịch ra nhiều thứ tiếng, có khi trình bày bằng ngôn ngữ tượng hình, bảng chữ cái Cadmus và ngôn ngữ điển từ của thần linh (Devanagari).