Họ là những người góp công lớn khai mở đất vùng Tứ giác Long Xuyên và Đồng Tháp Mười, tích trữ lương thảo chống giặc. Lịch sử pha lẫn huyền thoại về những đạo sĩ Thất Sơn là một phần của lịch sử khẩn hoang Nam Bộ. Loạt bài giới thiệu một số mẩu chuyện kết hợp khảo cứu và truyền khẩu về các đạo sĩ Thất Sơn.

Danh tăng Đoàn Minh Huyên là giáo chủ của đạo Bửu Sơn Kỳ Hương, được tín đồ suy tôn là Đức Phật Thầy Tây An. Ông đã cùng đệ tử lập nên làng Xuân Sơn và Hưng Thới, tức xã Thới Sơn, huyện Tịnh Biên (An Giang) ngày nay.

Mang màu sắc của một tôn giáo nhưng đạo Bửu Sơn Kỳ Hương là tu tại gia, không cần xuống tóc, miễn sao tròn cái đạo làm người. Đó là triết lý sống căn cơ của người chính đạo.

Giúp dân thoát đại dịch

Theo công trình biên khảo của nhà nghiên cứu Nguyễn Hữu Hiệp và lời truyền kể của dân gian, khoảng năm 1849, đang chu du giảng kinh, vừa lúc biết vùng Đất Sét-Cái Tàu Thượng (Lấp Vò) người dân lâm đại nạn dịch tả và chết ngày càng nhiều, Đức Phật Thầy tức tốc trở về. Ngài đã trị và cứu được không biết bao nhiêu người mắc bệnh.

Ổ dịch nơi này dứt thì nơi lân cận phát, với chiếc xuồng con sắp nát, ngược dòng Tiền Giang, ông bơi riết đến lòng Ông Chưởng cứu dân.

Ông dựng một mái trại đơn sơ ở Cái Xoài (Chợ Mới), bắt tay ngay vào việc trị bệnh. Bệnh phát ra ở đâu có mặt ông ở đó. Tại Tòng Sơn, Trà Bư, Xẻo Môn, Kiến Thạnh, bằng cách khuyên người tu tâm dưỡng tánh, hoặc vài ba loại hoa lá có sẵn quanh vườn nhà, thế mà ông trị bệnh gì cũng dứt. Người dân khâm phục, đến xin quy y đông nghẹt. Nhà cầm quyền lúc ấy sợ, mời ông về cầm giữ tại An Giang để tra xét. Sau thời gian thử thách, biết rõ ông là bậc chân tu nên cho vào chùa Tây An Cổ Tự ở núi Sam


Thới Sơn Tự, nơi Đức Phật Thầy ở, ngày nay khách thập phương thường đến viếng. Ảnh: VĨNH SƠN

Tại đây, ông cảm hóa được vị thiền sư chủ chùa và thu hút hàng vạn thập phương thiện tín. Để tự do hành đạo theo chủ trương của mình và tránh sự khó dễ của chính quyền do hằng ngày thiện tín đến quá đông, ông cho di tản tín đồ, khai hoang tản mạn nhiều nơi. Các vùng xa xôi hoang vắng, chưa có vết chân người là chỗ tốt để Bửu Sơn Kỳ Hương của ông hoạt động.

Đi khẩn hoang

Năm 1851, từng đoàn tín đồ của Đức Phật Thầy chia nhau ra đi. Đoàn thứ nhất đi vào Thất Sơn, nơi rừng bụi rậm rì, đầy thú dữ. Nơi đây các nông trại Hưng Thới và Xuân Sơn được dựng lên (nay là xã Thới Sơn, huyện Tịnh Biên).

Đoàn thứ hai đến Láng Linh, một vùng bùn lầy, mùa lụt như biển cả, mùa hạn thì như bãi đất hoang. Địa thế bất tiện cho nông nghiệp nhưng rất thuận lợi cho khách ẩn cư vì tiếp giáp với láng là rừng Bảy Thưa. Tại vùng này, một trại ruộng tên Bửu Hương Các được cất lên để vừa ở tu, vừa chăm lo khai phá cánh đồng hoang. Vùng này là xã Thạnh Mỹ Tây, huyện Châu Phú, An Giang ngày nay.

Đoàn thứ ba về miệt Cần Lố, vùng Đồng Tháp Mười. Một ngôi chùa được dựng lên tại Trà Bồng, ruộng rẫy được khai mở…

Đoàn thứ tư về Cái Dầu, sát hữu ngạn Hậu Giang, nơi có nhiều phù sa.

Những người điều khiển nông trại Bửu Sơn Kỳ Hương là các vị đại đệ tử của Đức Phật Thầy. Họ là những người đạo đức gương mẫu, giỏi võ nghệ. Những nơi họ đến khai hoang, về mặt chủ quyền là những vùng đã thuộc về Việt Nam từ lâu nhưng muốn đưa người vào định cư lập nghiệp không phải giản đơn, bởi đâu đâu cũng toàn rừng bụi, cọp beo, rắn rít, lại thêm sơn lam chướng khí nhiều…

Theo dân gian, nơi đâu đoàn người khai hoang của các vị đại đệ tử Đức Phật Thầy đến thì thú dữ tự dưng được thuần phục. Các ngài không ai đem theo gươm giáo, chỉ võ trang bằng cái tâm cái đức, bằng lời khuyên răn mà thú dữ khuất phục, có khi còn quấn quýt bảo vệ.

Phải làm thì mới có ăn

Ông Nguyễn Sơn Đào (Thới Sơn, Tịnh Biên, An Giang), người đang nắm giữ gần nửa ngọn núi Ông Két, nơi Đức Phật Thầy từng lập ra hai ngôi làng Xuân Sơn và Hưng Thới, phân tích: “Đức Phật Thầy quan niệm “có làm thì mới có ăn”, mới có sức khỏe để phụng sự nhân dân, đất nước. Làm người đương nhiên phải có đạo đức. Do vậy, ông dùng văn thơ để nói về cách sống của người có đạo đức mà sau này gọi là giáo lý và những câu sấm truyền”.


Ông Nguyễn Hữu Nghi lật lại từng trang sách chữ Nôm viết về “tứ ân” mà Đức Phật Thầy từng truyền dạy. Ảnh: VĨNH SƠN

Lúc mới về Thất Sơn, Đức Phật Thầy huy động nhân dân quanh vùng bày cách khai thác đá sỏi để làm đất bằng mà trồng khoai mì, cấy lúa, dùng nước suối mà tưới tiêu. Ông cho lập ra ba trại gọi là trại ruộng, trại rẫy và trại cưa để phục vụ canh nông và xây dựng làng mạc. Tại đây ông lần lượt thu thập nhiều đệ tử, trong đó nổi tiếng có “thập nhị hiền thủ” là 12 vị đệ tử đầu tiên xin quy y với thầy. Công cuộc khai mở đất của đoàn bổn đạo Bửu Sơn Kỳ Hương ở cả hai vùng Đồng Tháp Mười và Tứ giác Long Xuyên. Sau khi lập nên các nông trại khẩn đất hoang canh tác lúa nước, nhiều đoàn người được chỉ dụ của Đức Phật Thầy đi sang cánh Đồng Tháp Mười mở đất, truyền đạo.

Lấy tứ ân làm trọng

Người theo đạo Bửu Sơn Kỳ Hương không cần đi chùa, cúng miễu hay hành đạo rườm rà. Được phép cưới vợ, gả chồng và một mực giữ vẹn nghĩa phu thê. Đức Phật Thầy truyền dạy lấy tứ ân làm trọng. Ở chùa Phi Lai Tam Bửu có ông Nguyễn Hữu Nghi (Hai Nghi), giữ chức phó ban quản tự khu di tích lịch sử Ba Chúc, cắt nghĩa tứ ân rành rọt. Ông là người may mắn được gặp gỡ các bậc cao niên đi trước như “ông già Nam Bộ” Sơn Nam, giúp các vị này sưu khảo để lại tư liệu của mối đạo Bửu Sơn Kỳ Hương từ thời kháng Pháp.

Ông Hai Nghi kể trong tứ ân có hai vấn đề: tứ đại trọng ân và trọng ân. Trong tứ đại trọng ân tức là con người phải nhớ ơn đất, nước, gió, lửa. Bởi đây là bốn yếu tố cấu thành vạn vật hiện hữu trên thế gian. Còn tứ trọng ân gồm: ơn tổ tiên, cha mẹ; ơn tổ quốc; ơn tam bảo; và ơn đồng bào, nhân loại.

Là một công dân, chúng ta có bổn phận phải bảo vệ đất nước. Nếu thời bình ta phải làm cho đất nước được giàu mạnh, thời chiến ta phải hy sinh chiến đấu để giữ độc lập cho đất nước.

Tam bảo tức là Phật, Pháp, Tăng. Người tu hành luôn luôn tuân theo Phật, Pháp, triệt để không hành động ngoài giáo lý của nhà Phật. Mọi sự mê tín dị đoan, tin vào chuyện ma quỷ, đồng bóng… đều là khắc tinh của người chính đạo Bửu Sơn Kỳ Hương-đạo gia.

nguồn http://phapluattp.vn/201002051114191...dao-va-doi.htm