Thời kỳ Hai Bà Trưng khởi nghĩa, đất Bối Khê có tên gọi là "Trầm Bối Trang", thế đất có đủ cả tứ linh, ngũ xà, có làng mạc đông vui, nghĩa quân khi qua đây đã lấy thêm lương thực và bổ sung quân số.
Từ nhiều đời nay, Thanh Oai đã có câu truyền ngôn:
"Đỗ Đông Giang khai - Thanh Oai sinh Thánh"
(dịch nghĩa: Sông Đỗ Đông mở ra, phân nhánh ra - đất Thanh Oai sinh Thánh).
Sông Đỗ Đông nối một phần sông Đáy với sông Nhuệ, có đoạn chảy qua Bối Khê cạn thành Dộc (thế kỷ 14 còn chảy mạnh).



Chùa Bối Khê - Xã Tam Hưng - Thanh Oai - Hà Nội

Thánh Bối Khê là người có thực - Ngài là vị thiền sư đắc đạo sống giữa thời Trần. Ngài thuộc dòng họ Nguyễn, sinh năm Tân Tỵ (năm 1281) đời vua Trần Nhân Tông. Năm 7 tuổi, Ngài mồ côi cả cha lẫn mẹ, phải ở nhà cô, cậu ở làng Bùi Xá để chăn trâu, cắt cỏ. Sớm có lòng từ bi hướng Phật, Ngài thường lui tới chùa làng để nghe giảng kinh, vào mùa hanh khô thường hay rủ bạn ra tát các vũng nước, đem tôm cá bắt được thả ra sông. Ngài thích lấy đất nặn chùa, nặn tượng và đem cơm nắm oản cúng lễ. Vốn thông minh, tuấn tú và thông tuệ khác thường, khi cậu của Ngài mời thầy về dạy cho con thì Ngài thường đứng ngoài cửa nghe. Ông thầy thấy Ngài ham học, đem lòng yêu mến nên đã dạy thêm cho Ngài vào ban đêm. Năm 15 tuổi, Ngài xuất gia, lấy hiệu là Đức Minh, tự là Bình An đến tu tại chùa Tràng An (tục gọi là chùa Sở, cạnh núi Đồng Lanh, xã Tiên Lữ - Hoài Đức) làm môn đệ của Thiền sư Phạm Cốc nổi tiếng thời bấy giờ.

Mười năm sau (năm 1305), Ngài vào chùa Hương Tích thỉnh giáo Long Vương Châu Nhân, học được phép Đảo Vũ. Năm Hưng Long thứ 13 (năm 1307) đại hạn, vua Trần Anh Tông triệu Ngài về Kinh đô Thăng Long làm lễ cầu đảo được trận mưa suốt 3 ngày, chính vì thế mà nhà vua đã tặng Ngài bốn chữ "Đức Minh Châu Nhân". Khi đang ở Thăng Long thì Ngài được tin sư trưởng quy tiên, Ngài về chịu tang, đến bến đò Đồng Dương - Thanh Oai thì trời tối sầm, mọi người hốt hoảng vì gần đấy có tiếng hổ gầm. Thấy vậy, Ngài đọc thần chú, liền có chiếc thuyền xuất hiện đưa mọi người qua sông.


Mộ cha, mẹ Đức Thánh Bối nằm trên cánh đồng Màn Đen (Giăng Màn)

Sau ba năm chịu tang thầy, Ngài về thăm quê Bối Khê, đến trước mộ cha mẹ khấn vái, tự nhiên trời tối sầm trong sáu khắc (12 giờ) rồi có nấm hình chữ nhật nổi lên, các thửa ruộng đều giãn ra, không nhà nào mất ruộng. Trở lại chùa Tràng an, thấy chùa hư nát Ngài cho xây dựng lại. Ngày khởi công, thợ và nhân dân các nơi đến quá đông, gần trưa Ngài cho gạo vào nồi đất và bảo mọi người thổi cơm. Cơm đang sôi, Ngài nói với mọi người rằng chưa có thức ăn nên Ngài sẽ về Bối Khê xin cà và muối. Nói rồi, Ngài nhún chân không thấy đâu nữa, khi cơm cạn Ngài đã về đến nơi. Ngài đi mây về gió, các dấu tích vẫn còn là "Ao bước chân Thánh" ở làng Tiên Lữ - Đồng Hoàng - Thượng Thanh - Bối Khê. Khi qua Bình Đà, một quả cà đã rơi xuống tạo thành giếng Âm. Ngài mang cà và muối ra bày đủ một trăm đĩa, xới đủ một trăm mâm, một trăm mâm xới hết lại đầy.


Hoa xương rồng bên điện thờ Đức Thánh Bối

Đến năm 95 tuổi (năm 1375) Ngài cho làm một khám son để ở mé tả điện trong chùa, mời dân trong vùng và học trò đến dặn rằng:
"Nay thầy số trời đã hết, thầy vào khám ngồi đủ một trăm ngày, thơm thì thờ, tanh hôi thì đem an táng ở sau chùa"
Nhưng mới được ba tuần trăng (30 ngày) thì có hương thơm và hào quang tỏa ra, mọi người vui mừng đem hương cúng tế và báo cho các làng khác biết. Sau đó làng Bối Khê cùng mười làng xung quanh mang kiệu đến rước bát Phù Hương về thờ và nhận kết nghĩa anh em với làng Tiên Lữ. Sau này, ngày hội chính ở làng Tiên Lữ là mồng 4 tháng Giêng, ở làng Bối Khê là ngày 12 tháng Giêng.

Cuối đời nhà Trần, vua hiếm muộn nên cùng Hoàng hậu ngự giá về cầu tự sau sinh được Hoàng tử. Vua liền phong cho Ngài là "Thượng đẳng tôn thần" và thăng hai chùa lên hàng "Quốc tế". Cuối đời nhà Hồ, giặc Minh đem xâm chiếm nước ta, chùa bị chúng đốt cháy liền ba ngày nhưng Khám vẫn còn, giặc tức tối lắm. Chợt có ông lão bảo:
"Muốn đốt khám Thánh thì phải đem ra tảng đá giữa cánh đồng, quấn bấc thấm tẩm dầu mới đốt được". Giặc tin và làm theo lời ông lão, nhưng khi ngọn lửa bốc cao liền hóa ra một trận cuồng phong, lửa khói mù mịt rồi mưa xối xả suốt ba khắc (6 giờ), nước đỏ như máu khiến quân Minh đóng gần đấy bị dịch mà chết rất nhiều và một phần bị quân ta do 2 tướng Lê Triện, Nguyễn Xí chỉ huy đánh cho tơi bời. Thượng thư Trần Hiệp, nội quan Lý Hương cùng chỉ huy Lý Bằng bị chém chết.. Trước khi rút chạy về nước, chúng phải cho người dựng lại chùa, đúc một pho tượng Quan âm lớn với mười hai tay rồi rước vào chùa. Trong khi dựng chùa, làm tượng, quân Minh đã giấu vàng ở chùa. Năm trăm lẻ hai năm sau (năm 1930) cháu chắt của họ đã quay sang lấy chót lọt.
---------------------
Một vài hình ảnh chùa Bối Khê:
1. Tháp Chuông


2. Khuôn viên chùa


3. Báu vật của chùa - Hoa sen đất (một loại Mộc Lan)







------------------
Nội dung bài viết được ghi chép và chỉnh sửa lại từ Bảng Giới Thiệu về "Bối Khê và Đức Thánh Bối" trong gian điện chính của Chùa.
Hình ảnh: Mr.Love - Từ Điển Kỳ Bí
Mọi sao chép xin vui lòng ghi rõ nguồn.