Bùa chú xuất hiện trên thế giới từ lâu và khởi đầu từ những vị chân tu có ý đồ nghiên cứu tìm hiểu và thực hành bùa chú với chủ đích cứu đời, cứu người.

Từ ngàn xưa, bùa chú đã xuất hiện ngay cả trong những kinh sách của nhiều tôn giáo. Phần lớn các bùa chú này nhằm mục đích để cầu an, giúp cho thân tâm, gia đình yên ổn. Ngoài ra nhiều bùa chú con giúp để trị bệnh, trừ tà, phá bùa yếm đối... Những bùa chú này do một số lớn những nhà nghiên cứu về hiện tượng siêu linh huyền bí tìm ra. Một số bùa chú còn được tìm thấy do những tài liệu cổ từ Mật Tông truyền lại.

Những người Trung Hoa, Đài Loan, Hồng Kông thường biết khá nhiều bùa chú mà theo Bí tàng của ông Trương Thiên Sư thì có rất nhiều bùa trị bệnh giúp gia đình an vui, mua may bán đắt, cầu tài, an thai, trừ ác mộng, hộ thân. .. Tại Ấn Độ , các tư liệu xưa cổ cho thấy' tôn giáo lâu đời nhất ở xứ này là tôn giáo mà người Aryen tin theo từ dân tộc Naga. Người Naga thờ vô số thần trong đó có cả thần nhân đạo từ bi và cả ác thần; ác thần thường gieo tai họa nên họ phải dùng các phương thuật để giải họa.

Theo nhà viết sử nổi danh William james Durant thì những phương thuật này phần lớn là những bùa chú hay những Thần chú được tìm thấy rất nhiều trong kinh ATHARVA ~ VEDA.

Ngày xưa một số lớn người ấn rất quý trọng những gì viết trong kinh nầy . Họ thường đọc Thần chú để được có con tốt lành, để sinh dễ dàng mẹ tròn con vuông, để tránh tai nạn bệnh tật, để ngủ yên giải, chống lại ác tâm của kẻ thù hoặc làm nản lòng chúng... Cũng theo William James Durant thì trong kinh Atharva - Ve da đôi khi còn có những câu thần chú mà lời lẽ rất mạnh mẽ dữ dội và đôi khi man rợ để cho phụ nữ đọc khi nào muốn chống lại tình địch.

Atharva - Veda là một trong bốn loại kinh Veda giá trị và thiêng liêng nhất xứ Ấn gồm có các tri thức về các thần chú với các Mạn - đà - La, với Phạm Chí, những câu thần chú, những lời cầu nguyện.

Theo các nhà nghiên cứu nổi danh ân Độ thì có những Thánh ca giá trị đầy năng lực nhiệm mầu trong các kinh Veda . Về xuất xứ thì theo họ, đã xuất hiện cách đây từ 6 nghìn đến 10 nghìn năm trước công nguyên.

Ngày nay phần lớn người Trung Hoa và Việt Nam thường hay dùng Bùa của Trương Thiên Sư .

Nhiều sách vở của Trung Hoa ghi chép, in lại những bùa cùng phương cách ứng dụng của một Đạo Sĩ nổi danh ở Trung Hoa tên là Trương Thiên Sư , như cuốn sách xuất bản ở Hồng Kông: Bùa- Bí tàng của Đạo Sỉ Trương Thiên Sư ,với những Bùa trị bệnh, giúp gia đình bình an .

Sau đây là hình ảnh dạng thể của một số đạo bùa và công dụng theo thứ tự :



1 ) Bùa giúp gia đình an vui .

2) Bùa giúp vợ chồng hòa hợp .

)) Bùa giúp hợp ý khi giao tế, tiế xúc , xả giao .

4) Bùa may mắn.

5 và 6) Bùa giúp an thai và bùa ngăn chặn con ranh

con lộn ( Phạm thái thần ) .

7) Bùa hộ thân, trừ tà giải bệnh.

8) Bùa hộ thân khi gặp kiện tụng.

9) Bùa giúp phát đạt về thương mãi , buôn bán .

1 0) Bùa trị khỏi chứng con tre khóc đêm.

1 1 ) Bùa trừ ác mộng

12) Bùa trị bệnh nhức đầu, hồi hộp lo lắng , ăn ngủ

không yên .



Trong thiên khảo cứu về Bùa chú đăng ở báo Đại Chúng từ các số 223 trở đi cũng có đăng một số bùa lưu truyền cho hậu thế của các Đạo sĩ chuyên trị bệnh , như : (A) Bùa trị bệnh suyển. (B) Bùa giải trừ nghiện thuốc hút.(C.) Bùa giúp trẻ con dứt sữa nhanh. (D) Bùa trị chứng đau thận, đau lưng. (E) Bùa trị mắc xương.

Ngoài ra còn những loại bùa để hộ thân khi đi đường trừ ma quái, trộm cướp chận đường (là hay bùa bảo vệ nhà cửa( G ).

Về cách trị liệu , tư liệu cho biết sơ lược như sau; mỗi loại bùa có cách sử dụng riêng biệt , nếu thực hiện không đúng cách sẽ không đem lại kết quả và muốn tốt phải do người có chân tâm thực hiện. Ví dụ: Con trẻ khóc đêm hoài khó dứt thì dùng Bùa giải gọi là bùa khóc dạ đề. Bùa này phải viết trên giấy màu vàng bỏ vào trong gối kê đầu của trẻ. Khi viết phải tập trung tư tưởng cố gắng nín thở và tâm niệm với năng lực tâm thần liên kết với sức mạnh siêu linh để tạo một huyền lực vào trong đạo bùa. Trường hợp người có thai muốn được an thai , cần có đạo bùa an thai đeo vào người ( xếp bỏ trong cái túi vải màu vàng đeo vào cổ hay để trong túi áo ).

Trường hợp dùng bùa giải trừ nghiện thuốc hút: trước tiên phải tập trung tư tưởng và nghĩ đến sự tai hại của hút thuốc về các lãnh vực trong cuộc sống và cả bản thân mình. Tiếp đến vừa tập trung tư tưởng vừa vẽ lên giấy vàng đạo bùa chủ trị nghiện thuốc hút. Nhớ cần phải nín thở để họa cho xong đạo bùa ( trước đó nên tập cho thuộc nét cho rồi hãy thực hành). Người xưa theo phương cách là viết bùa xong đốt thành tro hòa với một chút Hoàng Liên Sơn sắc ra nước để uống. Tự nhiên sẽ cảm thấy không còn thích hút thuốc nữa. Ngày nay y, vì sợ khi hòa tro với nước sắc ấy uống vào đôi khi có thể hại về mặt hóa chất nào đó chưa phối kiểm được ; nên về sau có người dùng một ly nước lọc đặt trên bàn rồi sau khi vẽ bùa xong lại tập trung tư tưởng, đốt lá bùa rồi huơ đi quơ qua quơ lại lại trên ly nước cho đến khi bùa cháy hết. Khi đó uống hết ly nước lọc với tâm niệm rằng từ nay mình không còn hút thuốc nữa.

Theo các nhà nghiên cứu âu Châu sau khi quan sát tận mắt cách chữa trị này của một số đạo sĩ ở Hồng Kông áp dụng từ Bùa Chúc Do ( đã giúp giải được bệnh ghiền thuốc hút cho một người cai thuốc ở Cửa Long) thì kết quả đạt được phần lớn là do bệnh ghiền thuốc không phải là bệnh của thể xác mà là bệnh tâm lý. Tuy nhiên về sau khi theo dõi những phương cách trị bệnh khác theo Bùa Chú thì các nhà khoa học này mới thật sự kinh ngạc và họ đang thành lập một hội đoàn các khoa học gia nghiên cứu về năng lực của Bùa Chú.

Cũng tại thành phố Của Long ( Hồng Kông ) các nhà khoa học và nhà báo đã có lần chứng kiến phương thức chữa trị mắc xương bằng Bùa Chú rất hiệu nghiệm như sau:

Hôm đó là ngày 19 tháng 6 năm 1956, một nhân vật cao cấp trong chính quyền Hồng Kông bị mắt phải cái xương gà. Cái xương nhọn rất nguy hiểm. Các bác sĩ cho biết cần phải mổ ở cổ họng và vì cái xương nằm ở vị trí sát thanh quản, nếu mổ sẽ ảnh hưởng lớn đến giọng nói hoặc có thể làm tắt tiếng , may thay lúc đó có một Đạo sĩ có học thuật về bùa chú Chúc Do và Trương Thiên Sư đã bảo đảm lấy xương ra khỏi cổ họng cho nạn nhân mà không cần phải mổ. Trước mắt các nhà khoa học và báo giới vị Đạo Sĩ này chỉ cần lấy cái tô đổ đầy nước lã vào rồi vừa niệm chú vừa lấy ngón tay vẽ lên trên mặt tô nước một đạo bùa. Kế đến vị Đạo sĩ yêu cầu nạn nhân quay mặt về hướng mặt trời mọc cố gắng tập trung tư tưởng và nghĩ đến cái xương đang mắc trong cổ họng sẽ phải rơi ra , xong hít khí trời vào ba lần. Sau động tác này, vị Đạo sĩ trao tô nước cho nạn nhân bảo cố súc miệng nhả ra. Lạ lùng thay, tự nhiên cái xương rơi ra theo.Trong tài liệu đăng trên báo Đại Chúng thì phương pháp chữa trị có hơi khác, có lẽ tùy theo từng loại xương to, nhỏ. Theo phương thức này thì ( có lẽ áp dụng cho loại xương nhỏ ít nguy hiểm ) : Khi một người bị mắt xương, dù là xương cá hay xương gà hay bất cứ xương thú gì. Bạn hãy lấy một chén nước lã, hoặc trà cũng được dùng ngón tay vẽ kiểu Bùa trên đây ( vẽ cho thật đúng ) trên mặt nước đồng thời miệng mềm câu thần chú sau đây:

Chén nước này hóa ra biển lớn phía Đông. Cổ họng hóa ra đầm sâu vạn trượng, chín con rồng quay về động. Ngã phụng Thái Thượng Lảo Quân, cấp cấp như luật lịnh. Xong bạn bảo người bị mắt xương , quay mặt về hướng Đông, hít khí trời vào họng ba cái, rồi uống chén nước.

Phương pháp trên đây đã thực nghiệm rất nhiều lần, đều hiệu nghiệm. Chén nước chưa uống cạn xương nơi cổ họng đã tan.

Loại bùa bảo vệ, giữ gìn nhà cửa được yên ngăn chận không bị hỏa hoạn, bảo lụt, trộm cướp...Gọi là bùa. Bùa này phải được chính các Đạo sĩ có năng lực về họa kèm với lời chú , dán trên đầu cột cái của căn nhà).

Có nhiều bùa giải trừ tai nạn bệnh tật gồm nhiều bùa khác nhau như Bùa trừ ác mộng của Đạo sĩ Trương Thiên Sư Bùa này vẽ thành 12 lá dán trên đầu nằm theo các ngày Tý, ngày Sữu, ngày Dần, ngày Mão v...v...

Riêng về Bùa trên, may mắn cho giao dịch buôn bán thì dùng một miếng giấy vàng vẽ Bùa số 9 ( Xem hình ) vào túi vải màu vàng, may lại đeo vào người hay để vào túi áo trên. Dĩ nhiên muốn có kết quả phải được một pháp sư Đạo sĩ có thục lực vẽ bùa kèm chú mới tốt.

Có nhiều loại bùa sau khi họa xong còn phải được đốt dùng tro pha với nhiều chất đặc biệt để uống , những phương thuật này phải do chính các Đạo sĩ thực hiện, người thường không hiểu rõ chi tiết pha chế không đúng cân lượng cũng như dùng khác chất sẽ vô cùng nguy hại. Nói tóm lại, các loại bùa muốn linh nghiệm phải do các bậc cao minh đứng ra họa bùa đọc chú. do đó người thường không lạ gì khi thấy nhiều sách viết về bùa chú và in cả các hình ảnh bùa chú đôi khi cả phương thức thực hiện mà người xem mua về làm theo lại không thấy có kết quả , đôi khi còn tai hại và nguy hiểm.

Nhà nghiên cứu về các pháp thuật siêu hình là Ngộ Thường Tử đã viết trong báo Khoa Học Siêu lệnh xuất bản tại Hoa Kỳ năm 1990 đề tài thuộc lãnh vực này gọi là Man-đa-ra. Theo tác giả Ngộ Thượng Tả thì Man- Đa-ra tốt là lệnh Phù. Đó là những pháp thuật để bảo vệ chánh pháp, ngăn ngừa ác quỷ. Người tu theo đạo Man- Đa-ra giáo ( Mật giáo, Chôn ngôn tông ) gom vào đó sức linh của Phận Thánh, Tiên, Thần để trừ tà ma, ác quỷ, bảo hộ sinh mệnh, nhà cửa, đình chùa lăng miếu. Đây là một pháp môn tối cổ và đặc biệt của người Tây Tạng.

Pháp môn này gồm có:

Linh phù ( Man-đa-ra ), Thần chú Dharani và Pháp ấn ( Mudrâ ).

1 ) Linh phù là lá bùa tính được họa trên giấy hay trong hư không có công dụng chữa bệnh, trừ tà ma...

2) Thần chú là những ngôn từ bí mật có thể đọc thành tiếng hay đọc thầm trong miệng, hoặc chỉ nghĩ đến trong tâm ( gọi là Mật thanh thần chú hay Mật tâm thần chú ).

Công dụng của Mật thanh thần chú là để biết rõ về tiền kiếp của người khác hay của chính mình.

3) Pháp ấn, theo Ngộ Thường Tử thì Pháp ấn ( Mudrâ)

là biểu tượng, phù hiệu giống các thủ lệnh của quân đội ( thường biểu lộ qua tay, ngón tay... ). Có nhiều cách bắt ấn tuỳ theo công dụng ví dụ bắt ấn trừ tà ma yêu quái gọi là Phục ma ấn, truyền đạt năng lực, tư duy, giác ngộ qua tâm não gọi là Tâm ấn...

Nhà nghiên cứa về sự vi diệu kỳ bí của Man-đa-la là Meita Copony đã cho rằng , chỉ cần nhìn sơ cấu trúc của một biểu tượng về Man-đa-la cũng thấy sự huyền diệu lạ lùng. Thứ nhất là vùng trung tâm nơi phát nguồn những tia sáng hào quang rồi đến vùng chu vi, ngoại biên của vòng tròn là những dạng thể và ánh sáng cùng màu sắc của những gì có tính cách huyền bí thuộc năng lực siêu linh, nơi phát sinh ra tất cả mọi sự sống, mọi vật chất tồn tại trong không gian và thời gian...Nguồn sáng lung linh tuôn tràn từ trung tâm điểm của Man-đa-la xoay vòng chuyển hóa từ trong ra ngoài, tỏa ra muôn vạn hướng rồi lại chuyển động quay trở về chốn tận cùng thâm sâu của trung tâm điểm của Man-đa-la. Trung tâm điểm ấy được xem như là điểm khởi đầu và chấm dứt. Man- Đa-la được xem như là cái bánh xe mặt trời. Man-đa-la có mặt khắp nơi trong vũ trụ .

Hai nhà nghiên cứu nổi tiếng về Man-đa-la là José và Miriam Arguelles, trong những tác phẩm viết về đề tài này đã ghi nhận rằng:" trong vũ trụ đều có dạng thể của Man-đa-la. Từ những có thể của bào tử, loài phiêu sinh ( Plankton ) đến cả bông hoa còn nụ hay xoè nở ... Chính con mắt người và thú cũng là hình ảnh của Man-Đa-la...

Trong cuốn Mandala của José và Mirian Arguelles xuất bản năm 1972 tại Hoa kỳ ( Shambhala Publication, inc-72 1 ) có trình bày một sơ đồ rất kỳ diệu sơ đồ quy tụ mọi biểu tượng của các lý thuyết Tôn giáo, Tâm linh siêu hình gọichung là Man-đa-la của nhịp chu kỳ (tuần hoàn) sinh hóa .

Bùa Thái Công :

Gọi là bùa THáI CÔNG vì loại bùa này có ghi chú rõ ràng tên của một nhân vật có khả năng trị yêu quái. Nhân vật ấy chính là Khuông Tử Nha hay còn gọi là Khuông Thái Công xuất hiện vào thời nhà Châu ( Trung Hoa ) . Khuông Thái Công thường có một bửu bối đặc biệt gọi là Roi Đả Thần. Roi này mỗi lần đượcc Thái Công vung ra là Thần tiên đều sợ và bị khuất phục. Do đó, bọn ma quỷ yêu quái khiếp sợ roi đả thần vô cùng. Chính vì lẽ đó mà vào ngày đầu năm ở Trung Hoa cũng như ở Việt Nam thường có tục lệ dán bùa trấn yểm ma quỷ trước cửa nhà bằng bùa Thái Công.

Bùa Thái Công có được vẽ trên một tờ giấy vẽ 5 vạch ngang 4 vạch dọc. Phía dưới đề chữ Khương Thái Công tại thử ( có nghĩa là Khuông Thái Công hiện ở đây ).

Người Việt Nam ngày xua gọi bùa này bằng danh từ rất bình dân là Bùa Tứ Tung Ngũ Hoành ( ngang dọc ) Bùa này cũng còn thấy xuất hiện ở ngọn cây nêu vào dịp Tết. Bùa này không vẽ mà đan bằng tre. Tre được lướt, vót thành những dải dẹp đan ngang và dọc , chừa những phần cuối xòe ra.

Treo lá Ngải trừ ma quái :

ILá ngải cứu là một loại lá có nhiều công dụng về dược tính như làm dịu không khí nóng bức ,lọc sạch không khi giúp sự hô hấp được thuận lợi.

Vào ngày Tết Đoàn Ngọ tức là ngày mồng 5 tháng 5 , người Việt Nam thường có tục lệ treo chùm lá Ngải ở trước nhà để trừ tà, ma quỷ, đuổi bênh tật.



Bùa trừ ma quỷ của trẻ con :

Bùa nầy trong dân gian còn gọi là bùa Ngủ sắc. Trẻ con khi đeo bùa này vào cổ, trước ngực sẽ

có được nhiều lợi điểm là không khóc đêm, ngủ không giật mình, không sợ sệt, không bị ma quỷ quấy phá. Ngoài ra Bùa Ngủ sắc còn khiến các loài rắn, rết, nhện độc tránh xa. Bùa Ngũ sắc gồm các thứ như sau:

- Các hạt Mùi : Có mùi rất thơm , kỵ gió nắng hay trở trời , được cho vào một cái túi vải màu vàng hình vuông may lại bằng chỉ ngủ sắc. Khi may, để chừa lại ở các góc những tua chỉ màu ( để ở ba góc còn góc thứ tư thì buộc chỉ để đeo chung với những thứ khác )

- Các thứ Quả: hồng, na, ớt và khế. Đặc biệt ớt phải chọn ớt có lẫn màu xanh, đỏ, vàng. Riêng khế thì chọn mỗi khía có những đốm màu khác nhau càng nhiều càng tốt.

- Hồng Hoàng : Tất cả cho vào những túi nhỏ bằng chỉ ngũ sắc đeo thành một chùm trước ngực đứa bé. Các thứ quả thường để cho khô, teo lại để không còn bị lên mốc, hư thối.

Ngày nay, tại Việt Nam không riêng gì các vùng thôn quê mà ngay cả ở thành thị cũng vẫn còn tục lệ trẻ con đeo bùa ngũ sắc để trừ tà.