Trên đường từ thác Prenn đến thị xã Đà Lạt có ngôi biệt thự cổ xây trên một ngọn đồi thấp, đã bỏ hoang từ nhiều năm. Người ta đồn rằng trong ngôi biệt thự đó có hồn ma thường hiện về phá phách nên chủ nhân buộc phải khóa kín cửa, bỏ vào thị xã Đà Lạt cách đó khoảng 3 cây số, mua ngôi nhà khác ở.

Sau năm 1975, ngôi biệt thự vẫn nằm chênh vênh giữa cảnh thiên nhiên kỳ tuyệt với đồi thông reo vi vút quanh năm, bên thung lũng giăng kín sương mù vào mỗi buổi bình minh, khiến người ta có cảm giác như kiến trúc cổ kính đó được xây lơ lửng giữa tầng mây.

Một chỗ ở lý tưởng như vậy, lại bỏ hoang nhiều năm, thì cái lý do “có ma” quả thật dễ làm người ta tin đó là sự thật. Nhưng dù có ma hay không, ngôi biệt thự vẫn nguyên vẹn hiện diện bên con đường ngoằn ngoèo, kích thích óc tò mò của du khách trên đường từ Sàigòn ra Đà Lạt nghỉ mát vào mỗi dịp hè.

Từ xứ Đà-Lạt sương mù, nó trở thành câu chuyện làm quà hấp dẫn cho du khách đem về kể lại với thân nhân, bè bạn sau một chuyến đi xa. Một trong những huyền thoại về ngôi biệt thự đó, tôi được nghe qua lời kể của người bạn thân là anh Trần Duy Vũ, một người thích tìm hiểu về thế giới tâm linh.

Trong một chuyến đi nghỉ mát tại Đà-Lạt, khi xe chạy ngang ngôi biệt thự lẻ loi, kỳ bí đó, bác tài xế xe đò như một hướng dẫn viên ngành du lịch, đã giới thiệu với hành khách về những hiện tượng ma quái xảy ra trong ngôi biệt thự bỏ hoang. Câu chuyện khá hấp dẫn, nên khi xe vừa tới bến, Vũ đã bám sát bác tài xế, mời vào quán cà phê Thủy Tạ bên Hồ Xuân Hương và khẩn khoản nhờ bác kể lại chi tiết từ đầu câu chuyện.

-Ông thích nghe chuyện về ngôi biệt thự đó lắm hả?

Bác tài xế nhìn Vũ, đoạn nói tiếp: - Ông có tin rằng cách đây hơn 20 năm, chính tôi đã cùng một người bạn thân sống trong ngôi biệt thự đó không?

Vũ hỏi: - Bác hoặc người bạn là chủ nhân của ngôi biệt thự đó hả?

Bác tài xế lắc đầu: - Không! Cả hai chúng tôi không ai là chủ nhân cả. Đúng hơn, người chủ của ngôi biệt thự là bạn cố tri của cụ thân sinh ra Ngạc, tên người bạn tôi. Khi thấy ngôi biệt thự tuyệt đẹp đó bị bỏ hoang khá lâu, Ngạc đã đến nài nỉ ông Thanh, người chủ ngôi biệt thự, cho anh ta và tôi đến ở. Dù Ngạc biết lý do ông Thanh phải rời bỏ nơi đó vì những hiện tượng ma quái đã liên tục xảy ratừ ngày gia đình ông Thanh, gồm hai vợ chồng và cô con gái tên Đoan Trang, dọn về ở sau khi sang lại của một người bạn Hoa kiều. Can ngăn mãi không được, ông Thanh trao chìa khóa cho Ngạc và chỉ hai ngày sau, chúng tôi mỗi người một va-ly quần áo, đến sống tại ngôi biệt thự...

Kế đến đây, bác tài im lặng, đôi mắt bác mỗi lúc một trở nên xa xăm. Khói thuốc bay lơ lửng. Tiếng kèn saxo từ dĩa hát kéo dài những âm vang xa tít tắp. Rồi dường như từ một cõi mênh mang vĩnh cửu, bao nhiêu hình ảnh của quá khứ, cựa mình trổi dậy trong tiềm thức bác.

- ... Dọn về ngôi biệt thự cả tuần lễ, tôi và Ngạc không thấy có hiện tượng gì khác lạ. Chúng tôi bắt đầu nghi ngờ về những chuyện ma quỷ vẫn thường hiện hình trong ngôi biệt thự này, như lời kể của ông Thanh. Có lẽ ông bị một ám ảnh nào từ quá khứ và nỗi ám ảnh đó được kích thích thêm do cảnh trí tĩnh mịch của môi trường chung quanh khiến phát sinh ra ảo giác cũng không chừng.

Ngoài những giờ học ở trường Chính trị Kinh doanh, tôi và Ngạc say mê chăm chút vườn hoa đầy màu sắc, cạo rửa sạch lớp rêu xanh phủ trên những phiến đá lót thoai thoải từ sân trước của ngôi biệt thự xuống con đường đất đỏ tẻ ra mặt lộ.

Thế là chỉ trong một thời gian ngắn, chúng tôi đã lột bỏ lớp vải liệm thời gian phủ kín ngôi biệt thự và thay vào đó bằng lớp áo màu muôn sắc của các loài hoa.

Ngôi biệt thự trở thành địa điểm họp mặt picnic lý tưởng của bạn bè chúng tôi vào những ngày Chúa nhật. Sinh khí của tuổi trẻ đã phá vỡ bức màn hoang tịch nơi đây. Chút dè dặt ban đầu khi hai chúng tôi đặt chân đến ngôi biệt thự bỏ hoang đã hoàn toàn tan biến. Trái lại, cả Ngạc lẫn tôi đều nôn nao muốn được “diện kiến” con ma nào đó, nếu quả thật có, một lần cho biết.

Những đêm khó ngủ vì uống quá nhiều cà phê, tôi và Ngạc hết học bài, đọc sách lại bày bàn cờ tướng ra đánh với nhau. Ngạc rất say mê trò giải trí này. Hắn bỏ công ra các nhà sách mua những cuốn sách cờ thế của nhiều kỳ thủ nổi danh về nghiên cứu. Nhưng mỗi lần đấu với tôi, Ngạc vẫn bị thua một cách khít khao làm hắn trở nên cay cú. Hắn cứ bắt tôi đấu tiếp hết bàn này tới bàn khác, dù đêm đã khuya.

Ngạc nói: - Ông chỉ giỏi cặp Ngựa. Tìm cách triệt được cặp Ngựa của ông là tôi thủ thắng như chơi.

Tôi cười: - Đồng ý! Nhưng đâu dễ gì! Bằng mọi giá tôi phải bảo vệ cặp Ngựa vàng của tôi chứ!

Tôi đi một nước Ngựa, chuẩn bị chiếu “Tiền Mã, Hậu Pháo”. Nước đi của tôi làm Ngạc bối rối. Hắn khum khum bàn tay trên con Xe nghĩ ngợi, đôi mắt hắn chăm chú đến thất thần.

Tiếng củi nổ lách tách trong lò sưởi. Tôi quấn chặt chiếc khăn phu-la quanh cổ, nhưng vẫn rùng mình vì cái lạnh như từ xương tủy lạnh ra. Bên ngoài hình như trời nổi cơn dông. Qua khung cửa đóng kín, tôi vẫn nghe rõ tiếng reo của ngàn thông mỗi lúc một lớn dần thành tiếng hú rờn rợn trong đêm hoang tịch.

Ngạc vẫn để bàn tay lơ lửng trên quân cờ. Hắn bất động như một pho tượng. Tôi giục:

- Đi đi chứ bạn! Nghĩ mãi, buồn ngủ thấy mồ!

Ngạc vẫn im lặng dán mắt vào những quân cờ. Bên ngoài gió vẫn thổi mạnh. Tiếng những trái thông khô rơi rụng trên mái ngói, tiếp theo là những làn mưa quất mạnh vào khung cửa kính.

- Mưa lớn quá!

Tôi buột miệng nói và tiến lại phía cửa sổ nhìn xuống thung lũng tối đen bên sườn đồi. Thỉnh thoảng một ánh chớp loé lên soi rõ làn mưa trắng xóa phủ trên những ngọn thông đen sẫm, nghiêng ngả lắc lư trong tiếng gió hú vang từ những ngọn đồi cao tràn xuống thung lũng.

- Quốc!

Nghe tiếng Ngạc gọi, tôi quay phắt lại nhưng chưa kịp lên tiếng. Ngạc đã xua tay ra dấu cho tôi im lặng, nghe ngóng.

Ngạc rời bàn cờ nhẹ nhàng đến sát bên tôi, thầm thì: - Ông có nghe gì không? Hình như có tiếng gõ cửa.

- Vô lý! Giờ này ít nhất cũng 1 giờ đêm rồi, còn ai đi ngang khoảng đường này nữa!

Trả lời cho nhận xét của tôi là tiếng gõ cửa mỗi lúc một rõ hơn, thôi thúc hơn. Hai chúng tôi nhìn nhau ngầm hỏi ý kiến. Sau cùng Ngạc nói: - Dù sao mình vẫn phải ra mở cửa. Mưa gió thế này, biết đâu có kẻ lỡ đường...

- Nhưng kẻ nào lại tự tiện trèo qua cổng ngoài để vào tận trong này gõ cửa?

Ngạc nói: - Dây chuông cổng nhà mình đã hư rồi, bắt buộc họ phải làm thế nếu không muốn chết cóng dưới cơn mưa bão ở khoảng đèo chỉ có mỗi một ngôi biệt thự này.

Rồi một cách dứt khoát, Ngạc bước nhanh ra phía ngoài. Tôi vớ vội chiếc đèn pin bám sát theo Ngạc đề phòng bất trắc.

Ngạc vừa mở chốt gài, xoay nhẹ nắm đấm cửa, một luồng gió lạnh buốt mang theo bụi mưa thốc mạnh vào, làm cả hai chúng tôi phải bước thụt lùi mất bước, suýt ngã.

Liền đó một bóng người quần áo trắng toát, ướt sũng loạng choạng bước vào. Tôi và Ngạc nhanh nhẹn kề vai rán sức khép chặt cánh cửa trước sức gió mỗi lúc một hung bạo.

Rồi không ai bảo ai, chúng tôi cùng lượt xoay lại nhìn người khách bất đắc dĩ. Nếu không kịp tự chủ, cả hai chúng tôi đã bật la lên vì kinh ngạc.

Trước mắt chúng tôi là một thiếu nữ tuyệt đẹp, bộ quần áo mỏng ướt sũng nước dán sát thân hình càng làm nổi rõ những đường cong tuyệt mỹ. Nàng đưa tay bóp nhẹ những lọn tóc đen nhánh, bết nước phủ trước ngực và im lặng nhìn chúng tôi. Thú thật trong đời tôi đã từng tiếp xúc với nhiều người con gái nổi tiếng hoa khôi, nhưng chưa hề thấy người nào có đôi mắt đẹp như cô gáinày. Đôi mắt, tôi phải diễn tả như thế nào đây? Nó vừa thăm thẳm diệu vợi, vừa quyến rũ mê hoặc, làm tê liệt người đối diện. Tôi không hiểu đây có phải là đôi mắt mà các nhà văn vẫn thường ca tụng là “đôi mắt liêu trai” hay không!

Tôi và có lẽ cả Ngạc, đều bị thôi miên bay mất cả hồn vía trước ánh mắt... liêu trai của người con gái. Chúng tôi quên hẳn là cô gái đang lạnh run trong tình trạng gần như lõa lồ.

Ngạc không dấu được vẻ bối rối, lên tiếng trước: - Xin lỗi! Mời cô vào trong này.

Cô gái nhẹ gật đầu, lặng lẽ đi theo. Ngạc quay lại ra hiệu cho tôi lấy khăn tắm, bộ quần áo ngủ và chiếc áo choàng của Ngạc vì vóc dáng hắn nhỏ nhắn hơn tôi nhiều.