Salad post bài này lên diễn dàn này từ rất lâu rồi. Lúc trước, giữa các đạo hữu cũng xảy ra một cuộc xung đột giữa 2 hệ tư tưởng Phật giáo, và Thiên chúa giáo. Nhận thấy gần đây, những mâu thuẫn có thêm phần gay gắt, nên Salad xin post lại bài này. Lúc trước, Salad gửi bài lên ở dạng comment, nay đem ra hẳn thành một topic... vài dòng chia sẻ cùng quý đạo hữu và ace.

“KINH LẠY CHA

Lạy Cha chúng con ở trên Trời

Chúng con nguyện danh Cha cả sáng

Nước Cha trị đến, ý Cha thể hiện dưới đất cũng như trên trời

Xin Cha cho chúng con lương thực hằng ngày

Và xin tha nợ cho chúng con như chúng con đã tha kẻ có nợ chúng con

Xin giữachúng con khỏi sa trước cám dỗ

Nhưng xin cứu chúng con ra khỏi sự dữ

Amen “



Bài Kinh Lạy Cha do chính Chúa Jesus dạy cho các môn đệ. Chúa Jesus là người cấp tiến trong nhận thức về Thiên Chúa vào thời đại ấy. Cho nên Kinh Lạy Cha mang một màu sắc hoàn toàn khác với những bài kinh khác như Kính Mừng,.v.v. Đa số trong đạo Thiên Chúa, các kinh đọc và lần chuỗi được chia ra làm 2 mảng. Mảng để tôn vinh Chúa, Đức Mẹ và mảng để thực hành. Tuy nhiên các giáo dân và có thể là cả những vị Linh mục không nhận thức rõ được điều này. Mảng để tôn vinh Thiên Chúa thì đứng đầu là kinh Kính Mừng, rồi kinh Sáng Danh, kinh Nữ Vương. Mảng để thực hành đầu tiên là Kinh Lạy Cha, rồi rất nhiều kinh của các vị Thánh , điển hình là bài Kinh Hòa Bình của Thánh Phanxicô khó khăn...
Trở lại phần trên như đã nói, Jesus là một người đạo Chúa cấp tiến. Thầy ấy gần như đã phá vỡ hoàn toàn các định kiến của thời bấy giờ. Trao quyền năng cho con người. Trong ấy quyền năng cao nhất là sự THA THỨ. " ở đất này, các người cũng có quyền tha tội cho anh em của các người ". Vậy Thầy Jesus mang màu sắc của Cựu Ước là hình ảnh Chúa Cha oai nghiêm ra để đến gần với tâm lý của dân Do Thái, và từ sự gần gũi ấy, Thầy gần như lấy hết các quyền năng của Chúa Cha mà trao cho con người. Như việc Ngài dạy các môn đệ cách làm yên biển động và gió dữ. và bảo rằng " lòng tin của ngươi đã cứu ngươi ". Theo cách nói của Thầy ấy, Chúa Cha không còn một quyền lực nào trên con người ngoại trừ sự PHÁN XÉT, THƯỞNG PHẠT , ĐỊNH TỘI... Thầy Jesus giới hạn sự tác động của nhân vật Cha trên Trời trở thành danh từ mà phương Đông, Đức Thích Ca gọi là LUẬT NHÂN QUẢ.



" không ai đến được với Cha Thầy, mà không qua Thầy "



Nếu chấp vào văn tự, ta sẽ hiểu lầm rằng Thầy Jesus đang đề cao chính Thầy, và tự làm quan trọng hóa bản thân. Nhưng nếu hiểu thoáng ra tức là muốn ung dung tự tại nơi Cha Thầy thì phải thực hành theo giáo lý của Thầy. Mà Giáo lý của Thầy là tình thương, là từ bi, bác ái. Như vậy, Thầy Jesus không trực tiếp giảng dạy về cách Thiền Quán Từ Bi, nhưng gián tiếp dạy về Hành Từ Bi cho các môn đệ và giáo dân của Thầy. Muốn ung dung tự tại trong nguồn máy bất tận và công bằng của NHÂN QUẢ, cách duy nhất Thích Ca nói đến là sự Tu tập, và đoạn diệt các tham đắm. Không gieo nhân nữa thì sẽ không có quả. Tức là không có tác ý. NHÂN QUẢ dẫn đến LUÂN HỒI, Bồ tát ung dung tự tại cứu khổ trong LUÂN HỒI vì Bồ tát liễu ngộ sâu sắc và tột cùng của NHÂN QUẢ. Vậy thì lời dạy của Jesus và Thích Ca có khác không ?


Thầy Jesus tuy là người cấp tiến nhất thời bấy giờ, nhưng vẫn không thể nào giảng dạy một đạo mà ko hề liên quan gì đến Thiên Chúa. Không thể nào bảo rằng " Duy ngã Độc Tôn". Như vậy, giáo lý của Ngài sẽ bị cho là TÀ GIÁO theo quan điểm của giáo hội lúc bấy giờ. Ngài không còn cách nào khác, ngoài cách giảng dạy đã chọn. Đem con người vào một giáo lý mới, nhưng cũng khẳng định Thầy vâng lời Cha Thầy đến để truyền ban giáo lý này cho các con. Nhận là Con Thiên Chúa để giáo lý có thể được chấp nhận tuyệt đối. Thừa hưởng cái cũ, nhưng cũng đồng thời phá nát những định luật cổ xưa. Thiên Chúa không nói hai lời, nhưng tại sao giới luật cho Moise lại khác, và cho Thầy Jesus lại khác. Vì Thầy Jesus không phải đến để rao giảng về nước Thiên Chúa của ngàn xưa, Thầy đến để dạy về cách biến cõi đất này nên Thành của Thiên Chúa, và thánh hóa dân chúng trở nên một với Thiên Chúa. Cách đó ở Phương Đông, dân chúng cũng ngỡ ngàng với một học thuyết, các Phật thể tánh vốn đồng, và chúng sanh cũng đồng một Phật tánh.

Kinh Lạy Cha thật sự là một cách cầu nguyện siêu việt và vĩ đại của Thầy Jesus, đó không phải là Kinh để đọc theo kiểu tính đếm, mà là Pháp để y giáo phụng hành, thực tập sâu sắc. Kinh ấy không phải để trừ tà ma mà là cách dạy nên những người có thể trừ tà bằng đức độ, và lòng tư bi vô lượng của chính bản thân họ.

Lương thực là thứ đầu tiên được nhắc đến, nhưng tại sao không là lương thực quanh năm, lương thực dư thừa mà là lương thực hằng ngày ? hằng ngày là hiện tại, vậy Thầy Jesus quan tâm là hạnh phúc hiện tiền chứ không phải ngày mai, hôm qua và mai sau. Điều cầu xin đầu tiên không phải là giàu có, mà là sự đầy đủ. Lương thực là ẩn dụ của sự đủ đầy, no ấm và hạnh phúc. Lương thực vừa của tâm linh và thể xác. Là chiếc bánh thánh nơi bàn lễ, là chén cơm ăn mỗi ngày. Ý thức được rằng lương thực này của Cha ban, ta sẽ hứa thọ dụng trong chánh niệm, mà đối với người phương Tây là ăn một cách trịnh trọng. Ăn hạt lúa và nhận rõ tính chất tương quan trong hạt lúa. Điều này Kinh Hoa Nghiêm nói đến, bằng hình ảnh lưới trời Đế Thích, mỗi hạt châu phản chiếu muôn vạn hạt châu. Để thấy rằng Chúa Cha không phải là một hình tượng cụ thể mà tồn tại dưới dạng những định luật thường hằng của vũ trụ. Tìm Chúa Cha theo dạng tìm kiếm cụ thể hình dáng, mắt tai mũi lưỡi chính là giết chết Chúa Cha. Nhận ra sự hiện diện của Cha qua những điều bình dị của cuộc sống. Tìm Cha qua hạt lúa, hột cơm, tiếng cười, giọt nước mắt ấy mới là lòng tôn kính Cha Thật sự. Điều đó thể hiện rất rõ ràng qua " ý CHA thể hiện dưới đất cũng như trên trời ", và Thích Ca cách đó rất lâu cũng nói rằng : các định luật chi phối cả chư Thiên và chúng sanh.


và tha nợ chúng con
như chúng con cũng tha kẻ có nợ chúng con.



Kế đến là sự mặc cả của sự tha tội, Cha ơi tha tội cho con nha, vì con cũng đã tha tội cho hết thảy những ai mắc nợ con rồi. Nói là sự mặc cả, nhưng thực chất Thầy Jesus đã đồng hoá con người, nâng tầm vóc của người cầu nguyện trở nên một với đối tượng lắng nghe sự cầu nguyện. Con cũng có thể tha tội cho người khác, và Cha cũng thế. Con và Cha không phải là hai thực tại riêng rẽ. Con trong Cha, và Cha ở trong con.

Trong các Pháp quán Tứ Vô Lượng Tâm, pháp quán thứ 4 là xả. Xả là bỏ. Ở đây Tha Tội cũng gần giống với Xả, không chấp giữ. Xả là pháp quán có thể vượt thoát Sanh tử bởi không còn vướng mắt, không thương ghét, hỷ nộ ái ố. Lúc nào cũng an lạc, thanh thản. Ké khác mang nợ con, và con mắc nợ với Cha. Vậy Thầy Jesus đã cố ý xoá đi ranh giới giữa kẻ vay và người trả nơi thế gian này. Hắn nợ ta vì biết đâu trong kiếp trước ta nợ hắn và chưa trả, hôm nay hắn đến đòi lại. Không còn hình ảnh vay trả giữa hai thực thể nữa, mà là sự công bằng và toàn vẹn của NHÂN QUẢ, của Ý CHA trong từng sát na. Sự vay trả trở thành một dòng sông, không khởi điểm và cũng không kết thúc. Ai nói dòng sông có bắt đầu và kết thúc là họ đang chấp vào hình tướng và có cái nhìn thiển cận. Sông đổ ra biển, và từ biển đổ về sông. Nước sông không mất đi đâu cả, ngàn năm nay vẫn thế. Vì con nhìn thấy được tất cả đang được vận hành theo Ý CHA, nên con nguyện không nhìn ai là người mắc nợ, và không tự xem mình là kẻ đi cho vay. Con chỉ là một tác nhân trong dòng cuộn tròn của Nhân Quả, cho nên khi tự xét thấy mình không nợ ai, và không ai nợ mình ấy chính là khi hoa sen vút cao lên khỏi bùn nhơ. Vượt thoát khỏi sự trả vay vốn dĩ, vượt thoát khỏi sinh tử luân hồi ấy là lúc CHA tha nợ cho con rồi, và con về với nước CHA. Là Niết Bàn theo Thiền Tông, Cực Lạc theo Tịnh Độ và Thiên Đàng theo Kitô giáo. Nơi sự bất sanh bất diệt được hiển bày.

Thầy Jesus dạy các môn đệ tu học theo Tân Ước phải dừng cuộc đòi nợ lại. Khi người cho vay không làm công việc thu nợ nữa, thì sẽ không còn bóng dáng hay danh hiệu của kẻ vay tiền. Sâu xa hơn, không chỉ dừng lại ở hai kẻ đi vay và cho vay, hay thiếu nợ và đòi nợ. Có lẽ, Thầy nhấn mạnh hơn rằng những danh xưng của thế gian này chỉ là tạm bợ, phù hoa, như dấu chân trên sa mạc. Chúng không có thật. Thầy Tư Tế làm công việc Tư Tế, nhưng không đền thờ, không giáo dân, không Thần Linh thì chức danh Tư Tế ấy có được hiểu hay không ? Cho nên danh xưng chỉ là cách định dạng, tóm gọn tạm bợ những gì nó bao gồm. Nhà vua có còn là vua khi không quần thần, không đền đài, thành quách, dân chúng,.v.v. Vì chúng con đã nhận thấy sự phù phiếm của danh xưng, đã dừng lại cuộc trả vay bất tận nên Cha tha cho chúng con. Cha chỉ tha thứ khi nào các con hội đủ những yếu tố ấy. Mà cũng không cần có một vị Cha cụ thể để làm công việc tha tội vĩ đại ấy, chính chúng con đã được sạch rồi. Cũng hệt như pháp Sám hối của Phật giáo

“ Tội do Tâm sanh, do Tâm diệt

Tâm đã diệt, tội cũng không còn

Tội hết, tâm không, hai vẳng lặng

Như Thế mới là chơn Sám hối “

Đức Thích Ca sanh vào một thời kỳ mà Tôn giáo sản sanh ra như cỏ sau mưa, phái thờ thần Lửa, thần Rắn, thần Nước, phái Loã Thể, phái Khổ Hạnh .v.v.. Nên việc Ngài lập ra một Tôn giáo, một Triết lý mới và đánh sập toàn bộ hệ thống của các Tôn giáo khác là việc hoàn toàn có thể. Nhưng đối với Jesus, Thầy là một vị đạt được phương tiện khéo. Dùng chính những sai lệch, những thiếu sót trong Cựu Ước, và Thiên Chúa giáo nguyên thuỷ để lập nên một tôn giáo, một nền tảng triết lý khác. Ta có thể gọi là “ bình cũ nhưng rượu mới “. Chỉ cần Ngài xưng là Con Thiên Chúa thì đã bị xem là phạm thượng rồi, thì quan điểm mới của Ngài, trao quyền năng cho con người sẽ bị đối xử như thế nào ? Khi cái thấy của Ngài không đồng với tất cả các vị Tiên tri mà dân Do Thái từng ngưỡng mộ ? Con thuyền của Jesus lập nên có đủ sức để cứu chúng sanh cũng như thuyền Bát Nhã của Thích Ca. Vì chúng không khác nhau, bất nhị. Nhưng từng sắc tộc, địa điểm mà phương tiện phải thay đổi, phải linh động. Ấy gọi là “khéo ứng các nơi chỗ “ để cứu độ chúng sanh.



“Xin chớ để chúng con sa trước cám dỗ,
nhưng cứu chúng con cho khỏi sự dữ.”



Sau khi đã dừng lại giữa dòng sanh tử, vay trả không lúc nào ngơi nghĩ. Thầy mở ra cho dân Thầy thấy rằng đối tượng tăm tối không phải là Satan, Lucifer cụ thể như Cựu Ước đã từng đề cập mà là những cám dỗ và sự dữ. Những cám dỗ kéo con người bước đi vào lại nơi cuộc vay trả, trả vay đang quay cuồn cuộn. Sức hấp dẫn của những khổ đau không bao giờ đến bằng nước mắt, héo úa và sầu muộn mà hiện ra trước mắt hành giả bằng sắc đẹp, mùi hương, đàn hát, xác thịt, ngon ngọt. CHA giữ chúng con bằng cách nào ? bằng cách cho chúng con thấy rõ BẢN CHẤT VÔ THƯỜNG của vạn pháp. Cám dỗ kéo chân con, bắt con phải sa vào luân hồi, xin hãy thể hiện sự VÔ THƯỜNG nơi những cám dỗ ấy. Đức Phật quán 3 ma nữ con gái của Ba Tuần là già nua xấu xí. Thì hôm nay, Thầy Jesus dạy môn đệ nhìn thấy ấy là cám dỗ, và khổ đau ẩn tàng dưới lớp màn của hạnh phúc, dục lạc. Nhìn thấy đó là cám dỗ, thì nó mất ngay. Nhìn thấy đó là vọng tưởng thì nó liền tan. Ấy phải chăng là pháp thiền PHẢN QUANG TỰ KỶ, quay lại tìm tâm thì chẳng thấy tâm của Tổ Bồ Đề Đạt Ma khi truyền đạo sang Trung Quốc ? Sự dữ là những ác nghiệp, cứu khỏi sự dữ là mang chúng con đi khỏi những ác nghiệp. Bằng cách nào ? Là dạy chúng con ác và thiện nghiệp cũng đồng một bản chất là NGHIỆP. Cha đã dạy chúng con dừng gieo hạt mầm của nghiệp báo lại rồi thì sự dữ ấy không còn đến được nữa. Bản dịch Tiếng Anh là “ Deliver us form evil “. Deliver nghĩa là mang ra khỏi, vượt thoát khỏi. Có lẽ hiểu bản Tiếng Anh sẽ sát với ý nghĩa hơn và dịch sang Tiếng Việt. Từ “ Cứu” thường bị hiểu lầm như từ “cứu” trong Phật giáo. Người ta hay hiểu “cứu” cũng giống như gà mẹ thấy gà con bị diều quạ tấn công liền dương đầu với diều hâu quạ dữ. Nhưng trong bài Kinh này, và trong các kinh điển Phật giáo, “cứu” được phát khởi từ Tâm Bi… Bi là mong muốn cứu thoát chúng sanh đang lâm nạn, sự mong muốn ấy phát triển đến một mức vĩ đại cao tột thì gọi là Đại Bi, và Đại Bi nên khéo ứng các nơi chỗ. Ứng nơi chỗ không phải để cứu theo cách của Thế gian, mà là mang lại Pháp môn thích hợp để cứu thoát. Như Ngài Địa Tạng độ thoát chúng sanh khỏi Địa Ngục… ta có thể dịch thành :” He can deliver Souls of Dead from Dell “. Độ thoát không phải là mang đi mà là trao cho phương tiện để có thể TỰ THÂN vượt thoát. Thầy Jesus từng bảo “ Chính đức tin của ông đã cứu ông “. Đó chính là ý nghĩa của cả câu “ cứu chúng con khỏi mọi sự dữ “, tức là hãy “hãy trao cho con Chánh pháp đặng con độ hết mọi đau khổ nơi thân tâm này”.

Điều đáng lưu ý là đối với những cám dỗ lại dùng cụm từ “giữ cho khỏi sa” , và sự dữ thì “ cứu khỏi “. Có thể Thầy Jesus quan niệm rằng cám dỗ là một đối tượng để quán chiếu. Dục lạc là một đối tượng khá thú vị cho hành giả quán chiếu về sự vô thường của xúc cảm nơi thân. Nên có một số người nói rằng “ tu mà không diệt được dục thì không phải tu “… Ta không dấn thân vào Địa Ngục thì ai sẽ vào giúp ta đây ? dấn thân vào Địa ngục là hành động điềm tĩnh, an nhiên trước cám dỗ, dùng trí tuệ rộng lớn mà nhận thấy được bản chất của vấn đề. Thân này huyễn hoặc, do duyên hợp tạo thành thì có “sa “ trước cám dỗ không ? Tuyệt đối là không. Nhưng phải “giữ”, Cha phải “giữ “con. Đó là sự duy trì chánh niệm cho miên mật, cho liên tục. Không phải cứ nhận được chân tướng của cám dỗ một lần là sẽ thoát được đó, lúc nào cũng phải cảnh giác, phải nuôi lớn chánh niệm hằng ngày. Khi con cầu nguyện thì con không gục ngã. Khi con ngồi Thiền, trì Chú, Niệm Phật thì chắc chắc con vượt khỏi lục trần. Nhưng trong đời sống hằng ngày, con phải làm thế nào để phát huy được hạt giống con đã gieo trong những giờ hợp ý cùng Cha, những thời công phu sáng chiều. Phải phấn đấu sống chánh niệm suốt 24/24 mỗi ngày. Và câu nói, “cha ơi giữ gìn con nhé !” là một câu nói rất dễ thương, và êm dịu. Khi đứa con nhờ Cha giữ gìn vì nó sợ những lúc nó quên lối về, thì lúc ấy nó đã thắp được mặt trời chánh niệm mà bước đi rồi…



Ta có thể kể lại chuyện Thầy Huệ Khả cầu đạo với Ngài Bồ Đề Đạt Ma

- Thầy ơi, tâm con không an lành, xin Thầy giúp con

- Vậy, con đem Tâm ra xem nào ?

- Ơ hay, con không tìm được tâm con

- Vậy là Thầy đã an tâm cho con rồi đấy !

Và câu chuyện giữa người Kitô hữu với Thiên Chúa :

- Chúa ơi, xin giữ con khỏi sa cám dỗ, và giúp con thoát khỏi những sự dữ

- Vậy, con hãy mang cám dỗ và sự dữ ấy ra cho ta xem nào ?

- Con không làm được, chúng không hiện hữu.

- Vậy, Cha đã giúp con rồi đấy !

Ta gọi dục lạc, gọi sắc thanh hương vị xúc pháp là những cám dỗ, súc sanh, ngạ quỷ, địa ngục là sự dữ. Nhưng bản chất của chúng vốn không thật, quay lại tìm thì chúng biến mất ngay. Vậy chỉ cần con canh phòng cẩn mật, hệt như lúc con quay lại tìm Tâm, hay tìm cám dỗ và sự dữ thì con sẽ được an lành.

Trong một bài Kinh rất ngắn, Thầy Jesus hiển bày 3 pháp môn tối thắng của Phật giáo là HIỆN PHÁP LẠC TRÚ, QUÁN TỨ VÔ LƯỢNG TÂM, và TRỰC CHỈ NHÂN TÂM KIẾN TÁNH THÀNH PHẬT. Những điều ấy chứng minh rằng, những phép quán ấy không thuộc riêng về Phật giáo, không phải do công của Đức Thích Ca sáng tạo nên. Đó là chân lý hằng hữu trong vũ trụ này, chỉ cần thắp đèn trí tuệ thì có thể thấy được “ Tận hư không biến pháp giới, quá, hiện , vị lai chư Tôn Pháp thường trú trong mười phương “. Những điều to lớn, khó tin ấy hoàn toàn có thật. Và Thầy Jesus cũng là một trong vô số hoá Phật đã diễn bày,và tuyên dương Chánh pháp giữa cõi Ta Bà này.