Đức Thế Tôn liền lên thang báu vào ngồi trên đài hoa sen quán sát mười phương nói với Ba tuần rằng: “Nầy Ba tuần! Ngươi cùng nên sanh tâm hoan hỉ, tại sao, vì do ngươi làm nhơn duyên mà có hội đại tập nầy, cũng nhơn nơi người làm cho Phật thuyết pháp. Nhơn duyên thuyết pháp dứt các sanh tử qua khỏi tứ lưu khiến các chúng sanh đều được chánh pháp được tướng hư không. Các sự việc như vậy đều nhơn nơi người. Vậy ngươi nên thỉnh Phật, Phật sẽ thuyết pháp”.

Ba tuần nói: “Cù Đàm nếu không có sân tâm kiêu mạn tật đố sao lại làm não tôi mà tuyên nói pháp. Nếu sân hận kiêu mạn tật đố sao lại nói rằng ta được giải thoát”.

Đức Phật nói: “Nầy Ba tuần! Lúc ta ở thai mẹ trải qua mười tháng. Ngươi muốn đến hại ta, lòng ta lúc ấy đối với ngươi cũng không có sân hận. Lúc ta sơ sanh đại địa chấn động sáu cách, ngươi lại tuôn mưa đá khối , lúc ta uống sữa ngươi đem thuốc độc để vào sữa, lúc ta cỡi hương tượng ngươi ngươi làm đất rúng động muốn cho ta té, lúc ta ở trong rừng tu thiền định thế gian, ngươi dắt thể nữ đến toan làm loạn tâm ta, lúc ta khất thực ngươi mangđậu thúi bố thí ta, ta dầu thọ mà trọn không ăn đó. Lúc ta xuất thành ngươi tự biến thân làm rắn độc và ác tặc vây bốn phía thành. Ta đi trên hư không, ngươi lại phóng gío mưa. Lúc ta xuống ngựa ngươi tuôn lửa mạnh lớn. Lúc ta đi ngươi làm âm thanh ác dữ, cố ý lm cho năm người đi theo ta kinh sợ mà bỏ ta. Thân ta gầy ốm ngươi làm gío lạnh. Lúc ta tắm gội ngươi tuôn luồng nước chảy mạnh. Lúc ta ra khỏi sông rồi, ngươi muon hại ta nên hóa làm vô lượng sư tử ác thú. Lúc ta thọ cháo sữa của mục nữ dâng ngươi lại bỏ thuốc độc vào cháo rồi đi. Lúc ta đi đến cây Bồ đề, ở giữa đường ngươi làm mưa kim cương. Lúc ta ngồi toà kim cương gốc cây Bồ đề, ngươi sai bốn thể nữ đến muốn làm loạn rối ta.

Ba tuần! Dầu ngươi muốn làm hại ta như vậy, mà với ngươi ta không hề có lòng sân hận. Các sự việc của ngươi làm như vậy mà trọn chẳng loạn động được tâm ta. Ngươi lại xuất lãnh vô lượng trăm ngàn muôn bốn binh chủng hiện ra vô lượng ác sư muốn ta chẳng được Bồ đề. Lúc ta thành Vô thượng Bồ đề rồi, ngươi lại đến thỉnh ta xả thọ mạng. Cũng do nơi ngươi làm cho ta ở Sa Lúc ấy đại thông kia khất thực chẳng được. Lại cũng do ngươi mà vua A Xà Thế phóng voi say muốn hại ta. Cũng do ngươi mà Đề Bà Đạt Đa xô khối đá lớn lăn xuống muốn hại ta. Cũng do ngươi mà ta thọ Bà La Môn kia thỉnh ba tháng an cư ăn toàn lúa nuôi ngựa. Cũng do ngươi mà ta bị nàng Tôn Đà Lợi kia vu báng. Cũng do ngươi mà Thi Lợi Cúc Đa dùng hầm lửa thuốc độc phỉnh ta.

Ngày trước ngươi làm vô lượng ác sự như vậy chẳng hại được ta. Nay ngươi lại tụ họp chúng ma như vậy muốn đến hại ta, nhưng với ngươi ta không có tâm sân hận. Nay ta sẽ độ vô lượng ức ma, ta vì chúng sanh nên siêng tu tập từ bi hỉ xả.

Nếu ngươi chẳng tin lời ta, mười phương chư Phật chư đại Bồ Tát có thể chứng minh. Chỉ vì người mà ta ở trong ác thế nầy làm Phật sự. Dầu với ta ngươi làm vô lượng ác sự, mà ta vẫn cố theo dõi ngươi. Nay ta thiệt không có sân hận tật đố kiêu mạn, nơi ngươi ta tu tập từ tâm mà ngươi ở nơi ta sanh đại ác tâm.

Lành thay, nầy Ba tuần! Ngươi nên lìa ác tâm thưa thỉnh Phật nói pháp vô thượng. Ta muốn thọ ký Bồ đề cho ngươi. Đã thọ ký rồi, ta sẽ vì ngươi nói rộng pháp yếu. Ngươi được nghe pháp rồi sẽ được xa lìa tất cả ác nghiệp. Ta thường nghĩ nhớ các thứ phương tiện khiến ngươi giải thoát mà ngươi nơi ta thường sanh ác tâm. Ta thường ở nơi ngươi sanh lòng từ mẫn. Nay ngươi nên bỏ ác kiến ác ý, ta sẽ thọ ký Vô thượng Bồ đề cho ngươi”.

Ba tuần nghe lời ấy sanh lòng sân ác muốn về nhà lại liền thấy thân mình bị ngũ hệ phược, muốn phát tiếng lớn cũng chẳng phát được liền phun hơi độc muốn hại Phật.

Đức Phật biến hơi độc ấy thành hoa tu mạn, do thần lực Phật làm cho hoa ấy khắp đến mười phương chỗ hàng hà sa chư Phật để cúng dường, trên mỗi đức Phật hóa làm lọng hoa tu mạn.

Vô lượng Bồ Tát ở các thế giới ấy tự hỏi thần lực của ai biến hóa lọng ấy.

Vô lượng chư Phật bảo chúng Bồ Tát mình rằng: “Ta Bà thế giới Thích Ca Mâu Ni Như Lai muốn vì ngũ trược chúng sanh mà diễn nói pháp yếu, nơi các pháp ấn cú môn nhập đà la ni hay phá tất cả ma cảnh giới lực, khai hiển tất cả Phật công đức lực, dụng tràng đại pháp chẳng dứt giống Phật, hay khiến tất cả thiện pháp tăng trưởng, hay hoại tất cả tà kiến chúng sanh, hay phá tất cả ác mộng bất tường, hay dứt tật bịnh binh đao cơ cẩn đấu tụng các sự bạo ác, lại hai điều phục tất cả Thiên Long Bát Bộ, hay thắp đuốc huệ chỉ dẫu tất cả đường sá bằng phẳng, hay khiến tất cả viễn ly ác kiến, hay dứt tất cả các ác chủng tánh, hay khiến tất cả đồng nhứt tánh, hay thủ hộ tất cả thành ấp tụ lạc Sa Môn Bà La Môn, hay biết tất cả tinh tú vận độ, hay học tất cả thế giới các sự, hay khiến tất cả xa lìa ác khẩu được vô ngại biên, quán tất cả pháp thông đạt pháp tánh như pháp mà trụ, hay nói pháp Đại thừa an ui Bồ Tát làm cho đều được tâm bất thối, hay ban bố pháp vị cam lộ vô thượng, hay làm cho chứng được vô sanh pháp nhẫn chuyển chánh pháp luân lợi ích điều phục vô lượng chúng trụ sáu pháp Ba la mật, hay khiến chúng sanh thấy đạo vô thượng, hay giáng pháp vũ hiển thị Phật sự quá tứ ma giới nhập đại Niết bàn kim cương pháp tâm nhơn duyên tự tại đà la ni. Sắp muốn diễn nói các pháp như vậy. Như quá khứ chư Phật và vị lai chư Phật diên nói pháp, hiện tại thập phương chư Phật Thế Tôn trụ thế thuyết pháp giáo hóa chúng sanh đều là kim cương pháp tâm nhơn duyên tự tại đà la ni vậy. Quá khứ vị lai chư Phật Thế Tôn đều cũng như vậy”.

Các phương vô lượng Bồ Tát đều riêng bạch Phật rằng: “Bạch đức Thế Tôn! Tôi từ trước chưa từng nghe kim cương pháp tâm nhơn duyên tự tại đà la ni. Thế nào gọi là kim cương pháp tâm nhơn duyên tự tại đà la ni? Mong đức Thế Tôn phân biệt giải nói, nhẫn đến khiến nhập đại Niết bàn, lợi ích vô lượng nhôn thiên tạp loại”.

Các phương chư Phật Thế Tôn đều riêng nói với chúng Bồ Tát rằng: “Nầy các thiện nam tử! Ta cũng muốn thấy Thích Ca Mâu Ni Phật nghe thọ pháp ấy, vì muốn lợi ích tất cả chúng sanh, vì phá hoại tất cả chúng sanh ác nghiệp, cho đến vì muốn nhập vào đại Niết bàn.

Nầy các thiện nam tử! nếu muốn cúng dường vô lượng chư Phật nơi một Phật thế giới, nếu muốn nghe học chánh pháp vô thượng pháp chưa từng nghe, nếu muốn thấy pháp hội Đại Tập, thì nên đến Ta Bà thế giới trụ sứ của Phật Thích Ca Mâu Ni”.

Vô lượng chúng Bồ Tát nhận lãnh giáo sắc nơi Phật, đều nói rằng: “Chúng tôi muốn ở nơi mt Phật thế giới mà được kính lễ cúng dường vô lượng chư Phật. Chúng tôi cũng muốn ở chỗ vô lượng chư Phật nghe học vô lượng pháp nghĩa, cũng muốn được nhìn thấy vô lượng thần thông và các sự bất tư nghị. Chẳng rõ cõi Ta Bà ấy có đảu chỗ ngồi chăng? Nếu có đủ chỗ ngồi thì được cúng dường lễ lạy và nghe học vô lượng chánh pháp”.

Các phương chư Phật đều bảo chúng Bồ Tát rằng: “nầy các thiện nam tử! Các ông chớ nên đối với Phật Như Lai sanh lòng nghi lự. Tại sao, vì cảnh giới chư Phật bất khả tư nghị, trí huệ phương tiện của Phật bất kh tư nghị, vì muốn điều phục tất cả chúng sanh.

Nầy các thiện nam tử! Ta Bà thế giới Thích Ca Mâu Ni Như Lai trí huệ phương tiện chẳng hạn lượng được.

Giả sử tất cả thân ngũ ấm của tất cả chúng sanh đều cao lớn bằng núi Tu Di, nếu muốn Phật Thích Ca Mâu Ni có thể cho họ đều đủ chỗ ngồi trong một hột đình lịch, tất cả chúng sanh ấy thấy hột đình lịch chẳng rộng thêm mà chỗ ngồi của họ cũng chẳng hẹp, bổn chất của hột ấy nhu cũ chẳng tăng chẳng giảm. Đây gọi là Như Lai trí huệ phương tiện.

Còn nữa, nầy các thiện nam tử! Đại địa trong tất cả thế giới mười phương đem cho vào trong một vi trần, mà vi trần ấy không có tướng tăng giảm. Đây gọi là Như Lai trí huệ phương tiện.

Còn nữa, nầy các thiện nam tử! Đại địa trong tất cả thế giới mười phương đem cho vào trong một vi trần, mà vi trần ấy không có tướng tăng giảm, đây gọi là Như Lai trí huệ phương tiện.

Còn nữa, nầy các thiện nam tử! Tất cả nước sông biển của tất cả thế giới mười phương cho vào một hột bụi nhỏ, mà hột bụi ấy không có tướng tăng giảm. Đây gọi là Như Lai trí huệ phương tiện.

Còn nữa, nầy các thiện nam tử! Bao nhiêu gió còn tất cả thế giới mười phương có thể cho vào trong một lỗ chưn lông, mà lổ lông ấy không có tướng tăng giảm. Đây gọi là Như Lai trí huệ phương tiện.

Còn nữa, nầy các thiện nam tử! Bao nhiêu lửa của tất cả thế giới mười phương có thể cho vào cả trong một lỗ chưn lông, mà lỗ lông ấy không có tăng giãm cũng không tổn hại. Đây gọi là Như Lai trí huệ Phương tiện.

Còn nữa, nầy các thiện nam tử! Bao nhiêu chúng sanh của tất cả thế giới mười phương có thể cho vào một vi trần, mà vi trần ấy vẫn như cũ không có tướng tăng giảm. Đây gọi là Như Lai trí huệ phương tiện.

Lại nầy các thiện nam tử! Tất cả chúng sanh trong tất cả thế giới mười phương, tam thế có bao nhiêu nghiệp thân khẩu ý, tam thế thọ bao nhiêu khổ lạc không khổ không lạc, tam thế thọ quả báo, tam thế có bao nhiêu địa thủy hỏa phong cho đến tất cả pháp giới, Thích Ca Mâu Ni Như Lai trong một niệm tỏ rõ thông đạt chẳng cần suy nghĩ, cũng chẳng xưng rằng ta biết ta rõ.

Nầy các thiện nam tử! Phật Thích Ca Mâu Ni có đủ trí huệ phương tiện như vậy trụ nơi Ta Bà thế giới”.

Lúc nghe pháp ấy, trong mười phương vô lượng Phật độ, vô lượng Bồ Tát được nghe vô lượng công đức của Phật, mỗi mỗi Bồ Tát liền được vô lượng thần thông

Bấy giờ phương Đông Diệu Lạc thế giới Phật A Súc Bệ Như Lai cùng vô lượng thần thông Bồ Tát, từ thế giới ấy trong một niệm đến Ta Bà thế giới chỗ pháp hội Đại Tập. Đến rồi Phật A Súc Bệ ngồi trên hoá liên hoa, vô lượng Bồ Tát cũng đều ngồi trên hóa liên hoa.

Đông phương vô lượng thế giới vô lượng chư Phật vô lượng thần thông Bồ Tát đều đến Ta Bà thế giới chỗ pháp hội Đại Tập. Đến rồi ngồi trên hóa liên hoa.

Như phương Đông, phương Nam, phương Bắc cũng như vậy.

Bấy giờ Tây phương An Lạc thế giới Phật Vô Lượng Thọ Như Lai cùng vô lượng thần thông Bồ Tát từ thế giới An Lạc trong khoảng một niệm đều đến Ta Bà thế giới chỗ pháp hội Đại Tập. Đến rồi ngồi trên hóa liên hoa.

Tây phương vô lượng thế giới vô lượng chư Phật vô lượng thần thông Bồ Tát đều đến đều đến Ta Bà thế giới chỗ pháp hội Đại Tập. Đến rồi ngồi Phật và Bồ Tát trên hóa liên hoa.

Như Tây Phương, Đông Nam, Tây Nam, Đông Bắc, Tây Bắc, Thượng phương và Hạ phương cũng như vậy. Vô lượng chư Phật vô lượng thần thông Bồ Tát trong khoảng một niệm đều đến Thích Ca Mâu Ni Phật Ta Bà thế giới chỗ pháp hội Đại Tập. Đến rồi đều ngồi trên hóa liên hoa.

Vô lượng thần thông Bồ Tát từ mười phương đến đều dùng phước lực thần thông của mình làm ra phẩm vật cúng dường. Hoặc kim sa hòa hương thơm rải lên trên đức Phật. Hoặc các thứ hương hoa đẹp rải lên trên đức Phật. Hoặc đứng dậy hữu nhiễu vô lượng vòng. Hoặc quỳ dài nói ệ tán thán. Hoặc nhiếp tâm chánh niệm tư duy. Hoặc mua kim hoa nhẫn đến mưa Ưu bát la hoa. Hoặc dùng diệu nhãn ngắm nhìn thân Phật.

Bấy giờ có đồng tử tên là Tu Bồ đề dùng thần lực của mình và thần lực Phật phát âm thanh lớn nói kệ rằng:

Chư Phật vô lượng đại bửu tràng

Hay phá tất cả tâm nghi hoặc

Từ trước chưa từng được thấy nghe

Đại hội vô lượng chúng như vậy

Đầy thế giới nầy vô lượng Phật

Chư Bồ Tát đầy đủ phước đức

Chỗ này tức là đại bửu tháp

Đều được cúng dường mười phương Phật

Vô lượng chư Phật nhơn duyên gì

Đều đến họp thế giới ác này

Nay quốc độ nầy ác chúng sanh

Cũng còn chẳng tin được Phật sự

Vì phá tất cả đại ma nghiệp

Vì muốn đầy đủ đại công đức

Vì muốn thị hiện đại thần thông

Vì vậy chư Phật họp tại đây

Hội nầy nếu có các chúng sanh

Chí tâm sanh lòng tin vui mừng

Nếu đem tâm tin nghe học pháp

Người nầy thì hay phá ma nghiệp

Nếu muốn thông đạt vô thượng thừa

Và muốn tu hành bát chánh đạo

Nếu muốn dứt hẳn các phiền não

Phải nên chí tâm nghe chánh pháp

Thỉnh mười phương Phật và Bồ Tát

Đều đến Đại Tập ngồi liên hoa

Thích ca Như Lai muốn nói pháp

Vì hộ chánh pháp trụ vô lượng

Âm thanh như vậy đầy khắp đại hội, có vô lượng Bồ Tát được vô lượng nhẫn, khác miệng đồng lời nói rằng: “Chúng tôi đã ngồi xong rồi, ngưỡng mong tuyên nói chánh pháp nhiếp tất cả pháp vô úy vi diệu hay phá ma nghiệp qua khỏi ma đạo, xô ngã ma tràng kiến lập thắng tràng, phá các phiền não điều phục oán địch, xé các lưới nghi nhập vào môn Nhứt thiết chủng trí, qua khỏi các bố úy thủ hộ Bồ Tát, cũng làm cho chư Bồ Tát tất cả đều thọ lạc, được môn huệ phương tiện Bồ Tát, để tất cả chúng được an lạc được tất cả tam muội nhẫn nhục quang minh, được môn huệ phương tiện, được ba mươi bảy phẩm trợc đạo tâm đà la ni.

Ngưỡng mong Như Lai rộng phân biệt diễn nói chúng sanh được an lạc được thượng sắc, thượng lục, thượng xúc, thượng biện, thượng niệm, thượng ý, để khi nghe pháp rồi chẳng quên mất, để trừ điểm xấu ác trong quốc độ, để thọ trì cấm giới tu tập chánh đạo chẳng mất tâm Vô thượng Bồ đề vậy.

Ngưỡng mong Như Lai vì các sự việc như vậy mà ban tuyên rộng nói đà la ni ấy, vì để hộ pháp để chẳng dứt giống Tam bửu, để chỉ dường Bồ đề cho tất cả, để chẳng phân biệt hư không với pháp tánh, cì tướng không rỗng bình đẳng vậy, hiển thị các tướng sáng tối có không kia đây đều bình đẳng, để chẳng phân biệt tất cả các pháp chúng sanh thọ mạng sĩ phu, bất sanh bất diệt dứt tất cả tướng tất cả biến dịch, không có vật như hư không là thiệt tánh.

Ngưỡng mong Thích Ca Mâu Ni Như Lai và chư Phật rộng tuyên phân biệt đà la ni lớn, để cho vô lượng vô biên chúng sanh chơn thiệt thấy Tam bửu, để cho vô lượng vô biên chúng sanh phát tâm Vô thượng Bồ đề”.

Tất cả vô lượng chư Phật yên lặng hứa khả.

Hứa khả rồi, chư Phật liền nhập tam muội chẳng phải thượng diệu cảnh giới thệ nguyện công đức.

Trong Ta Bà thế giới nầy có bao nhiêu địa ngục, ngạ qủi, súc sanh cá sự khổ liền dứt được thấy chư Phật. Có những chúng sanh nghi hoặc không tin thì được tịnh tín. Tất cả chúng sanh thảy đều không có những bịnh tham dục, sân hận, ngu si, kiêu mạn, nghi ngờ, ác kiến, cuồng lọan, thâm tâm tịch tĩnh, mỗi mỗi đều tự nghĩ rằng: Riêng ta một mình ngồi trước đức Phật nghe học chánh pháp. Dức Như Lai Thế Tôn chỉ vì ta mà thuyết pháp, riêng điều phục ta dứt các phiền não, như chỗ ta thỉnh mà thuyết pháp cho ta.

Tất cả chúng sanh trong thế giới khác miệng đồng lời nói rằng: “Nguyện đức Phật Như Lai thuyết pháp, tôi sẽ đảnh đới thọ trì”.

Đức Thích Ca Mâu Ni Phật khuyên tất cả chúng sanh thế giới nầy cúng dường chư Phật.

Chúng sanh ở thế giới nầy nghe lời khuyên bảo của Phật rồi liền cúng dường tất cả chư Phật những là hương hoa phan lọng kỹ nhạc tán thán.

Thích Ca Mâu Ni Thế Tôn liền nói rằng: “Thập phương chư Phật! Lắng nghe lắng nghe, ta vì bổn nguyện lực thuở trước nên ở tại Ta Bà thế giới trong hàng chúng sanh có đủ ngũ trược ác mà thành Vô thượng Bồ đề. Các chúng sanh nầy mê chánh đẹo, bị vô minh che đậy nên mất chánh niệm tăng trưởng phiền não, an ở ba ác đạo thích làm mười nghiệp ác, xa lìa thiện căn bỏ nghiệp công đức, ưa tạo ngũ nghịch ham mê phi pháp, phỉ báng chánh điển, chê bai Thánh nơn, sân hận quá nặng chẳng thích tu tâm từ, vật của Phật của Tăng tùy ý lấy dùng, nơi nghiệp nhơn quả báo không có thân tín, chẳng thích cúng dường Sư trưởng Hoà thượng những bực có đức. Vì những kẻ tệ ác như vậy mà ta tu tâm đại từ bi. Do nhơn duyên ấy mà ta thành Phật đạo tại Ta Bà thế giới nầy. Đã thành đạo rồi ta thường thích tu tập pháp cần tinh tiến, nhẫn chịu các sự khổ đói khát lạnh nóng đi khắp nước thành ấp tụ lạc vì các chúng sanh mà diễn nói chánh pháp.

Hoặc có chúng sanh nghèo cùng bịnh khổ thân thể xấu hèn, vì thương xót họ mà ta thọ nhận họ cùng thí vật thực thúi dơ, vì muốn cho thí chủ tăng trưởng phước đức nên ta đều ăn đó. Ta cũng nhận những y phục to rít hôi do rách rưới của họ dâng cúng. Những chỗ ở trong núi bên khe sông trong đồng hoang vắng trong rừng rậm mà họ dâng cúng ta đều nhận. Hoặc là cỏ, là lá, là đá, là gạch, vì thương chúng sanh nên họ thí cho món gì ta đều nhận lấy để ngồi nằm. Ta do cần tinh tiến mà tu thiện xảo phương tiện. Vì hàng Sát Đế Lợi nói việc nhà vua. Vì hàng Bà La Môn nói bốn phệ đà tinh tú tế tự. Ví các đại thần nói những sự trị hóa. Vì các y sư nói những bịnh do tứ đại tăng giảm. Vì các nông dân thương nghiệp mà nói về sự thủ hộ ngũ cốc tài sản. Vì hàng nữ nhơn mà nói thủ hộ anh lạc siêng làm điều lành được chồng bất cộng. Vì hàng xuất gia má nói nhẫn nhục. Ta vì điều phục họ mà nói những pháp như vậy. Người chưa được lợi ích lành tốt thì khuyên họ khiến họ được. Người chưa được chứng thì khuyên họ cho họ được chứng. Người chưa giải thoát thì khuyên họ cho họ được giải thoát. Vì điều phục chúng sanh mà ta chịu khổ não. Ta vì chúng sanh mà tu tập đại từ bi nhưng các chúng sanh còn có kẻ sanh lòng ác độc ối với ta: hoặc đánh hoặc mắng hoặc ganh tỵ. Có kẻ nói Sa Môn Cù Đàm là nhà ảo thuật dâu nói trì giới mà ổng chứa vợ con, dầu tán thán từ tâm mà ổng hại chúng sanh, dầu tán thán việc bỏ giàu sang mà ổng ở cung vua. Sa Môn Cù Đàm giỏi biết phương thuật nên dầu gần vợ mà chẳng sanh con cái. Sa Môn Cù Đàm hay khéo trị nữ thân nên khiến bà Mạt Lợi sanh lòng mến trọng ông Tu Đạt sanh ý tưởng tông kính. Sa Môn Cù Đàm giỏi biết được pháp nên khiến thân mình thường có quang minh. Ta bị vô lượng tiếng xấu như vậy.

Hoặc có kẻ lấy đá đất gỗ đao độc dược đánh ném muốn giết hại ta. Vì muốn giết ta nên có kẻ thả ác sư tử ác tượng độc xà. Nơi ta ở họ phóng lửa đốt ném phẩn dơ bất tịnh. Họ làm các thứ ác phương tiện để phá hoại pháp ta, để diệt pháp ta, để xô tràng pháp, để phá thuyền pháp, để dứt dứt pháp tánh, để phá pháp tạng.

Duy nguyện thập phương chư Phật quan sát quá khứ chư Phật, có đức Phật nào thành đạo trong thế giới ngũ trược mà chẳng nói Đại Tập kim cương phát tâm nhơn duyên tu tại đà la ni như vậy, để phá hoại tất cả các ma lực, để giống Tam bảo chẳng đoạn tuyệt để các chúng sanh tăng trưởng thiện pháp, để phá hoại tất cả oán địch của Phật pháp, để khiến chúng sanh xa lìa khổ, để diệt ác nghiệp nơi thân khẩu ý, để khiến nhơn thiên tâm tánh điều nhu, để các quốc độ thọ hưởng an lạc, để phá thế gian các ác tướng, để khiến chúng sanh đều được lục Ba la mật, vì khiến họ phát tâm Vô thượng Bồ đề, vì dạy thiện xảo phương tiện cho chư Bồ Tát, vì làm cho chư Bồ Tát thứ đệ an trụ vậy.

Do những nhơn duyên như vậy nên quá khứ chẳng phải vì các ngũ trược ác thế chúng sanh diễn nói Đại Tập kim cương pháp tâm nhơn duyên tự tại đà la ni nầy.

Nay tại Ta Bà thế giới nầy thập phương chư Phật đều đến tập họp, duy nguyện chẳng phải đều riêng nói chú đà la ni ấy, vì thương xót chúng sanh vậy, vì sẽ lưu bố kinh Đại Tập vậy. Vì cho chánh pháp được còn lâu nơi thế giới nầy vậy, vì khiến các ác ma chẳng được tiện lợi vậy”.

Lúc ấy chư Phật liền đồng thanh nói đà la ni cú:

“An gìa lã, an gìa lã, bán gìa lã, bà bà gìa lã, bà lã bà gìa lã, bà xà tỉ ha, mạn ra bà tỳ, a rí, a khê bà lãnh, đề mế, độ mộ vẫn, kiều bà tri, kiều do ly, ma bà a ni, tam ma đa bà đề lãnh, a di a di, đà ma kiều xà, di ra nâu phá lê, phá la ba dẫn, gìa ninh, gìa gia bà lã dẫn, hi lợi, hi đề, hi la, kiêu hi la, chiêm bà đề, bà ca tu, tra ca dẫn, tra ca bà la dản, gìa na ba ha dẫn, hi lợi dẫn, thi lợi dẫn, tần địa lợi bà dẫn, cụ bà hi, thù lãnh, di ra thù lãnh, thù tỉ, a kỳ ly, a bà di, bà lợi dã, đa đá tha, phú lưu, hi lợi, chiến địa ly, ma đà di, đà di cứu chân lưu, mâu châu lưu, a gía tra, chí lợi. Chí di lợi, giá bà ha, châu bà, châu lũ, mê ra bà ha, cứu lũ, bà la cứu động, cứu động, ma ha bà lã sa, đoạn động, đoạn động, ma ha tát ra hi lực đà xà, phú bãi, tu phú bãi, độ ma ba lợi ha lợi, a bà di, lưu chi ninh, ca lã xoa, a đà ma đâu, tỉ bà ha, đề đề lợi, ma ma lợi, ba xá khê, hoặc hoặc lã, lộ ca tỉ na xà ca, bà thì lợi, bà thì la đà ngâm, bà thì ly đà đề, chước ca la bà thì ly, gia cư ly, giá ca la bà đề, đà ngâm, đà ngâm, bà lãnh, mâu ly tra ngâm, hưu hưu ngâm, đa gìa tần bà ngâm, xá lợi xa, lưu lưu châu, chí lợi châu lợi, mâu ngâm mộ đà ngâm, mộ đồ ninh, mộ đồ ninh, già già la ni, mâu đồ ninh, tán bà lã mâu đồ ninh, đề đề la xà ni, ma hê thủ la lã xà ni, luật sư bà ni, đà lã bà chí, chiến đồ lã tố mế, tát bà tát tả a đề sất đa, xa đà đâu bà a na, ma di ni, bà lã lã đề, ô xà kỳ ly, tỉ tỉ na, bà na ha lã, phục Phật ngâm, cừu lưu, mâu lưu, mâu lưu, hi hi, hi hi, a lã, a lã, ca ca đồ bà ha, hi hi đa, a do na, kiền đồ chiêm bà tư, kiệt đà ni, a ba a ha ninh, mạt lực gìa tỉ lưu, phá la tát đá, a lộ sa bà đề, hi lợi hi lợi, dạ đá bà xà xà, tá kỳ la, dạ đá ba lan gía, hi lực đà bà ha, tát đa ba lợi bà bà, mạt lực gìa tỳ lô ha ni, a gía lã Phật đề, đà xà ba la lã giá ba gía xà, tân đồ hi lục đà xà, chiến đà lã bà lã ninh, a gía ngâm thâu đà ninh, bà lã ký lã ma lực gìa, y lã, ba lã ký lã ma lực gìa, y lã, y lợi ngâm, ba cát tì, bà la bà lã dẫn, tát bà lã đa đá, tát đa nâu kiệt tì, a na bà lã na phục luật dẫn, a la đồ, an gìa ngâm, xá di ni, tỉ bà la bà du hi, a hi đa, a bà hi, ni lã bà xà bà, a chi la mạt lực gìa, lã bà na, la cừu bà ngâm, lê lặc na bằng xá, đà ma gìa xà, xà la chiến đà , mâu đà la bà đề, ma ha phục đa tì tỉ bà tam mâu đà, đà la ni mâu đà ly na, ma khê mâu đà lã, sa lã bà đề, tư tỉ đà mâu đà, a bà đa ni, bà bà đa ni, mộ ca lã, tỉ đậu đa lã tư na, xí đề mâu địa ly đô tư, di ca chi, tỉ lợi si tỉ ca xà, bà ha bà ha ký đồ, ca bà tra, ni la ba la đề đa hi lực đà đà xà, mâu đà đa đà la ni, đà la, đà la, đà la, đàn đề la, đàn đề la hưu ni la tát bà hi lực đà xà vật là ly đô tư xà tra, xà bà tra, xà khê bà tra, tu ma đề, ma đề, ma ha phục đa vật đà la đa, dị kiều chi tán ca la, bà đồ xà đa na ni, thủ lực đa phục đa, y di ni di ni, bà gía ni, thâu sa tát gía ni, mâu địa ly đa gía lợi dã hà đề mế na, bà tỉ đá, a na nhã đá, ma ha phú nhã tam mâu gía xà đa la ma ha già lưu ni ca mâu địa ly đa, tát bà tam miệu ba la đề ban, chí lã xà la đâu, tát bà ni lê, tát bà mâu ni bà la sa sa ma ha ca lưu na tam ma đề nhã na nhã nabà ly nan, ma ra đa kiệt tỳ, tỉ lợi dã tỉ lợi dã, bà lê na đề sất đa, tát bà phục đô ba xà, sa ha”.

Lúc ấy Ta Bà thế giới chúng sanh nghe đà la ni chú ấy rồi, đều xưng rằng: “Nam mô Nhứt thiết thập phương chư Phật. Lần thứ hai lần thứ ba cũng xưng như vậy. Thậm kỳ thậm đặc chư Phật đại hội bất khả tư nghị, sư việc của chư Phật Bồ Tát cũng bất khả tư nghị. Từ xưa chúng tôi chưa từng được nghe tên đà la ni như vậy mà nay được nghe, có thể phá hoại tất cả ma cảnh giới, nối thạnh tánh Tam bửu, dứt lưới nghi ma, được các pháp lành đầy đủ Phật sự, vì các sự như vậy mà nói đại tổng trì ấy, vì các chúng sanh thủ trước nơi tâm mà làm ấn niêm, niêm phong pháp ấm nhập giới của các chúng sanh nhẫn đến chúng được Đại bát Niết bàn”.

Trong đại hội có một đồng tử Bồ Tát tên là Nguyệt Quang, từ liên hoa dậy nhứt tâm hiệp chưởng quán sát mười phương, do Phật thần lực phát âm thanh lớn nghe khắp Ta Bà thế giới mà nói kệ rằng:

Hội Đại Tập nầy rất khó được

Đầy đủ trí huệ cũng lại khó

Khó được gần kề thiện trí thức

Pháp ấn như vậy khó được nghe

Như Lai thương xót các chúng sanh

Vì chúng sanh nên hộ chánh pháp

Nói đà la ni vô thượng ấy

Để phá hoại hết các ma lực

Mười phương chư Phật nói chú ấy

Để chẳng đoạn tuyệt tánh Tam bửu

Hay trừ tất cả sự giận tranh

Cũng hay tăng trưởng vô thượng nhẫn

Tăng ích chúng sanh các thiện căn

Tiêu diệt quốc độ các ác tướng

Hay phá chúng sanh ba nghiệp ác

Cũng khiến xa lìa các ác kiến

Phật nói tổng trì vô thượng ấy

Vì muốn biển thị đao vô thượng

Cũng để đủ sáu Ba la mật

Chơn thiệt tu tập đạo Bồ đề

Chú ấy tức là thiện phương tiện

Cũng hay tăng trưởng vô ngại trí

Nhiếp lấy tất cả các thiện pháp

Thế nên gọi là chú vô thượng

Tu đủ ba mươi bảy đạo phẩm

Gọi là vô cấu Bồ đề đạo

Hay dứt tất cả tâm nghi hoặc

Và dứt chúng sanh các phiền não

Chú nầy tức là chơn thiệt ngữ

Tỏ rõ nhìn thấy đạo Bồ đề

Nay tôi muốn nói đà la ni

Đây thì gọi là vô thượng thắng

Vì muốn ủng hộ các Pháp sư

Và hộ người nghe học chú nầy

Ai muốn nghe muốn học chú nầy

Tôi nay nói chú chớ sanh nghi

Vô thượng vô thắng đà la ni

Tức là trí huệ tối vô thượng.

Lúc ấy có vô thượng hằng hà sa đồng tử Bồ Tát khác miệng đồng lời nói rằng: “Chúng tôi cũng muốn nói đà la ni, nếu có Tỳ Kheo, Tỳ Kheo Ni, Ưu Bà Tắc. Ưu Bà Di trước nên tắm gọi thân tâm sạch sẽ, mặc y phục mới, dáng điệu hương hoa cúng dường Tam bửu rồi lên pháp tòa nói đà la ni. Tứ chúng như vậy không có chúng sanh nào có thể khởi ác sự làm hại được. Người ấy thân tâm chẳng ô trược tứ đại thanh tịnh, các bịnh khổ nơi thân thảy đều xa lìa. Pháp sư ấy nếu có quá khứ nghiệp nhơn duyên bịnh thảy đều tiêu diệt. Người nghe pháp ấy cũng diệt trừ quá khứ nghiệp nhơn duyên bịnh”.

Lúc ấy Nguyệt Quang đồng tử Bồ Tát hướng lên thập phương chư Phật tại hội Đại Tập, qùy dài chấp tay mà nói chú rằng:

“Ma đề a tam ma lộ ti, mế la tố ma bà dẫn,y hi na gía ni, na bà cửa gía ni, na gía ni, mâu la thâu đà ni, bà đồ khê, bà đồ khê, tu la la ni, na bà tu la la ni, phục đa câu tri, ba lợi xa đà, xà la khê, xà la khê bà di, xà la khê na, ma xoa khê, ca ca khê, ba ha, ha ha, hưu hưu hưu, bát thi tỳ đà na lợi xa đà, a ma ma, khê ma, mâu đà la, a đà la khê bà, tán ca la ni, ba lợi xa đà bồ đề sa xí đề tỉ ma, tỉ tỉ ma, ma ha tỉ tỉ ma, phục đa câu tri, a ca xa giới bà bà ba lợi xa đà, sá ha”.

Nguyệt Quang Bồ Tát nói chú rồi, Ta Bà thế giới thập mươi chư Phật, chư Bồ Tát, chư Thanh Văn, Đế Thích, Phạm Vương, Tứ Thiên Vương, Thiên Long Bát Bộ đồng thanh xướng rằng: “Lành thay lành thay! Bồ Tát đồng tử khéo có thể nói đại đà la ni ấy đề phá ma nghiệp và ác tri thức cùng các bịnh nơi thân tâm, đây là thượng huệ ấn”.

Trong đại hội có một Phạm Vương tên là Bồ đề Tự Tại biến thân mình làm hình nữ nhơn đoan nghiêm xinh đẹp hơn hàng nhơn thiên, dùng diệu anh lạc để tự trang nghiêm, ở trước Tây phương Phật A Di Đà Như Lai chắp tay bạch rằng: “Duy nguyện đức Như Lai gia thần lực cho tôi làm cho tôi một âm thanh vang khắp Ta Bà thế giới nầy. Nay tôi muốn nói đà la ni chú để hộ trợ người thuyết pháp và người nghe pháp. Cũng làm cho sau lúc Thích Ca Mâu Ni Phật diệt độ không ai có thể ỡ nơi người nói pháp nầy mà khởi ác sự gây hại được, hoặc là ma vương, hoặc là ma vương cha mẹ con cái quyến thuộc, hoặc là Thiên, Long, A Tu La, Dạ Xoa, Ca Lâu La, Càn Thát Bà, Khẩn Na La, Ma Hầu La Gìa, Nhơn và Phi nhơn, hoặc Cưu Bà Trà, hoặc Phú Đơn Na, Ca Đa Phú Đơn Na, Lệ Lê Đa, Tì Xá Xà, Dạ Xoa, La Sát, cùng cha mẹ con cái quyến thuộc, tất cả ác qủy thần chẳng có thể ở nơi Pháp sư ấy gây hại được nhẫn đến chẳng thể động được một sợi lông của Pháp sư ấy.

Duy nguyện Như Lai gia thần lực cho tôi, khiến âm thanh nói chú của tôi vang khắp thế giới nầy”.