bổ sung thêm các bản khác về diễn đàn này để dành cho mọi người nghiên cứu vậy.

**********************************************

PHÙNG THƯỢNG THƯ KÝ




SẤM KÝ TRẠNG TRÌNH

PHỤ LỤC

SẤM TRẠNG BÙNG


Lời nói đầu



Đây là bản nôm Phùng Thượng thư ký tìm thấy trong thư viện cụ Nghè Bân, người Hữu Bằng Sơn Tây. Bản chép tay này đã tồn tại hơn trăm năm, và đã 20 năm nằm trong tủ sách của tôi nay đem ra trình cùng bạn đọc. Bản nôm này có thể do cụ nghè sao chép ở các sách của các bằng hữu hay tiền bối của cụ. Cũng có thể bản này có nguồn gốc từ bản Thiên Nam Ngữ Lục ngoại ký có ghi chép sấm ký của Nguyễn Bỉnh Khiêm và Phùng thượng thư, bản nôm ký hiệu AB192 trong thư viện.
Điều này cho thấy nhiều người viết Sấm ký chứ không phải riêng Nguyễn Bỉnh Khiêm. Chúng tôi xin trình làng, sau sẽ phiên âm và chú thích.

Canada ngày 14 tháng 10 năm 2010.



Nguyễn Thiên Thụ



I. TIỂU SỬ TÁC GIẢ


Phùng Khắc Khoan 馮克寬 (1528-1613) sinh năm 1528 tại Phùng thôn (tục gọi là làng Bùng), xã Phùng Xá - huyện Thạch Thất - tỉnh Hà Tây. Thân phụ của Phùng Khắc Khoan là Phùng Quý Công từng làm quan dưới triều Lê Sơ, là người tinh thông thuật phong thủy,. Ngay từ thủa nhỏ, ông đã tỏ ra thông minh, có khí chất. Lúc nhỏ ông ở nhà được cha dậy dỗ , đến năm 16 tuổi ông sang Hải Dương theo học Nguyễn Bỉnh Khiêm. Năm 1552, ông đi thi ở đất Mạc chỉ đỗ Tam trường. Nhưng ông không làm quan cho nhà Mạc. Năm 25 tuổi, ông vào Thanh Hoá, giúp nhà Lê thực hiện công cuộc Trung hưng. Năm 1557, ông thi Hương ở triều Lê và đỗ đầu. Phùng Khắc Khoan được Trịnh Kiểm giữ lại và được giữ nhiều chức vụ quan trọng trong triều Lê - Trịnh. Sau đó, vì trái ý vua, ông bị đày ra Thành Nam, nay là xã Bồng Khê - huyện Con Cuông - Nghệ An. Sau đó ông được triệu về cho phục chức. Năm Canh Thìn 1580, ông tham dự khoa thi Hội và đỗ thứ hai. đỗ Đệ nhị giáp tiến sĩ, tức là Hoàng giáp vào năm Quang Hưng thứ 3 (1580). Năm 1597, ông được cử làm chánh sứ dẫn đầu một sứ bộ sang triều Minh và cuộc đi sứ của ông đã thành công lớn. Ông được phong nhiều chức vụ quan trọng như Đặc tiến Kim tử vinh lộc đại phu Tán trị Thừa chính sứ ty, Thừa chính các xứ Thanh Hóa, Tả thị lang bộ Công, Thượng thư bộ Công, Thượng thư bộ Hộ.khi đi sứ Trung Quốc, ứng đối xuất sắc, nên được vua nhà Minh đặc cách phong làm Trạng nguyên.

Mặc dù ông chỉ đỗ Hoàng giáp nhưng người đời quen gọi ông là trạng Bùng. Sau đó, ông xin vễ trí sĩ tại quê nhà,.Ông mất ngày 24/9/1613, thọ 86 tuổi. Ông là một công thần có nhiều thành tích với nhà Lê trong công cuộc chống nhà Mạc Năm 1613, ông qua đời, thọ 86 tuổi. Tương truyền, ông là em cùng mẹ khác cha của Trạng trình Nguyễn Bỉnh Khiêm.

TÁC PHẨM
+ Tập thơ Vạn thọ - viết trong thời gian ông đi sứ nhà Minh được hoàng đế nhà Minh là Minh Thần Tông cho khắc in để ban hành khắp cả Trung Quốc. Sứ thần Cao Ly là Lý Toái Quang (이수광/Yi Su-gwang) là người viết tựa cho tập thơ.
+Ngôn chí thi tập
+Lâm tuyền vãn
+Mai Lĩnh sứ hoa thi tập.

II. BẢN NÔM PHÙNG THƯỢNG THƯ KÝ




tr.1




tr.2



tr.3


tr.4



tr.5



tr.6



tr.7







tr.8






tr.9




tr.10





tr.11




tr.12


tr.13



tr.14




tr.15



tr.16






PHÙNG THƯỢNG THƯ KÝ

Phiên âm: Trương Quang Gia
Chú giải: Nguyễn Thiên Thụ


Thuận Đức niên hiệu (1)

1.Vận trung nguyên lấy năm canh tý (2)
Tiết tiểu hàn vừa thuở đông thiên.
(Thập nhị nguyệt thượng tuần)
Hợi cung sửa việc cầm quyền,
Nhưng sửa một trận mới yên bốn bề.
5. Lộ lộ bóng thỏ nghiêng kề,
Chiêng vàng ló thấy vừa khi mặt rồng.
Tản lửa giăng che thái ất
Thuở tay xe nhật phù lên,
Lậu lậu ngọ chánh đương thiên,
10. Rạng soi thế giới sơn xuyên xa gần.
Vẹn nhà trạch ấm đượm nhuần,
Nghiêng thùng rượu cúc đòi tuần mời khuyên.
Hợp bạn hiền những người tri kỷ,
Mở đồ xem luận lý xưa nay,
15. Những câu châu báu là hay,
Bằng dao chẻ nước bấy nay khôn tìm.
Vàng ấy cao giá dư ngàn,
Càng nhìn, càng thắm càng in càng màu.
Nếm mùi đạo gẫm lâu mới biết,
20.Tạc công lòng mở tiết mở không.
Ai hòa học được thần kinh
Ắt là gặp lối thánh minh tuần này.
Thánh hiền chén chuốc rượu say,
Nước vui bàng bạc vỗ tay reo cười.
25. Lại xem thấy sự đời thượng cổ,
Lạc Long quân là tổ nước ta,
Sửa sang bốn bể gần xa,
Làm vua Nam Việt khắp hòa đâu đâu.
Tuổi già hưởng được sang giàu,
Ngàn năm sức khoẻ trị lâu, ngôi dài.
Giản biên nói chưng đời ngoài
Kỷ luân chính thống mới kề từ Đinh.
Tiên hoàng tuổi còn phù sinh
Cờ lau tập trận dụng binh giữa đồng.
35.Ứng điềm từ thuở sang sông,
Ngang sông cao ngự hoàng long thụy lành.
Thiên thư đã định rành rành,
Mộc sơn đồng chữ tập tành nên câu:

"Mộc căn đạp đạp,(3)
Mộc biểu thanh thanh,
Hòa đao mộc (4) lạc
Thập bát tử (5)thành
Đông A (6) nhập địa
Dị mộc (7) tái sinh,
Chấn cung hiện nhật (8)
Đoài cung ẩn tinh (9)
Lục thất(10) nguyệt gian
Thiên hạ thái bình"


Một câu là một hữu tình
Đời đời nước có điềm lành đế vương.
Ra tay vỗ trị bốn phương
Đời đời nước có đế vương ở trời.
Hòa đao mộc lạc Lê dân
Thập bát từ thành họ Lý đổi thay.
Đông A nhập địa Trần danh,
Họ Trần từ đế đời tay Chiêu hoàng
Trên ngôi vẹn nghiệp Đào Đường,
Giúp tay rủ áo âu vàng đặt an.
Man di củng phục bể thuyền non cao.
Sự lạ thay chấn cung hiện nhật,
Bên đông phương giữa đất Cổ Trai
Thái tử bửu vị lên ngôi,
Thần kinh thoắt lại năm đời thánh minh.

Lại nói " Đoài cung ẩn tinh
Tây đô Trịnh thị đặc danh tướng tài.
Tướng tinh về ẩn phương đoài.
Tây đô chốn ấy tượng trời định vi
Quỷ ma chật vật đổi dời.
Bây giờ thiên hạ xem ngày bằng đêm.
Ngồi thấy những sương nghiêm tuyết lạnh
Loài cừ khôi cậy mạnh hung hăng.
Đua nhau làm sự bất bằng
Giết người lấy của nhung nhăng đã buồn.
Khoe khaong sức mạnh tài khôn,
Nào hay nhân nghĩa nào còn ái ân.
Chí toan mưu độc hại nhân.
Trên đầu chẳng hổ trời thần phủ che.
Những xưng xe phù Lê diệt Mạc
Cái oan gia người khác giết nhau.
Nào ai đã nhịn ai đâu,
Thủy chiến, bộ chiến mặc dầu sắm sanh.
Đêm ngày tập trận dụng binh,
Làm cho thiên hạ thương sanh hối lầm.
Chưa từng thấy cổ kim sự lạ,
Một đinh man giá họa muôn dân,
Cưu toan lòng độc dữ muôn phân.
Đua nhau quái độc muôn dân từ này.
Trăm họ ai chẳng chau mày,
Anh hùng ai chẳng cau mày lăng xăng.


Thư đường nhân thuở ngoài hiên,
Chép làm một tập để làm mai ngay.
Tân vị thoáng ấy năm nay.




___
CHÚ
(1). Thuận Đức: Mạc Kính Hoàn hay Mạc Kính Vũ (1638-1677) là con của Mạc Kính Khoan lên ngôi đặt niên hiệu Thuận Đức , năm mậu dần ( 1638) - đinh tị ( 1677).
(2).Canh tý (1540). Mạc Đăng Doanh mất năm canh tý (1540), con là Mạc Phúc Hải lên ngôi. Năm này Nguyễn Kim khởi binh đánh Nghệ An, mở đầu cuộc trung hưng nhà Lê.
(3).Đồng ca truyền từ đời Lê Đại Hành ( 980-1065) : " Thụ căn.. . thái bình". Câu đầu có sách phiên âm là " yểu yểu". Phùng Khắc Khoan đã giải thich ở dưới.
(4). Hòa đao mộc là chữ Lê . Lê Đại Hành (941 – 1005) là vị vua đầu tiên của nhà Tiền Lê, trị vì từ 980 đến 1005. Lê Long Đỉnh lên ngôi từ 1005 đến kỷ dậu ( 1009), hai triều tổng cộng 29 năm.
(5). Thập bát tử là nhà Lý . Nhà Lý làm vua 9 đời. Lý thái tổ (1010- 1028) mở đầu đến đời Lý Chiêu hoàng (1225) thì truyền ngôi cho Trần Cảnh, tổng cộng 216 năm.
(6). Đông A : nhà Trần. Nhà Trần làm vua 12 đời, khởi đầu từ Trần Thái Tông (1225-1258) đến Trần Thiếu Đế (1398-1400)/ được 175 năm.
(7). Dị mộc: nhà hậu Lê. Lê thái tổ (1428- 1433) dựng nhà Lê đến Cung Hoàng gồm 10 đời vua dài 100 năm.
(8).Chấn cung hiện nhật : chỉ nhà Mạc trong chữ Mạc có chữ nhật. Chấn là phương Đông. Quê Mạc Đăng Dung ở Hải Dương xưa gọi là tỉnh Đông.
(9). Đoài cung: chỉ họ Trịnh. Họ Trịnh quê ở Sóc Sơn, huyện Vĩnh Lộc, tỉnh Thanh Hóa. Thanh Hóa là Tây đô (Thăng Long là Đông đô)
(10).Lục thất: nhà Nguyễn (lục thất dùng thay 陸, chữ lục gần giống chữ Nguyễn)





nguồn: http://sontrung.blogspot.com/2010/10/son-trung-tong-luan.html