Thế Giới Bùa Ngải

Hùng Sơn


Bùa Ngải là một thế giới thuộc khoa học huyền bí, một lãnh vực đầy lạ lùng và bí ẩn mà khoa học hiện tại không thể giải thích cũng như khám phá nổi. Đặc biệt là tại Á Châu nói chung và Việt Nam nói riêng, Bùa Ngải vẫn là một đề tài đầy bí mật chưa bao giờ được tiết lộ.

Trong tác phẩm này, nhà văn Hùng Sơn, một người đã từng nghiên cứu Bùa Ngải trên 30 năm, đã vén màn bí mật cho thấy những chi tiết lạ lùng của Bùa Ngải: Từ Bùa Yêu, Ngải Nói cho đến Ma Xó, Thiên Linh Cái, v.v... Tất cả được lồng trong một truyện dài tình cảm và khiêu gợi, chắc chắn sẽ đưa người đọc vào một thế giới siêu hình, hấp dẫn từ trang đầu tới trang cuối tác phẩm.

"Thế Giới Bùa Ngải" khi khởi đăng trên tạp chí "Khoa Học Huyền Bí" tại San Jose, đã gây chấn động giới đọc giả và tạo nhiều dư luận, ủng hộ có, chống đối có. Có người gọi tác phẩm này là một "tác phẩm khiêu dâm". Có người lại cho rằng đây là một tác phẩm giá trị được viết dựa trên sự hiểu biết thật sự của tác giả về vấn đề Bùa Ngải, là một đề tài bí mật ít ai dám khai thác từ nhiều năm qua.

Huyền thoại hay sự thật? Chuyện hoang đường hay chuyện đáng tin? Chúng tôi xin dành sự phán xét cho đọc giả sau khi đọc hết cuốn truyện này.



Chương Một

Vào thập niên 60, những người tò mò, hoặc tin tưởng vào bùa ngải, ít ai không biết tới thầy Mười ở cầu Bình Lựi, ông vào khoảng 70 nhưng thân thể rất tráng kiện, nước da ngăm đen, người hơi lùn. Những lời đồn đãi chung quanh cuộc sống của thầy Mười nhiều khi nghe tới rợn người. Những quyền phép mà người ta nói về ông vượt xa óc tưởng tượng của các nhà văn chuyên viết về chuyện ma quái.

Từ Sàigòn đi tới cầu Bình Lợi, cách khoảng 500 thước gần tới chân cầu, một con đường đất nhỏ bên tay phải dắt tới những thửa vườn dừa, cam và mận đầy ăm ắp. Vô trong chừng hơn cây số, quẹo tay trái, gặp ngay một căn nhà ba gian hai trái, có mái ngói đỏ bạc mầu, đó chính là nhà thầy Mười.

Thầy Mười sống với vợ con, nhiều người ngạc nhiên về số tiền thầy kiếm được hàng tháng không phải là ít, vậy mà thầy Mười sống rất lam lũ, vợ con hàng ngày nấu xôi đi bán rạo kháp vùng. Khi bước chân vô nhà thầy Mười, trong căn phòng khách, chẳng ai có thể tin được ông già này lại là một ông thầy bùa nổi danh như vậy.

Trong phòng khách, một chiếc bàn gỗ mộc mạc, sáu cái ghế đơn sơ, trên bàn lót miếng kiếng, ở bên dưới tấm kiếng, mấy tấm hình vợ con xếp lung tung trông thật quê mùa. Một bình trà và mấy cái chén nhỏ để trong chiếc khay bằng nhôm cũ đã tróc nước sơn. Thầy Mười tiếp khách ở đây.

Ngồi trong phòng kh.lch nhìn ra vườn; quả là một khung cảnh nên thơ, có lẽ thầy Mười đã tốn rất nhiều công phu cho vườn cây trá i này.

Những mùa trái cây nở trộ, khách Sàigòn tới vườn cây của thầy Mười, ít ai muốn về, nhất là vào dịp hè, trời Sàigòn nóng nực, trai gái kéo xuống vườn trái cây của thầy Mười tình tự, nô đùa thật thích thú. Nhưng ngay trong vườn cây, một cái am nho nhỏ, chiều dài khoảng 6 thước, chiều ngang hơn 3 thước, nằm lạnh lùng, mặc dù chưa tới gần, mọi người đã ngửi thấy mùi nhang trầm thơm ngát mùi thơm không lấy gì làm lạ với những người mộ đạo Phật, vì đấy cũng chỉ là những loại nhang thơmbán đầy dẫy ở ngoài chợ và chùa chiền nào cũng có.

Nhưng không hiểu sao, mùi nhang này tỏa ra từ căn nhà nhỏ bé kia, có một sức quyến rũ lạ lùng. Tuy nhiên, khi bước chân tới gần căn nhà nhỏ đó, ai cũng có cảm giác lành lạnh rợn người, như phải băng qua một bãi tha ma vào những 'đêm trời tối. Mọi người đều biết đó là nơi thầy Mưừi thờ phượng và luyện phép, nuôi ngải. Chưa có một người nào có đủ can đảm bước vào n(~i đây một mình, kể cả những thầy bùa của những môn phái khác, dù cho đã từng đi lại với thầy Mười

nhiều lần. Người ta gọi đây là Am Thầy Mười nơi bất khả xâm phạm và là trung tâm của những chuyện kỳ bí ghê hồn.

Lần đầu tiên San được gặp thầy Mười vào một ngày hè, trời thực oi bức. Buổi sáng hôm đó đã có một trận mưa nho nhỏ, nhưng không làm cho cái nóng của Sàigòn giảm sút chút nào?

Vừa bước vào vườn cây thầy Mười, San đã cảm thấy tâm hồn thực thảnh thơi. Có lẽ mầu xanh của lá, hương thơm của hoa, cũng như dáng dấp của những chùm mận nặng trĩu trên cành làm chàng quên đi một Sàigòn đầy cát bụi.

Hôm nay, San và sư phụ chàng tới gặp thầy Mười có hai mục đích: Thứ nhất là đem một thân chủ xuống cho thầy Mười giúp dùm vài công chuyện nan giải. Thứ hai là thầy Tư muốn giới thiệu San với thầy Mười, vì cách đây mấy tháng, San đã chính thức được làm lễ "Xuất Sư.

Thầy Mười chính là đệ tử duy nhất, xuống núi sau cùng và kề cận Sư Tổ khi mãn phần. Cũng vì lý do này, những sư huynh đệ cũa thầy Mười rất kiêng nể ông/ trong đó có sư phụ San.

Được gặp thầy Mười là một điều thích thú. San đã nôn nóng muốn gặp ông từ lâu, nhưng không được phép. Có lẽ với kinh nghiệm nhiều năm, hễ cứ học trò nào đem xuống giới thiệu cho thầy Mưừi là y như rằng; không sớm thì muộn, thầy Tư mất luôn đệ tử đó!

Họ thường lén lén, lút lút xuống cầu xin thầy Mười chỉ dạy những điều thầy Tư chỉ dành cho những đệ tử đã được làm lễ xuất sư, có nghĩa là có thể lập am thâu đệ tử, quảng bá môn phái.

Những người sau khi đã được làm lễ xuất sư rồi, không bao giừ được nhận ngưừi khác làm thầy mình nữa, mặc dù cho có học hỏi ở người đó trăm ngàn phép thuật, cũng chỉ coi là trao đổi và cùng tu luyện mà thôi. Đó là lý do duy nhất San biết tại sao, dù thây Tư rất quí mến thầy Mười và mà hôm nay chàng mới được gặp thầy Mười. Điều này đã mặc nhiên cho thấy; trên phương diện tu luyện, quảng bá pháp thuật của môn phái đã có sự cạnh tranh thương mại rồi!

Vừa bước chân qua cổng vườn, mấy con chó nhào ra sủa vang, cô thân chủ theo sau vội thụt lại. Thầy Tư cười hì hì, nói lớn:

- Thầy Mười đâu rồi, không ra đuổi mấy con chó quỉ này đi, bộ trốn trong đó đặng tụi tôi nấu xong nồi thịt cầy mới ra phải không?

Tiếng cười thực sảng khoái vang lên làm cho mọi người giật mình. Thầy Mười đang leo xuống từ một cây mận gần đó, vừa cười vừa nói:

- Cứ mỗi lân thầy Tư xuống thăm tôi là hăm thịt mấy thằng đệ tử này của tôi. Bữa nào tôi làm thịt một con xem thầy có dám ăn không?

Trong môn phái điều kỵ nhất là ăn thịt chó. Cũng vì vậy mà mấy ông thầy thường đem vấn đề ăn thịt chó nói chơi hoài.

Có một điều không hiểu tại sao, hồi San chưa nhập môn đã ăn thịt chó nhlều lần mà không thấy khoái khẩu chút nào, nếu không muốn nói là sau này thấy người ta ăn thịt chó là mình còn buồn nôn nữa. Vậy mà sau khi theo thầy Tư học bùa, luyện ngải, thịt chó là món ăn làm San thèm thuồng, tới nhiều khi muốn bỏ thầy, lìa Tổ, để chén một bữa thịt cầy cho thỏa mãn. Cũng vì thế mà chàng hiểu tâm

trạng của cả thầy Tư lẫn thầy Mười, thường lôi vấn đề ăn thịt chó ra nói cho đỡ thèm.

Lơn tơn đi ra cổng, thầy Mười vẫn giữnụ cười thật tươi. Tới đuổi mấy con chó đi, thầy Mười chỉ ngay San nói:

- Có phải chú em này là thầy San đó không?

San giật mình vì không hiểu tại sao thầy Mười lại biết mình, thầy Tư quay qua nhìn San cười hì hì.

- Tôi dám chắc mấy thằng đệ tử tôi đem hình thầy cho thầy Mười coi rồi. Thầy đừng có để thầy Mười dằn mặt đó.

San cười giả lả.

- Dạ thưa thầy con đâu dám. Với thầy Mười thì cần gì phải dằn mặt. Lúc nào con lại không biết đang đứng trước núi Thái Sơn. Là học trò của thầy từ lâu, ai lại không biết thầy Mười là đệ tử cưng của Sư Tổ. Chính thầy là sư huynh của thầy Mười, thầy cũng biết điều đó hơn ai hết mà.

Thầy Tư mỉm cười, ông biết San vừa nhắc khéo thầy Mười thân phận bề trên của mình, điều mà nhiều khi vì tài giỏi hơn thầy Tư, thầy Mười thường né tránh cấp bậc đàn em đó.

Thầy Mười cười lớn.

- Khéo thật, khéo thật. Chỉ một câu nói diện kiến này của thầy San, tôi đã biết thầy Tư chọn không lầm người cho xuất sư. Chẳng bù với đám đệ tử của tôi, không đáng sách dép cho thầy. Thôi, mời tất cả vô nhà đi.

San vừa định nói thêm vài lời tâng bốc, thầy Mười đã quay lưng đi vô trong. Mọi người lẽo đẽo theo sau.

Hình như thầy Mười không chạy, coi bộ ông ta đi rất thong thả mà vừa đó đã tới thềm nhà rồi, trong khi mọi người còn lếch thếch ở mãi ngoài sân.

Thầy Tư lẩm bẩm:

- Lại giở trò rồi, đó là phép thâu đất. Đi một bước bằng ba. Tôi biết, hể gặp đệ tử mới của tôi là thế nào ông ấy cũng dằn mặt. Chứng nào vẫn tật đó.

San mỉm cười:

- Với ai thì thầy lo, còn con đã xuất sư rồi, những điều thầy Mười biết, mình cũng biết chứ có lạ lùng gì đâu.

Thầy Tư lắc đầu.

- Thầy lầm rồi, trong môn phái, cả trăm người được xuất sư, nhưng chưa có ai qua mặt được thầy Mười đâu. Nhiều điều thầy Mười làm mà tôi chưa bao giờ được nghe Sư Tổ nói tới, chứ đừng nói là luyện được nữa.

- Như vậy có nghĩa là Sư Tổ mãn phần, thầy Mười đương nhiên là chưởng môn.

Thầy Tư lắc đầu.

- Không phả i vậy, lúc đầu ai cũng tưởng như thế. Khi thầy Mười mang tin Sư Tổ chết về, họp anh em lại, dở bức di chúc của Sư Tổ ra. Ai cũng tưởng là di huấn lập thầy Mười lên làm chưởng môn. Lúc đó, tụi tôi đứa nào cũng lễ mể đem quà tặng tới. Đến khi mở tờ dl huấn ra, chỉ có vẻn vẹn mấy chữ:

Phật tại tâm.

Bạo phát bạo tàn.

Hồn ai nấy giữ.

Chân không.

Đúng là nét chữ của Sư Tổ, mọi người hoảng kinh vì biết là Sư Tổ không chỉ định chưởng môn mà để lại một lời cảnh cáo thôi.

Tuy nhiên, hai chữ cuối cùng "Chân không" thì quả thực chưa ai hiểu thấu.

Nhiều người lấy thiền triết ra giải nhưng cũng không ổn, vì có nhiều lẽ nghịch lý với môn phái. Cái không không của nhà Phật cũng chẳng hạp với những gì các đệ tử trong môn phái đã học được. Bởi vậy, cho tới giờ này, di huấn vẫn là một điều bí mật.

- Bây giờ tờ di huấn đó ở đâu hả thầy?

- Để ở trong am thầy Mười.

Con muốn coi được không?

- Ai coi mà không được, duy chỉ có điều thầy Mười lộng vô khuôn lớn để sau lưng tượng Phật Tổ, gắn liền vào tường, che màn lên nên không gỡ ra được.

- Trong số các thầy, bộ không ai muốn giữ tờ di huấn của Sư Tổ à?

- Ai mà không muốn, nhưng mà thầy Mười đâu phải tay dở!!

Tự nhiên San linh cảm có điều gì không ổn. Di huấn của Sư Tổ chưa được hiểu rõ ràng và đó cũng là những lời duy nhất của vị Sư Tổ sau cùng để lại. Nay thầy Mười giữ để thờ phụng. Như vậy, có khác gì chính thầy Mười là chưởng đâu.

Những đệ tử được xuất sư có ai lại không muốn được tận mắt nhìn thấy di huấn này. Như vậy có nghĩa là phải tới bái kiến thầy Mười để được nhìn thấy di huấn. Hơn thế nữa, thầy Mười lại là người xuống núi sau cùng và chôn cất Sư Tổ, thử hỏi những bửu bối của ngài hiện ai giữ, nếu không phải là thầy Mười.

Nghĩ vậy nên San hỏi thầy Tư:

- Thưa thầy, ngoài di huấn đó ra, thầy Mười còn đem xuống núi những gì khác không?

Thầy Tư gật đầu:

- Không ai biết hết được những gì thầy Mười đem từ núi xuống.

- Nhưng ít nhất lúc Sư Tổ còn sống, cũng có người lên thăm nuôi và biết được Sư Tổ có những gì chứ?

- Mấy năm chiến tranh lan rộng, không còn ai dám lên núi gặp Sư Tổ nữa. Chỉ còn thầy Mười là người duy nhất ở trên đó thôi, đến lúc Sư Tổ chết, cũng phải là gần mười năm xa lìa đám đệ tử. Những gì sau này Sư Tổ luyện được đâu có ai biết, ngoài thầy Mười.

- Nếu vậy tại sao Sư Tổ không cho thầy Mười làm chưởng môn?

- Ai lại không biết tâm tánh thầy Mười. Ông nổi tiếng về chuyện tà ma thôi. Những điều tốt lành không làm ông có hứng thú.

Nói tới đây, mọi người đã đi tới thềm nhà.

Thầy Mười đang đứng ở đó chờ, ông nhìn San tủm tỉm cười:

- Hôm nay thầy San tới đây, chắc chắn phải ở lại đây tới sáng mai rồi. Nghe nói thầy làm ở Cục An Ninh cũng được tự do lắm, không phải trực gác gì phải không?

- Dạ, con lo phận sự ở ngoài nên miễn trực gác.

- Đi lính như thầy khỏe ru, chẳng bù với mấy thằng đệ tử tôi; đi hành quân muốt mùa, lâu lâu mới được về, bởi vậy chẳng có đứa nào tu luyện được môn nào cho ra hồn cả!

Thầy Tư mỉm cười nói vô:

- Tôi cũng may mắn có được thầy San, nếu không cũng chẳng biết phải làm sao. Tụi mình già quá rồi mà đệ tử chẳng có đứa nào đủ sức cho xuất sư cả. Nghĩ cũng buồn.

Thầy Mưừi trầm ngâm:

- Cái kiểu này, chiến tranh kéo dài rồi lấy ai nối nghiệp mình đây. Dù cho có xuất sư được mười ông thì chỉ vài năm sau cũng có tới tám ông bỏ cuộc, còn hai ông đi

vào đường bá đạo, làm tan nát hết, lúc ấy Tổ cũng bỏ, Phật cũng chê mà thôi.

Bỗng thầy Tư cười lớn, nói nửa đùa nửa thật:

- Hôm nay mới nghe được thầy Mười nói một câu nhơn đức.

Thầy Mười cười ha hả, nói với San:

- Thầy San đừng có nghe lời thầy Tư mà nghĩ xấu cho tôi nhé. Dù mình có luyện tà ma nhưng ăn hiền ở lành. Trời Phật cũng độ.

San nói bọc theo:

- Dạ, thầy bà cốt giừ được cái đức là Trời thương rồi. Còn chánh hay tà là người đời gán ghép đâu có quan hệ gì.

Nghe San nói, thầy Mười có vẻ khoái lắm. Ông nhìn thầy Tư cười hể hả:

- Thầy Tư nghe chưa. Tôi bắt đầu khoái thầy San rồi đó. Tôi bảo đảm với thầy, nếu Sư Tổ còn sống, chắc chắn ngài cũng vui lắm. Không lý chức chưởng môn lại lọt vào tay đời sau chúng hay mình sao?

Thầy Tư chỉ mỉm cười, ông nhìn San nhắc lại một phần lời di huấn của Sư Tổ:

Phật tại tâm. Hồn ai nấy giữ nghe thầy San.

San lật đật nói:

- Dạ... dạ, thầy Mười thương thì nói nhưvậy thôi, con biết mình hơn ai hết mà. .

Đến bây giờ thầy Tư mới chỉ người con gái đi theo, nói với thầy Mười:

- Đây là cô Lệ, chủ quán rượu bán cho Mỹ ở Sàigòn. Cô Lệ theo tôi cũng lâu, nay tôi muốn đem cô ấy lên đây nhờ thầy giúp một tay.

Bỗng thầy Mười bật cưừi ha hả:

- Sao khéo quá vậy, không lý là cái duyên của thầy San.

San lật đật nói ngay:

- Thưa thầy, con với cô Lệ không có gì đâu, cô Lệ cũng biết mà.

Từ lúc tới đây tới giờ, Lệ chỉ lẽo đẽo theo sau mọi người, bây giờ nàng mới lên tiếng:

- Dạ thưa thầy Mười, con-lên đây để xin thầy ít món đồ về buôn bán thôi/ chứ con với thầy San là chỗ quen biết lâu rồi. Con không dám nghĩ tới chuyện khác đâu.

Thầy Mười mỉm cười:

- À, tôi có nói gì chuyện này nọ đâu. Tôi nói cái duyên là hôm nay ông Tổ trong cây chuối hột của tôi luyện đúng 100 ngày. Đang cần một nam một nữ để thỉnh ông Tổ ra. Tôi già rồi, luyện ba cái phép này tội nghiệp quá, hơn nữa, kiếm mấy đệ tử nữ cho loại bửu bối này cũng khó. Cái này chỉ hạp cho các cô cần để mồi chài đàn ông thôi. Hôm nay cũng có một bà sồn sồn muốn tới thỉnh để mồi chài cái ông quan gì trên quận, xin mở cái quán. Tôi đang định cho bà ta hay, nhưng còn đang chần chờ, vì nghĩ cũng tiếc cho công trình 100 ngày của tôi, chỉ để cho bà ta xin giấy phép mở cái quán cốc thì uổng quá. Bây giờ có cô và thầy San ở

đây quả là cái duyên rồi. Thầy San học được bửu bối mà chính thầy Tưlà sưphụ của thầy San cũng chỉ nghe nói mà chưa luyện được. Còn cô gập đúng ngày đem được ông Tổ này về, lo gì làm ăn không khá. Đàn ông sẽ quì dưới chân cô hàng chục đứa cho coi. Nhưng đừng có làm ác, dụ dỗ chồng con người ta mà mang tội đó.

Lệ hớn hở, nói:

- Con xin cám ơn thầy Mười, con xin lỗi đã nghĩ tầm bậy. Xin thầy chỉ cho con phải mua sắm gì bây giờ, con xin đi mua ngay.

Thầy Mười cười hề hề, nói như giễu:

- Phật này không dụng trái cây. Có ai tưởng đến thì xin đi tiền.

Mọi người cùng cười xoà vì cái tếu của thầy Mười. Trong khi đó, thầy Mười luồn tay qua lưng qưần, lôi ra một sợi dây cà tha, loại dây được bện bằng chỉ ngũ sắc, có 5 đốt bằng chì cán mỏng, chia sợi dây làm năm khúc, tượng trưng cho Kim, Mộc, Thủy, Hỏa, Thổ, Công dụng của loại dây này để độ thân hoặc luyện gồng~ tùy theo người thầy luyện phép nào vô dây cà tha. Thầy Mười đưa sợi dây cà tha cho San, nói:

- Tối nay đúng nửa đêm, thầy sẽ đưa cô Lệ ra vườn sau, chỗ cây chuối hột tôi luyện bửu bối. Hai người bưng cái tráp nhỏ bằng sừng con tê giác của tôi hứng ngay dưới bắp chuối. Hãy hứng lấy đúng 36 giọt. Trong cái tráp nhỏ bằng sừng tê giác này, tôi có bôi một lớp mỡ voi nên giữ được những giọt nước phép đó trọn vẹn, không thể thấm vào đâu được Khi nào thấy nước không rỉ ra nữa thì phải

coi chừng, ngay ở tầu lá chuối non vừa nhú ra, có một ông Tổ nanh heo của tôi được tào lá mới nhô ra đó mang từ dưới gốc cây lên, tôi đã gởi vào thân cây từ 100 ngày trước. Thầy San phải nấm lấy ông Tổ liền, đừng để cho tào lá chuối

nở tung ra, hất ông Tổ xuống đất là nước phép hết linh nghiệm ngay. Bởi vì không thể để ông Tổ nhập thổ được. Khi nắm được ông Tổ rồi, thầy bỏ liền vô miệng núc một cái rồi lại bỏ vào miệng cô Lệ để cô ta núc một cái nữa, xong đặt ông Tổ vô cái tráp có mấy hạt nước vừa hứng được, đậy lại là xong.

Lúc nãy, thầy Tư nói thầy San: "Hồn ai nấy giữ là đúng, nhưng sức thầy trong lúc này chưa giữ nổi hồn của thầy đâu bởi vậy tôi mới đưa sợi dây cà tha hộ mệnh của tôi cho thầy. Thầy phải đeo vào tôi mới an tâm được.

San cầm sợi dây cà tha tần ngần. Năm đốt chì cán mỏng để vẽ bùa cuốn vô dây không phải làm bầng chì mà là 5 đốt vàng ròng. Mỗi đốt cũng phải hơn nửa lượng vàng lá. San thắt sợi dây cà tha vào bụng mà nghe hồi hộp lạ lùng.

Thầy Tư bảo chàng:

- Nếu tôi biết luyện phép chuối hột cũng không dám làm. Lấy dây cà tha vàng đâu mà dùng bây giờ.

San cũng đồng ý với thầy Tư ngay:

- Con cũng nghĩ vậy. Dù có học xong pháp môn này cũng đành để đó thôi, lương lính lấy tiền đâu mua vàng lá làm cà tha đây.

Thầy Mười mỉm cười chỉ Lệ:

- Cái đó cô Lệ sẽ lo cho các thầy. Tôi phá lệ lần này, không nhận tiền tổ của cô Lệ. Tôi cho cô đem phép ông Tổ về dùng để mồi chài mấy thằng Mỹ kiếm tiền. Tôi nói trước cho cô Lệ hay, trong vòng mười ngày, cô sẽ kiếm được mười lần hơn số tiền mua vàng để làm sợi cà tha này. Đúng ngày thứmười một, có một người đàn ông nào cho cô một đồng, cô cứ ỉa ra mang lên đây cho tôi ăn. Còn khi kiếm được nhiều tiền hơn tôi nói, cô phải mua đủ số vàng đem tặng thầy San cho tôi luyện dây cà tha cho thầy ấy, cô có chịu không?

Lệ mừng rỡ nói ngay:

- Dạ... dạ... con chịu, con chịu. Chẳng nói dấu gì thầy, mấy tháng nay ế ẩm, chẳng nói mười ngày mà cả tháng con cũng không kiếm được nhiều tiền như vậy đâu. Nếu có tiền là con mua vàng lên nạp cho thầy San liền.

Thầy Mười gật gù mỉm cười trong khi cả thầy Tư và San vừa mừngvừa phục thầy Mười hết sức. San không ngờ thầy Mười dám nói mạnh miệng như vậy. Từ hồi theo thầy Tư tới giờ, mỗi ìân giúp thân chủ nào điều gì, thầy Tư chỉ dám xin tiền nhang đèn là 36 đồng là cùng, sau này tiền bạc mất giá, thầy Tư tăng lên 360 đồng. Chưa bao giờ chàng thấy thầy Tư đòi ai bạc ngàn cả. Hôm nay thầy Mười nói như vậy có nghĩa là cô Lệ phải trả ít nhất là hai lượng vàng lá. Chàng cũng không ngờ là cô Lệ lại vui vẻ nhận lời như thế.

San còn đang tần ngần, thầy Mười nói tiếp:

- Cô hãy đưa bàn tay phải tôi coi.

Lệ ngoan ngoãn đưa bàn tay ra cho thầy Mười coi ngay. Thầy Mười nắm bàn tay thon nhỏ và trắng muốt của Lệ cúi sát xuống coi thực kỹ. Hai tay thầy nâng niu bàn tay và vuốt nhè nhẹ trong lòng bàn tay cô. Không khí nặng chĩu, mọi ngưừi đều im lặng theo dõi mọi cứ chỉ của thầy Mười.

Coi bàn tay một lúc sau, thầy Mười vạch mí mắt Lệ coi, rồi lại coi sau lỗ tai, vuốt nhè nhẹ sau gáy Lệ rồi nói:

- Cô theo thầy Tư được bao lâu rồi?

- Dạ cũng khoảng hơn ba tháng.

- Trong thời gian đó, cô có đi thầy bà nào khác không?

- Dạ có.

- Tại sao cô lại bỏ thầy Tư đi kiếm người khác?

Lệ hơi tần ngần, nhìn thầy Tư thực nhanh:

- Tại con nôn nóng, hàng họ ế ẩm quá nên theo mấy đứa bạn thôi, chứ con có bỏ thầy Tư đâu.

Thầy Mười cười khà khà:

- Thế rồi hôm nay cô trở lại thầy Tư, ông ta không chịu giúp cô nữa và đem cô lên đây phải không?

Lệ cuống quít, nói:

- Dạ... dạ... lúc nào con cũng kính trọng thầy Tư mà, con đâu có giám phản ai đâu, chỉ tại hàng họ ế ẩm quá nên theo mấy đứa bạn thôi.

- Tôi có nói gì cô đâu, nhưng mà bạn bè cô hại cô rồi.

Lệ ngơ ngác:

- Thưa thầy nói sao ạ?

- Cô chưa biết thủ đoạn của mấy thằng thầy bùa thầy ngải bá đạo. Chúng nó chỉ giỏi hại người ta thôi, chứ không giúp ích gì được ai. Thấy cô có tiền, chúng ếm cô rồi. Cô đang bị ếm bằng Ngải Đen đó. Nếu không gặp tôi hôm nay, cô sẽ lệ thuộc vào thằng thầy ma giáo nào đó suốt đời, cô phải đi làm nuôi nó, nếu không Ngãi Đen sẽ phát ra làm máu cô đen lại, đau nhức khắp mình mà chết. Lúc đó có

Trời mới cứu được cô.

Trong khi San bán tín bán nghi, Lệ nói:

- Xin thầy giúp con...

San nghe được âm thanh nghi ngờ của Lệ trong câu nói, cô ta có vẻ dầy dạn trong vấn đề thầy bà. Thầy Mườl mỉm cười, nói tỉnh bơ:

- Trước hết cô nhìn bàn tay cô mà tôi vừa coi xem có gì trong đó không?

Lệ đưa bàn tay lên coi rồi lắc đầu, nói:

- Dạ không.

- Được, ly nước trà cô vừa uống còn không?

Lệ cầm ly nước trà lên, nhìn sơ rồi nói:

- Dạ, còn nửa ly thôi. .

Cô bưng ly nước lên bằng hai tay ngang tầm mắt, nhìn cho kỹ vào ly nước.

Lệ làm theo lời thầy Mưừi ngay, nàng rất tỉnh táo bưng ly nước lên ngang mặt.

- Bây giờ cô khấn theo tôi.

Lệ “dạ” một tiếng nho nhỏ, trong khi thầy Mười khấn:

- Xin 36 vì Phật Tổ chứng minh.

Lệ lập lại ngay:

- Xin 36 vì Phật Tổ chứng minh.

- Con tên là...

- Con tên là Nguyễn thị Diễm Lệ.

- Cho con thấy dấu tích Ngãi Đen trên mình con.

- Cho con thấy dấu tích Ngãi Đen trên mình con.

Thầy Mười lùi ra sau mấy bước, bắt ấn chỉ vô ly nước đọc lâm râm nhưng câu thần chú thực khó hiểu rồi quát lớn:

- Cấp cấp như luật lệnh, mau.

Nói xong, thầy ra ghế ngồi rút một điếu thuốc lá, bật hộp quẹt châm lửa đốt như không có chuyện gì xẩy ra. Hít một hơi thực dài, thở khói ra rồi nói:

- Cô đem ly nước này ra ngoài sân, cầm ly nước bằng tay trái, đổ vô bàn tay mặt sẽ thấy Ngãi Đen xuất hiện.

Lệ dạ một tiếng, bước ra sân ngay. San tò mò đi theo, ra tới sân, Lệ nhìn San mỉm cười như đùa cợt. Cô ta để ngữa bàn tay phải rồi đổ từ từ chén trà vô bàn tay.

Nước trà vừa đổ vô bàn tay, Lệ bỗng rú lên, thân thể run rẩy. Nàng sợ hãi tới cùng cực, mặt mày xanh mét. San thấy bàn tay Lệ tự nhiên gặp nước trà trở nên đen như mực, chẳng khác gì ly nước trà là bình mực tầu tưới vô bàn tay nàng, San vội đỡ ly nước trên tay Lệ, trong khi Lệ mếu máo:

- Thầy San ơi, Trời ơi, cái gì thế này...

San hơi một thoáng nghi ngờ, vội lấy ly nước trà còn lại đổ vào tay mình, nhưng chẳng có gì xẩy ra, nưức trà vẫn là nước trà. Cẩn thận hơn, chàng đưa ly nước lên miệng nhấp thử cũng chẳng thấy gì lạ, trong khi Lệ theo dõi từng cử chỉ của San, chàng bảo nàng:

- Cô thử nếm một chút xem, trong ly nước này chẳng có gì lạ cả.

Lệ lắc đầu nguầy nguậy, nhìn ly nước trà như một quái vật:

- Không... không... em sợ lắm.

Thầy Mười cũng vừa ra tới, trên tay ông cầm ly nước, vừa uống vừa nhìn Lệ mỉm cười:

- Cô đưa bàn tay trái đây coi.

Lệ đưa bàn tay trái ra ngay, thầy Mười cầm tay Lệ lên coi một chút, vuốt nhè nhẹ cho những chỉ tay hiện rõ như thầy bói coi chỉ tay rồi lắc đầu nói:

- Thằng này ác thực, thường thì người ta chỉ ếm đàn ông vào tay trái. Đàn bà con gái vào tay mặt, nó bất chấp thiên lệnh, ếm cô vào cả hai tay.

Vừa nói ông đổ luôn ly nước trà đang uống, vào bàn tay trái Lệ. Bàn tay này cũng trở nên đen thui ngay.

Lệ như một cái xác chết từ từ đổ xuống. San vội vã đỡ lấy nàng. Thầy Mười mỉm cười:

- Thầy San bồng cô ấy theo tôi.

Nói rồi ông đi ra vườn ngay, San ẵm Lệ khệ nệ theo sau thầy Mười, chàng để ý thầy Tư vẫn ngồi ở phòng khách uống trà, dửng dưng như không có chuyện gì xẩy ra.

Thầy Mười đi thẳng tới căn nhà nhỏ trong vườn, mở cửa bảo San:

- Thầy đưa cô Lệ vô đây, đặt nằm trước bàn thừ Tổ đi.

San làm theo lời thầy Mười, đặt Lệ nằm ngay ngắn trên mảnh chiếu nhỏ trải trước bàn thờ. Có lẽ Lệ đã tỉnh lại rồi, cô ta rên rỉ khe khẽ, cặp mắt trắng dã nhìn San thất thần.

Thầy Mười đưa San một xấp giấy súc vàng bạc, bảo chàng lau tay cho Lệ. San lau ngay và chỉ một lúc sau tay nàng lại trắng trẻo, mịn màng/ chàng bỏ mớ giấy vừa lau tay cho Lệ vô một cái tỉnh nước mắm đã được rửa sạch, thầy Mười lấy nắp đậy lên, vẽ một lá bùa dán chặn lên trên nấp. Xong, thầy ghi rõ tên Nguyễn Thị Diễm Lệ lên mảnh bùa.

- Đỡ cô ấy ngồi dậy.

San đỡ Lệ ngồi lên, nàng yếu đuối níu lấy chàng run lẩy bẩy. Trong khi thầy Mười quì gối tụng niệm, San chợt thấy thân thể Lệ ép sát võ mình chàng mát lạnh, có lẽ ngoài bộ đồ cô đang mặc, bên trong không có quần áo lót gì hết. Bộ ngực thực lớn đè lên một bên cánh tũy chàng. Lệ yếu ớt vòng một tay qua vai San níu cứng như ôm người tình. Có lẽ nàng vô tình không biết làm cho San nóng người lên một cách dễ sợ. Tai hại hơn, cô ta còn gối đầu lên vai chàng nhắm mắt lại nhưđể tìm một sự che chở. Mặc dù bộ đồ của Lệ may bằng một loại vải dầy, nhưng may hơi bó, lại ép sáp vô thân thể San, làm cho sự tưởng tượng của chàng đi thực xa...

Tụng niệm một hồi lâu, thầy Mười quay lại nhìn hai người mỉm cười, nói:

- Bây giờ cô Lệ cứ yên trí, tôi đã trục hết thần ngải ra khỏi người cô và nhốt vô cái hũ này rồi.

Vừa nói thầy Mười vừa chỉ tỉnh nước mắm mà San vừa bỏ những giấy vàng bạc lau tay cho Lệ vô đó. Mặt Lệ đã bớt tái, hơi thở nàng điều hòa trở lại, nàng nói cám ơn lí nhí trong miệng và vịn tay San đứng dậy. Nhưng Lệ vẫn đứng dựa vào chàng thực tự nhiên như một người tình bé nhỏ. Thầy Mười bảo chàng:

- Thầy San đưa cô Lệ ra ngoài vườn ngồi cho mát rồi vô đây cho tôi chỉ cách luyện bùa yêu trong cây chuối hột, tối nay thầy biết đường mà làm.

Nói xong thầy Mười lui khui lôi một chiếc hộp nhỏ, lấy ra ít đồ nghề vẽ bùa, trong khi San dìu Lệ ra ngoài. Không khí ngoài vườn thật dễ chịu, trời đã nhá nhem tối, những tàng cây rũ xuống thật thấp nhưmuốn che khuất lối đi làm cho khung cảnh nơi đây thực .âm u. Cả hai đi tới một gốc cây lớn, San dìu Lệ ngồi xuống. Nàng nót:

- Thầy San à, thầy ngồi xuống đây với em một chút rồi hãy đi. Vô trong đó nóng nực lắm, vội gì.

San mỉm cười, ngồi xuống bên Lệ.

Chưa kịp yên chỗ, bỗng Lệ níu đầu chàng xuống hôn thực say đắm. San bàng hoàng vì hành dộng bất ngờ của Lệ, nhưng vẫn đễ yên cho Lệ hôn. Một lúc sau, Lệ ngước mặt lên nói nho nhỏ:

- Thôi, thầy San vô trong am đi, không có thầy Mười đợi đó.

San gật đầu nhè nhẹ yếu ớt, đứng dậy trở vô am. Thầy Mười thấy chàng trở lại mỉm cười, hỏi:

- Cô Lệ đã hoàn hồn chưa. Coi bộ con nhỏ này cũng khá lắm. Nhiều người thấy tay bị nhuộm đem mất hồn hai ba ngày.

Chàng nghi ngờ, hỏi:

- Thưa thầy vụ Ngải Đen là thế nào?

Thầy Mười cười hì hì:

- Làm gì có ngải nghệ gì. Tôi bôi một thứ thuốc bắc lên tay cô ta trong lúc làm bộ coi tay, loại bột này mắt thường khó thấy, nó có đặc tính gặp chất chát như nước trà thì đỗ sang mầu đen như mực tầu. Mình phải làm như vậy cho nó không coi thường mình. Còn phép thuật Trời Phật làm gì có thứ nào người phàm như chúng mình làm được như thế. Mà trong môn phái ta, bạo phát thì bạo tàn, luyện làm gì những thứ ấy. Việc làm của thầy tối nay mới là quan trọng, không thể nào lơ là được. Thứ bùa yêu này mạnh nhất trong các loại bùa yêu. Nếu thầy yếu tay ấn, người nữ sẽ làm thầy mất hồn mất vía đó, phải thận trọng hết sức. Tôi coi cô Lệ không phải tay vừa đâu.

San bàng hoàng lãnh hội được bài học đầu tiên của thầy Mười! Nụ hôn môi bất ngờ vừa rồi và thân thể căng đầy, tròn trịa của Lệ làm chàng lo sợ. Tối nay chuyện gì sẽ tới với chàng.

Thầy Tư và thầy Mười vẫn ngồi trong phòngkhách đàm đạo Sau bữa cơm tối, San và Lệ phải tắm rửa sạch sẽ đễ chứ tới nửa đêm đi luyện bùa yêu.

Qua vụ "Ngải Đen", Lệ đã nhìn thầy Mười như thần thánh. Không ai sai bảo mà nàng lui khui phụ với đám con thầy Mười nấu nướng đử thứ cho bữa cơm tối thực siêng năng. Cái chuyện "Ngải Đen" của thầy Mười, thầy Tư cũng biết từ lâu mà không nói với San. Thảo nào, khi sẩy ra tự sự ông bình thản ngồi yên uống nước nhưkhông có gì say ra.

Mọi người ăn cơm tối xong, trời cũng đã thực khuya, sau khi dọn dẹp, Lệ định xuống nhà rửa chén, thầy Mười can lại:

- Cô Lệ lên đây ngồi uống nưức đi. Để đó tụi nhỏ nó làm. Cô còn phải đi luyện bùa yêu vì sắp tới giờ rồi.

Quay qua San, thầy Mười hỏi:

- Thầy San nhớ kỹ những gì tôi dặn chưa?

San lật đật gật đầu:

- Dạ, con nhớ rõ rồi.

Thầy thuộc lòng câu chú chứ?

- Dạ, có năm chữ thôi mà, quên sao được.

Thầy Mười đứng dậy, kéo chàng ra ngoài vườn. Đi loanh quanh một lúc ra mãi tận sau am, thầy Mười đưa San vào một khu đất trồng toàn chuối, khu này khuất hẳn với nhà trên. Tới một cây chuối lớn, có bắp chuối thật to thòng xuống khoảng đầu người.

Thầy Mười bảo chàng:

- Đây là cây chuối chút nữa thầy phải lấy nước phép và thỉnh ông Tổ nanh heo ra.

Tháy Mưừi chỉ vào một vết nứt trên thân chuối bảo San:

- Thầy rọi đèn pin vô đây coi, vết này do tôi lấy dao bằng ngà voi đâm vô đó để nhét ông Tổ bằng nanh heo vô từmột trămngày trước. Tớihômnay, ôngTổ đã theo những lá non đi lên tới ngọn và nhất định sẽ nhẩy ra, khi ông Tổ nanh heo nhẩy ra, thân chuối sẽ vặn mình kêu cọt kẹt rất lớn. Tàu lá non lú ra từ từ đẩy ông Tổ ra, thầy phải núm ngay lấy ông Tổ nanh heo này, đừng để rớt xuống đất là hỏng. Nắm được ông Tổ rồi, đút ngay vô miệng, nút một cái rồi đưa cho cô Lệ nút một cái. Chất nước thầy và cô Lệ ..nút được từ ông Tổ nanh heo phải nuốt ngay, không được nhổ đi. Nhớ dặn cô Lệ nữa. Lúc này cái tráp bằng sừng tê giác đã phải có ba mươi sáu giọt nước hứng từ bắp chuối chẩy ra rồi. Tôi nhắc lại, mỗi một giọt nước chẩy xuống thầy phải đọc một câu chú thổi vào tráp, tất cả là ba mươi sáu lần, phải lấy cho đủ nước. Điều tôi chắc chắn không thế nào thầy cầm lòng được trưức thân thể cô Lệ, đó là sự thúc dục của bùa chú bắt thầy phải hành động, không có hại gì cả. Tuy nhiên, dù cho có làm gì cũng không thể để nước đổ ra ngoài và ông Tổ không được rơi xuống đất. Khi đã bỏ ông Tổ vô tráp đậy kín rồi, bỏ vào bao vải, cột chắc lại treo lên cành cây nào cũng được. Lúc ấy là nhiệm vụ của thầy đã hoàn thành.

Mai mốt, thầy có muốn luyện phép này, cứ làm như tôi nói, nhưng mỗi đêm trước khi đi ngủ, phải tắm rửa sạch sẽ ra ngay chỗ đút ông Tổ vô thân chuối, đọc đủ ba mươi sáu lần câu chú, vỗ vô thân chuối rồi đi ngủ ngay. Thầy phải hiểu công trình chín mươi chín ngày của tôi luyện phép, đừng làm hỏng chuyện. Có lẽ đây là lần sau cùng tôi luyện phép này, ông Tổ khi luyệnxong có thể xài được hoài, cứ ngâm vào dầu thơm của thân chủ đọc đủ ba mươi sáu lần câu thần chú là dùng'được. Càng lâu ngày ông Tổ càng linh. Thầy giúp tôi luyện ông Tổ này xong, tôi cũng đã trả ơn thầy bằng cách dậy thầy cách luyện phép này rồi. Hơn nữa, còn tặng thầy sợi dây cà tha vàng mà cô Lệ hứa cho. Như vậy là không ai nợ ai đìều gì. Ngày thứ một trăm này, tôi già rồi, bắt tôi đi thỉnh ông Tổ ra thì tội nghiệp tôi quá. Để chúc nữa thầy biết tại sao ngay. à, còn một điều thầy phải nhớ, mai mốt này, nếu có luyện phép, người nào được thầy chỉ định thay thế cũng chỉ được làm vào ngày chót thôi, còn chín mươi chín ngày đầu, khôngđược mượn người khác và không được gián đoạn một ngày nào cả. Nếu thầy có sức luyện đủ trăm ngày là tốt nhất, sức quyến rũ của nước phép sẽ mạnh vô song. Nhưng biết điều này rồi, xin thầy đừng dụ dỗ đàn bà có chồng mà phá hạnh phúc gia đình người ta, Trời không tha đâu. Đã có nhiều thầy hộc máu, chết bất đắt kỳ tửvì điều này rồi, thầy muốn sống lâu thì nhớ lấy điều đó.

San ghi nhớ từng lời thầy Mưừi llói, hai người trở về phòng khách.

Đêm nay trăng thực tròn, có lẽ là đêm mười sáu thì phải ánh trăng soi rõ đường đi nên không cần đèn.

Về tới phòngkhách, thầy Tưvà Lệ đangngồi uống nước trà. Thầy Mười bảo Lệ:

- Bây giờ cô theo thầy San đi thỉnh ông Tổ đi, có lẽ chúng tôi ngồi đây uống nước trà một lúc rồi phải đi ngủ thôi, tụi tôi không thức khuya chờ đâu, cô biết chỗ ngủ rồi phải không?

Lệ gật đầu, nói:

- Dạ, phòng con đã sửa soạn xong rồi, con ngủ ở cái trái bên kia với chị Ba.

Thầy Mười gật đầu, nhìn San nói:

- Còn thầy San ngủ ngoài tấm phản sau tủ quần áo này, cái giường đó chỉ vừa một người nằm thôi, tôi thường để cho mấy con bệnh nghỉ đêm ở đó, thầy ngủ tạm nhé.

San lật đật nói:

- Dạ, dạ con ngủ đâu cũng được mà.

- Thôi, bây giờ thầy dẫn cô Lệ đi thỉnh ông Tổ cho tôi đi Cũng sắp tới giờ bắp chuối chẩy nước ra rồi đó. San cầm cây đèn pin và túi vải đi ra vườn. Lệ lật đật

theo chàng ngay.

Sợ Lệ không nhìn rõ đường, San rọi đèn cho nàng đi.Khi tới cây chuối chuyện phép, chàng bảo Lệ:

- Tới rồi, cây chuối này đây.

Lệ nhìn quanh vườn chuối nói:

- Chỗ này dễ sợ quá thầy San ơi.

San nghe những tầu lá chuối cọ vào nhau kêu sào sạt cũng ơn ớn, chàng nói:

- Nếu bảo tôi giừ này ra đây một mình coi bộ không ham rồi đó. Nhất là ở đây gần am thờ phượngg của thầy Mười quá!

Lệ đứng gần lại San hơn, hỏi:

- Tại sao vậy?

Tại cô khôngbiết, thầy Mười nổi tiếngvề nuôi Thiên Linh Cái.

Lệ tò mò hỏi:

- Thiên Linh Cái là cái gì vấy thầy San?

Chàng thực thà nói:

- Thiên Linh Cái là cái bào thai sắp sanh người ta trục ra đem ngâm rượu luyện phép. Nghe nói thầy Mười có ba con, hai trai, một gái, tụi nó thành quỉ rồi, thầy Mười có thể sai khiến hồn chúng thoát ra khỏi hủ rượu, chui ra ngoài đường được...

Chưa nói dứt câu, San giật nùnh vì Lệ đã nhẩy sổ lại ôm cứng lấy chàng. Chân tay nàng run lẩy bẩy, San cố gỡ nàng ra nhưng không được. Lệ rên rỉ:

- Thầy San ơi, về đi… em... em không dám ở đây đâu.

San nghe nàng nói chới với, bảo nàng:

- Về sao được, hôm nay là ngày quyết định sự hoàn tất một trăm ngày của thầy Mười, tụi mình muốn ra đây luyện phép chứ thầy Mười có ép ai đâu, nếu để thầy Mười thất bại vụ này, bộ cô yên được với ông đó hay sao? Lúc đó tôi chỉ sợ cả ba con Thiên Linh Cái cùng bò vô nhà cô một lượt thì đừng hỏi tại sao sui.

Lệ ré lên:

- Trời ơi... Thầy còn hù em nữa hả!

- Tôi không có hù cô đâu. Thầy Mười thành danh nhờ vụ đó cô không biết sao?

Nếu vậy thì... chúng mình làm gì làm lẹ lẹ lên rồi về có được không thầy San?

Tôi đâu có ham ở đây, nhưng mà mình phải chờ cho bắp chuối chẩy nước ra đã.

- Tới bao giờ nó mới chẩy-nước ra hả thầy?

Chắc cũng sắp rồi. Chúng mình lấy tráp sừng tê giác hứng là vừa.

San lui khui lấy cái tráp mở nắp ra bảo Lệ:

- Thôi, bây giờ cô nắm cái tráp này đi, chúng mình hứng nước dưới bắp chuối kia, hình như nó bắt đầu ươn ướt rồi kìa.

Lệ nhất định không chịu buông chàng ra, San phải năn nỉ mãi, nàng mới buông một tay cầm lấy cái tráp nhỏ, San cũng nắm lấy tay nàng nâng lên. Thân thể Lệ vẫn ghì chặt vào mình chàng, một tay nàng cầm tráp, một tay nàng níu cứng lấy lưng San.

Chỉ một lúc sau người chàng đã nóng lên bừng bừng vì hơi thở và sự cọ sát giữa hai người. Cũng may lúc ấy nước trong bắp chuối bắt đầu rỉ ra, một giọt, hai giọt, rồi ba giọt. San đọc chú thổi vào tráp nhưlời thầy Mười dậy. Được vào khoảng hơn mười giọt, San bỗng phát giác sự run rẩy của Lệ, bây giờ là những cử động cọ sát thực dâm dật. Thân thể nàng uốn éo như đang chìm trong cơn khoái lạc đê mê tột cùng. San cố cầm lòng niệm chú tới lúc hứng được gần ba mươi giọt thì hình như chàng không tự chủ được nữa! Quần áo Lệ đã bị nàng tự lột bỏ rơi rớt xuống đất tự hồi nào. San run rẩy nhìn thân thể căng cứng của cô gái làng chơi đangbám sát vào mình. Đã nhiều lúc chàng muốn ném cái tráp xuống đất để ôm ghì lấy nàng. Cuối cùng giọt nước thứ ba mười sáu cũng nhỏ xuống. San vội vàng nay nắp tráp lại, bỏ vô túi vải, cột túi vải vào một tầu lá chuối gần đó.

Không biết có phải đây là duyên của Lệ hay không mà khi San ôm ghì lấy nàng, thân thể nàng đứng ngay dưới bắp chuối, nước tiếp tục nhỏ trên thân thể Lệ. Sau này, thầy Mười biết chuyện mới bảo càhng, sự quyến rũ của bùa phép đã đi vào thânthể Lệ vĩnh viễn vì sự vô tình hứng được những giọt nước quý báu của bắp chuối. Đêm hôm đó, sau khi hứng đủ ba mươi sáu giọt nước, cả hai cuộn vào nhau một hồi, bỗng San giật mình vì tiếng kêu của thân chuối như vặn mình để cho tầu lá chuối non lú ra. Chàng nhìn ngay thấy ông Tổ bằng nanh heo chói loà như cục than hồng. Không còn suy nghĩ gì nữa, San vội vàng nhổm dậy, nắm lấy ông Tổ đút vào miệng, nút một cái rồi lại đút ông Tổ vào miệng cho Lệ nút một cái nữa. Xong! Bỏ ông Tổ đó vào tráp, đậy lại, bỏ vô túi vải treo vào chỗ cũ. Chàng lại ôm ghì lấy nàng …

- Em thấy bùa yêu của thầyMười linh nghiệm tới mức nào?

Lệ cười khúc khlch, bộ ngực no tròn ép sát sau lưng chàng:

- Thầy San ơi, quả thực em bắt đầu sợ rồi đó. Mấy thàng bồ em xưa kia dửng dưng bao nhiêu, bây giờ chúng miết em bấy nhiêu, đứa nào không được gần em một ngày, có thể nổi điên lên.

San cười bảo nàng:

- Em đẹp, lại ăn nói ngọt ngao, có thăng đàn ông nào không mê. Nhất là mấy thằng Mỹ xa nhà, chúng điên lên vì em là phải rồi.

Lệ nói liền:

- Không phải đâu thầy San ơi. Em nói cái này thầy đừng méc với thầy Tưnhé. Hồi dùng khăn và nước hoa của thầy Tư. Sau này, em có cả ông Phật nanh heo nữa, vậy mà chẳng ăn nhằm gì. Muốn xin tụi nó một đồng đô la cũng khó một ly Saigon tea phải ngủ cả đêm cũng không xong. Vậy mà trong tưần vừa qua, sau ngày thầy với em luyện phép đó. Mấy thằngbồ em đuổi không đi, xô khôngchuyển.

Ngày hôm qua chúng nó lãnh lương, em bắt phải nạp hết, không chừa một đồng xu cho đứa nào cả. Bây giờ em phát tài rồi Em mới mua hơn hai mươi lượng vàng chiều hôm qua. Bởi vậy, hôm nay mới rủ thầy tới thầy Mười tạ ơn đó.

San mừng thầm trong bụng, mới có một tuần lễ mà Lệ mua nổi hai mưưi lượng vàng, quả thực không thế nào tin nổi. Như thế lo gì hôm nay San không được sợi dây cà tha vàng. Bỗng chàng nghĩ tới câu chú luyện phép hôm đó. Thầy Mười chỉ cho Lệ có ba chữ, ông đã giấu đi mất hai chữ. Ông nói với chàng: " đừng bao giờ cho ai đủ năm chữ, vì ba chữ cũng đủ mạnh lắm rồi. Hãy giữ lại hai chữ cho "nhà thầy!".

Tiếng Lệ vẫn thao bất tuyệt phía sau:

- Thầy San biết không, có tối em phải ngủ với năm thằng Mỹ. Chạy phòng này, luồn qua phòng khác. Lừa đứa này, gạt đứa kia. Chúng nó gặp em như cọp đói gặp thịt tươi Dễ sợ lắm. Nhưng có điều để tụi nó thỏa mãn rồi, nói gì làm nấy ngay cả bảo nằm yên đó để em đi tiếp thằng khác nó cũng nghe, nhưng phải trở lại mới được. Nếu không có bùa phép của thầy Mười, trên đời này có đứa con

gái nào làm được như vậy.

San cười nói đùa:

- Nếu vậy chắc bây giờ tôi cũng mê cô Lệ luôn rồi.

Lệ đập mạnh lên vai San cười như nắc nẻ.

- Khiếp, cái thầy này. Có em mê thầy thì có. Tối hôm luyện phép thầy còn dữ hơn tụi Mỹ nữa.

Vừa nói nàng vừa luồn tay qua áo San, rà lên ngực chàng xoa nhè nhẹ, giọng Lệ nhỏ lại:

- Không hiểu sao, sau đêm đó, tự nhiên em nhớ thầy kinh khủng. Ngay cả những lúc ăn nằm với tụi Mỹ, em vẫn tưởng là thầy. Hồi xưa có như vậy bao giờ đâu, em coi đàn ông, con trai như cỏ rác, bất cứ là hạng người nào.

San cười hì hì.

- Cô đừng làm tôi cảm động quá, lái xe xuống ruộng bây giờ đó.

Lệ nói thực trơ tráo.

- Ừ phải rồi, kiếm chỗ nào vắng người, anh lái xe xuống ruộng đi, em nhớ anh muốn điên người lên rồi đó.

Hình như nàng cắn vào lưng chàng, thân thể San cũng đã nóng hừng hực vì sự cọ sát của Lệ. Có lẽ cả đời nàng chẳng bao giờ mặc áo lót hay sao. San cố cầm lòng bảo Lệ:

- Tụi mình tới thầy Mười rồi về, lúc đó em muốn lôi anh đi đâu thì đi.

Lệ cưừi thực dâm đãng.

- Anh nhớ nhé. Thầy bà không có được nói láo đó. Lúc đó anh chết với em.

San cắn chặt răng, tăng vậ~n tốc xe chạy thực mau, gió đồng nội lùa vào thân thể mát rượi. Hình như Lệ đang kể một chuyện tiếu lâm nhưng chàng không nghe rõ vì gió thổi ù ù qua lỗ tai. Tay mặt nàngvẫn luồn qua áo, ôm ngang bụng San thực chặt. Tay trái Lệ rà trên lưng chàng, nàng gãi nhè nhẹ. Tới giờ này có lẽ Lệ đương nhiên coi chàng như người tình đầu gối tay ấp của nàng, không cần biết San có chịu hay không!

Mặt trời đã lên thực cao, ánh nắng gay gắt nóng bỏng thịt da. May mà xe chạy mau, gió thổi mạnh nên cũng thấy dễ chịu. Nhưng cuối cùng rồi cũng tới nhà thầy Mười. Mấy con chó lại ùa ra sân sủa vang. Đứa con gái của thầy Mười ra mở cửa. Hôm nay thầy Mười đi thăm thân chủ từ sáng sớm, có lẽ phải chiều tối mới về, nên San và Lệ đành phải chờ. Ngồi uống nước một lúc, hai đứa rủ nhau ra vườn.Bóng cây rợp mát, gió thổi hiu hiu, nhìn những chùm mận nặng chĩu, vài con chtm sâu bay qua lại. San cảm thấy thoải mái lạ thường. Hal đứa đi sâu vô trong vườn, qua cái am, đi vô vườn chuối hột bữa trước luyện phép. Không hiểu tại sao, chẳng ai bảo ai, hai đứa cứ đi ìân lũi tới chỗ này rồi cùng ngồi xuống bên cạnh gốc chuối.

- Anh San à...

- Em nói gì?

- Anh đã thử bùa yêu của thầy Mười lần nào chưa?

San mỉm cười.

- Anh biết nhiều loại bùa yêu, luyện cũng nhiều và thử cũng nhiều. Còn bùa phép của thầy Mười thì chưa có dịp dùng qua.

- Thế anh đã bị cô nào bỏ bùa chưa?

San cười lớn:

- Anh cũng đang mong có cô nào bỏ bùa yêu cho anh theo. Nhưng đợi mãi chẳng có ma nào thèm.

Lệ cười khúc khích.

- Thực không đó?

San lập lại lời Lệ nói lúc nãy.

- Thầy bà đâu có ai nói láo bao giờ.

San chưa nói dứt câu, Lệ đã chồm sát vào mình chàng đọc chú rồi thổi mạnh vào mặt chàng. Vừa thổi vừa cười khúc khích. Tự nhiên San choáng váng một giây như mất thần. Rõ ràng Lệ vừa đọc câu chú với đủ cả năm chữ. San hỏi nàng:

- Tại sao em biết hết năm chữ trong câu chú.

Lệ vẫn cười khúc khích, giọng nói nàng ngọt và êm ái lạ thường.

- Anh tưởng em ngu sao? Thầy Mười cho em câu chú có ba chữ. Nhưng anh không nhớ là lúc luyện phép, anh niệm ba mươi sáu lần bên tai em đủ cả năm chữ, Không làm em thuộc lòng được sao?

San tần ngần nhìn Lệ cười, rồi không hiểu sao lại cúi xuống hôn nàng say mê. Nàng ôm lấy chàng. Thân hình bốc lửa của nàng làm San mê đi trong ho~n lạc. Chàng lẩm

bẩm lập lại câu chú mà Lệ bừa đọc trong cơn mê sảng đam mê... Dù mệt mỏi, San vẫn ôm cứng thân thể Lệ.

Hình như hôm nay nàng lột xác, từ giọng nói, nụ cười, cho tới ánh mắt cũng làm chàng điên lên được.

- Anh ơi... em yêu anh quá.

- Có phải anh đang nằm mơ không?

- Không phải đâu, em yêu anh thực mà.

San luồn một tay về phía trước, nâng mặt nàng lên, bờ môi Lệ ngọt lịm như trái chín đầu ntùa.

Thời gian trôi đi thực mau; trời đã về chiều. Sợ về Saigon trễ, quá giờ giới nghiêm nên San nói với con thầy Mười xin phép về và hẹn chủ nhật tưần sau sẽ tới. Lệ trao năm lượng vàng cho con thầy Mười nói là để làm dây cà tha cho San và còn bao nhiêu xin để tạ ơn thầy Mười.

Khi về tới Saigon, trời đã tối hẳn, định đưa Lệ về nhà nàng nhưng nàng nhất định không chịu. San đành nghe theo lời nàng vào Chợ Lớn kiếm đồ ăn. Khu La Cai đông nghẹt, tối hè nóng nực, bà con Saigon đổ xô ra đường ăn uống. Lệ kêu sò nướng chanh, có lẽ nàng đến đây rất thường nên rành hết mọi chuyện.

Chàng để ý từ lúc tới nhà thầy Mười tới giừ, Lệ luôn tìm cách dựa sát vào chàng, ngồi trên xe, nàng ép hẳn ngực vào lưng San; lúc đi đường nàng nắm lấy tay chàng, thân thể dựa sát vào mình chàng, ngay cả lúc ăn uống, nàng cũng cố tình ngồi cạnh ghế với chàng, để đùi nàng dựa bên đùi chàng.

Tình yêu tới với Lệ như thác lũ, nàng bất chấp ở chỗ đông người; nơi công cộng, những cử chỉ ái ân cuồng nhiệt được biểu lộ bất cứ nơi đâu.

Phần San, trước khi nàng đọc chú thổi vô mặt chàng để đùa rỡn, San còn giữ gìn một chút. Sau đó, không hiểu tại sao chàng buông thả cho Lệ muốn làm gì thì làm.

Conngười Sanmềm yếu đến độ lệ thuộc hẳn vào những hành động của nàng.

Chàng ngoan ngoãn nghe lời Lệ như một con chiên ngoan đạo nghe theo l~i kinh thánh.

Cho tới khi ăn uống xong, đưa nhau vô phòng ngủ, cả hai như điên cuồng cuốn quít lấy nhau, thân thể rã rượi lnà sự ham muốn vẳn ngùn ngụt. Tới lúc này Lệ mứi hỏi chàng:

- Anh ơi... hình như chúng mình yêu nhau vì một quyền lực vô hình nào sai khiến phải không? Em lấy làm lạ không hiểu sao, không thế nào dừng lại được. Em yêu

anh một cách lạ lùng.

San cũng nhận ra điều này và bảo nàng:

- Anh cũng có cùng một ý nghĩ như em. Không lý bùa yêu do chúng ưùnh luyện với nhau đã tác dụng luôn vào hai đứa mình.

Lệ gật đầu vì sự nhận xét của chàngi nàng ngồi lọt hẳn vào lòng San, trả lời yếu đuối.

- Em tin là nhưvậy, phép thuật của thầy Mười đã làm cho anh em nùnh yêu nhau điên đảo.

San hỏi nàng:

- Anh biết phép giải, em có muốn thử không?

Lệ nói ngay:

- Anh còn chừ gì nữa, nếu cứ để tình trạng này, cả hai đứa mình có thể kiệt lực mà chết.

Tuy nói vậy nhưng Lệ vẫn ôm ghì lấy San hôn hít.

Phép giải thực dễ, chàng nhắm mắt lại định thần; niệm câu chú của thầy Mười cho, thổi mạnh vào mặt Lệ, nàng rùng mình liên tiếp.

Trong khi đó San cũng niệm lại câu chú, ngậm miệng, nín thở nuốt hết vào bụng. Một luồng gió lạnh buốt thấu xương bất chợt thổi ập vào thân thể chàng. Cả San và Lệ như chợt tỉnh, nhìn nhau ngơ ngác.

Lệ tuột ra khỏi lòng chàng, ngượng nghịu.

- Đúng là chúng mình bị -bùa hành rồi. Nếu thầy không biết phép giải,.không biết sẽ ra sao.

San bàng hoàng, nói:

- Không ngờ tu luyện bao nhiêu năm, cô Lệ chỉ rỡn chơi, thổi chú vào mặt tôi có một lần cũnglàm tôi ngất ngư. Cả hai mặc quần áo vào. Lệ đề nghị để nàng kêu xe Taxi về một mình. San đồng ý và mừnglà mình còn đủ sáng suốt dùng phép giải đưa cả hai đứa ra khỏi mãnh lực của bùa phép.

Một tuần lễ sau, đúng ngày hẹn, San tới thầy Mười một mình vì Lệ phải đi Nha Trang mua quán rượu ngoài đó gấp nên không đi với chàng được.

Vì đã có hẹn trước nên thầy Mười ở nhà chờ. Thấy San tới một mình, thầy Mười hơi ngạc nhiên hỏi:

- Ủa, cô Lệ đâu?

San cho thầy Mười biết lý do Lệ không tới được rồi vô nhà. Nói qua lại vài câu chuyện thăm hỏi, thầy Mười bảo chàng:

- Thầy San đi với tôi ra bàn thờ Tổ, tôi có chuyện bàn với thầy.

Thầy Mười vẫn gọi cái am của thầy là "Bàn Thờ Tổ.", San vâng dạ rồi theo gót thầy Mười ngav. Khi bước vô am, thầy Mười bưng một chiếc đa lớn trên bàn thờ xuống, đặt trước mặt chàng.

Cả hai cùng ngồi trên chiếc chiếu trải trước bàn thờ. Thầy Mười nói:

- Đây là sợi dây Cà Tha tôi luyện cho thầy. Cô Lệ đưa tôi năm lượng vàng nên tôi không thế nào làm một sợi dây Cà Tha nămmắt theo ngũ hành được, vì còn dưnhiều vàng quát Tôi đã hứa không nhận tiền của cô Lệ trong vụ vừa rồi thì phải giửlời. Bởi vậy, tôi đành phải luyện sợi dây Cà Tha này mạnh và linh ứng một ngàn lần hơn sợi dây Cà Tha năm mắt luyện theo ngũ hành. Tuy nhiên, sợi dây này chỉ dành cho các "bậc thầy" mà thôi, những người chưa xuất sư không mang nổi sợi dây này vì phản ứng dội ngược sức mạnh của nó,.vậy thầy phải nhớ rõ, đừng bao giờ đưa cho các đệ tử mượn mà niang hại cho người ta. Trong môn

phái ta, tôi tin chắc thầy là người có sợi dây Cà Tha ba mươi sáu mắt bằng vàng duy nhất, vì tất cả các thầy bà trong môn phái mình đều nghèo lắm, cả đời chưa sắm nổi một lượng vàng, nói gì có tới năm lượng mà luyện dây Cà Tha vàng. Ngay cả Sư Tổ khi mất đi, cũng chỉ để lại cho tôi sợi dây Cà Tha ba mươi sáu mắt bàng bạc. Tôi luôn mang trong mình. Đây cũnglà cái duyên của thầy nên thầy được hưởng mà thôi.

San sững sờ nghe thầy Mười nói, chàng đã không tin đưực tai mình vừa nghe gì, mắt mình đang thấy gì.

Tại sao thầy Mười lại đãi ngộ chàng đặc ân này? Năm lượng vàng là một gia tài lớn đối với lương lính tráng của San trong thừi buổi khó khăn này. Vậy mà thầy Mười dám dùng hết số vàng đó luyện phép cho chàng. Chính thầy Tư - vị thầy đã làm lễ xuất sưcho chàng - luôn luôn mơ có một ngày nào, có đủ tiền mua mấy lượng bạc làm sợi giây Cà nla ba mươi sáu mắt bạc nhưcủa SưTổ cho thầy Mười mà chẳng bao giờ góp đủ tiền. Còn một điều nữa, muốn luyện dây Cà Tha ba mươi sáu mắt, vị thầy nào đó phải ít nhất là một cao đồ trong môn phái, chứ không phải ai có vàng, có bạc cũng luyện được. Đếm trên đầu ngón tay khi Sư Tổ qua đời, trong môn phái chỉ có ba người đủ tư cách luyện loại dây này; đó là thầy Mười, thầy Tưvà một ông thầy nữa ở Bình Dương cũng tên Mười nhưng mọi ngưừi gọi là "Thầy Mười Lớn" bởi vì năm nay ông đã hơn chín mươi tuổi rồi. Tuy nhiên, thầy Mười Lớnkhông nổi tiếngbằng thầy Mười ở cầu Bình Lợi vì ông chỉ chuyên tâmluyện phép thuật qưa kinh sách nhà Phật thôi. Trong nhà ông không hề thấy bóng dáng một vị tà thần, tà ngải nào và ông ăn chay trường từ mấy chục năm nay. Thầy Mười Lớn thường nói:

- Sư Tổ đã ban lời cảnh cáo mà thằng Mười nó không nghe. Bạo phát thì bạo tàn, hồn nó làm sao giữ được! Chuyên luyện ba cái yêu ma, quỉ quái để làm gl đây? Tôi nói các thầy không nên giúp nó làm bậy mà không ai nghe. Di huấn của Sư Tổ còn đó. Tôi cố tình cho nó giữ để chiêm nghiệm hàng ngày mà nó không chịu cảnh tỉnh. Rồi đây các thầy sẽ thấy sự ảc lai, ác báo cho mà coi. Đã nói "Phật tại tâm" mà, "Chân không" thôi!

Sự thực thì chẳng ai hiểu hết lời thầy Mười Lớn nói gì, ông cứdùnglời di huấn của SưTổ lập đi lập lại hoài. Nhưng có điều ai hỏi thêm về hai chữ "chân không" ông chỉ cười nói, "Các thầy không chịu suy nghĩ, Phật tại tâm thì hai chữ chân không có gì đâu mà phải hỏi tôi." Câu trả lời luôn luôn là nhưvậy, và cuối cùng cũng chẳng ai hiểu ông mưốn nói cái gì! Còn nhiều người chạy tới ông xin sợi dây cà tha ba mươi sáu mắt, ông lại nói:

- Tôi vẫn dùng sợi dây Cà Tha ngũ hành năm mắt của Sư Tổ cho đây. Làm bằng chì thôi, có sao đâu. Các thầy muốn thứ đó làm gì? Để tiền mà giúp bá tánh. Đạo hạnh mình đâu có nằm trong sợi dây đó7! "Chân không thôi! Mà hơn nữa, sợi dây đó đâu có luyện bậy luyện bạ được, tới như tôi còn không dám luyện mà mang, các thầy thấy đủ tư cách chưa?

Thế là không còn ai dám nói vụ dây Cà Tha ba mươi sáu mắt với thầy Mười Lớn nữa. Khi thầy Mười ở cầu Bình, Lợi xuống núi, mọi người bu chung quanh ông không phải là một điều lạ.

Nhất là thầy Mười nổi tiếng về rộng rãi, sự rộng rãi này đi tới độ các thầy bà khác không dám mang đệ tử mình tới nhà thầy Mười nữa, vì không trưức thì sau, các đệ tử đã tới nhà thầy Mười rồi đều bỏ thầy cũ để theo thầy Mười. Cũng vì thế mà cho tới bây giờ San mới được gặp thầy Mười.

Có lẽ thầy Mười cũng nhìn thấu tim gan San, ông mỉm cười cầm sợi dây Cà Tha vàng lên, choàng ngang vai chàng nói:

- Thầy quì xuống nhận bửu bối.

San muốn bật khóc khi quì gối trước bàn thờ, lần này tự nhiên chàng có linh cảm mlnh thực sự đón nhận một quyền lực siêu phàm chưa hề dám một lần mơ ước, nhưng cùng lúc đó, tự nhiên lại có mặc cảm đang phạm tội, chàng cũng không biết tại sao!

Thầy Mười đọc chậm một câu chú và bảo chàng đọc theo, mỗi lần đọc thêm tên một vì tổ trong ba mươi sáu vị. Vì San đã thuộc lầu tên các vị Phật Tổ đó nên sự "nhận chú" không có một trở ngại nào cả.

Khi đọc chú và danh vị ba mươi sáu Phật Tổ xong, thầy Mười đặt tay lên vai chàng nơi đặt sợi dây Cà Tha, bỗng cả Sanvà thầy Mười cùnggiật mìnhvì một luồng điện nóng rát da chuyền cả vào vai San lẫn tay thầy Mười.

Chànghoang mangcùng cực, trong khi thầy Mười sung sướng tột cùng, thầy nhln San hớn hở nói:

- Khá, khá lắm. Thật không uổng công tôi kỳ vọng ở thầy. Bây giừ mọi sự tôi đã bồi đắp cho thầy, nay tôi muốn nhờ thầy một việc. Thầy biết rằng, từ trước tới nay, tôi chưa hề ban phát một điều gì cho ai mà khôngđòi hỏi người đó phải trả lại cho tôi một điều tương xứng. Tôi cũng chưa bao giờ ăn không của ai cái gì, nhưng cũng chưa bao giờ cho không ai cái gì cả. Vậy tôi muốn thầy giúp tôi chuyện này thầy có thấy hối hận không?

San hăng hái nói:

- Thưa thầy, đó cũng là điều con ưu tư từ nãy tới giờ, vì con không thế nào nhận của thầy nhiều quá như thế này được Nếu thầy muốn con làm một điều gì sức con có thể cáng đáng được, thề có banh thây nát thịt cũng không từ.

Thầy Mười cười ha hả.

- Hay, hay, khí khái lắm. Sự thực, chẳng nói giấu gì thầy, khi luyện cho thầy sợi dây này, không phải tôi tốt với thầy tới độ đó đâu. Bởi vì tôi đang cần một người có thể mang sợi dây đó giúp tôi luyện thêm một con "Thiên Linh Cái."

San giật mình, chân tay run lẩy bẩy. Hèn gì khi thầy Mười dặt sợi dây Cà Tha lên vai chàng, San đã có linh cảm sắp phải làm một chuyện gì tội lỗi?

Cólẽ đọc được ý tưởng chàng, thầy Mười mỉm cười, nói:

- Tôi biết thầy đang lo lắng, nhưng lần này không có gì quá đáng đâu.

San miễn cưỡng nói cứng:

- Thưa thầy, dù có thế nào đi nữa, con cũng nhất định làm theo lời thầy dạy.

Thầy Mười gật gù.

- Tết, tốt, để tôi nói thầy nghe cho khỏi áy náy. Số là cách đây hơn một tháng, có con nhỏ đúng mười tám tuổi, còn trinh trắng. Tôi biết vậy vì nó là con nhà rất tửtế, đàng hoàng. Nó treo cổ chết vì thi Tú Tài rớt. Gia đlnh đem chôn ngay trong vườn sau nhà. Tôi định tối nay tới đào mộ nó lên,lấy cái ván hòm phía dưới về luyện một con Thiên Linh Cái để giữ căn nhà này. Nếu để quá trăm ngày là hỏng, nên phải làm ngay, càng sớm càng tốt.

San ngập ngừng hỏi:

- Thưa thầy, con biết gái còn trinh treo cổ tự tử thì linh lắm, nhưng phải là con một mới luyện Thiên Linh Cái được Không biết cô đó có anh em gì không?

Thầy Mười mỉm cười.

- Nó là cón một mớl đáng nói chứ.

Tự nhiên San thấy hăng hái lạ lùng.

- Như vậy chắc thầy cũng biết là khi đem được hồn cô gái này về đây rồi, dù cho thầy có làm cách nào, khi để cô ta giữ cái am này, con vẫn là người ra vô thong thả.

Thầy Mười cười thành tiếng.

- Với ai tôi còn ngại, với thầy tôi đâu sợ gì. Không lý thầy lại phản tôi được sao?

San lật đật.nói ngay:

- Con đâu dám, nhưng nói thế để thầy biết trong vụ này, con cũng có lợi nữa. Thầy có nghĩ ra không?

- Làm gì tôi không biết, chẳng những thầy ra vô đây tự do mà thầy cũng còn sai khiến được con Thiên Linh Cái của tôi nữa. Nhưng thầy biết ràng, nếu thầy xử dụng nó mà không có phép của tôi, thầy có ở yên được không? Hơn nữa, tôi phải cần thầy vì nếu không có thầy, con Thiên Linh cái đó không theo tôi về đây. Phải cần một thanh niên trẻ mới giữ được hồn phách nó trong này. Tôi glà rồi, lo sao nổi. Bữa hôm tôi để thầy luyện phép với cô Lệ cũng là để thử sức lực của thầy nữa đó. Thầy không bị cô ta vật ngã cũng là tay khá rồi. Con ma đầu này về đây có hầu hạ thầy vài lần cũng chẳng nhằm nhò bvì. Hơn nữa, thầy đã có dây Cà Tha ba mươi sáu mắt bằng vàng còn sợ gì ai.

Quả thực điều này San chưa biết, nghe thầy Mười nói chàng rùng mình, mồ hôi vã ra ngay, lo sợ...

Chiều hôm đó, San và thầy Mười lục dục sửa soạn đồ nghề để tối đến đào mả cô Hai Thu.

Nhà cô Hai Thu cách đây mấy cái vườn. Có thể đi đường tắt luồn qua nhữngvườn cây để tới đó mà không phải dùng con đường cái của làng xóm. Cô Hai Thu co khuôn mặt thật đẹp Thầy Mười cho San coi lùnh của nàng - Cái hình đó một người đệ tử của thầy cho mấy bữa trước - Trong hình, San thấy cô ta ốm yếu, giáng người ẻo lả, nhưng đặc biệt cô có cặp mắt thực đa tình và chiếc miệng hơi rộng, cặp môi lại mỏng.

Sau khi sửa soạn xong đồ nghề đào sới và bùa chú cũng nhưcác thứ vật dụng cần thiết khác, thầy Mười bảo San đi ngủ để tới khuya có đủ sức làm việc. San chui ngay vào căn phòng nhỏ bữa trước, leo lên giường đánh một giấc. Trong giấc ngủ chập chờn, chàng mư thấy cô Hai Thu, hình bóng của nàng hiện ra thực rõ, mớ tóc dài óng ướt chẩy xuống tới lưng qưần. Khuôn mặt buồn vừi vợi, hình như lúc nào nàng cũng đang khóc thút thít. Hình ảnh của một người con gái yếu đuối ngồi khóc là điều tối ky của San, trong đời đã không biết bao nhiêulần, chànglàm những chuyện điên rồ vì lừi yêu cầu của những cô gái đẹp mau nưức mắt. Hình như nước mắt của họ có mãnh lực thiên thần điều khiển con người chàng theo ý muốn. Biết được yếu điểm đó mà không thế nào chàng tránh được. Khôngbiết một ngày nào đó, có vì những giọt nước mất của các cô gái này làm cho San thân bại danh liệt khống? Tối hôm nay, chưa tới giờ khởi sự mà San đã thấy cô Hai Thu ngồi khóc, tự nhiên lòng San đau quặn, chàng muốn được ôm nàng vào lòng để nói những lời an ủi ngọt ngào nhất cho nàng vơi đi những tức tửi đang dâng trào...

- Dậy... dậy thầy San, tới giờ rồi.

San tụt ngay xuống giường theo thầy Mười ra vườn. Có bốn đệ tử của thầy Mười cùng đi theo. Trừi tối thui, thầy Mười bảo San:

- Thầy đi sát vô tôi, trời tối bước loạng quạng té xuống vũng đó.

San vâng, dạ bước theo thầy Mười. Mọi người đi len lỏi giữa những cây ăn trái trong vườn, hết khu này tới khu khác.

Thầy Mười thông thạo lối đi nên San thấy thầy đi ào ào, đặc biệt nhất là không thấy một tiếng chó sủa nào. Có lẽ thầy Mười đã nghiên cứu kỹ đường đi nước bước, tránh xa những căn nhà có chó để không bị lộ lùnh tích. Chẳng bao lâu, mọi người tới một gò đất nhỏ bên cạnh mấy nấm mộ xây đã lâu đời. Có lẽ đây là nghĩa trang gia đình của cô Hai Thu. Thầy Mười chỉ nấm mộ mới bảo San:

- Cái này đây thầy San.

San bỏ đồ nghề xuống, lấy ra bốn cây đèn cầy đỏ, cắm bốn góc chung quanh nấm mộ nhưlời thầy Mười dặn hồi chiều rồi thắp một bó nhang thực lớn, chia ra làm hai, một nửa đưa cho thầy Mười. Cả hai bất đầu niệm chú, bắt ấn gọi hồn cô Hai Thu về. Không đầy một phút sau đã có gió lạnh thổi từ phía sau tới, lá cây cọ vào nhau nghe sào sạt đến rợn người. San biết lúc này yếu tay ấn có thể nguy hiểm tới tính mạng nên cố tập trung tinh thần vào khẩu quyết.Hình như có tiếng khóc ỉ ôi đâu đây. Bốn ngọn đèn cầy đỏ cháy leo lắt, chập chừn rồi bất chợt tắt vụt. Thầy Mười nói thực nhanh:

- Chúng ta khởi sự đào được rồi.

San không nói một tiếng nào, cắm bó nhang xuống đất và cố ra sức đào thực mau. Thầy Mười cũng đã lấy cuốc sẻng ra phụ với chàng.

Nói là phụ chứ kỳ thực thầy Mười còn đào nhanh hơn San nhiều. Bốn đệ tử của thầy Mười còn lanh lẹ hơn nữa. Bỗng trời như sụp hẳn xuốngvì mây đen ở đâu kéo tới thực mau. Mặt trăng đã èo ọt lại bị đám mây đen che khuất làm trời tối mò mò. Có lẽ trời muốn mưa lớn. Gió đã bắt đầu thổi mạnh.

Sáu người hỳ hục đào bới, đến lúc mồ hôi San vã ra,muốn kiệt sức thì cũng vừa đụng tới quan tài. Bây giừ thầy Mười mới lên tiếng.

- Thôi, thầy San nghỉ đi, để cho tụi nó làm. Mình còn phải làm việc khác.

San biết mình phải làm gì, và cứ như thế tiến hành, không nói một lời nào.

Mùi nhang và trầm hương quện trong gió thơm ngào ngạt. Khi chàng và thầy Mười làm xong công việc của nùnh rồi, phụ với bốn người đệ tử của thầy Mười trục quan tài lên. Họ lật úp quan tài xuống rồi tháo lấy tấm ván dưới đáv quan tài. Thầy Mười dán đủ ba mươi sáu đạo bùa lên lưng xác chết, mùi hôi thối xông lên thực ghê người. San đã đốt thực nhiều trầm hương mà cũng không ăn thua gì. Trước khi hạ quan tài xuống, chàng xé một vạt áo cô Hai Thu, lấy miếng vải áo cột vào tay rồi ra gốc cây gần đó bắt ấn niệm chú. Trong khi thầy Mười và bốn đệ tử của ông hạ quan tài xuống huyệt, lấp đất lại. Quan tài đã bị lật úp ngay từ đầu nên khi hạ huyệt, xác cô Hai Thu nằm úp xuống phía dưới. Họ lấp đất đắp lên, San phải nhắm mắt lại niệm chú định thần. Một lúc sau, trời đổ mưa thực lớn. Những giọt mưa đập vào mặt San nghe ran rát. Gai ốc nổi cùng mình vì lạnh, từ phút này trở đi, chàng không được phép mở mắt nữa cho tới khi đám đệ tử thầy Mười cõng chàng về nhà. Họ lột hết qưần aó chàng và được lau thật khô nhưng San vẫn lạnh cóng. Tấm ván hòm đã được rữa thật sạch và để ngay trước bàn thờ. Đám đệ tử thầy Mười khiêng chàng đặt nằm dài trên tấm ván.

Bây giờ trên thân thể San chỉ còn sợi dây Cà Tha ba mươi sáu mắt bằng vàng cột lgang bụng và miếng vải áo cô Hai Thu cột ở cổ tay.

Thầy Mười bắt dầu đọc một bài kinh nghe rợn người, âm thanh thê thảm của thầy kéo dăi ra, ê a trong mưa gió. Sau khoảng một cây nhang, đám đệ tử thầy Mười lấy bút vẽ thân hình San lên tấm ván hòm, chàng không mở mắt ra nhưng cảm thấy chiếc bút chì chạy dài dọc theo cơ thể, cọ vào miếng ván kêu kèn kẹt. Sủu đó, họ khiêng chàng lên kéo miếng ván ra. San nghe thấy tiếng cưa cọt kẹt, mọi người không ai nói với ai một lời nào. Giọng ngâm nga những câu kinh lạ tai của thầy Mười vẫn đều đều. Ngoài trời mưa thực lớn. Sấm chấp ầm ỳ và chói lòa, nhưng bây giừ San đã cảm thấy dễ chịu; không còn lạnh như trước nữa. Tuy nhiên, chân tay rã rời vì mệt mỏi. Có lẽ chàng đã dùng quá sức khi đào mộ cô Hai Thu. Hình nhưvì mệt mỏi chàng thiếp đi lúc nào không biết.

Chẳng hiểu San ngủ được bao lâu, khi giật mình tỉnh dậy, mở mắt ra, chẳng thấy ai chung quanh nữa. Cái hình nhơn bằng tấm ván hòm được cưa theo kích thước của chàng dựng ngay vách tường bên trái. Giữa mùi hương trầm của nhang đèn và ánh sáng chập chờn của những ngọn nến, hình nhơn trông như lay động rồi từ từ tiến lại phía chàng. Khi tới gần, San nhìn rõ đó không phải là cái hình nhơn bằng gỗ nữa, rõ ràng là cô Hai Thu bằng xương bằng thịt, đang rụt rè tiến lại. Dáng đi của nàng như sợ sệt và trông hết sức khổ sở. Có lẽ nàng đang khóc. Lòng chàng tự nhiên thấy bùi ngùi cho một cô gái xấu số, đoản mệnh. Thấy nàng đứng lại, không dám tiến lại gần San, chàng bảo nàng:

- Em lại đây. Nín đi, đừng khóc nữa.

San đã cố nói thực nhẹ nhàng và thân mật với nàng, vậy mà lời nói của chàng làm cô Hai Thu sợ sệt, nàng nhỏ nhẹ thưa ngay.

- Dạ... dạ, em không dám khóc nữa.

Vừa nói, nàng vừa tiến lại gần San và ngồi xuống. San kéo nàng vào lòng, thân thể nàng nhẹ như một làn khí bồng bềnh.

- Tại sao trông em buồn quá vậy. Cười lên được không?

- Dạ... dạ... em xin cười để anh được vui.

Nàng bắt đầu ngước mặt lên mỉm cười, hai mắt hơi nheo lại thực tình tứ, chiếc miệng chúm chím, hơi thở từ từ nóng lên. San vòng tay ôm lấy nàng ghì sát vào lòng. Bờ môi ngọt lịm của Thu làm chàng ngây ngất. Quần áo nàng rơi rớt xuống sàn nhà nhẹ như hơi sương. Thân thể nhỏ nhắn, ẻo lả và mát rượi. Da thịt nàng trắng muốt, mịn như tơ. Nàng thì thâm bên tai chàng.

- Em cám ơn anh, em cám ơn anh đã cho em về đây. Xin anh đừng bao giờ hất hủi em. Em tự nguyện làm một tên nữ tỳ cho anh sai khiến. Em có thể đạp chân lên vạn vật trong vũ trụ này, nhưng xin cho em được tôn thờ anh. Thể xác em là của anh, vì hiện giờ nó mang hình tượng anh, hơi thở anh, và tinh khí anh nữa. Hồn vía em cũng nằm trong tay anh. Anh để em sống, em được sống. Anh bắt em phải chết; thân thể em sẽ phải tan thành cát bụi. Xin anh thương em. Em sẽ làm tấtcả những gì anh sai khiến để anh được vui.

Từ nhỏ tới lớn, San chưa bao gìư được nghe bất cứ một người nào nói với chàng bằng những lời êm ái quị lụy như vậy Tâm thần chàng đê mê về những âm thanh ngọt ngào tình tứ ấy.

Mặc dù biết rằng, người con gái đang kề môi, áp má là do pháp thuật của thầy Mười mang nàng từ lòng đất về, nhưng không hiểu sao, chàng vẫn say mê mà không một chút sợ sệt.

San hôn lên ngực nàng, bộ ngực con gái trắng ngần và hồng đỏ vút cao. Nàng cười khúc khích, âm thanh thực dâm dật, mừi mọc lạ thường.

San thấy những làn khói nhang đèn trên bàn thừ tỏa ra bao phủ cả căn phòng nhỏ, hình như chúng kết lại với nhau thành một đám mây, nâng hai người lên cao. San cảm thấy thân thể bồng bềnh ngây ngất. Có tiếng suối chẩy, chim hót đâu đây và thân thể Thu nhập với chàng làm một.

San nghe nàng thì thào:

- Anh... anh ơi... em yêu anh. Em sẽ theo anh tới bất cứ nơi nào trong vũ trụ này để hầu hạ anh.

San ngờ vực hỏi nàng:

- Làm sao em theo anh được khi hình nhơn em đặt ở đây

Thu mỉm cười:

- Đây là một điều thầy Mười không biết. Khi em bước ra khỏi hình nhơn đó rồi, em không thùy thuộc vào nó nữa.

Tấm mảnh hòm đó chỉ có giá trị đưa thể xác và hồn vía em từ thế giới khác về đây, chứem không lệ thuộc vào nó. Bây giờ là vào mệnh lệnh của anh thôi. Tuy nhiên, phải sống ở đây đủ bẩy ngày mới đủ cứng cáp để theo anh vĩnh viễn được San chỉ miếng vải chàng xé ở vạt áo Thu đang cột trên tay, hỏi:

- Còn miếng vải này có công dụng gì không?

Thu lắc đầu:

- Không, nó chỉ có giá trị đưa em về đây cho khỏi lạc đường là hết rồi.

- Trong vòng bẩy ngày em ở đây, nếu anh không tới thăm em có sao không?

Thu lắc đầu:

- Không sao đâu anh, nhưng em nhớ anh thôi.

Có lẽ nàng làm chàng cảm động thực sự, San ôm lấy nàng với muôn ngàn cảm giác sung sướng tột cùng và lịm đi trong giấc ngủ đam mê...

Khi thầy Mười đánh thức San dậy, Mặt trời đã lên thực cao. Chàng lười biếng mở mắt nhìn thầy Mười và cảm thấy thân thể rã rượi.

Thầy Mười mỉm cười, nói:

- Tôi tới đây từ sáng sớm luyện phép, thấy thầy ngủ ngon lành quá nên bây giờ mới đánh thức thầy dậy. Thầy đi súc miệng đi, chúng mình đi ăn hủ tíu chơi. Qưần áo của thầy được xấp nhỏ giặt sạch sẽ rồi.

San ngạc nhiên nhìn bộ đồ mình để bên cạnh, tất cả giấy từ và những thứ lỉnh kỉnh cũng được xếp ngay ngăn để đó Lúc đó chàng mới để ý, mình còn nằm đây trần truồng. Vừa định với bộ đồ mặc vô, thầy Mười đã nói.

- Thầy mang quần áo ra sau hè tắm rửa đi, đêm qua đất cát làm thầy lấm lem rồi.

San mỉm cười chữa thẹn, nói lảng đi:

- Dạ, tối qua trừi mưa lớn quá.

Thầy Mười có vẻ thích thú:

- Ừ, cơn giông tối qua giúp tụi mình xóa sạch dấu vết ở gò mả cô Hai Thu, nếu không, chắng làm thế nào che mắt được gia đình cô ấy biết có người đào mộ.

San cũng chợt nhớ ra đỉều đó và thấy vui vui. Chàng ôm mớ quần áo đi vòng ra mé sau am.

Qua một đêm mưa to gió lớn, cây cối trong vườn trông thực xác xơ, lá rụng bừa bãi. Vài cành cây gẫy gục ngang đường.

Chàng tới phía sau am thấy ngay chỗ thầy Mười lấy mấy tấm phên che lại làm nơi cho thân chủ tắm rửa và thay quần áo. Một lu nước đầy ắp nước mưa được hứng từ thân cây cau xuống. San thấy có đủ cả sà bông và khăn tắm để ở đó, chắc chắn thầy Mười đã sửa soạn sẵn cho chàng từ trước.

Mặt trời chói chan của một tháng hè tỏa ra hơi nóng ngay từban mai làm những gáo nước mưa dội vào thân thể San mát rười rượi. Chàng tắm rửa xong, súc miệng sạch sẽ, múc gáo nước mưa uống một hơi. Ngụm nưức chẩy qưa cổ họng đi vào thân thể như một luồng gió mát thổi tới tận lục phủ ngũ tạng, chưa có một ly nước nào làm chàng cảm thấy khoan khoái và ngọt lịm như ngụm nước mưa sáng nay.

Trở vào am, San thấy thầy Mười đang lui khui thắp những ngọn nến trên tấm hình nhơn bằng gỗ đặt nằm trước bàn thờ, chỗ chàng ngủ tối qua. Đèn cầy được thắp dọc theo đường xương sống, chân và tay của hình nhơn. Đặc biệt trên đầu được xếp thành hình bát quái.

Thầy Mười thấy San trở lại, mỉm cười, trỏ cái hình nhơn, nói:

- Sau bẩy ngày, cô Hai Thu không còn là cô Hai Thu nữa. Nó sẽ là thuộc hạ của tôi, có nhiệm vụ giữ am. Đứa nào vô đây lục lọi, ăn trộm đồ, kể như tới số.

San thắc mắc hỏi:

- Thưa thầy, như vậy đâu có phải là Thiên Linh Cái nữa. Mình luyện phép này giống như một loại ma xó của người thượng du Bắc Việt.

Thầy Mười nhìn San ngạc nhiên.

- Thầy cũng biết vụ ma xó nữa sao?

- Dạ, con sanh tại tỉnh Thái Nguyên và bố con là một điền chủ ở vùng biên giới Việt Hoa. Ông cụ có nhiều vườn trà lắm, bởi vậy nhơn công đa số là những người thiểu số vùng núi cao. Họ hay luyện phép ma xó để giữ nhà.

Thầy Mười gật gù.

- À, thì ra thế. Chứ không lẽ thầy Tư làm sao biết được phép này mà nói cho thầy nghe. Nhưng sự thực thì phép của mình không giống như ma xó của người thượng du Bắc Việt Đây là loại Thiên Linh Cái dữ dằn hơn ma xó nhiều. Mình có thể sai khiến hắn đi vạn dặm giết người như chơi. Tuy nhiên, phải biết rõ về người đó và clủ có thể làm được một lần thôi, khi y nghe lời mình, giết địch thủ rồi, cũng siêu thoát luôn.

Những lời nói của thầy Mười càng làm San thắc mắc hơn. Chàng nhớ lại chuyện đêm qua, và những gì cô Hai Thu nói với chàng đều khác hẳn. San định hỏi, nhưng kịp ngưng lại vì nói ra có thể lộ hết dự tính của mình với cô Hai Thu đêm qua.

Thầy Mười và San trở lên nhà trên, lấy xe ra chợ ăn hủ tíu Khu chợ nhỏ lèo tèo vài ba cái sạp bán rau, cá. Quán hủ tíu thưa thớt vài người khách, trông không có vẻ gì hấp dẫn lắm. Tuy nhiên, ở khu vườn ruộng mênh mông này, có được một xe bán hủ tíu như thế cũng là may rồi. Có lẽ vì mệtvà đói nữa nên San ăn một lần hai tô hủ tíu mì thật đã ít có khi nào chàng ăn nhiều như sáng nay. Thầy Mười cũng ăn hết một tô mì hai vắt. Trông thầy có vẻ hỉ hả lắm… Ăn uống xong, thầy Mười bảo San:

- Sự thực, tôi chỉ cần thầy giúp nhưvậy là đủ rồi. Phần sau này tôi có thể luyện một mình được. Tuy nhiên, còn sáu ngày nữa, nếu có thầy, con Thiên Linh Cái này sẽ mạnh hơn nhiều, nhưng chỉ tiếc thầy là lính tráng, làm sao có thì giờ giúp tôi hơn nữa được.

San vội nói:

- Nếu thầy muốn con ở lại đây thêm sáu ngày nữa cũng đâu có khó gì. Để con chạy vô sở, làm cái đơn xin phép nghỉ thường niên là xong ngay.

Thầy Mười mừng rỡ, nói:

- Nếu được như vậy tôi cám ơn thầy lắm đó. Sự thực, đây là lần đầu tiên tôi luyện loại Thiên Linh Cái này. Trăm năm mới có một dịp may, gặp con gái còn trinh treo cổ tự tử Thứ Thiên Linh Cái này là loại dữ dằn nhất trong mọi loại Thiên Linh Cái. Nếu mình nắm được nó rồi, trừ Phật pháp ra. Tà, ma, ngải nghệ gì đối với nó cũng là đồ bỏ thôi. Mai mốt này, thầy coi tôi hạ mấy thằng thầy bùa, thầy pháp vùng này dẹp bàn thờ tổ mà đi cho coi. Nếu thầy xin nghỉ phép được còn nói gì nữa.

- Dạ, nếu thầy muốn thế, con phải trở về sở ngay bây gìơ mới kịp, nếu về muộn sợ trễ.

Thầy Mười lật đật dục San đi ngay, không cho chàng chần chờ một phút nào nữa. San nghe lời, lấy xe Honda chạy về sở liền, chỉ nội trong buổi chiều là chàng đã có tấm giấy phép trong tay. ông sĩ quan hành chánh là người thương San nhất sở, vì cũng có nhiều chuyện nhờ cậy qua lại, nên thu xếp vụ đi phép cũng không khó khăn gì.

Trời vừa chợp tối là chàng đã có mặt tại nhà thầy Mười rồi Thấy San, thầy Mười mừng lắm, hỏi liền:

- Thầy xin nghỉ phép được rồi à?

San gật đầu:

- Dạ, đi lâu thì khó, chứ khoảng một tuần thì cũng chạy chọt được.

Thầy Mười không để San nói hết câu, kéo chàng vô nhà ngay. San không ngờ nơi đây lại đông người như vậy. Hỏi ra mới biết, có một thân chủ tạ ơn thầy Mười nên làm đồ ăn mang lại. Đám học trò thầy Mười cũng biết tin nên kéo tới ăn ké.

Thầy Mười dắt San vô bàn chính giữa giới thiệu với mọi người:

- Bà con cô bác, đây là thầy San, học trò của thầy Tư Lành, sư huynh tôi trên Sàigòn. Thầy San xuống đây chơi với tôi một tuần lễ, phụ với tôi luyện phép. Trong môn phái hiện nay, ngoài ông Mười lớn ra, phải nói thầy Tư là người cao tay ấn nhất. Còn thầy San là đệ tử được xuất sư, trẻ nhất trong môn phái mình. Tuy nhiên, về vụ luyện bửu bối trong môn phái, kể cả ông Mười lớn và tôi nữa, chưa ai gặp nhiều kỳ duyên bằng thầy San.

Mọi người đang im phăng phắt nghe thầy Mười nói, bỗng xôn xao, bàn tán ồn ào. Họ vừa nghe thầy Mười nói tới luyện bửu bối. Quả thực, trong môn phái, các đệ tử hơn kém nhau chỉ về bửu bối mình luyện được. Có lẽ thầy Mười biết mọi người không tin lời mình vừa nói, ông luồn tay vô lưng quần San, lôi ra sợi dây cà tha vàng chói 36 mắt, nói lớn:

- Tôi biết chắc sợi dây cà tha vàng 36 mắt này của thầy San là bảo vật duy nhất của môn phái, thầy bà nào của mình cũng mơ ước tới nó mà không được. Chính Sư Tổ sau khi mãn phần cũng chỉ để lại cho tôi sợi dây cà tha 36 mắt bằng bạc thôi. Còn các sư huynh đệ khác may mắn lắm mới luyện nổi sợi dây cà tha 36 mắt bằng chì là cùng.

Thầy Mười chưa nói dứt câu, tiếng ồn ào bùng lên như vỡ chợ. Mỗi người nói một câu, không còn .ai nghe được ai nói gì nữa. Thầy Mười thấy vậy nói lớn:

- Thôi, bây giờ mời bà con cô bác cứ tự tiện dùng đi; đây là lộc của Tổ, cứ tự nhiên.

Có lẽ mọi người chỉ chờ có thế, họ xúm vô ăn uốngngay. Lẽ tất nhiên, nơi bàn tiệc này, thầy Mười là bậc trưởng thượng nên bao nhiêu đồ ăn ngon đều dồn về đây. San ngồi ngaybên tayphải thầy Mười. Ănuống thực thích thú. Bỗng chàng để ý một cô gái ngồi đối diện trong bàn, cứ nhìn chàng tủm tỉm cười hoài, Chàng quay qua hỏi nhỏ thầy Mười:

- Thưa thầy, cô gái ngồi trước mặt con là ai vậy?

Thầy Mười chợt nhìn lên, bắt gặp ánh mắt của cô gái đang nhìn San, ông cười ha hả.

- A, thì ra thế. Sao khéo quá vậy. Qua đây.

Có lẽ cô gái bị thầy Mười bắt gặp đang nhìn San, lại gọi cô ta qua ngồi cạnh San nên mặt cô dỏ lên thấy rõ. Cũng may mọi người lo ăn uống nên không ai để ý. Thầy Mười để cho cô gái ngồi xuống rồi mới nói:

- Đây là con Hoa, nó theo học tôi lâu lắm rồi đó. Nếu phải là con trai, nó đã được xuất sư rồi, nhưng tiếc là nhiều bửu bối, đàn bà, con gái luyện không được,nên tôi còn chần chờ. Nhưng phải nói thực, ít có đệ tử của thầy nào qua mặt nổi nó đâu. Tuy nhiên, tay ấn con Hoa còn kém thầy xa lắm. Tôi không có phước như thầy Tư.

San quay qua Hoa tán tụng.

- Tôi hân hạnh được biết đại đệ tử của thầy Mười, thế nào trong tương lai cũng mong cô chỉ bảo thêm cho.

Hoa nhìn San cười khúc khích.

- Gớm, thầy nói cái gì đại đệ tử, em nghe giống chuyện kiếm hiệp quá. Dù sao em vãn còn là học trò, đâu dám bì với thầy, chứ đừng nói chuyện chỉ bảo cho thầy làm gì cho thêm mắc cỡ.

San mỉm cười:

- Với học trò ai tôi không biết, học trò thầy Mười, tôi phải nể đủ mười phân rồi.

Thầy Mười nghe San nói, cười ha hả. ông đắc trí lắm.

- Thầy San ăn nói khéo lắm, dân Sàigòn có khác. Thầy nói chuyện với học trò tới mà làm tôi hãnh diện.

Chàng vừa định trả lời thầy Mười, Hoa hỏi:

- Em nghe thầy em nói, thầy tới đây luyện Thiên Linh Cái với thầy em hả?

San quay lại nhìn thầy Mười, thấy ông mỉm cười như thầm bảo Hoa là người tin cậy của ông nên chàng nói.

- Dạ, tôi chỉ phụ chút đỉnh thôi.

Hoa trợn mắt nói:

- Phụ sao được. Em biết chắc, thầy em già rồi, không còn đủ sức luyện loại phép ma nữ này nữa, nên phải nhờ thầy. Em chỉ tiếc mình là con gái, nếu không em cũng xin phụ một tay.

- Cô còn học ở đây, lo gì không có dịp thi thố tài năng.

- Tôi biết có thiếu gì phép phụ nữ có thể luyện được.

- Thầy nói Thiên Linh Cái?

- Dạ.

Thầy Mười đang đút miếng thịt vô miệng, nghe San nói bỏ xuống liền, ông hớt hải hỏi:

- Thầy nói vụ con chó mực phải không?

San vô tình gật đầu. Thầy Mười thở dài, than:

- Hèn gì, thì ra Sư Tổ còn giấu tôi nhiều qúa. Như vậy ngài chưa chỉ định chức chưởng môn là phải rồi!

Lời than của thầy Mười làm San chột dạ, thì ra trong môn phái còn nhiều rắc rối mà chàng không biết! Phải thú thực, sau mấy năm theo thầy Tư tu học, tới giờ này San cũng rất mù mờ về các vị sư phụ tiền nhân.

Hình như mọi người đều cố ý không cho các đệ tử biết nhiều về gốc gác của mình. Điều này quả thực là bất thường, chàng vẫn thắt mắc từ trước tới giờ nhưng không dám hỏi. Bởi vậy, ngay từ hồi chưa được xuất sư, San đã âm thầm truy lùng tông tích các vị tiền sư và nguồn gốc môn phái.

Hôm nay vô tình nghe lời than của thầy Mười, chàng đoán ra một sư việc mới.

- Này thầy San, tôi hỏi thực thầy một điều.

San ngừng ăn ngước lên nhìn thầy Mười.

- Dạ, thầy muốn hỏi chi ạ?

Thầy nhắm đã học được bao nhiêu nghề của thầy Tư rồi?

San mỉm cười.

- Con nghĩ may ra đưực gần phân nửa.

Thầy Mười cười lớn.

- Thầy đừng có hù tôi. Nếu tay ấn của thầy chỉ bằng phân nửa thầy Tư thì không lý thầy Tư ngang cơ với Sư Tổ sao?

San lắc đầu thực thà nói:

- Con không dám nói láo với thầy đâu, sự thực là như vậy đó.

Nghe San nói, thầy Mười im lặng, chàng nhìn thấy rõ nét ưu tư hằn lên những đường nhăn trên khuôn mặt thầy Mười, ông thở dài.

- Hơn 40 năm theo Sư Tổ học đạo trên núi, giờ này tôi mới biết mình bị lừa?

San giáo hoảng, hỏi:

- Thầy nói như vậy nghĩa là làm sao ạ?

Thầy Mười nói nho nhỏ, chỉ đủ San và Hoa nghe.

- Sự thực thì sư phụ và Sư Ông tụi tôi mãn phần rất sớm, Sư Tổ là người truyền thụ pháp thuật cho mọi người. Cũng vì Sư Tổ sống trên trăm tuổi, nên sức người cũng yếu rồi, không luyện được nhiều bửu bối bằng Sư Ông. Trong khi đó, ngày Sư Ông mãn phần, thầy Tư là người được Sư Ông quý mến nhất, tôi tin là không có món nào của Sư Ông mà thầy Tư không học được. Còn tôi được Sư Tổ yêu mến thì lại bị Sư Ông ghét cay ghét đắng, chỉ vì tôi ưa luyện phép tà ma hơn là đọc kinh kệ.

Nghỉ một lúc, Thầy Mười nói tlếp:

- Tuy nhiên, ỉ y có Sư Tổ nên tôi cũng hơi coi thường Sư Ông, không để ý nhiều về sự luyện tập của Sư Ông cho thầy Tư những ngày Sư Ông sáp về chầu Phật. Nay nghe thầy San nói, bây gìơ tôi mới biết mình tính sai.

Hoa ngước lên hỏi tháy Mười.

- Thưa thầy, còn Sư Phụ của thầy thì sao ạ?

Thầy Mười mỉm cười.

- Chuyện của Sư Phụ dài lắm, khi Sư Phụ chết đi, chẳng ai biết tại sao. Nhưng mọi người đều nói tại tôi. Bởi vậy mới có chuyện Sư Ông ghét tôi và hôm nay lại khám

phá ra là thầy Tư còn cao hơn tôi một bậc.

San đưa đẩy.

- Thưa thầy, theo con thì tất cả các thầy đã được xuất sư rồi dù có hoạt động hay ẩn cư vẫn nể nang thầy nhất. Bằng chứng là ngay ngày giỗ Tổ cũng tổ chức tại nhà thầy; chứ có ai nói tới thầy Tư đâu.

Thầy Mười mỉm cười.

- Cũng vì thế mà tôi lầm. Chuyện tổ chức giỗ tổ ở đây, là do bức thư di huấn để đây chứ không phải tại tài tôi hơn ai đâu. Còn như xét về công lực, quả tôi thua thầy Tư rồi, tôi đã nghĩ từ lâu, nhưng không dám quả quyết. Tối qua, lúc thầy bắt ấn, niệm chú, tôi đã thấy ngay cả thầy cũng chẳng kém tôi bao xa. Lúc đầu, tôi còn tưởng là nhờ sức mạnh của sợi dây cà tha 36 mắt vàng, nhưng sau này chợt nhớ ra, tôi cũng đeo sợi dây cà tha 36 mắt Sư Tổ cho hơn nữa, sợi dây của thầy do tôi luyện thì sợi dây đó làm sao có thể lấn lướt được tôi. Bây giờ lại biết thầy Tư luyện cả được súc vật thành Thiên Linh Cái thì quả là phải cao tay ấn hơn tôi nhiều.

San thắc mắc hỏi:

- Thưa thầy, vụ luyện Thiên Linh Cái bằng súc vật có liên hệ gì tới công lực nhiều ít.

Thầy Mười nhìn chàng như dò xét.

- Bộ thầy không biết luyện Thiên Linh Cái bằng súc vật khó bằng ngàn lần luyện bằng thai nhi thật hay sao?

- Nhưng chắc chắn thầy cũng biết, Thiên Linh Cái bằng thai nhi dữ dằn hơn loại bằng súc vật nhiều.

Thầy Mười gật đầu.

- Đúng, nhưng luyện lại dễ hơn, cũng vì vậy; những thầy có Thiên Linh Cái bằng người thực, dù bửu bối có linh hơn vẫn phải nể những thầy luyện Thiên Linh Cái bằng súc vật, ai không biết họ sợ tổn thọ nên không dám luyện thứ ghê gớm đó thôi, chứ thực ra họ thừa sức làm chuyện ấy.

Ngưng một lúc, thầy Mười hỏi chàng:

- Tôi hỏi thực thầy, thầy Tư có con Thiên Linh Cái nào chưa?

San không dám nói dối, chàng trả lời:

- Dạ có.

- Bằng con chó mực à?

- Thưa không.

- Thế con gì?

- Dạ, rắn Trun.

San thấy thầy Mười thiếu điều muốn nhẩy lên bàn vì hoảng hốt, ông hỏi thực mau.

- Được mấy con rồi?

- Thưa 9 con, với 3 con của con nữa là 12 con.

Thầy Mười ngồi thừ người ra một lúc thực lâu mới nói nho nhỏ.

- Tôi thua thầy Tư xa rồi, không chừng cả thầy cũng lấn lướt được tôi nữa.

San lật đật nói:

- Con đâu dám, thầy nói nhưvậy chết con rồi.

Thầy Mười nhìn San lắc đầu:

- Tôi nói thực đó, tại thầy không biết đó thôi. Chính tôi đã thử luyện Thiên Linh Cái bằng loại bò sát mà thất bại thê thảm, nay thầy Tư có tới 9 con, còn thầy cũng luyện được 3 con, như vậy tổng cộng là 12 con thì đủ bộ rồi, Tôi sợ sức mạnh của đám này hợp lại ăn đứt mấy con Thiên Linh Cái của tôi. Thật không ngờ?

Bỗng thầy Mười nắm lấy tay San nói:

- Từ trước tới nay, tôi chưa xin ai một điều gì. Hôm nay phá lệ, tôi xin thầy một điều.

- Thầy nói quá lời rồi, thầy muốn con làm bất cứ điều gì mà con không muốn làm thầy vừa lòng đâu. Được thầy sai bảo là mừng rồi.

Thầy Mười gật gù thủng thẳng nói:

- Tôi muốn thầy phụ với tôi xuất sư cho con Hoa.

San giật mình vì lời yêu cầu của thầy Mười, Trong môn phái, lễ xuất sư rất quan trọng, nó cũng kể như một lần tái sanh vậy. Kẻ làm lễ xuất sư ví như cha mẹ của người nhận lãnh. Chàng thấy Hoa luồn tay dưới gầm bàn, nắm lấy đùi mình, San quay qua nhln nàng, ánh mắt Hoa như van lơn, ngấm lệ vui mừng. Thầy Mười đã hỏi chàng như vậy, có nghĩa là thầy đã quyết định xuất sư cho Hoa rồi. Nàng sẽ là môn đệ được xuất sư đầu tiên của thầy Mười, có nghĩa là mai này, không chừng nàng có thể nắm chức chưởng môn toàn môn phái.

San chưa kịp nói năng gì, Hoa đã nói:

- Thầy San, con xin thầy giúp con.

San nhìn qua thầy Mười.

- Thưa thầy, đây là một vinh dự cho con, nhưng tại sao có biết bao nhiêu người tài cao đức trọng, như thầy Mười lớn, thầy con, thầy Tám cụt, thầy Ba Cư, thầy Sáu thợ mộc mà thầy lại chọn con?

Thầy Mười mỉm cười.

- Đại dương sóng sau lùa sóng trước. Tre già thì măng mọc. Tôi muốn tạo dựng một thếhệ trẻ cho môn phái. Nhìn hết thẩy các thầy trẻ tuổi trong môn phái, ai qua mặt được thầy ngày hôm nay? Đó là tôi chưa muốn nói tụi nó thua thầy một trời một vực, từ trước tới giờ, tôi biết chắc, ngay cả con Hoa, dù chưa được xnất sư, mà các đệ tử trong toàn môn phái, cũng chẳng ai đáng tài ngang mặt nó. Duy chỉ có thầy, quả thực hồi nào tới giừ tôi cũng không ngờ được tài nghệ của thầy tới mức này. Tôi có được nghe vài đệ tử của thầy Tư tán tụng thầy, nhưng tôi không tin. Thú thực, lúc nào tôi cũng muốn gặp mặt thầy cho rõ trắng đen, nhưng khổ nỗi, thầy Tư giấu kỹ quá nên đành chịu, bây gìơ đã biết rồi. Tôi phá lệ, xin thầy phụ với tôi xuất sư cho con Hoa. Tôi chắc thầy Tưcũng vui lòng, vì tôi làm như vậy chẳng khác gì đưa thầy Tư lên bực trưởng thượng của tôi. Nhưng quả thực thầy Tư đáng được ngôi vị đó. Vậy tôi hy vọng thầy không nỡ phụ lòng tôi tin cậy.

Nghe thầy Mười nói một hơi, San sung sướng tột cùng, nhưng lại thấy lo lắng vì chính thầy Tư còn kiêng dè thầy Mười, đừng nói chi là mình, nghĩ vậy, chàng trả lời thầy Mười.

- Thưa thầy, con rất hãnh diện và biết ơn thầy đã nghĩ tới con. Tuy nhiên, xin thầy cho phép con được về thưa với thầy Tư trước khi chính thức nhận lời, vì nếu con tự tiện nhận lời ngay hôm nay, con sợ thầy Tư buồn, cho là con lộng quyền.

Thầy Mười gật gù.

- Tốt, tốt lắm, thầylàm nhưvậy khiến tôi càng nể thầy hơn nhiều.

Nói xong thầy Mười đứng dậy nói lớn:

- Tất cả các đệ tử nghe tôi nói đây.

Tiếng nói chuyện ồn ào, tiếng nhai nhồp nhép bỗng im bặt. Nhiều người vừa bỏ thức ăn vào miệng cũng ngậm cứng không dám nhai nữa. Bây giừ San mới thấy uy quyền tuyệt đối của thầy Mười với các đệ tử.

Thầy Mười thủng thẳng nói:

- Hôm nay nhân ngày vui, tôi xin báo một tin vui nữa.

Chủ Nhật tuần tới là một ngày rất tốt. Tôi chọn ngày đó để làm lễ xuất sư cho thầy Hoa.

Thầy Mười vừa dứt lời, tiếng ồn ào bùng lên dễ sợ, những âm thanh huyên náo lạ thường, mọi người ùa tới Hoa chúc mừng.

Hoa sung sướng tột cùng, nàng khóc nức nở ngay trên vai những bạn đồng môn.

Chờ một lúc lâu, Thầy Mười lại nói tiếp:

- Thầy Hoa có vinh dự ngày hôm nay, vì thầy San vừa đem tới cho tôi một tin mừng. Như mọi người đều biết, bửu bối tối thượng của môn phái là luyện Thiên Linh Cái. Nếu một người được chọn xuất sư mà không đủ khả năng luyện Thiên Linh Cái, sẽ không thành bậc thầy được, cũng vì lý do này, thầy Hoa từ trước tới nay chịu thiệt thòi vì là phận nữ, không thế nào luyện Thiên Linh Cái với người nữ được. Tôi không ngờ Sư Ông đã truyền phép luyện Thiên Linh Cái bằng súc vật cho thầy Tư và chính thầy San đã luyện thành rồi. Như vậy mai sau này, thầy Hoa có cơ hội tiến thân trên con đường tu đạo. Mở một kỷ nguyên mới cho môn phái. Tôi đã chính thức xin thầy San đỡ đầu cho thầy Hoa. Thầy San đã nhận lời. Tuy nhiên, còn phải về xin thỉnh ý thầy Tư trước khi chính thức xuất sư cho thầy Hoa. Như vậy có nghĩa là di huấn của Tổ Sư sẽ được thỉnh về nhà thầy Tư, vì quả thực bây giờ tôi thấy không đủ sức giữ gìn nữa. Như mọi người đã btết, luyện Thiên Linh Cái bằng súc vật tay ấn phải thật cao cường, tôi đã thất bại nhiều lần, vậy mà giờ này, thầy Tư và thầy San, có cả một đàn rắn Trun Thiên Linh Cái, đìêu này làm cho tôi bái phục và quyết định rời di huấn của Tổ Sư về nhà thầy Tư. Sáng mai, tôi sẽ đích_thân đi Sàigòn, thỉnh cầu thầy Tư cho phép thầy San đỡ đầu cho thầy Hoa.

Những lời nói của thầy Mười làm cho San bâng khuâng lạ lùng, phải nói chàng sợ hơn là mừng. Như thế, kể từ nay, San đương nhiên nằm trong cả chi phái của thầy Mười, vì đã đứng ngang hàng với thầy Mười, xuất sư cho Hoa - Vị hạ sư đầu tiên của chi phái thầy Mười có nghĩa là dù sau này, bất cứ một đệ tử nào của thầy Mười được xuất sư cũng phải mặc nhiên coi chàng vào bậc trưởng thượng của chi phái này.

San nhìn thấy nhiều ánh mắt khác lạ trong đám đệ tử của thầy Mười.

Ngay lúc ấy, Hoa quay qua xá thầy Mười một lậy, nói:

- Xin phép thầy cho con làm lễ ra mắt thầy San.

Thầy Mười cười ha hả, gật đầu:

- Tốt, tốt, phải có lễ phép như vậy mới được.

Hoa vừa quay sang San định xá, chàng vội vàng giữ nàng lại, nói lớn:

- Thưa thầy cho con xin một đặc ân.

Thầy Mười nhíu mày hỏi:

- Cái gì nữa đây?

San lật đật nói:

- Dù thầy Tư có cho phép con phụ với thầy làm lễ xuất sư cho thầy Hoa chăng nữa. Nhưng nếu thầyHoa cho phép con được nhận làm sư huynh của thầy ấy con mới nhận lời, còn như nhất định coi con như bực thầy, con xin phép được từ chối vụ xuất sư cho thầy Hoa. Dù thầy có trừng phạt con cũng xin tâm lãnh.

Thầy Mười cười ha hả, đắc trí, ông gật gù tỏ ý cao hứng tột cùng. San đã nhìn thấy những ánh mắt biết ơn trong đám đệ tử của thầy Mười.

Hoa vòng tay xá chàng một xá thực mau, cúi đầu nói:

- Em cảm ơn thầy San.

Đangxưng hô "thây", "con" Hoa đổi sang "thầy", "em". Có nghĩa là nàng đã chấp nhận San làm sư huynh chứ không phải là sư phụ nữa.

Trong môn phái có mốt điều luật rất nghiêm khắc; nếu ai đã nhận làm thầy của một người nào rồi, vấn đề tình cảm phải được coi như cha với con, không còn được phép tư tình với nhau như trai gái. Có nghĩa là không được lấy nhau hay yêu nhau như vợ chồng. Còn trong đám huynh đệ trai cũng như gái, lại khác hẳn. Các đệ tử được khuyến khích lấy nhau để dễ dàng hành đạo, phát huy môn phái...

° ° °

Trời đã về khuya, tất cả các đệ tử của thầy Mười đã về hết, chỉ còn lại một mình Hoa. Nàng cố tình ở lại để được gần gủi San. Thầy Mười đã vô am luyện phép. Giờ này chưa cần tới San, vì phải tới nửa đêm hồn cô Hai Thu mới xuất hiện được. Lúc ấy thầy Mười mới cần tới chàng.

San đi lang thang ngoài vườn với Hoa. Tự nhiên chàng muốn nói chuyện nhiều với cô bé này. San để ý, Hoa có một dáng dấp khác hẳn với những ngllời con gái chàng quen, thân thể nàng nhỏ nhắn, mớ tóc thề dài xuống quá vai, thắt thành hai cái bín vắt về phía trước lòng thòng, nước da con gái trắng ngần và chắc nịch.

Đi bên cạnh San, Hoa nói luôn miệng, nàng kể đủ thứ chuyện. San lặng thinh nghe nàng nói, cả hai kề sát bên nhau hồi nào không hay, đi một lúc lâu, San dìu nàng ngồi xuống một gốc cây, bỗng chàng chợt thấy chỗ ngồi lại ngay gốc chuối hột luyện bùa yêu bữa trưức. Một thoáng ngỡ ngàng, chàng vừa định nói với Hoa về sự ngẫu nhiên này, nàng đã ngả sát người vô mình chàng, mùi thơm da thịt trinh nguyên làm San không cầm lòng được, chàng cúi xuống thực nhanh hôn lên miệng nàng, Hoa vòng tay ôm lấy cổ chàng ngay, nàng nhưứn mình lên trong cơn đam mê ào tới như vũ bão. Hoa cũng không biết tại sao mình lại có thể dạn dĩ như vậy với một người con trai mới biết chưa đầy một buổi. Mặc dù chuyện trai gái đối với nàng không lạ lùng gì, nhưng sự dễ dãi ngày hôm nay quả thực chưa bao giừxẩy ra. Nàng l.!i càng ngạc nhiên hơn khi thấy hình như chính nàng chủ động những cử chỉ ái ân ấy chứ không phải San. Thân thể của người thanh niên Sàigòn ngọt như mật tình yêu làm Hoa muốn điên lên và chồm tới San cũng cuốn lấy nàng, thân thể chàng như dán chặt vào da thịt Hoa.

Những ái ân nồng cháy ngùn ngụt tuôn tràn, Hoa nghe thấy cả tiếng nàng rít lên trong tiền thức, thân thể nàng vặn vẹo, co quắp theo từng nhịp thở muốn đứt đoạn, nổ tung ra từ lớp da căng cứng tê chồn...

Gió thổi lành lạnh, Hoa vẫn nằm trong vòng tay San, thân thể nàng rã rời, cả hai cùrlg im lặng, nghe nhịp tim nhau đập.

Nằm như vậy thực lâư, bỗng Hoa ngước mặt lên nói nho nhỏ:

- Anh San ơi, anh có khinh em không?

San xoa nhè nhẹ trên lưng Hoa, chàng ghì nàng thật sát lại, thì thào:

- Trong đời anh, chưa có một người con gái nào làm anh yêu say đắm như em ngày hôm nay, anh cũng không hiểu tại sao tình yêu tới như vũ bão, anh tiếp nhận thật tham lam với niềm vui vô bờ bến. Anh phải cám ơn em đã mang lại cho anh những giây phút ngàn vàng này, có lý do gì lại khinh em được. Em có cho anh được giữ mãi tình yêu này hay không?

Hoa nói trong hơi thở:

- Em yêu anh... em yêu anh... em sẽ mãi mãi là của anh. Chúng mình đừng bao giờ xa nhau anh nhé.

San nâng mặt nàng lên, cánh môi mộng đỏ chờ đợi, chàng trườn tới thực tham lam, mật ngọt dâng trào đầu lưỡi tê chồn kéo dài vô tận...

Trăng đã lên thực cao, nhưng trời tối mò mò, con trăng lưỡi liền nhỏ síu không chiếu được một tia sáng nào trong căn vườn đầy lá.

San đỡ Hoa ngồi dậy, nàng vẫn tham lam bám lấy chàng, cánh tay trần mát rười rượi siết chặt thân thể chàng vô mình nàng, trong bóng tối âm u, sự dạn dĩ hầu như không có giới hạn, thế giới của đam mê cuồng nhiệt vun đầy chàng kéo nàng đứng dậy.

Hoa vẫn bám cứng ấy chàng, hình như nàng không muốn xa chàng một khoảng cách nhỏ nào. Bỗng San giật ưùnh vì có tiếng thầy Mười gọi ngoài cửa am.

- Thầy San ơi, Tới giờ luyện phép rồi.

San lật đật mặc vội qưần áo, nói nho nhỏ:

- Ngày mai chúng mình gặp lại, bây giừ anh phải đi luyện phép.

Hoa níu đầu chàng xuống hôn thực mạnh vô môi San, thì thào:

- Em yêu anh.

Nói xong, nàng cũng vội vàng mặc quần áo vào rồi lẻn về phía sau vườn khuất dạng.

San vội vã bước mau về phía am, chàng vừa nghe thầy Mười gọi một lần nữa. San lên tiếng:

- Thưa thầy con tới rồi.

Thầy Mười cười hì hì.

- Tôi tưởng thầy đi ngủ rồi chứ.

- Dạ, con ngủ thế nào được, nghỉ phép một tưần lễ, lo có bây nhiêu thôi mà lơ là sao được.

Thầy Mười có vẻ hài lòng lấm.

- Tôi nói thế thôi chứ biết thầy ngủ sao được. Vô đây tôi cho thầy coi cái này, không thể tưởng tượng được, một sức mạnh vô biên, chưa bao giờ tôi thấy.

Vừa nói, thầy Mười vừa trở vô am, San đóng cửa am lại, theo thầy Mười vô trong.