Câu chuyện thật về phước hữu lậu.
Người chép: Ông Nguyễn Lương Tâm
Ngày 27-11-2012

Chuyện ông Hương Tạo, ngoài ba mươi,
Chép văn Hán Nôm, đẹp tuyệt vời,
Lưu bút Đức Chinh, tiền xu chĩnh,
Mong con Hương Thịnh, được nên người.

Mẹ góa, con côi, lòng từ bi,
Người vợ tu hạnh Ưu-bà-di,
Dạy con phong tục, thờ tiên tổ,
Lễ bái Dương-ky, niên nhị kì.

Tính phần hoa lợi, đất khói hương,
Chỉnh trang, hào sảng nơi khánh-đường.
Mùa đông Kiến Phúc, Giáp Thân tới,
Tiền góp mẹ con, thủy lưu trường.

Biết tránh làm sao chuyện hôi tanh,
Năn, nác, vịt, le mấy đứa ranh,
Nam tử, gia tài làm sao hưởng?
Phạp tự hay sao? Chẳng nhẽ đành?

Lại còn uống rượu, mê văn chương,
Yêu gái bán hoa, thích phấn hương,
Nối dõi tông đường, chuyện nan giải,
Điều đó đương nhiên, lẽ bình thường.

Trằn trọc, nghĩ suy kế hiểm sâu,
Bảo-trợ cái thai của cô Mầu,
Từ-bi nuôi dưỡng loài quỉ quái,
Tuệ cạn, chướng sâu, nghiệp bắt đầu.

Mười mấy năm sau đã thấy rồi,
Anh cai Hương Ất rất là tồi:
“Khói lạnh, hương tàn, mồ mả sập”,
Lão phật gia thư: “Gấp hoàn bồi”.

Khác máu, tanh lòng, tham sân si,
Anh cai thỏa lòng hưởng từ bi,
Một ngày trả nghiệp, manh chiếu chợ,
Hai sáu tuổi dương, có ấu nhi.

Nghiệp cao, Hương Chất chướng nghiệp cao,
Hai con chết trận, chết tào lao,
Một gái điên dại, chân xiềng xích,
Mấy đứa mưu sâu, cách mạng vào.

Đứa Thà, đứa Thực, đứa lại Ba,
Ất giáp, chắt chiu một lũ ma,
Tạo xây, thịnh đạt mong gì nữa,
Cô hồn, chiếc bóng - một đám tà.

Giáo học thành danh, đứa thứ ba,
Chính trị lơ mơ, ước vọng xa,
Cách mạng thác dòng, ba luận điểm,
Vô thần lý tưởng, ở nước Nga.

Theo tên đầu đảng, đám đệ huynh,
Căm giận trào dâng, số phận mình,
Quất roi mộ tổ và nguyền rủa:
“Phong kiến bọn bay, lũ hư vinh”.

Đi phá chùa đình, đốt xóm làng,
Từ đường, miếu mạo: đập tan hoang,
Gia phả, Sắc phong và Mộc biểu,
Một ngọn lửa thiêu, hóa đất vàng.

Tội ác ngút trời, cũng đứa này,
Một ngày nắng đẹp, chẳng ai hay,
“Từ đường,” - nó nói - “Tu và sửa”,
Rồi phá “Trấn phong”, đập “Bút cây”.

Toàn lim Kinh Bắc, cột với kèo,
Đòn khiêng khảm phượng, trạm rồng beo,
Hoành phi “Nguyễn Tộc”, đôi câu đối,
Chuyên mại qua tay lũ chuột, mèo.

Nền nhà với lại đất cây vườn,
Nó cày, nó bới, cũng nó thuôn,
“Bạc cụ Thiêm Truyền, tiền cụ Tả”,
Phen này tìm được, đổi đời luôn.

Tiền nuốt chưa xong, nó thất kinh,
Gia tộc, họ đương bắt giải trình,
Nó kêu khốn khó nơi ăn ở,
Nên xin được tha, được thương tình.

Bê-tông nhăng nhố vội vã xây,
Khánh-đường uế tạp ngông ngênh bày,
Xiên xẹo hoành phi, câu đối rởm,
Xập xệ khám thờ, bát hương thay.

Vô phúc quá chừng, cậu giáo ơi,
Cổ nhân Thất Đại đã khuất rồi,
Mộ phần Tứ Mỹ đem đi bán,
Người ta hàng tổng đến thu hồi.

Thất đức là đây, ở chỗ này,
Lấy giỗ làm chạp, chuyện bầy nhầy,
Từ đường biến báo thành nơi ở,
Giỗ Tổ nhập nhằng với giỗ thầy.

Lại tiến thêm lên, một bước xa,
Giao kèo “Sổ Đỏ” với lũ ma,
Chối phắt “Từ Đường” chưa từng có,
Bán chỗ đất này, con nuôi cha....

Oan nghiệt thế ư, hỡi ông trời?
Gửi lời khiếu nại đến muôn nơi,
Phật, trời thụ lý, cho phán quyết,
Duyên cớ làm sao, luật luân hồi?

Thiền định đi nào, hãy nghĩ suy,
Oan gia trái chủ, lúc nan nguy,
Đội lốt, trá hình tìm đường đến,
Nghiệp trả, ân bồi, khắc nó đi.

Trong kiếp luân hồi, cuộc tử sinh,
Người ma lẫn lộn, thật là kinh,
Làm phước đâu dè phước hữu lậu,
Ma quỉ tanh hôi, phá nghiệp mình./.