Như một cơ duyên, trong một lần đến thăm nhà chị đồng nghiệp cơ quan cũ, tôi được biết đến một phương pháp chữa bệnh khá đặc biệt của một người thầy thuốc, không dùng thuốc, chữa bệnh từ xa, chữa bằng nước trắng…. vị thầy thuốc đó có tên là Nguyễn Đức Cần, mọi người còn gọi là cụ Trưởng Cần.


Phương pháp chữa bệnh của cụ cho đến nay vẫn là một bí ẩn đối với mọi người. Các nhà khoa học cho đó là cách chữa bệnh bằng thôi miên, tự ám kỷ. Chữa bằng trường sinh học …tất cả mới chỉ dừng ở mức nghiên cứu. Nhiều người cho rằng, nó huyền bí không thể hiểu được vì nó xa lạ với các quy luật vật lý thông thường.

Khi tìm hiểu về cuộc đời và con người cụ, tôi chợt nhận ra rằng, cách chữa bệnh của cụ so với cách chữa bệnh của một số vị thiền sư đạt đạo trong Phật giáo có sự tương đồng. Ở thời của cụ, Phật giáo được rất ít người biết đến nên nhiều người cho rằng, phương pháp chữa bệnh đó là bịp bợm, dùng bùa ngải, yêu thuật chữa bệnh…

Ngày nay, Phật giáo đã được truyền bá sâu rộng, các giáo lý Nhà Phật ngày càng được khoa học chứng minh sự chính xác, tính thực tiễn của nó. Sự uyên thâm, vi diệu, bất khả tư nghì trong các Kinh, Chú của các đức Phật đã được thể hiện qua một số năng lực thần thông của các vị thiền sư.

Hiện nay, chúng ta lại có thêm một nhân chứng sống nữa đó là sự hiện thân, cách chữa bệnh của cụ Trưởng Cần - Vị thầy thuốc hành đạo Bồ tát. Vì sao tôi xưng dương tán thán công đức của cụ như vậy, một lần nữa xin được dùng giáo lý Phật đạo giải thích.

Sống thanh cao, hết lòng vì người bệnh

Những tư liệu về cuộc đời cụ Trưởng Cần có khá nhiều. Nhưng chủ yếu nói về tiểu sử, tấm gương đạo đức và phương cách chữa bệnh khác biệt, khá ly kỳ của cụ. Để bạn đọc hiểu về con người cụ, tôi xin trích dẫn một chút đoạn về cuộc đời và con người cụ :

Cụ Nguyễn Đức Cần sinh ngày 29-12-1909 (Kỷ Dậu) ở thôn Đại Yên - Ngọc Hà - Quận Ba Đình – Hà Nội. Cụ là người có học vấn khá, thông thạo tiếng Pháp. Cụ hoạt động cách mạng trước năm 1945. Đã từng là đại đội trưởng đội Lam Sơn, bảo vệ Hà Nội sau ngày toàn quốc kháng chiến.

Các cụ già trong làng kể lại rằng, khi bà cụ Khế (Hoàng Thị Khế - mẫu thân ) sinh người con trai thức năm vào đêm 30 tết thì đêm hôm ấy bỗng trời sáng trưng như có trăng rằm. Phải chăng đó là một điềm lành báo rằng có một bậc kỳ tài xuất thế để giúp đời.

Khi cụ Tổng ông (Nguyễn Đức Nhuận) bị bệnh trong bụng nổi lên một cái u to như quả trứng không thầy thuốc nào chữa khỏi thì Cụ Tổng bà đã mời một vị thầy về làng chữa. Người làng không hiểu ông thầy đó chữa bệnh như thế nào nhưng chỉ sau đó vài hôm thì cụ Tổng ông đã khỏi bệnh.

Thật là một sự thần kỳ. Nhưng điều mà gia đình cụ thêm khâm phục là vị thầy đó không nhận tiền thù lao chữa bệnh mà chỉ nói chữa bệnh làm phúc thôi.

Cụ Tổng bà quyết định cho con trai theo học vị thầy đó vì ông thầy quá giỏi lại là người đạo cao đức trọng… Cậu Nguyễn Đức Cần đã theo vị thầy đó đi đến những đâu, đã học như thế nào, đến nay vẫn còn là một điều bí ẩn.

Sau này cụ Cần có kể rằng: Cụ đã đi đến vùng Sơn Tây – Ba Vì, rồi đến Thác Bờ Hoà Bình, qua các vùng miền núi Tây Bắc và sang cả vùng Thượng Lào, Phong Sa lỳ…

Thời gian bao lâu không thấy nói nhưng có một chi tiết là khi ra đi chỉ là một cậu bé, trở về làng đã là một chàng trai khôi ngô tuấn tú.

Từ những năm 40 cụ Trưởng Cần đã bắt đầu chữa bệnh giúp cho nhiều người. Lúc đầu chữa trị cho những người trong họ tộc thân quen về sau cụ bắt đầu nhận chữa rộng rãi cho nhiều người.

Phương pháp chữa bệnh của cụ rất đặc biệt, người bệnh hoặc người nhà bệnh nhân đến gặp cụ, nếu được cụ nhận lời, cụ sẽ cho một mảnh giấy có chữ ký của cụ mang về. Cụ chữa bệnh bằng nước trắng, dùng giấy có chữ ký đốt hoặc gián lên chỗ đau. Cụ chữa bệnh không dùng thuốc và có thể chữa bệnh từ xa. Cụ chữa nhiều loại bệnh như: điên, ung thư, đau dạ dầy, sơ gan cổ trướng, máu trắng thấp khớp, câm điếc, liệt tay, hen….

Ngày 13-7-21983, cũ Trưởng Cần đã mất đi trong sự tiếng thương vô hạn của nhiều người. Một cái chết nhẹ nhàng, bình thản mà cụ đã biết trước đó nhiều ngày. Nhiều người coi cuộc đời của cụ như một vị thánh nhân cứu thế.

Với khả năng đặc biệt của mình, cụ Trưởng Cần đã chữa cho không biết bao nhiêu bệnh nhân, kể cả những người thập tử nhất sinh, vô phương cứu chữa. Cụ đã mang lại cuộc sống cho rất nhiều người, mang lại hạnh phúc, nụ cười cho gia đình họ.

Cụ chữa bệnh không những không lấy tiền mà cụ còn giúp bệnh nhân thấy được những lỗi lầm của họ để sửa tính nết. Tấm gương của cụ thật cao đẹp vừa chữa khỏi bệnh, vừa khuyên bảo “đức làm người”.

Cụ Trưởng Cần đã dùng phương cách nào để chữa bệnh. Cơ sở của những phương pháp đó là gì?

Luyện công tu hành, bắt ấn, trì Chú có thể chữa được bệnh

Hiện nay, các nhà khoa học vẫn nghiên cứu phương cách chữa bệnh của cụ theo chiều hướng trường năng lượng… Theo lời kể của một nhà báo. Trong một lần phỏng vấn, khi được hỏi về phương cách chữa bệnh của cụ, Cụ Trưởng Cần đã nói: “Nếu nghiên cứu theo phương pháp trường năng lượng…là các anh đã đi sai đường rồi. Hãy lên núi mà học … Các anh đã mang cái hữu hạn để nghiên cứu, giải thích cái vô hạn”.

Khi nói chuyện với nhà khoa học Nguyễn Phúc Giac Hải cụ nói : “Vâng thưa ông, tôi chữa bệnh bằng cái đầu của tôi, nhưng người ta cứ bảo tôi là phù thuỷ”.

Cũng như những năng lực, khả năng của các nhà ngoại cảm, phương cách chữa bệnh của cụ nếu dùng khoa học để giải thích thì mãi mãi sẽ không giải thích được. Mãi mãi sẽ không tiếp cận được đến chân lý. Không thể dùng quy luật vật chất để giải thích quy luật về tâm linh. Cũng như không thể dùng trí tuệ hữu hạn mắt thường nhìn thấy để giải thích cái vô hạn của thế giới tam thiên đại thiên.

Chỉ có trí Không được phát sinh từ thiền định mới có thể nhìn thấu rõ cái vô hạn đó. Đó cũng chính là thuyết lý thuộc về đạo Phật.

Hiện nay, nhiều người gọi cụ là Nhà văn hoá tâm linh. Vì chưa được tiếp xúc với cụ Trưởng Cần, tư liệu về cụ chủ yếu thiên về cuộc sống và phương pháp chữa bệnh, trong bài viết này tôi xin được mang đến bạn đọc có một góc nhìn khác về cuộc đời và con người cụ Trưởng Cần.

Trong câu nói được trích dẫn trên đây, ta thấy rõ một điều, cơ sở phương pháp chữa bệnh của cụ không phải là dùng năng lượng trường sinh học cơ thể người, cũng không phải dùng bùa ngải, yêu thuật để chữa bệnh. Kiến thức cụ tiếp nhận được là từ một vị thầy thuốc tu hành trên núi.

Trong phần tiểu sử của cụ có đoạn: Sau năm 1950, từ vùng núi trở về, Cụ sống tại thôn Đại Yên như một nông dân trồng hoa. Việc Cụ tu luyện thế nào không ai được biết. Người ta đồn rằng, Cụ đã đắc đạo tại đền Và – Sơn Tây (đền thờ Thánh Tản Viên). Cụ cũng không hề xác nhận hoặc thanh minh điều đó.

Cụ Trưởng Cần cũng từng nói: Cách chữa của tôi không học một trường nào cả. Từ khi còn ít tuổi, tôi đã phải bỏ nhà ra đi, mặc dù nhà rất giàu. Tôi phải chịu khổ lên rừng mà học mới có thầy dạy, phải học khó lắm.

Trong Phật giáo chúng ta thường nghe nói đến các vị cao tăng có thể làm nên rất nhiều điều phi thường như : Hô mưa gọi gió, thần thông, bắt ấn chữa bệnh… Vì sao họ đạt đến những trạng thái siêu vật lý như vậy, đó là do công phu tu hành, trì Chú…mà có được. Để có thể đạt được những khả năng siêu việt đó các hành giả tu hành phải có một sự tinh tấn nỗ lực rất lớn.

Theo phái Mật Tông, bí mật thân thể của con người và vũ trụ , trời đất có một sự tương quan liên hệ với nhau rất mật thiết . Nhưng vì đa số con người , không có luyện tập để có đại trí tuệ và không được thông qua sự luyện tập hợp lý, nên vĩnh viễn không thể phát huy được, sự tác dụng tương hỗ nay. Vì thế đã không khai mở được sự bí mật tương quan của cơ thể con người với vũ trụ.

Có nhiều phương pháp luyện tập, truyền thống bí mật được lưu truyền từ ngàn xưa có thể giúp con người nhanh chóng, luyện tập trong một khoảng thời gian ngắn. Có thể giúp con người liên lạc, cảm ứng được với các Thần Linh và kết hợp con người với vũ trụ lại làm một, tiến đến đưa con người đến quả vị Thánh và Phật .

Trong Phật giáo, các vị Chư Phật, Bồ Tát không phải là những thánh nhân sáng tạo ra vũ trụ mà là người thầy dẫn đường, vị thầy thuốc chữa bệnh khổ về thân tâm cho chúng sinh. Nếu Kinh Phật là phương cách hướng dẫn chữa bệnh thì các thần Chú chính là thuốc chữa bệnh.

Sự vi diệu bất khả tư nghì của đạo Phật chính là các Chú. Tà ma ngoại đạo cũng sử dụng các câu thần Chú của đạo Phật rất nhiều. Các Chú rất linh nghiệm, nhưng không phải ai trì Chú cũng có được linh ứng hiệu nghiệm. Để đạt được đến mức đó không những phải tu hành đạt mức nội lực thâm sâu mà còn phải thực hành đạo Bồ Tát.

Theo Hoà thượng Tuyên Hoá thì, dùng nước Đại Bi để chữa bệnh cho người là một pháp môn thực hành Bồ tát đạo. Nhưng quý vị muốn tu pháp này trước hết phải thực hành mọi hạnh nguyện của hàng Bồ tát. Phải luôn luôn giữ tâm niệm “vô ngã”, “vô nhân”. Nghĩa là trong tâm không còn bốn tướng: ngã, nhân, chúng sinh, thọ giả nữa. Quý vị đừng nghĩ rằng: “Tôi chữa lành bệnh của chúng sinh được, khi tôi trì chú Đại Bi, tôi tạo ra được sự cảm ứng vô cùng lớn lao”.

Sự linh nghiệm của các Thần Chú

Phật pháp bao la, thiên binh vạn quyển, có rất nhiều câu thần Chú. Duyên khởi của các Chú thường được xuất phát từ sự quán chiếu của các đức Phật, Bồ Tát về sự khổ về thân, tâm của các chúng sinh mà các ngài tuyên thuyết.

Trong Kinh Đà Ra Ni, Bồ tát Quán Thế Âm đã nói : “Đức Như Lai vừa nói lời ấy xong, Quán Thế Âm Bồ Tát liền từ chỗ ngồi đứng dậy, sửa y phục nghiêm chỉnh, chắp tay hướng về Phật mà thưa rằng: 'Bạch đức Thế Tôn, tôi có chú Đại Bi tâm Đà Ra Ni nay xin nói ra, vì muốn cho chúng sinh được an vui, được trừ tất cả bệnh, được sống lâu, được giàu có, được diệt tất cả nghiệp ác tội nặng, được xa lìa chướng nạn, được thành tựu tất cả thiện căn, được tiêu tan tất cả sự sợ hãi, được mau đầy đủ tất cả những chỗ mong cầu. Cúi xin Thế Tôn từ bi lắng nghe.

Đức Phật bảo: Thiện nam tử! Ông có tâm đại từ bi, muốn nói thần chú để làm lợi ích an vui cho tất cả chúng sinh. Hôm nay chính là lúc hợp thời, vậy ông nên mau nói ra, Như Lai tùy hỉ chư Phật cũng thế”

Duyên khởi của thần Chú Dược Sư, đức Phật Thích-ca Mâu-ni đã dạy cho Mạn Thù Thất Lợi Bồ-tát trong kinh Dược Sư Bổn nguyện công đức: “Này Mạn Thù Thất Lợi! Đức Dược Sư Lưu Ly Quang Như Lai khi chưa chứng được đạo quả Bồ-đề, do sức bổn nguyện mà Ngài quan sát biết chúng hữu tình gặp phải các thứ bệnh khổ như da vàng, gầy ốm, cảm nhiệt, thương hàn, v.v….

Vì muốn những bệnh khổ ấy được tiêu trừ và lòng mong cầu của chúng hữu tình được mãn nguyện, nên Ngài liền nhập định tên là Định diệt trừ tất cả các khổ não cho chúng sinh. Khi Ngài nhập định, từ trong nhục kế phóng ra luồng ánh sáng lớn, trong luồng ánh sáng ấy nói chú Đại Đà-la-ni”

Hiện nay các vị tăng sĩ thường dùng hai Chú là : Đại Bi Tâm (Kinh Đà Ra Ni) và Dược Sư Lưu Ly Quang Như Lai Bổn nguyện công đức để chữa bệnh thân và tâm cho chúng sinh. Đi sâu vào phương cách trì Chú chữa bệnh của hai bộ Kinh này ta sẽ tìm ra được lời giải cho phương pháp chữa bệnh của cụ Trưởng Cần.

Trong Kinh Đà Ra Ni, khi nói về Chú Đại Bi Tâm, Phật bảo ngài A Nan: “Ông nên dùng lòng trong sạch tin sâu mà thọ trì môn Đại Bi Tâm đà ra ni này và lưu bố rộng ra trong cõi Diêm Phù Đề, chớ cho đoạn tuyệt. Đà Ra Ni này có thể làm lợi ích lớn cho chúng sinh trong ba cõi.

Tất cả bệnh khổ ràng buộc nơi thân, nếu dùng Đà Ra Ni này mà trị thì không bẹnh nào chẳng lành, dùng đại thần Chú này tụng vào cây khô, cây ấy còn được sinh cành lá, trổ bông, trái, huống chi là chúng sinh có tình thức ư? Nếu thân bị đại bệnh, dùng Chú này mà trị không lành, lẽ ấy không bao giờ có”.

Theo Hoà Thượng tuyên Hoá thì Đại Bi Chú Đà Ra Ni từ cầu 24 đến câu 74 chính là bốn mươi hai thủ nhãn ấn pháp diệu dụng. Khi hành giả hành trì bốn mươi hai thủ nhãn ấn pháp này được gọi là “tác pháp”. “Như ý” nghĩa là tùy theo tâm nguyện đều được như ý. Khi hành giả tu tập thành tựu ấn pháp này rồi, thì mọi việc đều được như tâm nguyện nên gọi là “Như ý”.

Khi một người tu tập đến “Tác pháp mạc ly ngã” thì ấn pháp không rời khỏi hành giả và hành giả không rời khỏi ấn pháp. Pháp và ngã là một. Thế nên chẳng có pháp và cũng chẳng có ngã, pháp chấp và ngã chấp đều không. Thủ nhãn ấn pháp này có công năng mang lại sự an vui như ý đến cho hành giả, khiến cho các thứ bệnh tật, chướng nạn đều được tiêu trừ.

(Còn tiếp)

Nguồn http://www.phattuvietnam.net/4/tamlinh/13847.html