Câu chuyện này đã xảy ra mười chín năm về trước nhưng nó vẫn ẩn hiện trong tâm trí tôi như sự việc mới xảy ra ngày hôm qua...

Ðó là một buổi sáng mùa hè, khi bóng tối từ từ lui dần nhường chỗ cho ánh bình minh đang chiếu rạng khắp nơi, tôi và Paul (người bạn thân nhất) sau khi ăn sáng xong cùng rủ nhau vào khu rừng cạnh nông trại của bà nội bạn ấy để thám hiểm.

Khu rừng này nằm ở phía Tây Nam thuộc tiểu bang Missouri (Hoa Kỳ) không cách xa ngọn núi Ozark lắm. Ðịa thế của nó là một vùng đồi núi mọc dầy đặc những cây xanh to lớn. Tuy thuộc tiểu bang Missouri nhưng nó chạy dài đến tận thành phố Kansas, đó là một nơi được nhiều người biết đến vì nó có tới một trăm, không phải, một ngàn cái hang động. Chúng tôi đi cách nông trại vài cây số về hướng Tây, chỉ có Thượng Ðế mới biết đất đai này thuộc về ai khi chúng tôi tìm thấy một cái chồi cũ đổ nát. Cái chồi này bề ngang khoảng 6 thước và bề dài không hơn 8 thước, nó chỉ còn lại 3 bức tường, mái nhà thì đổ xuống dọc theo bức tường sụp, dù vậy quý vị vẫn có thể đi vào bên trong từ cửa trước nhưng chỉ đi được vài thước mà thôi. Là những thiếu niên 12 tuổi có tánh hiếu kỳ, chúng tôi chỉ làm có bấy nhiêu...

Nhìn từ những phương hướng khác nhau thì nó giống như một cái lều hoặc cái chồi được dựng lên bởi một người nào đó bị lạc đường hoặc một người chán đời muốn sống ẩn cư vì nó trông rất là thô sơ với những khúc gỗ dài ngắn không đều nhau được ghép lại bằng một lớp bùn khô. Bên trong chồi, ngoài dấu vết của một cái lò củi và một cái đầu giường làm bằng tay - hầu như bị che khuất nằm ở một góc - còn mọi thứ khác đều bị che lấp bởi mái nhà sụp đổ tạo thành một bức tường chắn ngang không cho chúng tôi dò xét thêm.

Chúng tôi lục lọi một hồi chung quanh nơi có nhiều nhánh cây non và đá sỏi nằm rải rác xung quanh cái sàn đầy bụi cát, vì đã lâu không ai đến đây ở nên mọi thứ hầu như đã tàn phai theo năm tháng. Xem không thấy gì đặc biệt, với lại rời nông trại từ sáng sớm đi bộ và leo núi đã mệt nhọc rồi bây giờ thấy cái bụng cồn cào vì vậy chúng tôi đành rời cái chồi nhỏ để trở về nông trại ăn trưa và nghỉ ngơi sau đó sẽ thám hiểm tiếp.

Khi rời căn nhà chồi, chúng tôi đi vòng ra sau và rất ngạc nhiên khi thấy những dấu hiệu kỳ lạ khắc lên những khúc gỗ trên bức tường phía sau; những dấu hiệu lạ lùng đó đa số đều bị thời tiết tàn phá nên khó mà nhận ra được là ám tự gì, nhìn thật kỹ thì quý vị vẫn có thể thấy được vài hình vẽ như cái khuôn được nối tiếp bằng nhiều dấu chấm giống như toán hình học, những hình không tương xứng. Có vài dấu hiệu đối với chúng tôi thì giống như là những chữ Phạn ngữ vào thời xa xưa, thật ra thì cũng không giống lắm. Rất tiếc tôi không còn nhớ rõ để vẽ ra làm thí dụ.

Chúng tôi dò thám xa hơn thì thấy cách đó khoảng sáu thước, từ bức tường sau căn nhà chồi, chúng tôi thấy một tấm ván lớn gần mục nát, hình như nó được đậy trên một cái lỗ. Chúng tôi vội đến đó cúi xuống khảo sát gần hơn. Nơi đây chúng tôi lại thấy những dấu hiệu, giống như dấu hiệu viết trên bức tường sau, vẽ tràn lan trên tấm ván gỗ đó. Nó bị thời tiết phá hủy nên khó mà nhận ra được là chữ gì. Tôi lấy ngón tay trỏ thử nhấn mạnh quanh bìa miếng gỗ, lúc đó chúng tôi cảm giác lành lạnh hình như không khí đang thoát ra ngoài theo những chỗ hở mà tôi đã làm.

- Tao chắc rằng đây là một cái nắp đậy lối vào của một hang động. Tôi nói.

Paul vội tiếp lời:

- Chúng ta thử xem.

Nói xong bạn ấy liền đứng dậy tìm những cục đá lớn nhỏ chất đầy trên tấm ván, sau đó bạn ấy lấy một tảng đá thật lớn giơ cao hơn đầu rồi liệng thật mạnh xuống ngay chính giữa làm tấm ván gỗ nát ra thành nhiều mảnh để lộ ra một cái lỗ lớn; chúng tôi có thể nói đó là lối vào của một hang động.

Chúng tôi rụt rè thò cái đầu vào hang động để xem chiều sâu của nó là bao nhiêu. Chúng tôi lấy làm thích thú lẫn ngạc nhiên thấy rằng đầu dốc hơi nghiêng nằm trong bóng tối không có sâu lắm và có thể đi vào được. Vui mừng vì sự thám hiểm tìm kiếm của chính chúng tôi về cái hang động này nên chúng tôi bàn tính phải nhanh chân trở về nông trại để lấy đèn bin, dây nhợ, và đem theo một mớ đồ ăn trưa.

Trên đường trở về nhà, chúng tôi bàn thảo với nhau rằng nếu bị bắt quả tang trong khi lấy những vật dụng đó thì không nên nói sự thật cho mọi người biết. Paul thận trọng nói:

- Ba mẹ của chúng ta sẽ không để cho chúng ta chui vào hang động thám hiểm một mình đâu nếu không có người giám sát coi chừng chúng ta.

Tôi gật đầu đồng ý.

Chúng tôi chạy thật nhanh, nhanh đến nỗi chúng tôi trở về nông trại chưa đầy một tiếng đồng hồ. Mặt trời lúc đó ngay trên đỉnh đầu và rất nóng vì đang cuối hè.

Về đến nơi, thay vì đem theo đồ ăn trưa, chúng tôi đổi ý ăn cơm trưa tại nhà. Chúng tôi ăn thật nhanh rồi gom vội những vật dụng cần thiết - may thay không có ai thấy - sau đó, chúng tôi bay ra khỏi nhà trong tích tắc.

Chúng tôi mang theo hai cây đèn bin, một cuộn dây thừng rắn chắc dài khoảng 35 thước, và một bình nước uống rồi đi thẳng vào rừng sâu.

Vì vị trí căn chồi này không nằm trên bản đồ nên chúng tôi phải đi quanh co để định hướng, cuối cùng trèo lên đỉnh của một ngọn đồi thấp chúng tôi mới nhìn thấy cái chồi đổ nát và miệng của hang động.

Lần này, chúng tôi có cảm giác bất an, hình như có gì đó không được bình thường, không khí chung quanh có mùi hôi hám rất là khó ngửi.

Chúng tôi dừng lại xem xét những dấu hiệu lạ lùng trên bức tường một vài giây trước khi đi vào hang động; thật khó mà biết được những dấu tích bí ẩn này tượng trưng cho cái gì, hoặc có ý nghĩa gì. Mặc kệ cái cảm giác khó chịu từ lúc đầu bao quanh, Paul và tôi cũng không để cho sự yếu đuối của mình cản trở cuộc thám hiểm sâu vào hang động.

Chúng tôi cột một đầu dây trong một thân cây khô gần miệng hang động vài thước còn đầu kia thì bỏ xuống lỗ hang, vì là người đã tìm được nhiều hang động trong vùng hơn tôi nên Paul dành đi trước để rọi đường. Paul bò đến gần miệng hang và bám lấy sợi dây từ từ bò vào hang động. Vừa bò bạn ấy vừa bấm sáng đèn bin rọi xuống dưới hang, lúc đó chúng tôi mới biết rằng cái hang động này còn đi xuống sâu nữa để rồi chìm khuất trong bóng tối. Ðứng trên miệng hang dõi mắt nhìn theo bạn ấy, tôi đợi chờ bạn ấy báo hiệu rằng trong hang động rất là an toàn có thể xuống. Chưa đầy 30 giây sau, tôi nghe vang lên một tiếng la kinh hãi của Paul theo sau là một tiếng “bụp”.

- Chuyện gì? Tôi la lớn.

- Ồ, không có gì. Tao nghĩ đi xuống tí nữa thì sẽ tới cuối hang nhưng bất ngờ hết dây tao bị rơi thẳng xuống dốc, may mắn thay chỉ rơi khoảng 1 thước. Bạn ấy trả lời.

- Bây giờ mày có thể xuống được rồi, đi từ từ thôi và coi chừng cái chỗ rơi thẳng xuống đó.

Mặc dù không thấy dễ chịu lắm, tôi cũng nắm sợi dây và bắt đầu đi xuống vào trong hang tối. Ðến hết sợi dây tôi từ từ thả mình nhẹ nhàng rơi xuống đất. Khi đứng ở dưới an toàn tôi mới nhìn lên cái miệng hang nhỏ xíu cao khoảng 13 thước mà chúng tôi vừa chui vào, sau đó tôi nhìn ở phía trước con đường hầm của hang động giống như một cái mạch mỏ than đá chỉ trừ là nó lấp lánh với măng đá và chuông đá. Tôi thấy bên trong hang này chiều cao khoảng 2 thước và chiều ngang gần 3 thước, nó rất ẩm ướt nhưng không thấy có nước đọng lại, đó có nghĩa là nó còn đi xuống sâu hơn nữa.

Cẩn thận bước qua chướng ngại do sự hình thành của hang động tạo ra, chúng tôi đi sâu vào hang động. Ðường hầm dẫn xuống sâu và sâu hơn như cái vực thẳm.

Càng đi xuống sâu vào lòng đất, tôi càng kinh ngạc bởi thiếu vắng sự hiện hữu của những côn trùng và động vật. Cho dù trong hang động nhỏ, quý vị vẫn có thể tìm thấy phân của côn trùng hoặc những cái màng nhện nhưng trong hang động này thì hoàn toàn không thấy dấu tích của bất cứ sự sống nào; còn một điều kỳ lạ nữa mà chúng tôi để ý đến là càng đi xuống sâu hơn thì nhiệt độ lại càng ấm áp hơn thay vì càng ngày càng lạnh hơn. Quý vị cũng biết cho dù chỉ có vài thước dưới lòng đất thì nhiệt độ cũng đã xuống thấp khoảng 10 đến 15 độ rồi, nhưng nhiệt độ trong hang động này lại ấm áp lạ thường và không khí dường như bị tù hãm và nặng nề.

Chúng tôi tiếp tục đi xuống qua cái đường hầm dài giống như một cầu thang xoắn ốc không có bậc thang cho đến khi nó nhỏ hẹp lại và thẳng dốc hơn. Từ lúc đầu chúng tôi không cần dùng dây hay dụng cụ an toàn nào thì bây giờ chúng tôi phải cẩn thận để ý nhiều hơn. Tại điểm này chúng tôi đã ở dưới lòng đất gần sáu chục thước, nhưng không có một dấu hiệu nào cho thấy ở dưới này còn hang động khác để thám hiểm thêm. “Thật ra, cái hang động này cũng đáng để thám hiểm lắm” tôi nghĩ như vậy.

Sau 15 phút hơn liên tục đi xuống, Paul và tôi cuối cùng đã đến đáy của đường hầm xoắn óc, đến tận cùng rồi. Ðó có thể là hết cuộc thám hiểm nếu chúng tôi không thấy một cái lỗ nhỏ gần mặt đất. Nó cao khoảng ½ thước và chiều ngang khoảng 1/3 thước. Paul nằm dài xuống mặt đất, lấy đèn bin rọi vào trong lỗ rồi đút cái đầu vào.

- Hay quá. Bạn ấy nói với một giọng vui mừng. Có một thành hốc khác. Tao nghĩ chúng ta có thể chui qua cái lỗ này. Ðể tao thử xem.

Bạn ấy chui vào cái lỗ, thân mình trường tới rồi uốn qua uốn lại như con rắn cuối cùng cũng qua được. Biết rằng chỉ ốm hơn Paul một tí ti như vậy thì tôi sẽ không gặp nhiều khó khăn. Sau những cái uốn qua uốn lại, tôi đã qua được. Vừa phủi bụi từ quần áo xuống tôi vừa đứng thẳng lên chiếu đèn bin chung quanh xem xét. Cái thành hốc này có một cảm giác kỳ quái lắm, dù vậy chúng tôi cũng không thấy có gì khác thường hết.