1. Chương 1

Trời đã vào khuya, Nguyễn Công Trứ ngồi đó với ngọn đèn và dòng châu phê còn tươi rói: Nay khanh đã suy nhược nhiều lắm rồi, trẫm không muốn lấy việc binh cách mà tần phiền kẻ lão thần. Đức Kim thượng đã hiểu ông; các quan ở Hà Tĩnh đã hiểu ông, thương ông... nhưng lại chẳng hiểu gì ông. Tang bồng là cái nợ, làm trai chi sợ áng công danh. Ông không còn trai trẻ nữa. Tuổi của ông, Đỗ Phủ còn chạy mặt (Đỗ Phủ có câu thơ: Nhân sinh thất thập cổ lai hy – Người sống 70 tuổi xưa nay hiếm), tử vi cũng phải loại ra hàng hai thập niên rồi chứ ít đâu. Song còn sống là ông còn nợ với núi sông. Quả là Trần ai, ai dễ biết ai.
- Khuya lắm rồi, tướng công vào nghỉ.
Người hầu thiếp trẻ khoác lên vai ông chiếc áo bông, đề phòng cảm lạnh.
Vẫn tư thế ngồi ấy, Nguyễn Công Trứ co tay lên cầm lấy bàn tay thon mềm của người vợ trẻ:
- Nàng cứ vào ngủ tiếp đi. Đêm nay, ta thấy khó ngủ quá.
Người hầu thiếp ôm chặt lấy ông, gục đầu lên vai ông, nói nhỏ:
- Thiếp sợ tiếng cú kêu đêm lắm. Không có tướng công bên cạnh, thiếp cũng chẳng tài nào ngủ được.
Nguyễn Công Trứ thở dài thật khẽ, đứng dậy cùng người hầu thiếp vào phòng nghỉ.
Nhanh thật ! Mới đó, mới đây mà đã gần mười năm hương lửa. Tân nhân dục vấn lang niên kỷ, Ngũ thập niên tiền nhị thập tam (Vợ mới hỏi chàng bao nhiêu tuổi – Năm mươi năm trước, tớ hăm ba). Gần mười năm ! Ghê thật ! Thời gian ấy cũng đủ biến biển xanh thành ruộng dâu, huống gì tuổi trời. Cái tình, cái nghĩa so mà khó. Đã có nhiều người phụ nữ đến với ông, cho ông những đứa con và một lòng chung thủy cho tới ngày trở về với cát bụi. Nhưng cũng không ít người, ông sẵn sàng giúp họ sang thuyền khác. Với ông, chuyện tình cảm mà cố tìm cách trói buộc nhau chẳng ích lợi gì. Không thương, không yêu nhau, thì cũng đừng thù ghét nhau để khổ một đời. Cái tình là cái chi chi, Dẫu chi chi cũng chi chi với tình. Ông lại thở dài và mỉm cười trong đêm tối.
Người hầu thiếp nghiêng mình, ôm choàng lấy ông.
- Tướng công chưa ngủ sao ? Tướng công có bài thơ nào, đọc cho thiếp nghe với.
Nguyễn Công Trứ khẽ nhớm dậy. Người hầu thiếp hiểu ý, vội đẩy chiếc gối bông vào cho ông được ở tư thế nửa nằm nửa ngồi, dựa vào thành giường. Trong đêm tối, ông kéo nhẹ người hầu thiếp ngả vào lòng, e hèm lấy giọng:
Tao ở nhà tao, tao nhớ mi,
Nhớ mi nên phải bước chân đi.
Không đi mi nói rằng không đến,
Đến thì mi nói đến làm chi.
Làm chi ta đã làm chi được,
Làm được ta làm đã lắm khi.

Người hầu thiếp vùng vằng, nhõng nhẽo:
- Tướng công lại nhạo thiếp nữa rồi. Chuyện cũ mà !
Nguyễn Công Trứ cười thầm trong đêm, đưa bàn tay xoa nhè nhẹ trên mặt người hầu thiếp.
Thời gian tựa cánh chim bay. Mới ngày nào được Đức Khâm thượng thuận cho về hưu, ông ung dung đây đó với bầu rượu túi thơ và con bò vàng đủng đỉnh. Ông “che miệng thế gian” bằng bài thơ tứ tuyệt viết bằng vôi trên tấm mo cau:
Xuống ngựa lên xe lọ tưởng nhàn,
Lợm mùi giáng chức với thăng quan.
Điền viên dạo chiếc xe bò cái,
Sẵn tấm mo che miệng thế gian.