kết quả từ 1 tới 15 trên 15

Ðề tài: KINH ÁNH SÁNG HOÀNG KIM

  1. #1

    Mặc định KINH ÁNH SÁNG HOÀNG KIM

    Phẩm 1: Mở Đầu Pháp Thọai

    Tôi nghe như vầy. Một thời đức Thế tôn, tại đỉnh Thứu phong thuộc thành Vương xá, Ngài ở nơi pháp giới rất trong sáng, rất sâu xa. Pháp giới ấy là lĩnh vực của Phật đà, là trú xứ của Thế tôn.

    Bấy giờ chúng đại bí sô có chín mươi tám ngàn vị, toàn là a la hán; khéo tự thuần hóa, in như voi chúa; sơ hở đã hết, không còn phiền não; tâm khéo giải thoát, tuệ khéo giải thoát; việc làm hoàn tất, bỏ mọi gánh nặng; đạt đến tự lợi, hết sạch kiết sử; được đại tự tại, ở trong tịnh giới; phương tiện khéo léo, tuệ giác trang nghiêm; được tám giải thoát, đến bờ bên kia. Danh hiệu các vị là cụ thọ A nhã kiều trần như, cụ thọ A thuyết thị đa, cụ thọ Bà thấp ba, cụ thọ Ma ha na ma, cụ thọ Bà đế lị ca, tôn giả Đại ca nhiếp ba, tôn giả Ưu lâu tần loa ca nhiếp, tôn giả Dà da ca nhiếp, tôn giả Na đề ca nhiếp, tôn giả Xá lị tử, tôn giả Đại mục kiền liên, tôn giả A nan đà, người ở vị trí đang còn tu học. Các vị đại thanh văn như vậy, sau lúc quá trưa cùng xuất định, đến chỗ đức Thế tôn, đảnh lễ ngang chân Ngài, đi quanh Ngài ba vòng theo chiều bên phải, rồi lui ra cùng ngồi một phía.

    Chúng đại bồ tát trăm ngàn vạn ức vị, có uy đức lớn, như đại long vương; tiếng khen vang khắp, ai cũng biết đến; thường thích phụng hành tịnh thí tịnh giới; nhẫn nhục tinh tiến qua vô số kiếp; vượt mọi thiền định, tâm ở trước mắt; mở cửa tuệ giác, thiện dụng phương tiện; tự tại du hành thần thông vi diệu; thành đạt tổng trì, hùng biện vô tận; cắt đứt phiền não, hệ lụy không còn; đã gần thành đạt trí tuệ toàn giác; chế ngự ngoại đạo cho sinh tịnh tâm; chuyển đẩy pháp luân, hóa độ người trời; mười phương cõi Phật đều trang hoàng cả; sáu nẻo hữu tình đều nhờ ích lợi; thành tựu đại trí, viên mãn đại nhẫn; có tâm đại từ bi, có lực đại kiên cố; phụng sự chư Phật, không nhập niết bàn; phát nguyện rộng lớn, cùng tận vị lai; nơi các đức Phật trồng sâu tịnh nhân; cả ba thì gian ngộ vô sinh nhẫn; vượt qua lĩnh vực nhị thừa bước đi; đem đại thiện phương tiện mà hóa đạo thế giới; phu diễn được hết giáo huấn của Phật; với đạo lý Không sâu xa bí mật, đều thấu triệt cả không còn nghi hoặc. Danh hiệu các vị là bồ tát Vô chướng ngại chuyển pháp luân, bồ tát Thường phát tâm chuyển pháp luân, bồ tát Thường tinh tiến, bồ tát Bất hưu tức, bồ tát Từ thị, bồ tát Diệu cát tường, bồ tát Quan tự tại, bồ tát Tổng trì tự tại vương, bồ tát Đại biện trang nghiêm vương, bồ tát Diệu cao sơn vương, bồ tát Đại hải thâm vương, bồ tát Bảo tràng, bồ tát Đại bảo tràng, bồ tát Địa tạng, bồ tát Hư không tạng, bồ tát Bảo thủ tự tại, bồ tát Kim cang thủ, bồ tát Hoan hỷ lực, bồ tát Đại pháp lực, bồ tát Đại trang nghiêm quang, bồ tát Đại kim quang trang nghiêm, bồ tát Tịnh giới, bồ tát Thường định, bồ tát Cực thanh tịnh tuệ, bồ tát Kiên cố tinh tiến, bồ tát Tâm như hư không, bồ tát Bất đoạn đại nguyện, bồ tát Thí dược, bồ tát Liệu chư phiền não bịnh, bồ tát Y vương, bồ tát Hoan hỷ cao vương, bồ tát Đắc thượng thọ ký, bồ tát Đại vân tịnh quang, bồ tát Đại vân trì pháp, bồ tát Đại vân danh xưng hỷ lạc, bồ tát Đại vân hiện vô biên xưng, bồ tát Đại vân sư tử hống, bồ tát Đại vân ngưu vương hống, bồ tát Đại vân cát tường, bồ tát Đại vân bảo đức, bồ tát Đại vân nhật tạng, bồ tát Đại vân nguyệt tạng, bồ tát Đại vân tinh quang, bồ tát Đại vân hỏa quang, bồ tát Đại vân điện quang, bồ tát Đại vân lôi âm, bồ tát Đại vân tuệ vũ sung biến, bồ tát Đại vân thanh tịnh vũ vương, bồ tát Đại vân hoa thọ vương, bồ tát Đại vân thanh liên hoa hương, bồ tát Đại vân bảo chiên đàn hương thanh lương thân, bồ tát Đại vân trừ ám, bồ tát Đại vân phá ế. Các vị đại bồ tát như vậy, sau lúc quá trưa cùng xuất định, đến chỗ đức Thế tôn, đảnh lễ ngang chân Ngài, đi quanh Ngài ba vòng theo chiều bên phải, rồi lui ra cùng ngồi một phía.

    Lại có năm trăm tám ngàn đồng tử Lê xa tì, tên là đồng tử Sư tử quang, đồng tử Sư tử tuệ, đồng tử Pháp thọ, đồng tử Nhân đà ra thọ, đồng tử Đại quang, đồng tử Đại mãnh, đồng tử Phật hộ, đồng tử Pháp hộ, đồng tử Tăng hộ, đồng tử Kim cang hộ, đồng tử Hư không hộ, đồng tử Hư không hống, đồng tử Bảo tạng, đồng tử Cát tường diệu tạng. Những đồng tử như vậy làm người đứng đầu. Họ cùng đứng vững nơi vô thượng giác, thâm tín vui thích đối với đại thừa. Sau lúc quá trưa họ đến chỗ đức Thế tôn, đảnh lễ ngang chân Ngài, đi quanh Ngài ba vòng theo chiều bên phải, rồi lui ra cùng ngồi một phía. Có bốn mươi hai ngàn thiên tử, tên là thiên tử Hỷ kiến, thiên tử Hỷ duyệt, thiên tử Nhật quang, thiên tử Nguyệt kế, thiên tử Minh tuệ, thiên tử Hư không tịnh tuệ, thiên tử Trừ phiền não, thiên tử Cát tường. Những thiên tử như vậy làm người đứng đầu. Họ phát đại nguyện hộ vệ đại thừa, làm cho chánh pháp rực rỡ liên tục. Sau lúc quá trưa, họ đến chỗ đức Thế tôn, đảnh lễ ngang chân Ngài, đi quanh Ngài ba vòng theo chiều bên phải, rồi lui ra cùng ngồi một phía. Có hai mươi tám ngàn long vương, long vương Liên hoa, long vương EÁ la diệp, long vương Đại lực, long vương Đại hống, long vương Tiểu ba, long vương Trì sử thủy, long vương Kim diện, long vương Như ý. Những long vương như vậy làm người đứng đầu. Họ thường thích nhớ chánh pháp đại thừa, tin tưởng sâu xa, tán dương duy trì. Sau lúc quá trưa, họ đến chỗ đức Thế tôn, đảnh lễ ngang chân Ngài, đi quanh Ngài ba vòng theo chiều bên phải, rồi lui ra cùng ngồi một phía. Có ba mươi sáu ngàn Dược xoa, đứng đầu bởi Tì sa môn thiên vương, tên của họ là dược xoa Yêm bà, dược xoa Trì yêm bà, dược xoa Liên hoa quang tạng, dược xoa Liên hoa diện, dược xoa Tần mi, dược xoa Hiện đại bố, dược xoa Động địa, dược xoa Thôn thực. Những dược xoa như vậy ưa thích chánh pháp của đức Thế tôn, chân thành duy trì, không hề giải đãi. Sau lúc quá trưa, họ đến chỗ đức Thế tôn, đảnh lễ ngang chân Ngài, đi quanh Ngài ba vòng theo chiều bên phải, rồi lui ra cùng ngồi một phía. Có bốn mươi chín ngàn yết lộ trà vương, đứng đầu bởi Hương tượng thế lực vương; có kiền thát bà, a tô la, khẩn na la, mạc hô lạc dà, vân vân; có các thần tiên rừng núi sông biển; có quốc vương của các quốc gia lớn, được tháp tùng bởi hoàng hậu hoàng phi; có nam nữ đức tin trong sáng. Các chúng nhân loại và chư thiên cùng đến vân tập, cùng nguyện hộ vệ đại thừa tối thượng, đọc xét văn nghĩa, tụng tập thuộc lòng, học hỏi tiếp nhận, nắm giữ trong trí, sao chép lưu thông (2) . Sau lúc quá trưa, họ đến chỗ đức Thế tôn, đảnh lễ ngang chân Ngài, đi quanh Ngài ba vòng theo chiều phải, rồi lui ra cùng ngồi mỗi chúng một phía.

    Đại hội như vậy, bao gồm thanh văn, bồ tát, nhân loại, chư thiên, tám bộ long thần, vân tập cả rồi, ai cũng nhất tâm, chắp tay cung kính, chiêm ngưỡng Thế tôn, mắt không rời Ngài. Họ thích thú muốn nghe chánh pháp siêu việt, nhiệm mầu.

    Lúc ấy đức Thế tôn, sau lúc quá trưa, xuất khỏi thiền định, quan sát đại hội mà nói những lời chỉnh chú sau đây.

    (1) Ánh sáng hoàng kim,

    bản kinh nhiệm mầu,

    siêu việt hơn hết,

    vua của các kinh.

    Kinh ấy rất sâu,

    khó mà được nghe;

    kinh ấy chính là

    lĩnh vực của Phật.

    (2- 3) Như lai ngày nay

    sẽ tuyên thuyết đến

    bản kinh như vậy

    cho cả đại hội.

    Hướng đông có đức

    A súc như lai,

    hướng nam có đức

    Bảo tướng như lai,

    Như lai hướng tây

    là Vô lượng thọ,

    Như lai hướng bắc

    là Thiên cổ âm,

    bốn đức Như lai

    bốn hướng như vậy

    cùng đem uy thần

    hộ trì kinh này.

    (4) Như lai sẽ nói

    pháp mầu sám hối,

    pháp ấy cát tường

    pháp ấy thù thắng.

    Năng lực pháp ấy

    diệt mọi tội ác,

    loại trừ sạch sẽ

    những hành vi ác,

    (5) tiêu tan mọi nỗi

    khổ não tai họa,

    thường xuyên đem lại

    yên vui khó lường.

    Căn bản pháp ấy

    là nhất thế trí,

    và được trang hoàng

    bởi bao phẩm chất.

    (6) Những ai cơ thể

    không được hoàn hảo,

    đời sống sắp sửa

    đi đến hủy diệt,

    những sự đáng sợ

    đã biến hiện ra,

    chư thiên thiện thần

    cùng lánh xa cả.

    (7) Thân hữu tức giận,

    thân quyến phân ly,

    mọi phía chống nhau,

    sản vật tan tác,

    (8) ác tinh tác quái,

    tà độc xâm phạm,

    ưu sầu quá nhiều,

    khổ não lại ép,

    (9) ngủ nghỉ ác mộng

    từ đó phiền não.

    Người ấy phải nên

    tắm rửa sạch sẽ,

    và mặc y phục

    sạch sẽ tinh khiết.

    (10) Đối với kinh này

    bản kinh mầu nhiệm,

    rất mực sâu xa

    Như lai ca tụng,

    hãy nên chuyên chú

    lòng không tán loạn,

    nghiên cứu, tụng thuộc,

    lắng nghe, tiếp nhận,

    nắm giữ trong trí

    chuyên tâm phụng trì.

    (11) Thì nhờ uy lực

    của kinh pháp này

    mà được tách rời

    mọi sự tai họa,

    bao nỗi khổ sở

    cùng trừ diệt cả.

    (12) Bốn vị thiên vương

    hộ vệ thế giới,

    cùng với đại thần

    tùy thuộc của họ,

    vô lượng dược xoa

    nhất tâm hộ vệ.

    (13 - 14) Lại có thiên nữ

    tên Đại biện tài,

    thần sông Ni liên,

    thần mẹ Ha lị,

    địa thần Kiên lao,

    Phạn vương, Đế thích,

    cùng với long vương,

    và khẩn na la,

    kim sí điểu vương,

    tu la, chư thiên.

    (15) Bao nhiêu chư thiên

    thần chúng như vầy

    ai cũng đem theo

    tùy tùng của mình,

    cùng đến hộ vệ

    cho người như vậy,

    cả ngày liền đêm

    thường không tách rời

    (16) Như lai sẽ nói

    về kinh pháp này,

    bản kinh rất sâu,

    chỗ Như lai đi,

    và là mật giáo

    của chư Như lai,

    ngàn vạn đời kiếp

    khó mà gặp được.

    (17) Ai nghe kinh này,

    đem nói cho người,

    hay sinh tùy hỷ

    hoặc thiết cúng phẩm,

    (18) thì người như vậy

    sẽ vô lượng kiếp

    được các thiên nhân

    long thần kính trọng.

    (19) Cái khối phước đức

    nhiều hơn hằng sa,

    nghiên cứu, tụng thuộc

    kinh pháp như vầy,

    thì sẽ có được

    khối phước đức ấy,

    (20) được chư Thế tôn

    khắp trong mười phương,

    được chư Bồ tát

    tu hành sâu xa,

    cùng hộ trì cho

    tách rời khổ nạn.

    (21) Hiến cúng kinh này

    thì như đã nói

    tắm rửa sạch sẽ,

    phụng hiến hoa hương,

    khởi ý từ bi

    vì người phụng hiến.

    (22) Muốn nghe kinh này

    tâm phải sạch sẽ,

    thường sinh hoan hỷ

    lớn thêm công đức.

    (23) Đem lòng tôn trọng

    mà nghe kinh này,

    thì thế chính là

    khéo làm thân người,

    rời xa mọi nỗi

    khổ não tai nạn.

    (24) Kẻ ấy thiện căn

    đã là thuần thục,

    được chư Như lai

    cùng nhau ca tụng,

    mới nghe kinh này

    và sám pháp này.
    VÔ CÔNG DỤNG HẠNH - VÔ KHUẤT LIỄU HẠNH - VÔ CẤU PHÁP - VÔ TÁT Ý - VÔ SỞ ĐẮC - VÔ SỞ CẦU - VÔ SỞ TRỤ - VÔ SỞ ÚY

  2. #2

    Mặc định

    Phẩm 2: Thọ Lượng Thế Tôn

    Trong thành Vương xá có vị bồ tát tên Diệu tràng (3) , đã ở nơi quá khứ vô lượng chư Phật phụng sự, hiến cúng, trồng các thiện căn. Bấy giờ bồ tát Diệu tràng một mình ở chỗ thanh vắng, nghĩ rằng, vì lý do nào mà đức Thích ca thế tôn thọ lượng ngắn ngủi, chỉ tám mươi năm. Lại nghĩ, như đức Thế tôn dạy, có hai lý do được thọ lượng lâu dài. Hai lý do ấy là gì, một là không hại sinh mạng, hai là hiến cho ẩm thực. Mà đức Thích ca thế tôn thì đã vô số đại kiếp không hại sinh mạng, làm mười thiện nghiệp; lại thường đem ẩm thực hiến cho chúng sinh đói khát, thậm chí máu thịt xương tủy của mình cũng đem mà cho, huống chỉ ẩm thực.

    Khi bồ tát Diệu tràng nghĩ về đức Thế tôn như vậy thì, do uy lực của Ngài, phòng ông bỗng nhiên rộng lớn, đẹp và sạch, với những thứ ngọc đế thanh lưu ly màu sắc xen nhau mà trang hoàng, in như tịnh độ của chư Phật. Có hơi thơm tuyệt diệu, quá hơn hương liệu chư thiên, thơm tho khắp cả. Bốn phía phòng ấy có bốn bảo tọa sư tử, thượng hạng và tinh hảo, được tạo thành bởi bốn loại ngọc. Ở trên bảo tọa trải vải quí của chư thiên. Bốn bảo tọa đều xuất hiện hoa sen tuyệt diệu, trang sức bằng những thứ ngọc quí, tầm cỡ tương xứng với các đức Thế tôn. Trên bốn hoa sen có bốn đức Thế tôn: Bất động thế tôn ở phương đông, Bảo tướng thế tôn ở phương nam, Vô lượng thọ thế tôn ở phương tây, Thiên cổ âm thế tôn ở phương bắc. Mỗi đức Thế tôn cùng ngồi xếp bằng trên một bảo tọa, phóng ánh sáng lớn chiếu rực cả thành Vương xá, cả đại thiên thế giới, cả mười phương hằng sa cõi Phật. Thiên hoa mưa xuống, thiên nhạc tấu lên. Bấy giờ trong Thiệm bộ châu và đại thiên thế giới, bao nhiêu chúng sinh đều nhờ uy lực của chư vị Thế tôn mà hưởng được cái vui siêu việt, tinh tế, không thiếu gì cả. Ai cơ thể bất toàn thì toàn hảo. Ai mù thì thấy đuợc. Ai điếc thì nghe được. Ai ngọng thì nói được. Ai ngu thì khôn. Ai điên thì tỉnh. Ai rách rưới thì được y phục. Ai bị khinh ghét thì được kính trọng. Ai dơ bẩn thì được thanh khiết. Thế giới này, bao chuyện hiếm có đều diễn ra.

    Bấy giờ bồ tát Diệu tràng thấy bốn đức Thế tôn và bao điều hiếm có thì vui mừng hết sức, chắp tay, nhất tâm, chiêm ngưỡng tướng hảo thù thắng của các Ngài. Bồ tát lại nghĩ đến công đức vô lượng của đức Thích ca thế tôn, chỉ hoài nghi về thọ lượng của Ngài, rằng tại sao Thế tôn công đức vô lượng mà thọ lượng ngắn ngủi, chỉ có tám thập kỷ? Lúc ấy bốn đức Thế tôn bảo bồ tát Diệu tràng, thiện nam tử, ông không nên nghĩ Thích ca như lai thọ lượng dài ngắn. Tại sao? Vì, thiện nam tử, chư Như lai không thấy chư thiên, nhân loại, phạn vương, ma vương, sa môn, bà la môn, tất cả nhân loại và phi nhân loại, có ai tính mà biết được giới hạn thọ lượng của đức Thích ca như lai, trừ ra các bậc Vô thượng biến giác. Bốn đức Thế tôn muốn nói thọ lượng của đức Thích ca thế tôn. Do uy lực của các Ngài, chư thiên cõi Dục và cõi Sắc, tám bộ long thần, vô số bồ tát cùng đến vân tập trong cái phòng tuyệt diệu của bồ tát Diệu tràng. Đối với đại hội như vậy, bốn đức Thế tôn muốn hiển thị thọ lượng của đức Thích ca thế tôn nên nói những lời chỉnh cú sau đây.

    (1) Biết được số giọt

    nước các biển cả,

    mà không thể biết

    thọ lượng Thích tôn.

    (2) Nghiền núi Tu di

    thành những hạt cải,

    số hạt cải ấy

    có thể biết được,

    mà không biết được

    thọ lượng Thích tôn.

    (3) Có thể biết được

    số bụi đại địa,

    không thể đếm biết

    thọ lượng Thích tôn.

    (4) Lường tính không gian

    biết được biên tế,

    mà không lường nổi

    thọ lượng Thích tôn.

    (5) Nếu ai sống đến

    trăm ngàn đời kiếp,

    tận lực thường xuyên

    dùng toán mà tính,

    cũng không biết được

    thọ lượng Thích tôn.

    (6) Không hại sinh mạng,

    hiến cho ẩm thực,

    chính do hai loại

    diệu nhân như vậy

    làm cho đạt được

    thọ lượng lâu dài.

    (7) Do đó thọ lượng

    của bậc Đại giác

    khó có người nào

    biết được số lượng.

    Tựa như thì gian (4)

    vô cùng vô tận,

    thọ lượng Thích tôn

    cũng y như thế.

    (8) Diệu tràng, nên biết:

    không nên hoài nghi;

    thọ lượng các đấng

    Siêu việt bậc nhất,

    không một người nào

    biết được số lượng.

    Lúc ấy bồ tát Diệu tràng nghe bốn đức Thế tôn nói thọ lượng bất tận của đức Thích ca thế tôn, thì tác bạch như vầy, kính bạch chư vị Thế tôn, tại sao đức Thích ca thế tôn thị hiện thọ lượng ngắn ngủi? Bốn đức Thế tôn dạy bồ tát Diệu tràng, thiện nam tử, khi đức Thích ca thế tôn xuất hiện trong giai đoạn đủ cả năm thứ dơ bẩn, thì thọ lượng nhân loại chỉ trên dưới bách kỷ, bẩm tính thấp hèn, thiện căn kém mỏng, không tin hiểu gì. Nhân loại như vậy đa số quan niệm bản ngã, quan niệm sinh thể, quan niệm linh hồn; quan niệm tồn tại -- những quan niệm bồi dưỡng, quan niệm sai lầm -- quan niệm bản ngã và sở hữu của bản ngã, quan niệm vĩnh hằng, quan niệm hư vô (5) . Để lợi ích cho những kẻ dị sinh và dị giáo như vậy, làm cho họ phát sinh lý giải chính xác, mau chóng đạt đến tuệ giác tối thượng, nên đức Thích ca như lai thị hiện thọ lượng ngắn ngủi. Thiện nam tử, đức Thích ca như lai muốn làm cho chúng sinh thấy Ngài niết bàn để sinh ý tưởng khó gặp, ý tưởng lo lắng; đối với kinh pháp Ngài nói, họ lo cấp tốc tiếp nhận, ghi nhớ, cứu xét, tụng thuộc cho thông suốt, đem nói cho người, không hề khinh thường. Vì muốn như vậy mà đức Thích ca như lai thị hiện thọ lượng ngắn ngủi. Lý do ở đây là, chúng sinh như đã nói ở trước, nếu thấy đức Thích ca như lai không nhập niết bàn, thì không có ý tưởng kính trọng, khó gặp; đối với kinh pháp sâu xa mà Ngài tuyên thuyết cũng không lo tiếp nhận, ghi nhớ, cứu xét, tụng thuộc cho thông suốt, và đem nói cho người. Tại sao như vậy, vì thường xuyên thấy Phật thì không kính trọng nữa. Thiện nam tử, ví như có kẻ thấy cha mẹ mình có lắm của cải vàng ngọc thì, đối với tài sản ấy, người con không sinh ý tưởng hiếm có, khó gặp, tại sao, vì đối với cha mẹ, và tài sản của cha mẹ, người con có ý tưởng còn mãi. Thiện nam tử, chúng sinh kia cũng vậy, nếu thấy đức Thích ca như lai không nhập niết bàn thì không sinh ý tưởng hiếm có, khó gặp, lý do là vì thường thấy. Thiện nam tử, ví như có kẻ cha mẹ nghèo nàn, thiếu thốn tài sản, người con nghèo thiếu đến cung vua chúa hay đến dinh đại thần, thấy tài sản tràn đầy, thì sinh ý tưởng hiếm có, khó gặp. Người con này muốn có tài sản nên làm lụng đủ cách, siêng năng không nhác, lý do là để hết nghèo nàn, hưởng an lạc. Thiện nam tử, chúng sinh kia cũng vậy, nếu thấy đức Thích ca như lai nhập vào niết bàn mới có ý tưởng khó gặp, ý tưởng lo lắng. Họ nghĩ, vô số kiếp Phật mới xuất hiện, như hoa ô đàm lâu lắm mới có một lần. Nghĩ vậy nên họ có ý tưởng hiếm có, ý tưởng khó gặp. Và gặp Phật thì tôn kính, tin tưởng, nghe Ngài thuyết pháp thì có ý tưởng nói thật, bao nhiêu kinh pháp đều tiếp nhận, ghi nhớ, chớ không khinh thường. Thiện nam tử, vì lý do đã nói trên đây mà đức Thích ca như lai không ở đời lâu dài, niết bàn mau chóng. Thiện nam tử, như thế đó, chư vị Như lai áp dụng phương tiện khéo léo mà tác thành chúng sinh. Nói như vậy rồi, bốn đức Thế tôn bỗng nhiên ẩn mất.

    Bấy giờ bồ tát Diệu tràng cùng với vô lượng bồ tát, và vô số chúng sinh, cùng nhau đi đến trên đỉnh Thứu phong, chỗ đức Thích ca thế tôn, đảnh lễ ngang chân Ngài rồi đứng qua một bên. Bồ tát Diệu tràng đem sự thể trên đây trình bạch đầy đủ với đức Thế tôn. Lúc ấy bốn đức Thế tôn cũng đã đến Thứu phong, chỗ đức Thích ca thế tôn. Tùy phương hướng của mình, các Ngài đến bảo tọa mà ngồi, rồi bảo vị bồ tát thị giả, rằng thiện nam tử, ông hãy đến chỗ đức Thích ca như lai, thay lời Như lailời Như lai mà vấn an Ngài, rằng Ngài ít bịnh ít phiền, cử động linh hoạt, sống yên vui chăng. Ông lại tác bạch như vầy: Lành thay đức Thế tôn, xin Ngài nay có thể tuyên thuyết kinh Ánh sáng hoàng kim, pháp yếu cực sâu, để lợi ích chúng sinh, loại bỏ đói khát, làm cho yên vui. Đức Thế tôn của con xin tùy hỷ việc này. Các vị thị giả cùng đến chỗ đức Thích ca thế tôn, đảnh lễ hai chân của Ngài, rồi đứng qua một bên, cùng tác bạch rằng, bạch đức Thế tôn, đức Thầy trời người của chúng con vấn an vô lượng, rằng Ngài ít bịnh ít phiền, cử động linh hoạt, sống yên vui chăng. Các vị thị giả lại tác bạch như vầy: Lành thay đức Thế tôn, xin Ngài nay có thể tuyên thuyết kinh Ánh sáng hoàng kim, pháp yếu cực sâu, để lợi ích chúng sinh, loại bỏ đói khát, làm cho yên vui. Đức Thầy trời người của chúng con xin tùy hỷ việc này. Bấy giờ đức Thích ca thế tôn, bậc Như lai, bậc ứng cúng, bậc Chánh đẳng giác, nói với các vị bồ tát thị giả, rằng lành thay, bốn đức Nha lai muốn làm cho chúng sinh lợi ích yên vui mà khuyến cáo Như lai tuyên dương pháp yếu! Ngài nói mấy lời chỉnh cú sau đây.

    (9) Như lai thường trú

    trên đỉnh Thứu phong,

    tuyên thuyết kinh bảo

    Ánh sáng hoàng kim;

    nhưng vì tác thành

    cho bao chúng sinh,

    Như lai thị hiện

    nhập vào niết bàn.

    (10) Chúng sinh phàm phu

    quan niệm lầm lẫn,

    nên không tin được

    lời Như lai nói;

    chính vì tác thành

    chúng sinh như vậy,

    Như lai thị hiện

    nhập vào niết bàn.

    Bấy giờ trong đại hội có một vị bà la môn họ Kiều trần như, tên Pháp sư thọ ký, cùng vô số bà la môn hiến cúng đức Thế tôn rồi, nghe Ngài nói nhập vào niết bàn, thì nước mắt nước mũi xen nhau chảy ra, bước tới lạy chân Ngài, thưa rằng, bạch đức Thế tôn, nếu thật đức Thế tôn có lòng đại từ bi đối với chúng sinh, thương xót ích lợi, làm cho yên vui, in như cha mẹ không ai sánh bằng; Ngài làm chỗ nương tựa cho cả thế giới, in như vầng thái âm tròn đầy; Ngài soi sáng bằng tuệ giác lớn lao, in như vầng thái dương mới mọc; Ngài nhìn khắp cả, thương tưởng đồng đều, coi ai cũng như tôn giả La hô la -- thì con xin Ngài ban cho con một điều ước nguyện. Nghe thưa như vậy, đức Thế tôn chỉ im lặng. Nhưng do uy lực của Ngài, trong đại hội có một vị đồng tử Lê xa tì tên Ai cũng thích nhìn, nói với bà la môn Kiều trần như, rằng thưa đại bà la môn, ông muốn xin đức Thế tôn điều ước nguyện gì, tôi có thể thỏa mãn cho ông. Bà la môn Kiều trần như nói, đồng tử, tôi muốn hiến cúng (6) đức Thế tôn tối thượng, nên cầu xin Ngài cho tôi một chút xá lợi chỉ bằng hạt cải. Tại sao tôi cầu xin như vậy? Vì tôi từng nghe nói, nếu thiện nam hay thiện nữ nào được xá lợi của đức Thế tôn chỉ bằng hạt cải thôi, để tôn kính hiến cúng, thì sẽ sinh lên tầng trời Đao lợi mà làm Đế thích. Nghe như vậy, đồng tử Lê xa tì nói với bà la môn, nếu ông muốn sinh lên Đao lợi hưởng thụ quả báo hơn người, thì hãy dốc lòng mà nghe kinh Ánh sáng hoàng kim. Kinh này hơn hết các kinh khác, khó lý giải, khó hội nhập. Thanh văn Độc giác không thể hiểu nổi. Kinh này sinh ra vô biên quả báo phước đức, cho đến hoàn thành tuệ giác vô thượng. Tôi nay chỉ nói cho ông vắn tắt như vậy. Bà la môn nói, lành thay đồng tử; nhưng kinh Ánh sáng hoàng kim cực sâu, tối thượng, khó lý giải, khó hội nhập, Thanh văn Độc giác không thể hiểu nổi, huống chi chúng tôi, những kẻ biên dã, trí tuệ kém cỏi, làm sao hiểu được. Do vậy, hôm nay tôi chỉ cầu xin xá lợi của đức Thế tôn bằng hạt cải thôi, để đem về bản xứ, tôn trí vào trong hộp ngọc, tôn kính hiến cúng. Thì mạng chung rồi được làm Đế thích, thường hưởng yên vui. Tại sao đồng tử không thể từ đấng Đủ sự sáng cầu xin cho tôi môt điều ước nguyện như vậy? Bà la môn nói rồi, đồng tử Lê xa tì liền nói cho ông nghe những lời chỉnh cú sau đây.

    (11) Dòng nước chảy xiết

    của sông Hằng hà

    có thể mọc lên

    hoa sen bạch liên;

    loài chim màu vàng

    có thể thành trắng,

    hay chim màu đen

    có thể thành đỏ;

    (12) hoặc cây thiệm bộ

    sinh trái đa la,

    cây khát thụ la

    sinh trái yêm la;

    (13) sự vật hiếm có

    có thể chuyển biến,

    xá lợi Thế tôn

    cũng không thể có.

    (14) Giả sử lông rùa

    dệt thành áo đẹp,

    áo đó có thể

    mặc vào mùa lạnh,

    thì mới tìm được

    xá lợi Thế tôn.

    (15) Giả sử chân muỗi

    đỡ được lầu đài

    vô cùng kiên cố

    không thể lay động,

    thì mới tìm được

    xá lợi Thế tôn.

    (16) Giả sử miệng đỉa

    mọc lên răng trắng

    đã dài lại lớn

    sắc như mũi nhọn,

    thì mới tìm được

    xá lợi Thế tôn.

    (17) Giả sử sừng thỏ

    làm thành cái thang

    và leo thang ấy

    lên đến cung trời,

    thì mới tìm được

    xá lợi Thế tôn.

    (18) Chuột leo thang ấy

    lên đánh tu la

    che khuất mặt trăng

    ở trong không gian,

    thì mới tìm được

    xá lợi Thế tôn.

    (19) Ruồi uống rượu say

    bay khắp làng xóm

    dựng lên bao nhiêu

    là những nhà cửa,

    thì mới tìm được

    xá lợi Thế tôn.

    (20) Giả sử mõm lừa

    đỏ lên in như

    trái cây tần bà

    lại khéo ca vũ,

    thì mới tìm được

    xá lợi Thế tôn.

    (21) Quạ với cú mèo

    đứng được một chỗ

    và cả hai bên

    thuận tùng với nhau,

    thì mới tìm được

    xá lợi Thế tôn.

    (22) Nếu lá ba la

    thành được tàn lọng

    có thể che được

    cơn mưa to lớn,

    thì mới tìm được

    xá lợi Thế tôn.

    (23) Giả sử thuyền lớn

    chở đầy vàng ngọc

    mà lại lướt đi

    trên mặt đất liền,

    thì mới tìm được

    xá lợi Thế tôn.

    (24) Và nếu chim ri

    mỏ ngậm Hương sơn

    tùy theo ý muốn

    bay đâu cũng được,

    thì mới tìm được

    xá lợi Thế tôn.

    Bà la môn Pháp sư thọ ký nghe những lời chỉnh cú ấy, thì cũng đem chỉnh cú mà đáp lại đồng tử Ai cũng thích nhìn.

    (25) Lành thay đồng tử

    bậc đại cát tường,

    khéo léo sử dụng

    tuệ giác phương tiện,

    nên được Thế tôn

    thọ vô thượng ký.

    (26) Uy đức Thế tôn

    cực kỳ vĩ đại,

    đầy cả năng lực

    cứu hộ thế giới;

    ông hãy nghe tôi

    tuần tự nói đến.

    (27) Lĩnh vực Thế tôn

    rất khó nghĩ thấu,

    toàn thể thế giới

    không ai đồng đẳng;

    pháp thân của Ngài

    thể tánh thường trú,

    tu hành cũng không

    làm cho sai biệt.

    (28) Chư vị Thế tôn

    thể tánh đồng nhất,

    Pháp các Ngài nói

    cũng là như vậy;

    nên chư Thế tôn

    vốn phi tạo tác,

    lại nữa cũng là

    vốn phi sinh khởi.

    (29) Thân thể kim cương

    của chư Thế tôn

    quyền biến thị hiện

    thân thể ứng hóa;

    thế nên xá lợi

    của chư Thế tôn

    cũng vốn không có

    bằng một hạt cải.

    (30) Thân chư Thế tôn

    không phải máu thịt,

    làm sao mà có

    linh cốt xá lợi;

    thế nhưng phương tiện

    lưu lại linh cốt,

    là để lợi ích

    bao loại chúng sinh.

    (31) Pháp thân là Phật,

    pháp giới cũng Phật;

    pháp thân mới thật

    là thân của Phật,

    Pháp của Phật nói

    là pháp giới ấy.

    Trong đại hội có ba mươi hai ngàn thiên tử, nghe nói như vậy về thọ mạng bất diệt đức Thế tôn, ai cũng phát tâm vô thượng bồ đề, hoan hỷ, phấn chấn, cảm được sự thể chưa bao giờ có, nên khác miệng mà đồng tiếng, nói mấy lời chỉnh cú sau đây.

    (32) Phật không nhập diệt,

    Pháp cũng bất diệt,

    chỉ vì ích lợi

    cho bao chúng sinh,

    nên Phật thị hiện

    có sự diệt tận.

    (33) Phật thì đích thị

    bất khả tư nghị,

    thân mầu của Phật

    không hề biến đổi,

    nhưng vì ích lợi

    cho bao chúng sinh

    mà Phật thị hiện

    mọi sự trang nghiêm.

    Bấy giờ bồ tát Diệu tràng đích thân đối trước đức Thế tôn, trước bốn đức Thế tôn, trước hai vị đại nhân và bao nhiêu thiên tử, nghe nói thọ lượng của đức Thế tôn, thì lại từ chỗ ngồi đứng dậy, chắp tay cung kính mà thưa với Ngài, rằng bạch đức Thế tôn, nếu thật chư vị Thế tôn không nhập niết bàn, không có xá lợi, thì tại sao trong các kinh trước đây nói Ngài có niết bàn, và có xá lợi để cho nhân loại và chư thiên tôn kính hiến cúng? Chư vị Thế tôn đã quá khứ rồi, hiện có linh cốt phân bố trong đời, người trời hiến cúng phước được vô hạn. Vậy mà ngày nay lại nói không có, gây ra hoài nghi. Con thỉnh cầu đức Thế tôn thương mà giải thích phong phú cho chúng con.

    Vào lúc ấy, đức Thế tôn bảo bồ tát Diệu tràng, và cả đại hội, rằng các người phải nhận thức, nói có niết bàn và có xá lợi là nói theo ý nghĩa bí mật. Ý nghĩa như vậy hãy chuyên nhất tâm trí mà nghe. Thiện nam tử, bồ tát đại sĩ nên biết như vầy: có mười sự thể có thể lý giải ý nghĩa chân thật của Như lai nói có niết bàn vĩ đại và cứu cánh. Thế nào là mười? Một là chư Như lai cứu cánh diệt hết phiền não chướng và sở tri chướng nên nói là niết bàn. Hai là chư Như lai khéo léo thấu triệt nhân vô tánh và pháp vô tánh nên nói là niết bàn. Ba là chư Như lai có thể chuyển thân y và pháp y nên nói là niết bàn. Bốn là chư Như lai đối với chúng sinh, một cách tự nhiên, tạm ngừng hóa độ [khi cơ duyên hóa độ đã hết], nên nói là niết bàn. Năm là chư Như lai chứng được pháp thân không có sai biệt nên nói là niết bàn. Sáu là chư Như lai thấu triệt cái tánh bất nhị của sinh tử với niết bàn nên nói là niết bàn. Bảy là chư Như lai thấu triệt căn bản của các pháp, thực hiện thanh tịnh nên nói là niết bàn. Tám là chư Như lai khéo léo tu hành sự bất sinh diệt của các pháp nên nói là niết bàn. Chín là chư Như lai chứng được chánh trí đối với chân như nên nói là niết bàn. Mười là chư Như lai chứng được sự không sai biệt của tánh các pháp và tánh niết bàn nên nói là niết bàn. Như thế đó là mười sự thể nói có niết bàn.

    Thiện nam tử, bồ tát đại sĩ nên biết như vầy: có mười sự thể nữa có thể lý giải ý nghĩa chân thật của Như lai nói có niết bàn vĩ đại và cứu cánh. Thế nào là mười? Một là mọi thứ phiền não lấy ưa muốn làm gốc, từ ưa muốn mà sinh, chư Như lai dứt ưa muốn nên nói là niết bàn. Hai là chư Như lai dứt hết ưa muốn, không thủ đắc một pháp nào cả: vì không thủ đắc mà không đi không đến nên nói là niết bàn. Ba là vì không đi đến, không thủ đắc, thế là pháp thân bất sinh diệt: bất sinh diệt nên nói là niết bàn. Bốn là sự bất sinh diệt thì không phải ngôn ngữ nói thấu: ngôn ngữ loại bỏ nên nói là niết bàn. Năm là không có bản ngã và sinh thể, tư duy sự sinh diệt của các pháp mà được chuyển y nên nói là niết bàn. Sáu là phiền não là khách, pháp tánh là chủ, không đến không đi: chư Như lai thấu triệt như vậy nên nói là niết bàn. Bảy là chân như là thật, ngoài ra là giả: chân như là Như lai nên nói là niết bàn. Tám là thật tế thì không hý luận: chỉ có Như lai chứng pháp thật tế, vĩnh diệt hý luận nên nói là niết bàn. Chính là vô sinh thì thật, sinh thì dối: người ngu chìm đắm sinh tử, còn thật thể Như lai thì không giả dối nên nói là niết bàn. Mười là cái pháp không thật thì do duyên sinh, cái pháp chân thật thì phi duyên sinh, mà pháp thân Như lai là chân thật nên nói là niết bàn. Như thế đó là mười sự thể nói có niết bàn.

    Thiện nam tử, bồ tát đại sĩ nên biết như vầy: có mười sự thể nữa có thể lý giải ý nghĩa chân thật của Như lai nói có niết bàn vĩ đại và cứu cánh. Thế nào là mười? Một là Như lai khéo biết bố thí và quả báo của bố thí là không bản ngã và sở hữu của bản ngã; đối với bố thí và quả báo của bố thí, sự phân biệt không chính xác vĩnh viễn loại trừ nên nói là niết bàn. Hai là Như lai khéo biết trì giới và quả báo của trì giới là không bản ngã và sở hữu của bản ngã; đối với trì giới và quả báo của trì giới, sự phân biệt không chính xác vĩnh viễn loại trừ nên nói là niết bàn. Ba là Như lai khéo biết nhẫn nhục và quả báo của nhẫn nhục là không bản ngã và sở hữu của bản ngã; đối với nhẫn nhục và quả báo của nhẫn nhục, sự phân biệt không chính xác vĩnh viễn loại trừ nên nói là niết bàn. Bốn là Như lai khéo biết tinh tiến và quả báo của tinh tiến là không bản ngã và sở hữu của bản ngã; đối với tinh tiến và quả báo của tinh tiến, sự phân biệt không chính xác vĩnh viễn loại trừ nên nói là niết bàn. Năm là Như lai khéo biết thiền định và quả báo của thiền định là không bản ngã và sở hữu của bản ngã; đối với thiền định và quả báo của thiền định, sự phân biệt không chính xác vĩnh viễn loại trừ nên nói là niết bàn. Sáu là Như lai khéo biết trí tuệ và quả báo của trí tuệ là không bản ngã và sở hữu của bản ngã; đối với trí tuệ và quả báo của trí tuệ, sự phân biệt không chính xác vĩnh viễn loại trừ nên nói là niết bàn. Bảy là Như lai khéo biết chúng sinh phi chúng sinh, các pháp phi các pháp, sự phân biệt không chính xác vĩnh viễn loại trừ nên nói là niết bàn. Tám là thương mình thì đeo đuổi, theo đuổi thì đau khổ; Như lai dứt thương mình, hết theo đuổi: hết theo đuổi nên nói là niết bàn. Chín là các pháp hữu vi thì toàn có số lượng, pháp tánh vô vi thì số lượng loại kết; Như lai rời hữu vi, chứng vô vi, không số lượng nên nói là niết bàn. Mười là Như lai thấu triệt chúng sinh và các pháp toàn không: không tánh là pháp thân chân thật nên nói là niết bàn. Như thế đó là mười sự thể nói có niết bàn.

    Lại nữa, Thiện nam tử, đâu phải chỉ có cái việc không nhập niết bàn của Như lai là hiếm có, mà còn có mười sự hiếm có nữa là việc Như lai làm. Thế nào là mười? Một, sinh tử thì tội lỗi, niết bàn thì vắng lặng, thế nhưng Như lai chứng được sự bình đẳng của sinh tử với niết bàn, nên không ở sinh tử, không ở niết bàn, không chán bỏ phản bội chúng sinh, đó là việc Như lai làm. Hai, đối với chúng sinh, Như lai không nghĩ họ là ngu phu, đi theo quan niệm thác loạn, bị phiền não ép buộc, Như lai phải khai thị cho họ siêu thoát; thế nhưng do sức mạnh của từ bi quá khứ, nên đối với chúng sinh vẫn tùy trình độ, ý thích và nhận định (7) của họ mà tự nhiên cứu độ, chỉ thị và huấn dụ cho họ lợi ích và hoan hỷ (8) mà không phân biệt gì hết, cùng tận thì gian, không có kết thúc, đó là việc Như lai làm. Ba, Như lai không nghĩ Như lai phu diễn mười hai thành phần của giáo pháp (9) , lợi ích chúng sinh; thế nhưng do sức mạnh từ bi quá khứ, vẫn tuyên thuyết phong phú cho chúng sinh, cho đến cùng tận thì gian, không có kết thúc, đó là việc Như lai làm. Bốn, Như lai không nghĩ đi đến thị thành, thôn quê, những nơi dân cư, vào nhà vua chúa, đại thần, bốn giai cấp xã hội mà khất thực; nhưng do sức mạnh huân tập của thân miệng ý quá khứ mà tự nhiên đi đến, vì lợi ích cho họ mà khất thực, đó là việc Như lai làm. Năm, Như lai thì thân không đói khát, cũng không đại tiểu, nên tuy khất thực mà không thọ thực; nhưng vì tự nhiên ích lợi chúng sinh nên hiện có ăn uống, đó là việc Như lai làm. Sáu, Như lai không nghĩ chúng sinh có cao vừa thấp, tùy trình độ của họ mà thuyết pháp cho; nhưng Như lai không phân biệt mà vẫn tự nhiên tùy trình độ (10) chúng sinh, khéo ứng theo cơ duyên mà thuyết pháp cho họ, đó là việc Như lai làm. Bảy, Như lai không nghĩ có người không tôn kính Như lai, thường phát ngôn phỉ báng, Như lai không thể đối thoại; có người tôn kính Như lai, thường phát ngôn ca tụng, Như lai có thể đối thoại; thế nhưng Như lai thường có tâm từ bi, bình đẳng bất nhị, đó là việc Như lai làm. Tám, Như lai không có thương ghét, kiêu ngạo, tham tiếc, và mọi thứ phiền não đồng đẳng như vậy; mà Như lai thường thích vắng lặng, khen thiểu dục, tách rời huyên náo, đó là việc Như lai làm. Chín, Như lai không có một pháp nào không biết và không khéo thông suốt, đối với toàn bộ các pháp thì cảnh trí (11) như ở trước mắt và không có phân biệt; thế nhưng Như lai vẫn thấy công việc của chúng sinh, tùy ý họ mà phương tiện dẫn dụ cho họ siêu thoát, đó là việc Như lai làm. Mười, Như lai thấy ai giàu thịnh thì không mừng, thấy họ suy bại cũng không lo; nhưng thấy họ làm theo chánh hạnh thì vô ngại đại bi tự nhiên gia hộ, thấy họ làm theo tà hạnh thì vô ngại đại bi tự nhiên cứu hộ, đó là việc của Như lai làm. Thiện nam tử, nên biết Như lai nói có vô lượng diệu hạnh như vậy, và đó là sắc thái thật của niết bàn. Còn có khi các người thấy Như lai nhập niết bàn, thì đó là phương tiện thích nghi; các người lại thấy lưu lại xá lợi thì đó là để cho chúng sinh tôn kính hiến cúng. Những việc như vậy toàn là do sức mạnh từ bi của Như lai, để ai hiến cúng xá lợi thì vị lai xa rời tám nạn, gặp được chư vị Như lại, gặp được các bậc Thiện tri thức, thiện tâm liên tục chứ không mất, phước báo vô cùng, mau được siêu thoát, không bị sinh tử trói buộc. Diệu hạnh như vậy các người nên nỗ lực mà làm, đừng có phóng dật.

    Bồ tát Diệu tràng nghe đức Thế tôn đích thân nói đến sự không nhập niết bàn và những diệu hạnh cực sâu, thì chắp tay, cung kính mà thưa, bạch đức Thế tôn, ngày nay con mới biết bậc Thầy cao cả không nhập niết bàn và lưu lại xá lợi, nhưng vì lợi ích một cách rộng lớn cho chúng sinh [mà thị hiện niết bàn và lưu lại xá lợi]. Cả cơ thể và tâm trí đều phấn chấn, vui đẹp, bồ tát Diệu tràng than rằng thật là sự thể chưa bao giờ có.

    Khi phẩm thọ lượng Thế tôn được tuyên thuyết hoàn tất thì vô số chúng sinh phát tâm vô thượng bồ đề. Và bốn đức Thế tôn đều ẩn mất. Bồ tát Diệu tràng đảnh lễ ngang chân đức Thế tôn, rồi đứng dậy trở về chỗ cũ.
    VÔ CÔNG DỤNG HẠNH - VÔ KHUẤT LIỄU HẠNH - VÔ CẤU PHÁP - VÔ TÁT Ý - VÔ SỞ ĐẮC - VÔ SỞ CẦU - VÔ SỞ TRỤ - VÔ SỞ ÚY

  3. #3

    Mặc định

    Phẩm 3: Phân Biệt Ba Thân

    Lúc ấy đại bồ tát Hư không tạng ở trong đại hội từ chỗ ngồi đứng dậy, vắt vạt pháp y ở vai bên phải, gối bên phải quì xuống chấm đất, chắp tay tôn kính, đảnh lễ ngang chân đức Thế tôn, đem cái lọng thượng hạng có gắn tràng phan và kết những thứ hoa vàng ngọc tinh hảo mà hiến dâng lên Ngài, thưa rằng, bạch đức Thế tôn, bồ tát đại sĩ tu hành chính xác như thế nào về bí mật sâu xa của chư vị Thế tôn? Đức Thế tôn dạy, thiện nam tử, hãy nghe cho kyլ hãy khéo suy nghĩ, Như lai sẽ phân tích giải thích cho ông.

    Thiện nam tử, chư vị Như lai có ba thân, một là hóa thân, hai là ứng thân, ba là pháp thân. Ba thân như vậy bao quát đầy đủ về vô thượng bồ đề, nhận thức chính xác thì mau chóng siêu thoát sinh tử. Thiện nam tử, bồ tát nên nhận thức hóa thân như thế nào? Nên nhận thức rằng Như lai quá khứ ở trong vị trí tu hành, vì chúng sinh mà tu tập diệu pháp. Tu tập cho đến vị trí viên mãn. Thì do sức mạnh tu tập mà được sự tự tại lớn lao. Được sự tự tại nên tùy ý muốn của chúng sinh, tùy việc làm của chúng sinh, tùy thế giới của chúng sinh, biết rành tất cả. Rồi không chờ đợi cơ hội, không lỡ mất cơ hội, thích ứng địa phương, thích ứng thì gian, thích ứng việc làm, thích ứng thuyết pháp, mà thị hiện mọi loại thân hình, đó là hóa thân. Thiện nam tử, bồ tát nên nhận thức ứng thân như thế nào? Nên nhận thức rằng Như lai vì làm cho bồ tát được sự thông đạt mà nói về chân đế, rằng do thấu triệt sinh tử với niết bàn là nhất thể, do loại trừ sự sợ hãi và sự vui mừng của chúng sinh chấp ngã, do làm căn bản cho vô biên phẩm chất Phật đà, do sức mạnh bản nguyện thích ứng đích thực với như như trí của như như lý, mà hình thành thân thể với ba mươi hai tướng tốt và tám mươi nét đẹp, sau cổ là vầng sáng tròn, đó là ứng thân. Thiện nam tử, bồ tát nên nhận thức pháp thân như thế nào? Nên nhận thức rằng do loại trừ phiền não chướng và sở tri chướng, do đầy đủ thiện pháp, mà chỉ có như như lý của như như trí (12) , đó là pháp thân.

    Thiện nam tử, hai thân trước là có giả, thân thứ ba mới có thật, làm căn bản cho hai thân trước. Tại sao? Vì tách rời như như lý và như như trí thì chư vị Như lai không có phẩm chất nào cả. Nhưng chư vị Như lai thì tuệ giác toàn hảo, phiền não diệt tận, thủ đắc vị trí Phật đà tối cực thanh tịnh. Thế nên như như lý và như như trí tổng quát tất cả phẩm chất Phật đà.

    Thiện nam tử, chư vị Như lai tuyệt đối lợi ích mình người (13) . Lợi ích mình là như như lý. Lợi ích người là như như trí. Như như lý và như như trí làm cho đạt được tự tại trong sự lợi ích mình người, hoàn thành vô biên diệu dụng, do vậy mà phẩm chất Phật đà có vô biên các dạng dị biệt. Thiện nam tử, ví như do vọng tưởng mà nói các loại phiền não, các loại nghiệp dụng, các loại quả báo; cũng y như vậy, do như như lý và như như trí mà nói các pháp Phật đà, các pháp Độc giác, các pháp Thanh văn. Do như như lý và như như trí mà tự tại hoàn thành tất cả Phật pháp, đó là sự thể bậc nhất, bất khả tư nghị. Thiện nam tử, như vẽ đồ dùng trong không gian, đó là sự khó thể nghĩ bàn; do như như lý và như như trí mà hoàn thành phẩm chất Phật đà cũng khó nghĩ bàn như vậy. Tại sao như như lý và như như trí cả hai đều không phân biệt mà lại tự tại hoàn thành sự thể? Điều này ví như Như lai nhập niết bàn, nhưng do nguyện lực tự tại mà thành được đủ mọi sự thể. Như như lý và như như trí mà tự tại hoàn thành mọi sự cũng là như vậy. Thiện nam tử, bồ tát đại sĩ nhập định vô tâm (14) , nhưng do nguyện lực trước đó mà xuất định vẫn làm mọi sự; như như lý và như như trí không phân biệt mà vẫn tự tại thành sự cũng vậy. Như trời trăng không có phân biệt, nước gương không có phân biệt, ánh sáng không có phân biệt, nhưng cả ba thứ này hợp lại thì có hình ảnh; như như lý và như như trí không phân biệt, nhưng do nguyện lực tự tại mà chúng sinh thấy có ứng thân và hóa thân. Thiện nam tử, rất nhiều nước gương do ánh sáng mà không ảnh (15) hiện ra đủ hình dạng khác nhau, nhưng không gian thì không có hình dạng như vậy. Cũng y như vậy, những người tiếp nhận giáo hóa chính là hình ảnh của pháp thân. Do nguyện lực mà hai thân đủ mọi hình tướng, nhưng pháp thân thì không có hình tướng khác nhau.

    Thiện nam tử, do hai thân mà nói chư vị Như lai là niết bàn hữu dư, do pháp thân mà nói chư vị Như lai là niết bàn vô dư, vì những gì dư lại đã tuyệt đối diệt tận. Lại do ba thân mà nói chư vị Như lai không trụ niết bàn. Hai thân là không trụ niết bàn, còn tách rời pháp thân thì không có Phật thân nào biệt lập, [nên pháp thân cũng là không trụ niết bàn]. Tại sao hai thân không trụ niết bàn, vì hai thân là có giả, sinh diệt như mỗi ý nghĩ, không cố định trụ lại, lại luôn luôn xuất hiện chứ không cố định. Pháp thân thì không như vậy. Nên hai thân thì không trụ niết bàn, còn pháp thân thì vì bất nhị [với hai thân] nên cũng là không trụ niết bàn mà thôi. Do vậy, căn cứ ba thân mà nói chư vị Như lai không trụ niết bàn (16) .

    Thiện nam tử, phàm phu vì ba tướng mà có ràng buộc, có ngăn cách, rời xa ba thân, không đạt đến ba thân. Ba tướng là gì, một là biến kế, hai là y tha, ba là thành tựu. Ba tướng như vậy mà không thể lý giải [cái nên lý giải], không thể diệt trừ [cái nên diệt trừ], không thể trong sáng [cái nên trong sáng], thế nên không thể đạt đến ba thân. Ba tướng như vậy mà có thể lý giải, có thể diệt trừ, có thể trong sáng, thì toàn hảo ba thân của chư vị Như lai. Thiện nam tử, phàm phu chưa trừ bỏ được ba tâm nên rời xa ba thân, không thể đạt đến. Ba tâm là gì, một là tâm sinh sự, hai làm tâm dựa vào căn bản, ba là tâm căn bản. Do đạo tạm dẹp mà tâm sinh sự diệt tận, do đạo đoạn trừ mà tâm dựa vào căn bản diệt tận, do đạo hơn hết mà tâm căn bản diệt tận. Tâm sinh sự diệt tận thì biến hiện hóa thân, tâm dựa vào căn bản diệt tận thì hình thành ứng thân, tâm căn bản diệt tận thì hiển lộ pháp thân. Do vậy, chư vị Như lai đủ cả ba thân.

    Thiện nam tử, nơi thân thứ nhất thì chư vị Như lai đồng nhất công việc, nơi thân thứ hai thì chư vị Như lai đồng nhất ý muốn, nơi thân thứ ba thì chư vị Như lai đồng nhất thể tánh.

    Thiện nam tử, thân Phật thứ nhất là tùy ý chúng sinh có lắm dạng nên hiện ra lắm dạng, do vậy mà nói thân này là nhiều. Thân Phật thứ hai thì ý của đệ tử là một tướng nên hiện ra một tướng, do vậy mà nói thân này là một. Thân Phật thứ ba siêu việt tất cả dạng tướng, không phải lĩnh vực dạng tướng, do vậy mà nói thân này là phi nhất phi dị.

    Thiện nam tử, thân thứ nhất dựa ứng thân mà biểu hiện, thân thứ hai dựa pháp thân mà biểu hiện, còn thân thứ ba thì có thật, không cần chỗ dựa.

    Thiện nam tử, ba thân như vậy có nghĩa nói là thường còn, có nghĩa nói là vô thường. Hóa thân thường chuyển pháp luân, nơi nơi tùy duyên, phương tiện liên tục, không có chấm dứt, nên nói là thường còn; nhưng không phải là căn bản, đại dụng đầy đủ không được biểu hiện, nên nói là vô thường. � thân thì vô thỉ đến nay liên tục bất đoạn, thu giữ được hết thảy phẩm chất đặc hữu của chư vị Như lai, chúng sinh vô tận nên diệu dụng cũng vô tận, nên nói là thường còn; nhưng cũng không phải là căn bản, đại dụng đầy đủ cũng không biểu hiện, nên nói là vô thường. Pháp thân không phải là hữu vi (17) , không có các dạng khác nhau, mà là căn bản, tựa như không gian, nên nói là thường còn. Thiện nam tử, rời như như trí thì không có tuệ giác tối thượng nào nữa, rời như như lý thì không có đối cảnh tối thượng nào nữa. Một mặt là như như của các pháp, một mặt là như như của tuệ giác, hai mặt như như ấy là như như, phi đồng nhất phi dị biệt. Do vậy, pháp thân thì tuệ giác trong sáng, diệt trừ trong sáng, do hai sự trong sáng này mà pháp thân hoàn toàn trong sáng.

    Thiện nam tử, phân biệt ba thân thì có 4 sự khác nhau: có hóa thân không phải ứng thân, có ứng thân không phải hóa thân, có hoá thân cũng là ứng thân, có không phải hoá thân cũng không phải ứng thân. Hóa thân không phải ứng thân là thế nào, là chư Như lai nhập niết bàn rồi, do đại nguyện tự tại mà vẫn tùy duyên lợi ích chúng sinh. � thân không phải hóa thân là thế nào, là cái thân được thấy bởi bồ tát trước mười địa (18) . Hóa thân cũng là ứng thân là thế nào, là cái thân ở nơi niết bàn hữu dư. Không phải hóa thân cũng không phải ứng thân là thế nào, là chính pháp thân. Thiện nam tử, pháp thân như vậy do hai sự vô sở hữu mà hiển lộ. Hai sự vô sở hữu là thế nào, là nơi pháp thân thì ngã chấp pháp chấp (19) toàn là không, phi có phi không, phi một phi khác, phi số lượng phi siêu số lượng, phi sáng suốt phi ngu tối, ấy vậy, như như trí thì không thấy ngã chấp pháp chấp, không thấy phi có phi không, cho đến không thấy phi sáng suốt phi ngu tối. Thế nên phải biết đối cảnh trong sáng với tuệ giác trong sáng là bất khả phân biệt, không phải ở giữa [những khái niệm đối lập lẫn nhau]; làm căn bản cho diệt đế và đạo đế (20) , nên pháp thân đầy tính năng biểu hiện đủ loại sự nghiệp của chư vị Như lai.

    Thiện nam tử, thân này (21) thì bản thân, yếu tố, đối cảnh, đối tượng, kết quả, tất cả toàn là dựa vào căn bản [như như lý] (22) và nó thật khó mà nghĩ bàn. Nếu hiểu nghĩa ấy thì biết thân này là cỗ xe vĩ đại, là thể tánh Như lai, là bào thai Như lai (23) . Dựa vào thân này thì được cái tâm vị trí mới phát và cái tâm vị trí tu hành đều hiện ra, cái tâm vị trí bất thoái cũng hiện ra, cái tâm vị trí bổ xứ, cái tâm vị trí kim cang, cái tâm vị trí Như lai cũng hiện ra cả, vô lượng vô biên phẩm chất tinh tế của Như lai cũng hiện ra. Thiện nam tử, dựa vào pháp thân mà đại định và đại trí được thực hiện, và do đó mà hóa thân dựa vào đại định với ứng thân dựa vào đại trí cũng được thực hiện. Pháp thân như vậy do tự thể của Nó mà nói là thường và nói là ngã, do đại định của Nó mà nói là lạc, do đại trí của Nó mà nói là tịnh. Do vậy mà Như lai thường trú, tự tại, an lạc, thanh tịnh (24) .

    Do đại định mà hết thảy thiền định, định Thủ lăng nghiêm và các định đồng đẳng, hết thảy niệm xứ, đại pháp niệm xứ và những niệm xứ đồng đẳng, đại từ đại bi, hết thảy tổng trì, hết thảy thần thông, hết thảy tự tại, hết thảy bình đẳng, hết thảy các pháp Phật đà như vậy đều được thực hiện. Do đại trí mà mười lực, bốn vô úy, bốn vô ngại biện, một trăm tám mươi pháp bất cọng (25) , hết thảy các pháp bất khả tư nghị như vậy đều được thực hiện. Ví như do ngọc như ý mà vô số các loại ngọc quí đều được xuất hiện, cũng là như vậy, do ngọc đại định và ngọc đại trí mà xuất ra vô số diệu pháp của chư vị Như lai.

    Thiện nam tử, pháp thân như vậy, và đại định đại trí của Nó, toàn là siêu việt hết thảy khái niệm (26) , không vướng mắc khái niệm nào hết, không thể phân biệt, phi thường phi đoạn, gọi là trung đạo (27) ; tuy phân biệt mà thể tánh không phân biệt, tuy có ba số (28) mà thể tánh không phải ba số, bất tăng bất giảm, tựa như mộng ảo không có năng chấp với sở chấp; là pháp thể như như, là xứ sở giải thoát, vượt qua lĩnh vực của vua chết, vượt qua luôn sự tối tăm của sinh tử, là chỗ chúng sinh không thể tu hành và đạt đến [bằng khái niệm của mình], là chỗ an trú của chư vị Phật đà và chư vị Bồ tát.

    Thiện nam tử, như người muốn có vàng nên tìm kiếm khắp nơi, và tìm được mỏ vàng. Rồi đập ra, chọn phần nào tinh hơn thì bỏ vào lò mà luyện, nên thành vàng ròng, chế tạo đủ thứ đồ trang sức, đồ trang sức khác nhau mà vàng không biến đổi. Thế nên, thiện nam tử, thiện nam hay thiện nữ nào muốn cầu giải thoát siêu việt mà tu hành thiện căn thuộc phạm vi thế gian (29) , thì được thấy chư vị Như lai, và đệ tử của các Ngài, được thân gần, rồi thưa rằng, bạch đức Thế tôn, cái gì là thiện? cái gì là ác? cái gì là chính tu hành được thanh tịnh hạnh? Chư vị Như lai, và đệ tử của các Ngài, thấy họ hỏi thì nghĩ, thiện nam thiện nữ này muốn cầu thanh tịnh, muốn nghe chánh pháp. Nghĩ vậy nên liền nói cho họ khai ngộ. Họ nghe rồi chính xác ghi nhớ, phát tâm tu hành, được sức mạnh tinh tiến, loại trừ sự chướng ngại vì biếng nhác, diệt mọi tội lỗi, đối với giới pháp họ tách rời sự không tôn trọng, ngưng cả sự háo động và tiếc nuối, nên nhập vào địa thứ nhất. Do tâm của địa thứ nhất này loại trừ sự chướng ngại cho sự lợi ích chúng sinh, nên nhập vào địa thứ hai. Trong địa thứ hai này loại trừ sự chướng ngại cho sự không áp bức quấy rối chúng sinh, nên nhập vào địa thứ ba. Trong địa thứ ba này loại trừ sự chướng ngại cho tâm mềm dịu trong sáng, nên nhập vào địa thứ tư. Trong địa thứ tư này loại trừ sự chướng ngại cho phương tiện khéo léo, nên nhập vào địa thứ năm. Trong địa thứ năm này loại trừ sự chướng ngại vì thấy chân đế tục đế đối lập với nhau, nên nhập vào địa thứ sáu. Trong địa thứ sáu này loại trừ sự chướng ngại vì thấy có hành tướng, nên nhập vào địa thứ bảy. Trong địa thứ bảy này loại trừ sự chướng ngại vì không thấy sự diệt, nên nhập vào địa thứ tám. Trong địa thứ tám này loại trừ sự chướng ngại vì không thấy sự sinh, nên nhập vào địa thứ chín. Trong địa thứ chín này loại trừ sự chướng ngại cho lục thông, nên nhập vào địa thứ mười. Trong địa thứ mười này loại trừ sự chướng ngại vì ngu muội các pháp sở tri, loại trừ cái tâm căn bản, nên nhập vào Như lai địa. Như lai địa do ba sự trong sáng mà gọi là cực trong sáng. Ba sự ấy là những gì? Một là trong sáng vì loại trừ phiền não, hai là trong sáng vì loại trừ khổ não, ba là trong sáng vì loại trừ tập khí. Như vàng thật chảy ra vì nung luyện, nung luyện rồi thì không còn quặng bẩn nữa, chứng tỏ vàng vốn trong sáng, chứ không phải không có vàng. Như nước dơ mà lọc trong thì không còn cặn bẩn, chứng tỏ nước vốn trong suốt, chứ không phải không có nước. Cũng là như vậy, pháp thân vốn tách rời phiền não, khổ và tập loại trừ rồi thì không còn tập quán thừa lại, chứng tỏ thể tánh pháp thân vốn trong sáng, chứ không phải không có thể tánh. Như không gian bị khói mây bụi mù che đi, trừ cái che ấy rồi thì không gian trong sáng, chứ không phải không có không gian; pháp thân cũng vậy, mọi sự khổ não loại bỏ hết rồi thì nói là trong sáng, không phải không có thể tánh pháp thân. Như có kẻ trong mộng thấy bị trôi theo dòng nước sông lớn, nên vận dụng cả tay chân mà bơi qua, đến được bờ bến bên kia, ấy là do cả thân tâm kẻ ấy không nhác, không lùi. Khi mộng tỉnh thì không còn thấy nước, thấy bờ bên này bờ bên kia, nhưng không phải không có cái tâm: vọng tưởng sinh tử loại bỏ hết rồi thì tuệ giác trong sáng, chứ không phải không có tuệ giác. Ấy vậy, pháp thân thì mọi thứ vọng tưởng không còn phát sinh nên nói là trong sáng, chứ không phải chư vị Như lai không có thật thể.

    Lại nữa, thiện nam tử, pháp thân do làm sạch hoặc chướng mà biểu hiện ứng thân, do làm sạch nghiệp chướng mà biểu hiện hóa thân, do làm sạch trí chướng mà pháp thân tự biểu hiện. Ví như do không gian mà phát điện lực, do điện lực mà phát ánh sáng; cũng là như vậy, do pháp thân mà biểu hiện ứng thân, do ứng thân mà biểu hiện hóa thân. Do thể trong sáng mà pháp thân tự biểu hiện, do trí trong sáng mà biểu hiện ứng thân, do định trong sáng mà biểu hiện hóa thân. Ba sự trong sáng như vậy là pháp tánh như như, bất dị như như, nhất vị như như, giải thoát như như, cứu cánh như như, do vậy, chư vị Như lai thì thể tánh không có dị biệt. Thiện nam tử, nếu thiện nam hay thiện nữ nào nói đức Thế tôn là bậc Thầy cao cả của tôi, tin tưởng quyết định như vậy, thì người ấy, từ trong tâm trí sâu xa, thấu hiểu pháp thân Như lai không có dị biệt. Và thiện nam tử, do vậy mà, đối với các pháp, người ấy loại trừ hết cả sự tư duy không chính xác, biết các pháp là phi nhị biên, là vô phân biệt, là thánh giả tu hành. Đối với các pháp, chính xác tu hành sự không có nhị biên như thế nào, thì đối với các chướng cũng loại trừ như vậy; loại trừ các chướng như thế nào thì như như lý và như như trí cũng tối cực trong sáng như vậy; như như lý và như như trí trong sáng như thế nào thì mọi sự tự tại cũng như vậy, bao quát đầy đủ, thành đạt tất cả. Các chướng loại trừ, các chướng lọc sạch, đó là chân tướng của như như lý và như như trí. Thấy như vậy là cái thấy của thánh giả, và thế gọi là thật thấy Như lai, tại sao, vì đó là đúng như sự thật mà thấy như như lý của các pháp. Do vậy, chư vị Như lai thấy biết tất cả chư vị Như lai. Còn chư vị Thanh văn và Độc giác tuy siêu thoát ba cõi, nhưng cầu mà không thể thấy biết như như lý. Thánh giả mà còn không thể thấy biết, huống chi phàm phu thì nghi hoặc, phân biệt thác loạn, nên không thể vượt đến. Khác nào thỏ mà bơi qua biển cả thì bơi không qua được, vì sức lực của thỏ quá kém, phàm phu cũng vậy, họ không thể thông đạt như như lý của các pháp. Nhưng chư vị Như lai thì siêu phân biệt, nên được đại tự tại đối với hết thảy các pháp, được đầy đủ tuệ giác trong sáng và sâu xa, và đó là lĩnh vực của chư vị Như lai, chứ không phải chung cùng với người khác. Do vậy mà biết chư vị Như lai trong vô số kiếp không tiếc tính mạng, làm khổ hạnh khó làm, mới được pháp thân tối thượng, không thể sánh bằng, bất khả tư nghị, vượt quá lĩnh vực ngôn ngữ, vắng lặng nhiệm mầu, rời hết mọi sự sợ hãi (30) .

    Ấy vậy, thiện nam tử, thấy biết như như lý của các pháp thì không sinh không già không chết, thọ lượng bất tận, không ngủ nghỉ, không đói khát, tâm thường thiền định, không có loạn động. Đối với Như lai mà tranh luận thì thế là không thể thấy được Như lai. Chư vị Như lai thì nói gì cũng lợi ích, ai nghe cũng giải thoát, và vì nghe pháp mà phước báo bất tận, đến nỗi chim dữ, thú dữ, người dữ, quỉ dữ, tất cả không bao giờ gặp phải. Nhưng chư vị Như lai không có sự vô ký (31) , không sinh tâm muốn biết đối với các pháp [mà vẫn tự nhiên biết hết], không có ý tưởng sinh tử với niết bàn khác nhau. Chư vị Như lai phán quyết gì cũng là chắc chắn. Chư vị Như lai thì tất cả cử động toàn là tuệ giác, tất cả sự việc toàn là từ bi, không có gì không vì lợi ích yên vui chúng sinh. Thiện nam tử, đối với bản kinh Ánh sáng hoàng kim này, thiện nam hay thiện nữ nào nghe, tin, hiểu, thì không sa vào các nẻo địa ngục, ngạ quỉ, bàng sinh, tu la, thường sinh trong nhân loại và chư thiên mà không phải những nơi thấp hèn; thì thân gần chư vị Như lai, nghe và tiếp nhận chánh pháp; thì thường sinh thế giới trong sạch của chư vị Như lai: tất cả thành quả này là do nghe được kinh pháp cực kỳ sâu xa này. Thiện nam hay thiện nữ như vậy là được Như lai đã thấy biết và đã ghi nhận sẽ được không thoái chuyển vô thượng bồ đề. Thiện nam hay thiện nữ nào được kinh pháp cực kỳ sâu xa này một khi lướt qua thính giác, thì nên biết người ấy không phỉ báng Phật, không hủy hoại Pháp, không khinh dể Tăng. Ai chưa gieo trồng thiện căn họ làm cho gieo trồng, ai gieo trồng thiện căn rồi họ làm cho tăng trưởng và thành thục. Họ khuyến khích mọi người trong mọi thế giới làm theo sáu pháp ba la mật.

    Bấy giờ đại bồ tát Hư không tạng, Phạn vương, Đế thích, bốn Thiên vương, chư thiên, tức thì từ chỗ ngồi đứng dậy, vắt vạt áo của vai bên phải, chắp tay cung kính, đảnh lễ ngang chân đức Thế tôn, rồi thưa rằng, bạch Ngài, ở đâu mà có giảng diễn bản kinh mầu nhiệm Ánh sáng hoàng kim này, thì quốc gia ấy có bốn cái lợi. Một, quân đội hoàng gia cường thịnh, không có thù địch, vua và dân không bịnh tật, sống lâu dài, an lạc cát tường, hưng hiển Phật pháp. Hai, hoàng gia và quần thần vui đẹp với nhau, rời xa sự dua nịnh, vua cũng trọng nể. Ba, tu sĩ và quốc dân thực tu Phật pháp, không bịnh, yên vui, không ai uổng tử, phụng sự tất cả ruộng phước. Bốn, ngày đêm cơ thể điều hòa, thư thái, chư thiên tăng thêm giữ gìn hộ vệ, tâm lý từ bi, bình đẳng, không có sự thương tổn, tác hại, làm cho ai cũng qui kính Tam bảo, ai cũng nguyện tu tập bồ đề hạnh. Như thế đó là bốn cái lợi. Bạch đức Thế tôn, chúng con cũng thường xuyên vì làm cho kinh pháp này lan rộng nên theo dõi những người thọ trì, họ ở đâu chúng con cũng đem lại lợi ích cho họ. Đức Thế tôn dạy rằng, lành thay các thiện nam tử, các người hãy làm đúng như vậy. Các người hãy nỗ lực phổ biến bản kinh nhiệm mầu và chúa tể này, và thế là làm cho Phật pháp ở đời lâu dài.
    VÔ CÔNG DỤNG HẠNH - VÔ KHUẤT LIỄU HẠNH - VÔ CẤU PHÁP - VÔ TÁT Ý - VÔ SỞ ĐẮC - VÔ SỞ CẦU - VÔ SỞ TRỤ - VÔ SỞ ÚY

  4. #4

    Mặc định

    Phẩm 4: Âm Thanh Trống Vàng (32)

    Vào lúc bấy giờ, bồ tát Diệu tràng đích thân ở trước đức Thế tôn nghe diệu pháp Ngài nói, thì hoan hỷ, phấn chấn, nhất tâm tư duy, trở về chốn cũ. Trong đêm hôm ấy, bồ tát mộng thấy cái trống vàng ròng to lớn, ánh sáng rực rỡ như vầng thái dương. Trong ánh sáng ấy, bồ tát thấy được chư vị Thế tôn khắp mười phương hướng, cùng ngồi trên pháp tòa lưu ly ở dưới cây ngọc, được bao quanh bởi đại chúng gồm có vô số người. Bồ tát lại thấy một vị Bà la môn cầm dùi mà đánh trống vàng ấy, xuất ra âm thanh to lớn. Âm thanh này nói lên những bài chỉnh cú nhiệm mầu, diễn đạt diệu pháp sám hối. Bồ tát Diệu tràng nghe rồi nắm giữ tất cả trong ký ức, buộc trí nhớ lại như ở trước mắt. Trời sáng, bồ tát cùng với hàng trăm hàng ngàn người đem các cúng phẩm ra khỏi thành Vương xá, vào đỉnh Thứu phong, đến chỗ đức Thế tôn. Bồ tát đảnh lễ ngang chân của Ngài, sắp hương hoa ra, đi quanh Ngài ba vòng, lui lại ngồi một phía, chấp tay cung kính, chiêm ngưỡng tôn nhan mà thưa, bạch đức Thế tôn, trong đêm vừa rồi, con mộng thấy một vị Bà la môn lấy tay cầm dùi, đánh một cái trống bằng hoàng kim, rất đẹp, xuất ra âm thanh rất lớn. Âm thanh ấy nói lên những bài chỉnh cú nhiệm mầu, diễn đạt diệu pháp sám hối. Nghe rồi, con nắm giữ trong trí tất cả. Kính xin đức Thế tôn đại từ đại bi, cho con tường thuật. Đối trước đức Thế tôn, bồ tát Diệu tràng nói những chỉnh cú sau đây.

    (1) Đêm hôm vừa rồi

    trong mộng con thấy

    cái trống bằng vàng

    rất lớn và đẹp,

    khắp cả thân trống

    có ánh sáng vàng.

    (2) Như vầng thái dương,

    ánh sáng như vậy

    chiếu rực khắp cả

    mười phương thế giới,

    làm ai cũng thấy

    chư vị Thế tôn.

    (3) Dưới những cây ngọc,

    các Ngài cùng ngồi

    pháp tòa lưu ly,

    có hàng ngàn người

    rất mực cung kính

    bao quanh các Ngài.

    (4) Một bà la môn

    cầm dùi mà đánh

    trống vàng hoàng kim

    phát âm thanh lớn,

    và chính âm thanh

    phát từ trống ấy

    nói những chỉnh cú

    nhiệm mầu sau đây.

    (5) Trống vàng sáng rực

    phát ra tiếng mầu

    vang khắp tất cả

    đại thiên thế giới,

    diệt tội cực nặng

    trong ba đường ác

    cùng bao khổ ách

    của trong nhân loại.

    (6) Uy lực âm thanh

    của trống vàng này

    diệt hẳn hết thảy

    phiền não chướng ngại

    loại trừ sợ hãi

    làm cho yên vui,

    in như chính đấng

    Mâu ni tự tại.

    (7) Chính trong cái nơi

    biển cả sống chết,

    Thế tôn tu hành

    thành trí toàn giác,

    làm cho chúng sinh

    đủ các giác phần,

    cứu cánh qui về

    biển cả công đức.

    (8) Trống vàng xuất ra

    âm thanh mầu nhiệm

    người nghe cùng được

    phạn âm thâm thúy,

    và rồi chứng được

    vô thượng bồ đề,

    thường chuyển pháp luân

    trong sáng nhiệm mầu.

    (9) Lại được thọ lượng

    bất khả tư nghị,

    tùy nghi thuyết pháp

    lợi ích chúng sinh,

    cắt đứt dòng nước

    bao nhiêu khổ lụy,

    bao nhiêu phiền não

    cũng diệt trừ cả.

    (10) Những người ở trong

    nẻo đường rất dữ,

    ngọn lửa dữ dội

    phủ cả châu thân,

    nghe được tiếng mầu

    của trống vàng này

    thì liền thoát khổ

    qui y Phật đà.

    (11) Và rồi thành được

    trí biết đời trước,

    nhớ được quá khứ

    đến trăm ngàn đời,

    nên cùng nhớ đến

    đức Đại mâu ni,

    được nghe kinh pháp

    sâu xa của Ngài.

    (12) Bởi nghe tiếng mầu

    xuất từ trống vàng,

    nên thường thân gần

    chư vị Thế tôn,

    lại thường rời bỏ

    mọi hành vi ác,

    thuần túy tu tập

    các loại thiện pháp.

    (13) Tất cả chúng sinh

    nhân loại chư thiên

    thiết tha chí thành

    nguyện cầu những gì,

    thì nghe tiếng mầu

    xuất từ trống vàng

    là thỏa mãn cả

    những nguyện cầu ấy.

    (14) Những kẻ sa vào

    địa ngục vô gián,

    lửa dữ bùng lên

    đốt cháy thân thể,

    và kẻ ở nơi

    không ai cứu hộ,

    nghe tiếng trống vàng

    khổ sở mất cả.

    (15) Chư thiên nhân loại

    và các loài khác,

    những ai hiện chịu

    bao nỗi khổ nạn,

    mà nghe tiếng mầu

    xuất từ trống vàng

    cũng hết đau khổ

    và được giải thoát.

    (16) Nguyện cầu tất cả

    đấng Lưỡng túc tôn

    hiện tại đang ở

    mười phương thế giới,

    đem lòng đại bi

    nhớ nghĩ đến con.

    (17) Tất cả những ai

    không nơi nương tựa

    không ai cứu hộ,

    con nguyện làm nơi

    nương tựa lớn lao

    cho những người ấy.

    (18) Trước đây con làm

    bao nhiêu tội lỗi

    trong đó gồm có

    ác nghiệp nặng nề,

    ngày nay đối trước

    các đấng Thập lực

    dốc lòng chí thành

    sám hối tất cả.

    (19) Con đã không tin

    chư vị Thế tôn,

    cũng không kính trọng

    cha mẹ tôn trưởng,

    không chăm tu hành

    mọi thứ thiện nghiệp,

    nên thường tạo ra

    bao nhiêu ác nghiệp.

    (20) Con đã tự thị

    tôn quí cao sang

    dòng dõi đẳng cấp

    tiền tài địa vị,

    tự thị trẻ mạnh

    kiêu xa phóng túng,

    nên thường tạo ra

    bao nhiêu ác nghiệp.

    (21) Tâm trí thường xuyên

    nổi dậy tà niệm,

    miệng nói độc ác,

    không thấy tội lỗi,

    nên thường tạo ra

    bao nhiêu ác nghiệp.

    (22) Con đã thường xuyên

    làm việc phàm phu,

    vô minh ám chướng

    đi theo bạn xấu,

    nên thường tạo ra

    bao nhiêu ác nghiệp.

    (23) Hoặc vì ăn chơi,

    hoặc vì buồn nản,

    ham muốn, tức giận

    thắt kết trong lòng,

    nên thường tạo ra

    bao nhiêu ác nghiệp.

    (24) Thân với người xấu,

    keo kiết, ganh ghét

    nghèo nàn, cùng khổ

    nịnh hót, lừa dối,

    nên thường tạo ra

    bao nhiêu ác nghiệp.

    (25) Cũng có những lúc

    không thích tội ác,

    nhưng vì e sợ,

    vì bị sai sử,

    nên thường tạo ra

    bao nhiêu ác nghiệp.

    (26) Hoặc vì háo động

    hoặc vì hận thù

    hoặc vì đói khát

    dày vò hành hạ,

    nên thường tạo ra

    bao nhiêu ác nghiệp.

    (27) Vì ăn vì mặc

    vì ham nữ sắc,

    vì lửa phiền não

    thiêu đốt nung nấu,

    nên thường tạo ra

    bao nhiêu ác nghiệp.

    (28) Với Phật Pháp Tăng

    không biết tôn kính,

    nên đã tạo ra

    ác nghiệp như trên,

    ngày nay con xin

    sám hối tất cả.

    (29) Độc giác Bồ tát

    cũng không kính trọng,

    nên đã tạo ra

    ác nghiệp như trên,

    ngày nay con xin

    sám hối tất cả.

    (30) Phỉ báng Phật pháp

    bất hiếu cha mẹ,

    nên đã tạo ra

    ác nghiệp như trên,

    ngày nay con xin

    sám hối tất cả.

    (31) Ngu muội kiêu căng

    tham lam giận dữ

    nên đã tạo ra

    ác nghiệp như trên,

    ngày nay con xin

    sám hối tất cả.

    (32) Trong mọi thế giới

    hiến cúng vô lượng

    chư vị Thế tôn,

    con nguyện cứu vớt

    cho bao chúng sinh

    thoát ly khổ nạn.

    (33) Nguyện cầu chúng sinh

    đứng trong mười địa,

    tròn đầy phước trí

    thành Phật đà rồi

    hướng dẫn bao kẻ

    mê mờ ngu muội.

    (34) Con vì chúng sinh

    tu hành khổ hạnh

    trăm ngàn đời kiếp,

    đem đại trí lực

    mà làm cho họ

    vượt qua biển khổ.

    (35) Con vì chúng sinh

    diễn giảng kinh pháp

    Ánh sáng hoàng kim,

    bản kinh tối thượng

    năng lực trừ được

    bao thứ ác nghiệp.

    (36) Những ai trải qua

    trăm ngàn đời kiếp

    tạo ra bao tội

    cực kỳ nặng nề,

    mà biết phát lộ

    thì cũng tiêu trừ.

    (37) Y theo kinh pháp

    Ánh sáng hoàng kim,

    sám hối như trên,

    thì mau tận diệt

    bao nhiêu ác nghiệp

    đã gây đau khổ.

    (38) Cả trăm cả ngàn

    thiền định siêu việt,

    cùng với tổng trì

    bất khả tư nghị,

    năm căn năm lực

    bảy chi tuệ giác

    tám chi thánh đạo

    ba mươi bảy pháp,

    con nguyện thường xuyên

    tu tập không mỏi.

    (39) Và con sẽ đến

    mười bồ tát địa,

    nơi đầy đủ cả

    mọi thứ quí báu,

    viên mãn tất cả

    phẩm chất Phật đà,

    cứu vớt chúng sinh

    vượt dòng sinh tử.

    (40) Đối với biển cả

    quả vị Phật đà,

    và với kho tàng

    công đức sâu xa,

    tuệ giác mầu nhiệm

    bất khả tư nghị,

    con nguyện thành tựu

    một cách đầy đủ.

    (41) Nguyện cầu mười phương

    chư vị Thế tôn

    hộ niệm cho con,

    đem tâm đại bi

    thương tưởng chấp nhận

    cho con sám hối.

    (42) Trong bao đời kiếp

    con tạo ác nghiệp,

    do ác nghiệp ấy

    mà sinh đau khổ,

    nguyện Phật thương tưởng

    cho con trừ diệt.

    (43) Con gây ác nghiệp

    nên thường lo sợ,

    trong mọi cử động

    đi đứng nằm ngồi,

    chưa hề có được

    một chút vui vẻ.

    (44) Thế tôn đại từ

    trừ cho chúng sinh

    bao nỗi sợ hãi,

    nguyện xin chấp nhận

    cho con sám hối

    thoát ly lo sợ.

    (45) Con có đủ cả

    hoặc chướng nghiệp hướng

    cùng với báo chướng,

    nguyện xin Thế tôn,

    đem nước đại bi

    rửa cho sạch sẽ.

    (46) Ác nghiệp quá khứ

    ác nghiệp hiện tại

    mà con tạo ra,

    con xin chí thành

    phát lộ tất cả

    nguyện tiêu diệt hết.

    (47) Và bao ác nghiệp

    trong thì vị lai,

    con xin giữ gìn

    không cho nổi dậy,

    giả sử vi phạm

    lời thệ nguyện này

    thì không bao giờ

    con dám che giấu.

    (48) Thân có ba nghiệp

    miệng có bốn nghiệp,

    ý có ba nghiệp

    trói buộc chúng sinh

    vô thỉ đến nay

    thường xuyên liên tục.

    (49) Do thân miệng ý

    mà tạo thập ác,

    tội ác như vậy

    rất nhiều sắc thái,

    ngày nay con xin

    sám hối tất cả.

    (50) Ác nghiệp con làm

    sẽ phải tự chịu

    ác báo đau khổ

    [nếu không sám hối];

    ngày nay đối trước

    chư vị Thế tôn

    con xin chí thành

    sám hối tất cả.

    (51) Đại lục Thiệm bộ

    và bao thế giới

    trong đó được có

    bao nhiêu thiện nghiệp,

    ngày nay con xin

    tùy hỷ tất cả.

    (50) Nguyện bỏ thập ác

    nguyện tu thập thiện

    an trú mười địa

    thường thấy Thế tôn.

    (53) Bao nhiêu những nghiệp

    phước đức trí tuệ

    mà thân miệng ý

    của con tu được,

    con xin vận dụng

    thiện nghiệp như vậy

    mau chóng đạt đến

    tuệ giác tối thượng.

    (54) Nay con đích thân

    đối trước Thế tôn

    chân thành phát lộ

    lắm cái ác nạn :

    cái nạn ngu muội

    si mê ba cõi,

    cái nạn thường làm

    ác nghiệp cực nặng,

    (55) cái nạn tập hợp

    dục vọng, tà kiến,

    cái nạn tham ái

    thường xuyên chảy dài,

    cái nạn đam mê

    thế giới hiện hữu,

    cái nạn toàn là

    phiền não phàm phu,

    (56) cái nạn cuồng phóng

    náo động thác loạn,

    cái nạn thân gần

    bạn bè bất lương,

    cái nạn tham nhiễm

    trong chốn sinh tử,

    cái nạn sân si

    ngu độn làm ác,

    (57) cái nạn sinh nhằm

    tám nơi không rảnh (33) ,

    cái nạn chưa hề

    tập hợp công đức,

    nay con đối trước

    các đấng Tối thắng

    sám hối vô số

    ác nạn như vậy.

    (58) Nay con qui y

    các đấng Thiện thệ,

    kính lạy các đấng

    Biển đức vô thượng;

    Ngài, núi vàng lớn

    chiếu sáng khắp cả,

    nguyện xin từ bi

    gia hộ cho con.

    (59) Thân Phật rực lên

    ánh sáng hoàng kim,

    mắt Phật tựa như

    lưu ly xanh biếc;

    là đấng cát tường

    uy đức đặc tôn,

    Ngài đem mặt trời

    của lòng đại bi

    xua tan u ám

    cho bao chúng sinh.

    (60) Phật như mặt trời

    sáng soi khắp cả,

    sáng không vẩn đục,

    sáng sạch bụi dơ ;

    Phật như mặt trăng

    sáng soi mát mẻ,

    sáng tan nhiệt lực

    của bao phiền não.

    (61) Ba hai tướng tốt

    châu thân uy nghiêm,

    tám mươi tướng phụ

    toàn hảo cả người,

    phước đức tuyệt bậc

    khó nghĩ khó bàn,

    như vầng thái dương

    chiếu soi thế giới.

    (62) Sắc thân tựa như

    lưu ly trong suốt

    lại như trăng đầy

    ở giữa không trung.

    Thân vàng như phủ

    mạng lưới pha lê

    rực rỡ bởi những

    ánh sáng đủ màu.

    (63) Trong cái thác nước

    sinh tử khổ não,

    già bịnh lo rầu

    trôi cuốn chúng sinh;

    biển khổ như vậy

    khó mà chịu nổi,

    mặt trời Phật đà

    chiếu cho khô cạn.

    (64) Con xin lạy đấng

    Trí tuệ toàn giác,

    đấng Hiếm có nhất

    thế giới đại thiên,

    đấng mình vàng tía

    sáng lên rực rỡ,

    đấng trang sức mình

    với bao cái đẹp.

    (65) Ngài như đại dương

    mênh mông khó biết,

    Ngài như đại địa

    bụi nhỏ khó tính,

    Ngài như núi cao

    trọng lượng khó cân,

    Ngài như không gian

    giới hạn khó cùng.

    (66) Phật đức là vậy,

    chúng sinh khó biết;

    càng nghĩ càng xét

    trong lắm đời kiếp,

    càng không biết nổi

    bờ biển Phật đức.

    (67) Nghiền nát đại địa

    toán biết cực vi,

    toán biết nước giọt

    của cả đại dương

    số lượng Phật đức

    vẫn không biết nổi.

    (68) Tất cả chúng sinh

    cùng nhau ca tụng

    phẩm chất danh tiếng

    tướng hảo thanh tịnh

    uy nghiêm nhiệm mầu

    của đức Thế tôn,

    cũng không khả năng

    hết được giới hạn.

    (69) Bao nhiêu thiện nghiệp

    mà con có được,

    con nguyện mau chóng

    thành đấng Vô thượng,

    thuyết pháp phong phú

    ích lợi sinh linh,

    làm cho tất cả

    giải thoát khổ đau.

    (70) Chiến thắng ma quân

    có sức mạnh lớn,

    chuyển đẩy bánh xe

    chánh pháp tối thượng,

    ở đời với những

    thì gian khó tính,

    con đem cam lộ

    sung mãn chúng sinh.

    (71) Y như quá khứ

    các đấng Tối thắng

    đã viên mãn cả

    sáu ba la mật,

    hủy diệt tham dục

    sân hận ngu si,

    loại trừ phiền não,

    triệt đoạn khổ lụy.

    (72) Con nguyện thường được

    trí biết đời trước

    nhớ được quá khứ

    cả trăm ngàn đời,

    nhất là thường nhớ

    đấng Đại mâu ni,

    được nghe diệu pháp

    rất sâu của Ngài.

    (73) Nguyện con biết đem

    thiển căn như vậy

    phụng sự vô biên

    các đấng Tối thắng,

    viễn ly hết thảy

    nghiệp nhân bất thiện,

    thường được tu hành

    Pháp mầu chân thật.

    (74) Làm cho chúng sinh

    trong mọi thế giới

    khổ não thoát ly

    yên vui thật hiện,

    bao kẻ giác quan

    không được toàn hảo

    thì làm cho được

    cơ thể đầy đủ.

    (75) Những ai gặp phải

    khổ vì bịnh tật,

    thân hình ốm yếu

    không nơi nương tựa,

    thì con làm cho

    hết cả bịnh khổ,

    sức khỏe tướng tốt

    cùng được đủ cả.

    (76) Những ai phạm pháp

    sắp bị hành hình,

    khổ sở hành hạ

    lo sợ dày vò ;

    khi họ đau khổ

    cực độ như vậy,

    không biết nhờ ai

    thì con cứu giúp.

    (77) Ai bị đánh khảo

    gông cùm xiềng xích,

    đủ loại hình cụ

    hành hạ thân thể,

    trong khi vô số

    những nỗi lo sợ

    dày vò tâm trí

    không chút yên vui ;

    (78) thì con làm cho

    thoát được giam cầm

    mà bao hình cụ

    đã làm khổ họ,

    sắp bị hành hình

    thì toàn tính mạng,

    bao khổ sở khác

    cũng hết vĩnh viễn.

    (79) Có những chúng sinh

    đói khát hoành hành,

    thì con làm cho

    hưởng đủ myՠvị,

    làm mù được thấy

    làm điếc được nghe

    làm què được đi

    làm ngọng được nói.

    (80) Những kẻ nghèo nàn

    thì được kho báu,

    kho lẫm dẫy đầy

    không thiếu thốn chi.

    Con làm tất cả

    hưởng vui thượng thặng,

    không còn một ai

    chịu lấy đau khổ.

    (81) Người nào cũng được

    mọi người thích nhìn,

    dung nghi phong nhã

    mà lại nghiêm chỉnh,

    ai nấy cùng được

    hiện tại yên vui,

    đời sống phong phú

    phước đức đủ cả.

    (82) Tùy ý chúng sinh

    nghĩ đến âm nhạc,

    âm nhạc tuyệt hảo

    tức thì tấu lên ;

    và nghĩ đến nước

    nước mát đầy hồ,

    sen màu hoàng kim

    nổi trên nước ấy.

    (83) Tùy ý chúng sinh

    nghĩ đến vật dụng,

    vật dụng đủ cả

    cơm áo ghế giường,

    đủ vàng đủ ngọc,

    đủ ngọc lưu ly,

    chuỗi ngọc vòng xuyến

    có đủ hết thảy.

    (84) Lại làm chúng sinh

    không nghe tiếng dữ,

    cũng không nhìn thấy

    những gì trái ý;

    dung mạo có được

    toàn là đoan trang,

    và hướng về nhau

    toàn bằng lòng từ.

    (85) Lạc cụ để sống

    nghĩ là có đủ,

    vàng ngọc có được

    không hề tiếc nuối,

    phân cho tất cả

    những ai cần thiết.

    (86) Các loại hương liệu

    và các loại hoa

    từ cây rơi xuống

    mỗi ngày ba lần,

    tùy ý hưởng dụng

    lòng tràn hoan hỷ.

    (87) Con nguyện chúng sinh

    đều biết hiến cúng

    các đấng Tối thắng

    thế giới mười phương,

    hiến cúng Diệu pháp

    hoàn bị cả ba

    cỗ xe sáng sủa,

    hiến cúng Thánh chúng

    đủ cả Bồ tát

    Độc giác Thanh văn.

    (88) Con nguyện chúng sinh

    đừng ai ở vào

    những nơi hèn hạ

    những chỗ tám nạn,

    thường sinh làm người

    có thể tu hành,

    thường được phụng sự

    chư vị Thế tôn.

    (89) Con nguyện chúng sinh

    sinh nhà sang giàu

    tài sản bảo vật

    đầy kho đầy lẫm,

    tướng mạo, danh tiếng

    không ai sánh bằng,

    thọ lượng trải qua

    nhiều kiếp lâu dài.

    (90) Con nguyện chúng sinh

    nữ biến thành nam

    thông minh khỏe mạnh

    đa trí đa năng,

    và ai cũng đi

    đường đi bồ tát

    là siêng mà tu

    sáu ba la mật.

    (91) Con nguyện chúng sinh

    thường thấy chư Phật

    an tọa bảo tòa

    dưới những cây ngọc --

    bảo tòa sư tử

    bằng chất lưu ly,

    thường được thân nghe

    Phật chuyển pháp luân.

    (92) Quá khứ hiện tại

    nếu con luân hồi

    ở trong ba cõi

    tạo các ác nghiệp

    khả năng rước lấy

    ác báo đáng ghét,

    thì nguyện diệt sạch

    không còn thừa sót.

    (93) Ở trong biển có (34)

    bao nhiêu chúng sinh

    bị buộc thắt chặt

    trong lưới sinh tử,

    con nguyện vì họ

    cắt đứt lưới ấy

    bằng kiếm trí tuệ,

    làm cho mau chóng

    thoát khỏi sinh tử

    chứng đắc tuệ giác.

    (94) Đại lục Thiệm bộ

    hay thế giới khác,

    chúng sinh trong đó

    tạo bao thắng phước,

    nay con nguyện xin

    tùy hỷ tất cả.

    (95) Con nguyện vận dụng

    sự tùy hỷ này,

    và bao thiện hạnh

    của than miệng ý,

    làm cho thắng nghiệp

    thường xuyên lớn lên,

    thực hiện mau chóng

    tuệ giác vĩ đại.

    (96) Bao nhiêu thắng phước

    lễ bái tán dương

    công đức chư Phật,

    với tâm sâu xa

    cực kỳ trong sáng

    không chút gợn bẩn,

    con đem hồi hướng,

    lại đem phát nguyện,

    thì sáu mươi kiếp

    vượt nẻo đường dữ.

    (97) Nếu có thiện nam

    hay thiện nữ nào,

    hoặc các vọng tộc

    như Bà la môn,

    chắp tay dốc lòng

    tán dương chư Phật,

    thì sinh ở đâu

    cũng nhớ đời trước,

    (98) giác quan toàn hảo

    cơ thể toàn myլ

    và hoàn thành hết

    công đức siêu việt,

    thì trong vị lai

    sinh ra ở đâu

    chư thiên nhân loại

    cũng thường chiêm ngưỡng.

    (99) Người ấy không phải

    ở nơi một đức

    mười đức Phật đà

    tu tập thiện căn

    mà nay nghe được

    pháp sám hối này,

    mà phải ở nơi

    trăm ngàn Phật đà

    gieo trồng thiện căn,

    mới được nghe đến

    pháp mầu sám hối

    như thế này đây.

    Bấy giờ đức Thế tôn nghe những lời chỉnh cú ấy thì tán dương bồ tát Diệu tràng, rằng lành thay thiện nam tử, âm thanh xuất từ trống vàng mà ông mộng thấy, đã tán dương công đức Phật đà và diệu pháp sám hối. Ai nghe âm thanh như vậy cũng được rất nhiều phước đức. Âm thanh ấy lợi ích rộng lớn cho bao chúng sinh, loại trừ nghiệp chướng cho họ. Ông nên biết sự thể siêu việt này nguyên nhân là do tập quán quá khứ ông đã quen tán dương chư Phật và sám hối phát nguyện, lại do uy lực chư Phật da trì cho ông. Nguyên nhân ấy, rồi đây vì ông mà Như lai sẽ nói đến (35) .

    Lúc ấy, cả đại hội nghe pháp thoại này, ai cũng hoan hỷ, tin chịu, phụng hành.
    VÔ CÔNG DỤNG HẠNH - VÔ KHUẤT LIỄU HẠNH - VÔ CẤU PHÁP - VÔ TÁT Ý - VÔ SỞ ĐẮC - VÔ SỞ CẦU - VÔ SỞ TRỤ - VÔ SỞ ÚY

  5. #5

    Mặc định

    Phẩm 4: Âm Thanh Trống Vàng (32)

    Vào lúc bấy giờ, bồ tát Diệu tràng đích thân ở trước đức Thế tôn nghe diệu pháp Ngài nói, thì hoan hỷ, phấn chấn, nhất tâm tư duy, trở về chốn cũ. Trong đêm hôm ấy, bồ tát mộng thấy cái trống vàng ròng to lớn, ánh sáng rực rỡ như vầng thái dương. Trong ánh sáng ấy, bồ tát thấy được chư vị Thế tôn khắp mười phương hướng, cùng ngồi trên pháp tòa lưu ly ở dưới cây ngọc, được bao quanh bởi đại chúng gồm có vô số người. Bồ tát lại thấy một vị Bà la môn cầm dùi mà đánh trống vàng ấy, xuất ra âm thanh to lớn. Âm thanh này nói lên những bài chỉnh cú nhiệm mầu, diễn đạt diệu pháp sám hối. Bồ tát Diệu tràng nghe rồi nắm giữ tất cả trong ký ức, buộc trí nhớ lại như ở trước mắt. Trời sáng, bồ tát cùng với hàng trăm hàng ngàn người đem các cúng phẩm ra khỏi thành Vương xá, vào đỉnh Thứu phong, đến chỗ đức Thế tôn. Bồ tát đảnh lễ ngang chân của Ngài, sắp hương hoa ra, đi quanh Ngài ba vòng, lui lại ngồi một phía, chấp tay cung kính, chiêm ngưỡng tôn nhan mà thưa, bạch đức Thế tôn, trong đêm vừa rồi, con mộng thấy một vị Bà la môn lấy tay cầm dùi, đánh một cái trống bằng hoàng kim, rất đẹp, xuất ra âm thanh rất lớn. Âm thanh ấy nói lên những bài chỉnh cú nhiệm mầu, diễn đạt diệu pháp sám hối. Nghe rồi, con nắm giữ trong trí tất cả. Kính xin đức Thế tôn đại từ đại bi, cho con tường thuật. Đối trước đức Thế tôn, bồ tát Diệu tràng nói những chỉnh cú sau đây.

    (1) Đêm hôm vừa rồi

    trong mộng con thấy

    cái trống bằng vàng

    rất lớn và đẹp,

    khắp cả thân trống

    có ánh sáng vàng.

    (2) Như vầng thái dương,

    ánh sáng như vậy

    chiếu rực khắp cả

    mười phương thế giới,

    làm ai cũng thấy

    chư vị Thế tôn.

    (3) Dưới những cây ngọc,

    các Ngài cùng ngồi

    pháp tòa lưu ly,

    có hàng ngàn người

    rất mực cung kính

    bao quanh các Ngài.

    (4) Một bà la môn

    cầm dùi mà đánh

    trống vàng hoàng kim

    phát âm thanh lớn,

    và chính âm thanh

    phát từ trống ấy

    nói những chỉnh cú

    nhiệm mầu sau đây.

    (5) Trống vàng sáng rực

    phát ra tiếng mầu

    vang khắp tất cả

    đại thiên thế giới,

    diệt tội cực nặng

    trong ba đường ác

    cùng bao khổ ách

    của trong nhân loại.

    (6) Uy lực âm thanh

    của trống vàng này

    diệt hẳn hết thảy

    phiền não chướng ngại

    loại trừ sợ hãi

    làm cho yên vui,

    in như chính đấng

    Mâu ni tự tại.

    (7) Chính trong cái nơi

    biển cả sống chết,

    Thế tôn tu hành

    thành trí toàn giác,

    làm cho chúng sinh

    đủ các giác phần,

    cứu cánh qui về

    biển cả công đức.

    (8) Trống vàng xuất ra

    âm thanh mầu nhiệm

    người nghe cùng được

    phạn âm thâm thúy,

    và rồi chứng được

    vô thượng bồ đề,

    thường chuyển pháp luân

    trong sáng nhiệm mầu.

    (9) Lại được thọ lượng

    bất khả tư nghị,

    tùy nghi thuyết pháp

    lợi ích chúng sinh,

    cắt đứt dòng nước

    bao nhiêu khổ lụy,

    bao nhiêu phiền não

    cũng diệt trừ cả.

    (10) Những người ở trong

    nẻo đường rất dữ,

    ngọn lửa dữ dội

    phủ cả châu thân,

    nghe được tiếng mầu

    của trống vàng này

    thì liền thoát khổ

    qui y Phật đà.

    (11) Và rồi thành được

    trí biết đời trước,

    nhớ được quá khứ

    đến trăm ngàn đời,

    nên cùng nhớ đến

    đức Đại mâu ni,

    được nghe kinh pháp

    sâu xa của Ngài.

    (12) Bởi nghe tiếng mầu

    xuất từ trống vàng,

    nên thường thân gần

    chư vị Thế tôn,

    lại thường rời bỏ

    mọi hành vi ác,

    thuần túy tu tập

    các loại thiện pháp.

    (13) Tất cả chúng sinh

    nhân loại chư thiên

    thiết tha chí thành

    nguyện cầu những gì,

    thì nghe tiếng mầu

    xuất từ trống vàng

    là thỏa mãn cả

    những nguyện cầu ấy.

    (14) Những kẻ sa vào

    địa ngục vô gián,

    lửa dữ bùng lên

    đốt cháy thân thể,

    và kẻ ở nơi

    không ai cứu hộ,

    nghe tiếng trống vàng

    khổ sở mất cả.

    (15) Chư thiên nhân loại

    và các loài khác,

    những ai hiện chịu

    bao nỗi khổ nạn,

    mà nghe tiếng mầu

    xuất từ trống vàng

    cũng hết đau khổ

    và được giải thoát.

    (16) Nguyện cầu tất cả

    đấng Lưỡng túc tôn

    hiện tại đang ở

    mười phương thế giới,

    đem lòng đại bi

    nhớ nghĩ đến con.

    (17) Tất cả những ai

    không nơi nương tựa

    không ai cứu hộ,

    con nguyện làm nơi

    nương tựa lớn lao

    cho những người ấy.

    (18) Trước đây con làm

    bao nhiêu tội lỗi

    trong đó gồm có

    ác nghiệp nặng nề,

    ngày nay đối trước

    các đấng Thập lực

    dốc lòng chí thành

    sám hối tất cả.

    (19) Con đã không tin

    chư vị Thế tôn,

    cũng không kính trọng

    cha mẹ tôn trưởng,

    không chăm tu hành

    mọi thứ thiện nghiệp,

    nên thường tạo ra

    bao nhiêu ác nghiệp.

    (20) Con đã tự thị

    tôn quí cao sang

    dòng dõi đẳng cấp

    tiền tài địa vị,

    tự thị trẻ mạnh

    kiêu xa phóng túng,

    nên thường tạo ra

    bao nhiêu ác nghiệp.

    (21) Tâm trí thường xuyên

    nổi dậy tà niệm,

    miệng nói độc ác,

    không thấy tội lỗi,

    nên thường tạo ra

    bao nhiêu ác nghiệp.

    (22) Con đã thường xuyên

    làm việc phàm phu,

    vô minh ám chướng

    đi theo bạn xấu,

    nên thường tạo ra

    bao nhiêu ác nghiệp.

    (23) Hoặc vì ăn chơi,

    hoặc vì buồn nản,

    ham muốn, tức giận

    thắt kết trong lòng,

    nên thường tạo ra

    bao nhiêu ác nghiệp.

    (24) Thân với người xấu,

    keo kiết, ganh ghét

    nghèo nàn, cùng khổ

    nịnh hót, lừa dối,

    nên thường tạo ra

    bao nhiêu ác nghiệp.

    (25) Cũng có những lúc

    không thích tội ác,

    nhưng vì e sợ,

    vì bị sai sử,

    nên thường tạo ra

    bao nhiêu ác nghiệp.

    (26) Hoặc vì háo động

    hoặc vì hận thù

    hoặc vì đói khát

    dày vò hành hạ,

    nên thường tạo ra

    bao nhiêu ác nghiệp.

    (27) Vì ăn vì mặc

    vì ham nữ sắc,

    vì lửa phiền não

    thiêu đốt nung nấu,

    nên thường tạo ra

    bao nhiêu ác nghiệp.

    (28) Với Phật Pháp Tăng

    không biết tôn kính,

    nên đã tạo ra

    ác nghiệp như trên,

    ngày nay con xin

    sám hối tất cả.

    (29) Độc giác Bồ tát

    cũng không kính trọng,

    nên đã tạo ra

    ác nghiệp như trên,

    ngày nay con xin

    sám hối tất cả.

    (30) Phỉ báng Phật pháp

    bất hiếu cha mẹ,

    nên đã tạo ra

    ác nghiệp như trên,

    ngày nay con xin

    sám hối tất cả.

    (31) Ngu muội kiêu căng

    tham lam giận dữ

    nên đã tạo ra

    ác nghiệp như trên,

    ngày nay con xin

    sám hối tất cả.

    (32) Trong mọi thế giới

    hiến cúng vô lượng

    chư vị Thế tôn,

    con nguyện cứu vớt

    cho bao chúng sinh

    thoát ly khổ nạn.

    (33) Nguyện cầu chúng sinh

    đứng trong mười địa,

    tròn đầy phước trí

    thành Phật đà rồi

    hướng dẫn bao kẻ

    mê mờ ngu muội.

    (34) Con vì chúng sinh

    tu hành khổ hạnh

    trăm ngàn đời kiếp,

    đem đại trí lực

    mà làm cho họ

    vượt qua biển khổ.

    (35) Con vì chúng sinh

    diễn giảng kinh pháp

    Ánh sáng hoàng kim,

    bản kinh tối thượng

    năng lực trừ được

    bao thứ ác nghiệp.

    (36) Những ai trải qua

    trăm ngàn đời kiếp

    tạo ra bao tội

    cực kỳ nặng nề,

    mà biết phát lộ

    thì cũng tiêu trừ.

    (37) Y theo kinh pháp

    Ánh sáng hoàng kim,

    sám hối như trên,

    thì mau tận diệt

    bao nhiêu ác nghiệp

    đã gây đau khổ.

    (38) Cả trăm cả ngàn

    thiền định siêu việt,

    cùng với tổng trì

    bất khả tư nghị,

    năm căn năm lực

    bảy chi tuệ giác

    tám chi thánh đạo

    ba mươi bảy pháp,

    con nguyện thường xuyên

    tu tập không mỏi.

    (39) Và con sẽ đến

    mười bồ tát địa,

    nơi đầy đủ cả

    mọi thứ quí báu,

    viên mãn tất cả

    phẩm chất Phật đà,

    cứu vớt chúng sinh

    vượt dòng sinh tử.

    (40) Đối với biển cả

    quả vị Phật đà,

    và với kho tàng

    công đức sâu xa,

    tuệ giác mầu nhiệm

    bất khả tư nghị,

    con nguyện thành tựu

    một cách đầy đủ.

    (41) Nguyện cầu mười phương

    chư vị Thế tôn

    hộ niệm cho con,

    đem tâm đại bi

    thương tưởng chấp nhận

    cho con sám hối.

    (42) Trong bao đời kiếp

    con tạo ác nghiệp,

    do ác nghiệp ấy

    mà sinh đau khổ,

    nguyện Phật thương tưởng

    cho con trừ diệt.

    (43) Con gây ác nghiệp

    nên thường lo sợ,

    trong mọi cử động

    đi đứng nằm ngồi,

    chưa hề có được

    một chút vui vẻ.

    (44) Thế tôn đại từ

    trừ cho chúng sinh

    bao nỗi sợ hãi,

    nguyện xin chấp nhận

    cho con sám hối

    thoát ly lo sợ.

    (45) Con có đủ cả

    hoặc chướng nghiệp hướng

    cùng với báo chướng,

    nguyện xin Thế tôn,

    đem nước đại bi

    rửa cho sạch sẽ.

    (46) Ác nghiệp quá khứ

    ác nghiệp hiện tại

    mà con tạo ra,

    con xin chí thành

    phát lộ tất cả

    nguyện tiêu diệt hết.

    (47) Và bao ác nghiệp

    trong thì vị lai,

    con xin giữ gìn

    không cho nổi dậy,

    giả sử vi phạm

    lời thệ nguyện này

    thì không bao giờ

    con dám che giấu.

    (48) Thân có ba nghiệp

    miệng có bốn nghiệp,

    ý có ba nghiệp

    trói buộc chúng sinh

    vô thỉ đến nay

    thường xuyên liên tục.

    (49) Do thân miệng ý

    mà tạo thập ác,

    tội ác như vậy

    rất nhiều sắc thái,

    ngày nay con xin

    sám hối tất cả.

    (50) Ác nghiệp con làm

    sẽ phải tự chịu

    ác báo đau khổ

    [nếu không sám hối];

    ngày nay đối trước

    chư vị Thế tôn

    con xin chí thành

    sám hối tất cả.

    (51) Đại lục Thiệm bộ

    và bao thế giới

    trong đó được có

    bao nhiêu thiện nghiệp,

    ngày nay con xin

    tùy hỷ tất cả.

    (50) Nguyện bỏ thập ác

    nguyện tu thập thiện

    an trú mười địa

    thường thấy Thế tôn.

    (53) Bao nhiêu những nghiệp

    phước đức trí tuệ

    mà thân miệng ý

    của con tu được,

    con xin vận dụng

    thiện nghiệp như vậy

    mau chóng đạt đến

    tuệ giác tối thượng.

    (54) Nay con đích thân

    đối trước Thế tôn

    chân thành phát lộ

    lắm cái ác nạn :

    cái nạn ngu muội

    si mê ba cõi,

    cái nạn thường làm

    ác nghiệp cực nặng,

    (55) cái nạn tập hợp

    dục vọng, tà kiến,

    cái nạn tham ái

    thường xuyên chảy dài,

    cái nạn đam mê

    thế giới hiện hữu,

    cái nạn toàn là

    phiền não phàm phu,

    (56) cái nạn cuồng phóng

    náo động thác loạn,

    cái nạn thân gần

    bạn bè bất lương,

    cái nạn tham nhiễm

    trong chốn sinh tử,

    cái nạn sân si

    ngu độn làm ác,

    (57) cái nạn sinh nhằm

    tám nơi không rảnh (33) ,

    cái nạn chưa hề

    tập hợp công đức,

    nay con đối trước

    các đấng Tối thắng

    sám hối vô số

    ác nạn như vậy.

    (58) Nay con qui y

    các đấng Thiện thệ,

    kính lạy các đấng

    Biển đức vô thượng;

    Ngài, núi vàng lớn

    chiếu sáng khắp cả,

    nguyện xin từ bi

    gia hộ cho con.

    (59) Thân Phật rực lên

    ánh sáng hoàng kim,

    mắt Phật tựa như

    lưu ly xanh biếc;

    là đấng cát tường

    uy đức đặc tôn,

    Ngài đem mặt trời

    của lòng đại bi

    xua tan u ám

    cho bao chúng sinh.

    (60) Phật như mặt trời

    sáng soi khắp cả,

    sáng không vẩn đục,

    sáng sạch bụi dơ ;

    Phật như mặt trăng

    sáng soi mát mẻ,

    sáng tan nhiệt lực

    của bao phiền não.

    (61) Ba hai tướng tốt

    châu thân uy nghiêm,

    tám mươi tướng phụ

    toàn hảo cả người,

    phước đức tuyệt bậc

    khó nghĩ khó bàn,

    như vầng thái dương

    chiếu soi thế giới.

    (62) Sắc thân tựa như

    lưu ly trong suốt

    lại như trăng đầy

    ở giữa không trung.

    Thân vàng như phủ

    mạng lưới pha lê

    rực rỡ bởi những

    ánh sáng đủ màu.

    (63) Trong cái thác nước

    sinh tử khổ não,

    già bịnh lo rầu

    trôi cuốn chúng sinh;

    biển khổ như vậy

    khó mà chịu nổi,

    mặt trời Phật đà

    chiếu cho khô cạn.

    (64) Con xin lạy đấng

    Trí tuệ toàn giác,

    đấng Hiếm có nhất

    thế giới đại thiên,

    đấng mình vàng tía

    sáng lên rực rỡ,

    đấng trang sức mình

    với bao cái đẹp.

    (65) Ngài như đại dương

    mênh mông khó biết,

    Ngài như đại địa

    bụi nhỏ khó tính,

    Ngài như núi cao

    trọng lượng khó cân,

    Ngài như không gian

    giới hạn khó cùng.

    (66) Phật đức là vậy,

    chúng sinh khó biết;

    càng nghĩ càng xét

    trong lắm đời kiếp,

    càng không biết nổi

    bờ biển Phật đức.

    (67) Nghiền nát đại địa

    toán biết cực vi,

    toán biết nước giọt

    của cả đại dương

    số lượng Phật đức

    vẫn không biết nổi.

    (68) Tất cả chúng sinh

    cùng nhau ca tụng

    phẩm chất danh tiếng

    tướng hảo thanh tịnh

    uy nghiêm nhiệm mầu

    của đức Thế tôn,

    cũng không khả năng

    hết được giới hạn.

    (69) Bao nhiêu thiện nghiệp

    mà con có được,

    con nguyện mau chóng

    thành đấng Vô thượng,

    thuyết pháp phong phú

    ích lợi sinh linh,

    làm cho tất cả

    giải thoát khổ đau.

    (70) Chiến thắng ma quân

    có sức mạnh lớn,

    chuyển đẩy bánh xe

    chánh pháp tối thượng,

    ở đời với những

    thì gian khó tính,

    con đem cam lộ

    sung mãn chúng sinh.

    (71) Y như quá khứ

    các đấng Tối thắng

    đã viên mãn cả

    sáu ba la mật,

    hủy diệt tham dục

    sân hận ngu si,

    loại trừ phiền não,

    triệt đoạn khổ lụy.

    (72) Con nguyện thường được

    trí biết đời trước

    nhớ được quá khứ

    cả trăm ngàn đời,

    nhất là thường nhớ

    đấng Đại mâu ni,

    được nghe diệu pháp

    rất sâu của Ngài.

    (73) Nguyện con biết đem

    thiển căn như vậy

    phụng sự vô biên

    các đấng Tối thắng,

    viễn ly hết thảy

    nghiệp nhân bất thiện,

    thường được tu hành

    Pháp mầu chân thật.

    (74) Làm cho chúng sinh

    trong mọi thế giới

    khổ não thoát ly

    yên vui thật hiện,

    bao kẻ giác quan

    không được toàn hảo

    thì làm cho được

    cơ thể đầy đủ.

    (75) Những ai gặp phải

    khổ vì bịnh tật,

    thân hình ốm yếu

    không nơi nương tựa,

    thì con làm cho

    hết cả bịnh khổ,

    sức khỏe tướng tốt

    cùng được đủ cả.

    (76) Những ai phạm pháp

    sắp bị hành hình,

    khổ sở hành hạ

    lo sợ dày vò ;

    khi họ đau khổ

    cực độ như vậy,

    không biết nhờ ai

    thì con cứu giúp.

    (77) Ai bị đánh khảo

    gông cùm xiềng xích,

    đủ loại hình cụ

    hành hạ thân thể,

    trong khi vô số

    những nỗi lo sợ

    dày vò tâm trí

    không chút yên vui ;

    (78) thì con làm cho

    thoát được giam cầm

    mà bao hình cụ

    đã làm khổ họ,

    sắp bị hành hình

    thì toàn tính mạng,

    bao khổ sở khác

    cũng hết vĩnh viễn.

    (79) Có những chúng sinh

    đói khát hoành hành,

    thì con làm cho

    hưởng đủ myՠvị,

    làm mù được thấy

    làm điếc được nghe

    làm què được đi

    làm ngọng được nói.

    (80) Những kẻ nghèo nàn

    thì được kho báu,

    kho lẫm dẫy đầy

    không thiếu thốn chi.

    Con làm tất cả

    hưởng vui thượng thặng,

    không còn một ai

    chịu lấy đau khổ.

    (81) Người nào cũng được

    mọi người thích nhìn,

    dung nghi phong nhã

    mà lại nghiêm chỉnh,

    ai nấy cùng được

    hiện tại yên vui,

    đời sống phong phú

    phước đức đủ cả.

    (82) Tùy ý chúng sinh

    nghĩ đến âm nhạc,

    âm nhạc tuyệt hảo

    tức thì tấu lên ;

    và nghĩ đến nước

    nước mát đầy hồ,

    sen màu hoàng kim

    nổi trên nước ấy.

    (83) Tùy ý chúng sinh

    nghĩ đến vật dụng,

    vật dụng đủ cả

    cơm áo ghế giường,

    đủ vàng đủ ngọc,

    đủ ngọc lưu ly,

    chuỗi ngọc vòng xuyến

    có đủ hết thảy.

    (84) Lại làm chúng sinh

    không nghe tiếng dữ,

    cũng không nhìn thấy

    những gì trái ý;

    dung mạo có được

    toàn là đoan trang,

    và hướng về nhau

    toàn bằng lòng từ.

    (85) Lạc cụ để sống

    nghĩ là có đủ,

    vàng ngọc có được

    không hề tiếc nuối,

    phân cho tất cả

    những ai cần thiết.

    (86) Các loại hương liệu

    và các loại hoa

    từ cây rơi xuống

    mỗi ngày ba lần,

    tùy ý hưởng dụng

    lòng tràn hoan hỷ.

    (87) Con nguyện chúng sinh

    đều biết hiến cúng

    các đấng Tối thắng

    thế giới mười phương,

    hiến cúng Diệu pháp

    hoàn bị cả ba

    cỗ xe sáng sủa,

    hiến cúng Thánh chúng

    đủ cả Bồ tát

    Độc giác Thanh văn.

    (88) Con nguyện chúng sinh

    đừng ai ở vào

    những nơi hèn hạ

    những chỗ tám nạn,

    thường sinh làm người

    có thể tu hành,

    thường được phụng sự

    chư vị Thế tôn.

    (89) Con nguyện chúng sinh

    sinh nhà sang giàu

    tài sản bảo vật

    đầy kho đầy lẫm,

    tướng mạo, danh tiếng

    không ai sánh bằng,

    thọ lượng trải qua

    nhiều kiếp lâu dài.

    (90) Con nguyện chúng sinh

    nữ biến thành nam

    thông minh khỏe mạnh

    đa trí đa năng,

    và ai cũng đi

    đường đi bồ tát

    là siêng mà tu

    sáu ba la mật.

    (91) Con nguyện chúng sinh

    thường thấy chư Phật

    an tọa bảo tòa

    dưới những cây ngọc --

    bảo tòa sư tử

    bằng chất lưu ly,

    thường được thân nghe

    Phật chuyển pháp luân.

    (92) Quá khứ hiện tại

    nếu con luân hồi

    ở trong ba cõi

    tạo các ác nghiệp

    khả năng rước lấy

    ác báo đáng ghét,

    thì nguyện diệt sạch

    không còn thừa sót.

    (93) Ở trong biển có (34)

    bao nhiêu chúng sinh

    bị buộc thắt chặt

    trong lưới sinh tử,

    con nguyện vì họ

    cắt đứt lưới ấy

    bằng kiếm trí tuệ,

    làm cho mau chóng

    thoát khỏi sinh tử

    chứng đắc tuệ giác.

    (94) Đại lục Thiệm bộ

    hay thế giới khác,

    chúng sinh trong đó

    tạo bao thắng phước,

    nay con nguyện xin

    tùy hỷ tất cả.

    (95) Con nguyện vận dụng

    sự tùy hỷ này,

    và bao thiện hạnh

    của than miệng ý,

    làm cho thắng nghiệp

    thường xuyên lớn lên,

    thực hiện mau chóng

    tuệ giác vĩ đại.

    (96) Bao nhiêu thắng phước

    lễ bái tán dương

    công đức chư Phật,

    với tâm sâu xa

    cực kỳ trong sáng

    không chút gợn bẩn,

    con đem hồi hướng,

    lại đem phát nguyện,

    thì sáu mươi kiếp

    vượt nẻo đường dữ.

    (97) Nếu có thiện nam

    hay thiện nữ nào,

    hoặc các vọng tộc

    như Bà la môn,

    chắp tay dốc lòng

    tán dương chư Phật,

    thì sinh ở đâu

    cũng nhớ đời trước,

    (98) giác quan toàn hảo

    cơ thể toàn myլ

    và hoàn thành hết

    công đức siêu việt,

    thì trong vị lai

    sinh ra ở đâu

    chư thiên nhân loại

    cũng thường chiêm ngưỡng.

    (99) Người ấy không phải

    ở nơi một đức

    mười đức Phật đà

    tu tập thiện căn

    mà nay nghe được

    pháp sám hối này,

    mà phải ở nơi

    trăm ngàn Phật đà

    gieo trồng thiện căn,

    mới được nghe đến

    pháp mầu sám hối

    như thế này đây.

    Bấy giờ đức Thế tôn nghe những lời chỉnh cú ấy thì tán dương bồ tát Diệu tràng, rằng lành thay thiện nam tử, âm thanh xuất từ trống vàng mà ông mộng thấy, đã tán dương công đức Phật đà và diệu pháp sám hối. Ai nghe âm thanh như vậy cũng được rất nhiều phước đức. Âm thanh ấy lợi ích rộng lớn cho bao chúng sinh, loại trừ nghiệp chướng cho họ. Ông nên biết sự thể siêu việt này nguyên nhân là do tập quán quá khứ ông đã quen tán dương chư Phật và sám hối phát nguyện, lại do uy lực chư Phật da trì cho ông. Nguyên nhân ấy, rồi đây vì ông mà Như lai sẽ nói đến (35) .

    Lúc ấy, cả đại hội nghe pháp thoại này, ai cũng hoan hỷ, tin chịu, phụng hành.
    VÔ CÔNG DỤNG HẠNH - VÔ KHUẤT LIỄU HẠNH - VÔ CẤU PHÁP - VÔ TÁT Ý - VÔ SỞ ĐẮC - VÔ SỞ CẦU - VÔ SỞ TRỤ - VÔ SỞ ÚY

  6. #6

    Mặc định

    Phẩm 5: Diệt Trừ Nghiệp Chướng

    Vào lúc bấy giờ, đức Thế tôn ở nơi sự phân biệt chính xác, vào trong sự thiền định sâu xa, từ những lỗ chân lông của Ngài phóng ánh sáng lớn đầy những màu sắc. Thế giới chư Phật hiện cả trong ánh sáng ấy, nhiều đến bao nhiêu sự tính toán so sánh đều không có khả năng diễn đạt. Cái thế giới đang ở trong thời kỳ đầy cả năm sự vẩn đục này cũng được ánh sáng ấy chiếu đến. Chúng sinh trong đó, những kẻ làm mười ác nghiệp, năm tội vô gián, phỉ báng Tam bảo, bất hiếu cha mẹ, khinh dể sư trưởng và bà la môn, đáng lẽ phải sa vào địa ngục ngạ quỉ bàng sinh; những kẻ ấy nhờ ơn ánh sáng của đức Thế tôn chiếu đến chỗ họ ở. Họ thấy ánh sáng ấy rồi thì, nhờ sức mạnh của ánh sáng ấy, họ được hoan hỷ, sắc tướng toàn hảo, phước trí trang nghiêm, thấy được chư Phật. Bấy giờ Đế thích, các chúng chư thiên, nữ thần sông Hằng, cùng các chúng khác, nhờ ánh sáng của đức Thế tôn chiếu đến một cách hiếm có, nên cùng đến chỗ Ngài, đi quanh Ngài ba vòng, rồi lùi lại, mỗi chúng ngồi một phía. Lúc này Đế thích, vâng theo uy thần của đức Thế tôn, đứng dậy khỏi chỗ mình ngồi, vắt vạt áo của vai bên phải, gối bên phải quì xuống chấm đất, chắp tay hướng về đức Thế tôn mà thưa, rằng bạch đức Thế tôn, thiện nam hay thiện nữ làm sao nguyện cầu vô thượng bồ đề, tu hành đại thừa, nhiếp hóa những kẻ tà kiến thác loạn? Những kẻ đã tạo nghiệp chướng thì làm sao sám hối để trừ diệt cho được?

    Đức Thế tôn dạy Đế thích, rằng lành thay thiện nam tử, ông hỏi như vậy chính là tu hành, muốn làm cho vô lượng chúng sinh thanh tịnh giải thoát. Ông thương xót thế giới, ích lợi hết thảy. Thiện nam tử, những người đã vì nghiệp chướng mà gây tội lỗi, thì phải thúc dục lấy mình, ngày đêm sáu buổi, vắt vạt áo của vai bên phải, gối bên phải quì xuống chấm đất, chắp tay cung kính, nhất cái tâm, chuyên cái niệm, miệng tự nói rằng, con xin qui mạng kính lạy chư vị Thế tôn hiện tại mười phương, những đấng đã chứng đắc vô thượng bồ đề, chuyển đẩy bánh xe chánh pháp nhiệm mầu, bánh xe chánh pháp chói sáng, mưa nước Pháp vĩ đại, gióng trống Pháp vĩ đại, thổi loa Pháp vĩ đại, dựng cờ Pháp vĩ đại, cầm đuốc Pháp vĩ đại, vì lợi ích yên vui cho chúng sinh mà thường thực thi pháp thí, dạy dỗ cho những kẻ mê mờ bước tới, làm cho họ được quả báo vĩ đại, thường lạc. Chư vị Thế tôn như vậy, con xin đem cả thân miệng ý mà cúi đầu qui mạng kính lạy. Chư vị Thế tôn như vậy đem tuệ giác chân thật, con mắt chân thật, sự chứng minh chân thật, sự bình đẳng chân thật, mà biết hết thấy hết thiện nghiệp ác nghiệp của chúng sinh. Từ vô thỉ đến giờ, con xuôi theo dòng nước tội ác mà cùng chúng sinh tạo ra nghiệp chướng, bị tham sân si buộc chặt. Khi chưa biết Phật, khi chưa biết Pháp, khi chưa biết Tăng, khi chưa biết thiện ác, thì con do thân miệng ý mà làm năm tội vô gián, là ác tâm làm chảy máu thân Phật, phỉ báng Phật pháp, phá Tăng hòa hợp, hại A la hán, hại cha hại mẹ; con do thân ba miệng bốn ý ba mà làm mười ác nghiệp, bằng cách tự làm, bảo người làm, thấy người làm mà mừng theo; đối với người hiền, con phỉ báng ngang ngược, dụng cụ cân lường thì dối trá, cho tà là chánh, đem ẩm thực phẩm xấu mà cho người; đối với cha mẹ nhiều đời ở trong sáu đường thì con tàn hại; đối với tài vật của Tháp, của Tăng bốn phương, của Tăng hiện diện, con trộm cướp, tự do sử dụng; đối với giới pháp và giáo pháp của đức Thế tôn, con không thích tuân thủ phụng hành, sư trưởng huấn dụ cũng không thuận theo, thấy ai đi theo cỗ xe Thanh văn, cỗ xe Độc giác, cỗ xe vĩ đại, thì con nhục mạ, quấy phá ; thấy ai hơn mình, con liền ganh ghét, pháp thí tài thí con tiếc lẫn cả, con để vô minh ngăn che, tà kiến mê hoặc, con không tu nhân lành mà lại tăng thêm nhân ác; con phỉ báng đến cả chư vị Thế tôn, pháp thì con nói là phi pháp, phi pháp thì con nói là pháp. Bao nhiêu tội lỗi như vậy, chư vị Thế tôn đem tuệ giác chân thật, con mắt chân thật, sự chứng minh chân thật, sự bình đẳng chân thật, mà biết hết, thấy hết, nên ngày nay con xin qui mạng kính lạy. Đối trước chư vị Thế tôn, con không dám che giấu. Tội chưa làm thì con không dám làm, tội đã làm thì con xin sám hối. Những nghiệp chướng đáng sa vào sáu đường tám nạn mà con đã làm, những nghiệp chướng mà hiện con đang làm, con nguyện được tiêu diệt cả. Những báo chướng của những nghiệp chướng ấy, con nguyện vị lai khỏi phải lãnh chịu. Tựa như các vị đại bồ tát quá khứ tu hành bồ đề hạnh thì bao nhiêu nghiệp chướng đều đã sám hối, nghiệp chướng của con cũng vậy, ngày nay con xin sám hối cả. Con phát lộ hết, không dám che giấu. Tội đã làm, con nguyện được tiêu diệt, tội chưa làm, con nguyện không dám làm nữa. Tựa như các vị đại bồ tát vị lai tu hành bồ đề hạnh thì bao nhiêu nghiệp chướng đều sám hối cả, nghiệp chướng của con cũng vậy, ngày nay con xin sám hối cả. Con phát lộ hết, không dám che giấu. Tội đã làm, con nguyện được tiêu diệt cả, tội chưa làm, con nguyện không dám làm nữa. Tựa như các vị đại bồ tát hiện tại tu hành bồ đề hạnh thì bao nhiêu nghiệp chướng đều đã sám hối, nghiệp chướng của con cũng vậy, ngày nay con xin sám hối cả. Con phát lộ hết, không dám che giấu. Tội đã làm, con nguyện được tiêu diệt cả, tội chưa làm, con nguyện không dám làm nữa.

    Thiện nam tử, vì [như cách nói đã chỉ] trên đây, nên có lỗi thì trong một sát na đã không được che giấu, huống chi một ngày một đêm cho đến hơn nữa. Ai phạm tội mà muốn được trong sạch thì phải biết xấu hổ, tin chắc vị lai phải có ác báo, rất e sợ mà sám hối. Như bị lửa cháy tóc cháy áo thì phải lập tức dập tắt, lửa chưa tắt thì không thư tâm được; người phạm tội cũng vậy, phải sám hối cho hết liền đi. Muốn sinh nhà giàu vui, nhiều tiền lắm của, hay hơn nữa muốn phát tâm tu tập đại thừa, thì cũng phải sám hối mà diệt trừ nghiệp chướng. Muốn sinh vào nhà hào quí của các giai cấp bà la môn hay sát đế lợi, vào nhà luân vương đủ cả bảy người vật quí báu, thì cũng phải sám hối mà diệt trừ nghiệp chướng. Thiện nam tử, muốn sinh Tứ thiên vương thiên, Tam thập tam thiên, Dạ ma thiên, Đỗ sử đa thiên, Lạc biến hóa thiên, Tha hóa tự tại thiên, thì cũng phải sám hối mà diệt trừ nghiệp chướng. Muốn sinh Phạn chúng thiên, Phạn phụ thiên, Đại phạn thiên; Thiểu quang thiên, Vô lượng quang thiên, Cực tịnh quang thiên; Thiểu tịnh thiên, Vô lượng tịnh thiên, Biến tịnh thiên; Vô vân thiên, Phước sinh thiên, Quảng quả thiên; Vô phiền thiên, Vô nhiệt thiên, Thiện hiện thiên, Thiện kiến thiên, Sắc cứu cánh thiên, thì cũng phải sám hối mà trừ diệt nghiệp chướng. Thiện nam tử, muốn cầu Dự lưu quả, Nhất lai quả, Bất hoàn quả, A la hán quả, thì cũng phải sám hối mà diệt trừ nghiệp chướng. Muốn cầu ba minh, sáu thông, Thanh văn bồ đề, Độc giác bồ đề, Tự tại bồ đề, cho đến Cứu cánh địa; muốn cầu Nhất thế trí trí, Tịnh trí, Bất tư nghị trí, Bất động trí, Chánh biến trí, thì cũng phải sám hối mà diệt trừ nghiệp chướng. Tại (36) sao như vậy? Vì, thiện nam tử, tất cả các pháp sinh từ yếu tố tương quan (37) ; Như lai đã nói sự thể này sinh thì sự thể khác diệt, vì yếu tố khác biệt với nhau, [nên sám hối sinh thì nghiệp chướng diệt]. Do vậy, ác pháp đã có thì diệt trừ [vì sự sám hối], nên nghiệp chướng không còn sót lại; thiện pháp chưa sinh thì phát sinh [vì sự sám hối], nên nghiệp chướng không thể sinh nữa. Lý do là vì, thiện nam tử, tất cả các pháp toàn là Không; Như lai đã nói không ngã nhân chúng sinh thọ giả, không sinh không diệt, không cả hành pháp [sám hối]. Thiện nam tử, tất cả các pháp toàn dựa vào căn bản [chân như], nên cũng không thể diễn tả -- vì [căn bản chân như] thì siêu việt tất cả trạng thái [sinh diệt]. Thiện nam hay thiện nữ nào hội nhập diệu lý như vậy mà kính tin, thì thế là không chúng sinh mà có căn bản -- Chính vì ý nghĩa này mà nói đến sự sám hối, diệt trừ nghiệp chướng (38) .

    Thiện nam tử, người nào thành tựu bốn pháp này thì trừ diệt nghiệp chướng mà vĩnh viễn thanh tịnh. Một là không nổi tà tâm mà thành tựu chánh niệm. Hai là không phỉ báng diệu lý sâu xa. Ba là đối với các vị bồ tát mới tu cũng nổi dậy Nhất thế trí tâm (39) . Bốn là đối với chúng sinh thì nổi dậy Tứ vô lượng tâm. Đó là bốn pháp. Đức Thế tôn nói lời chỉnh cú sau đây.

    Chuyên tâm giữ ba nghiệp,

    không phỉ báng diệu pháp,

    nghĩ là Nhất thế trí (40) ,

    từ tâm: sạch nghiệp chướng.

    Thiện nam tử, có bốn nghiệp chướng khó thể diệt trừ. Một là phạm tội rất nặng của bồ tát giới. Hai là phỉ báng đại thừa. Ba là không tăng trưởng được thiện căn của mình. Bốn là tham vướng mà không có ý thoát ly ba cõi. Lại có bốn pháp đối trị được nghiệp chướng. Một là dốc lòng thân gần chư vị Như lai, phát lộ mọi sự tội lỗi. Hai là khuyến thỉnh chư vị Như lai nói diệu pháp sâu xa cho chúng sinh. Ba là tùy hỷ bao nhiêu công đức mà chúng sinh có. Bốn là hồi hướng bao nhiêu thiện căn mình có về nơi vô thượng bồ đề.

    Đế thích lại thưa, bạch đức Thế tôn, thế giới có bao nhiêu là nam tử nữ nhân, đối với pháp hạnh đại thừa, có kẻ làm được, có kẻ không làm, vậy làm sao tùy hỷ được công đức của hết thảy chúng sinh? Đức Thế tôn dạy, thiện nam tử, có người tuy chưa thể tu tập đại thừa, nhưng ngày đêm sáu thời, vắt vạt áo của vai bên phải, gối bên phải quì xuống chấm đất, chuyên tâm chú ý mà làm sự tùy hỷ thì được phước vô lượng-- bằng cách tác bạch như vầy, mười phương thế giới, bao nhiêu chúng sinh hiện tại tu hành bố thí, trì giới, thiền định, trí tuệ, con nay tùy hỷ tất cả một cách sâu xa. Làm cái phước tùy hỷ như vậy thì quyết định đạt được kết quả cao trọng, siêu việt, không gì ở trên, không thể sánh bằng, cùng cực mầu nhiệm. Cũng một cung cách như vậy mà tùy hỷ tất cả đối với công đức của hết thảy chúng sinh quá khứ và vị lai. Lại nữa, hiện tại các vị bồ tát mới tu, phát bồ đề tâm có bao nhiêu công đức; các vị bồ tát đã trải qua trăm kiếp tu hành bồ tát hạnh có bao nhiêu công đức to lớn; các vị bồ tát được vô sinh pháp nhẫn, được bất thoái chuyển, được nhất sinh bổ xứ, tất cả những khối công đức như vậy, con xin dốc lòng tùy hỷ tán thán tất cả. Quá khứ và vị lai, tất cả bồ tát có bao nhiêu công đức, con cũng xin tùy hỷ tán thán như vậy. Lại nữa, hiện tại mười phương thế giới, tất cả chư vị Phật đà, � cúng, Chánh biến tri, chứng được tuệ giác bồ đề vi diệu, vì độ thoát vô biên chúng sinh mà chuyển đẩy pháp luân vô thượng, thi hành pháp thí vô ngại, đánh trống pháp, thổi loa pháp, dựng cờ pháp, mưa nước pháp, thương xót khuyến hóa tất cả chúng sinh, làm cho ai cũng tin chịu, nhờ ơn pháp thí, sung túc mọi nỗi an lạc vô tận; các vị Bồ tát, Thanh văn, Độc giác tập hợp công đức, chúng sinh chưa có công đức ấy thì làm cho có cả -- [tất cả công đức của chư vị Phật đà và chư vị Thánh giả hiện tại như vậy], con xin tùy hỷ hết thảy. Quá khứ và vị lai, chư vị Phật đà và chư vị Thánh giả, có bao nhiêu công đức, con cũng hết lòng tùy hỷ tán thán như vậy. Thiện nam tử, tùy hỷ như vậy thì sẽ được cái khối công đức vô lượng. Hằng sa đại thiên thế giới, chúng sinh trong đó đều dứt phiền não, đều thành La hán; nếu có thiện nam hay thiện nữ nào suốt đời hiến cúng y phục, ẩm thực, ngọa cụ, dược phẩm, toàn loại thượng hạng, thì công đức ấy vẫn không bằng một phần ngàn của công đức tùy hỷ như trên, vì sao, vì công đức hiến cúng có số có lượng, không bao gồm mọi công đức, còn công đức tùy hỷ thì vô số vô lượng, bao gồm tất cả công đức quá khứ hiện tại vị lai. Ấy vậy, ai muốn tăng thêm công đức siêu việt thì phải tu cái công đức tùy hỷ như thế. Nữ nhân nào ước nguyện chuyển nữ thân thành nam tử, thì cũng phải tu tập công đức tùy hỷ, cái nguyện chuyển thành nam tử tất được tùy tâm.

    Bấy giờ Đế thích lại thưa, bạch đức Thế tôn, công đức tùy hỷ con đã được biết, còn công đức khuyến thỉnh thì con thỉnh cầu đức Thế tôn dạy cho, để cho vị lai các vị bồ tát sẽ chuyển đẩy pháp luân, các vị bồ tát hiện tại thì chính xác tu hành. Đức Thế tôn dạy, Đế thích, thiện nam hay thiện nữ nào nguyện cầu vô thượng bồ đề thì phải tu hành đạo hạnh của thanh văn độc giác và đại thừa, ngày đêm sáu thời cử động như trên đã nói, chuyên tâm chú ý mà tác bạch như vầy, con xin qui y kính lạy mười phương chư vị Thế tôn; các Ngài đã thành tựu vô thượng bồ đề mà chưa chuyển đẩy bánh xe chánh pháp vô thượng, muốn xả bỏ sinh thân mà nhập niết bàn, thì con xin chí thành đảnh lễ, khuyến thỉnh các Ngài lăn xe pháp lớn, mưa nước pháp lớn, đốt đèn pháp lớn, soi sáng ý hướng của Pháp mà thực thi pháp thí vô ngại, đừng nhập niết bàn mà ở đời cho lâu, độ thoát an lạc tất cả chúng sinh, cho đến sung túc mọi nỗi an lạc vô tận như trên đã nói. Con lại đem công đức khuyến thỉnh này hồi hướng vô thượng bồ đề; như quá khứ vị lai hiện tại các vị đại bồ tát đã đem công đức khuyến thỉnh hồi hướng vô thượng bồ đề, thì con cũng làm như vậy, đem công đức khuyến thỉnh mà hồi hướng vô thượng bồ đề. Thiện nam tử, giả sử có ai đem bảy chất liệu quí báu đầy cả đại thiên thế giới mà hiến cúng chư vị Như lai, và người khác, khuyến thỉnh chư vị Như lai chuyển đẩy bánh xe chánh pháp vĩ đại, thì công đức của người này phước hơn người trên. Vì sao, vì người trên là tài thí, người này là pháp thí. Thiện nam tử, hãy gác lại sự bố thí bảy chất liệu quí báu đầy cả đại thiên thế giới, mà nói nếu ai đem bảy chất liệu quí báu đầy cả hằng sa đại thiên thế giới, hiến cúng tất cả chư vị Như lai, thì công đức khuyến thỉnh vẫn hơn công đức hiến cúng ấy. Lý do là vì pháp thí thì có năm sự lợi ích siêu việt. Một là pháp thí lợi cả mình người, tài thí không được như vậy. Hai là pháp thí làm cho chúng sinh siêu thoát ba cõi, cái phước tài thí không siêu thoát ba cõi. Ba là pháp thí làm trong sáng pháp thân, tài thí chỉ tăng thêm sắc tướng. Bốn là pháp thí thì vô cùng, tài thí thì hữu tận. Năm là pháp thí đoạn trừ vô minh, tài thí chỉ tạm dẹp tham ái. Do vậy, thiện nam tử, công đức khuyến thỉnh thì vô lượng vô biên, khó có gì có thể đối chiếu. Như chính Như lai xưa kia, khi đi theo đường đi bồ tát, Như lai đã khuyến thỉnh chư vị Như lai chuyển đẩy bánh xe chánh pháp vĩ đại, do công đức này mà ngày nay tất cả Phạn vương Đế thích đã khuyến thỉnh Như lai chuyển đẩy bánh xe chánh pháp vĩ đại. Thiện nam tử, khuyến thỉnh chuyển đẩy bánh xe chánh pháp là muốn độ thoát an lạc cho chúng sinh. Như lai xưa kia, khi tu bồ đề hạnh, đã khuyến thỉnh chư vị Như lai ở đời lâu dài, đừng nhập niết bàn; do công đức này mà nay Như lai đạt được mười lực, bốn vô úy, bốn vô ngại biện, đại từ đại bi, thực hiện vô số phẩm chất bất cọng, nên dẫu Như lai nhập niết bàn đi nữa, chánh pháp của Như lai vẫn tồn tại lâu dài. Còn pháp thân của Như lai thì trong sáng tuyệt đối, tướng tốt đủ dạng, trí tuệ vô lượng, tự tại vô lượng, công đức vô lượng, khó thể tư duy, khó thể thảo luận, các loại chúng sinh đều nhờ lợi ích, trăm ngàn vạn kiếp nói cũng không cùng. Pháp thân bao quát các pháp, các pháp không thể bao quát pháp thân. Pháp thân thường trú mà không sa vào quan điểm thường, pháp thân đoạn diệt mà không sa vào quan điểm đoạn. Pháp thân phá được cho chúng sinh đủ loại quan điểm đối nghịch, sinh được cho chúng sinh đủ loại quan điểm chính xác. Pháp thân cởi mở được cho chúng sinh mọi thứ ràng buộc, mặc dầu không thật có mọi thứ ràng buộc được cởi mở. Pháp thân gieo trồng cho chúng sinh những gốc rẽ công đức, ai chưa thành thục thì làm cho thành thục, ai đã thành thục thì làm cho giải thoát. Pháp thân bất tác bất động, rời xa ồn náo, vắng lặng vô vi, tự tại an lạc, siêu việt thì gian mà vẫn thị hiện theo thì gian. Pháp thân siêu việt lĩnh vực Thanh văn Độc giác, làm đối tượng tu hành của các vị đại bồ tát. Pháp thân thì chư vị Như lai không có khác biệt thể tánh. Tất cả phẩm chất trên đây toàn là do sức mạnh của công đức khuyến thỉnh mà có. Pháp thân như vậy Như lai đã chứng đắc. Thế nên ai muốn đạt được vô thượng bồ đề, thì đối với một câu một kệ trong kinh cũng nói cho người, và công đức đã vô hạn, huống chi khuyến thỉnh Như lai chuyển đẩy bánh xe chánh pháp vĩ đại, ở lâu trong đời chứ đừng nhập niết bàn.

    Bấy giờ Đế thích lại thưa, bạch đức Thế tôn, thiện nam thiện nữ vì cầu vô thượng bồ đề mà tu tập đạo hạnh của cả tam thừa, thì công đức họ có được làm sao hồi hướng về trí Nhất thế trí? Phật dạy Đế thích, thiện nam tử, ai cầu vô thượng bồ đề, tu tập đạo hạnh tam thừa, có bao công đức mà nguyện hồi hướng, thì ngày đêm sáu thời, thiết tha chí thành, tác bạch như vầy, con từ vô thỉ đến nay, nơi Tam bảo con tu hành được bao công đức, cho đến cho loài bàng sinh một chút thực phẩm, hoặc khéo lời hòa giải tranh chấp, hoặc lãnh thọ ba pháp qui y và các giới pháp, hoặc sám hối, khuyến thỉnh, tùy hỷ, tất cả công đức trên đây, nay con tác ý, thu góp lại hết, xoay về hiến cho hết thảy chúng sinh, không có tâm lý tiếc lẫn, và đó là công đức thống thuộc phần giải thoát. Như chư vị Thế tôn thấy biết thì không thể cân lường, trong sáng vô ngại, có bao nhiêu công đức đều đem xoay lại hiến cho tất cả chúng sinh, không trú tướng cũng không xả tướng (41) , thì con cũng làm như vậy, đem công đức mà hồi hướng hiến cho chúng sinh, nguyện cho chúng sinh được cái tay như ý, chỉ trong không gian cũng xuất ra vàng ngọc, thỏa nguyện của họ, giàu vui vô tận, trí tuệ vô cùng, diệu pháp và biện tài đều không trì trệ, cùng chúng sinh cùng chứng vô thượng bồ đề, được Nhất thế trí. Rồi do công đức này mà xuất sinh ra nữa vô lượng công đức, và cũng hồi hướng vô thượng bồ đề. Lại như quá khứ các vị đại bồ tát tu hành công đức thì xoay lại cả mà hồi hướng Nhất thế chủng trí, các vị bồ tát hiện tại vị lai cũng làm như vậy; [con nay cũng làm như vậy], bao nhiêu công đức có được, con hồi hướng vô thượng bồ đề, và đem công đức này nguyện cùng chúng sinh cùng thành chánh giác. Y như chư vị Thế tôn khi ngồi dưới bồ đề thọ trong bồ đề tràng, thì thanh tịnh đến bất khả tư nghị và không còn chướng ngại, an trú trong tổng trì vô tận pháp tạng, trong định Thủ lăng nghiêm, phá tan quân đội đông đảo của ma vương Ba tuần, những gì phải thấy biết và phải thông suốt thì, trong một sát na, chư vị Thế tôn đã soi sáng tất cả, và phần sau của đêm ấy các Ngài được pháp cam lộ, chứng nghĩa cam lộ. Thì con và chúng sinh cũng nguyện cùng chứng diệu giác như vậy. Y như chư vị.

    Vô lượng thọ như lai,

    Thắng quang như lai,

    Diệu quang như lai,

    A súc như lai,

    Công đức thiện quang như lai,

    Sư tử quang minh như lai,

    Nhật quang minh như lai,

    Võng quang minh như lai,

    Bảo tướng như lai,

    Bảo diệm như lai,

    Diệm minh như lai,

    Diệm thịnh quang minh như lai,

    Cát tường thượng vương như lai,

    Vi diệu thanh như lai,

    Diệu trang nghiêm như lai,

    Pháp tràng như lai,

    Thượng thắng thân như lai,

    Khả ái sắc thân như lai,

    Quang minh biến chiếu như lai,

    Phạn tịnh vương như lai,

    Thượng tánh như lai.

    Đồng đẳng như vậy, trong quá khứ vị lai và hiện tại, chư vị Như lai, � cúng, Chánh biến tri, vì hóa độ chúng sinh mà thị hiện ứng hóa thân, chứng vô thượng bồ đề, chuyển vô thượng pháp luân, nay con cũng nguyện được như vậy, như trước đã nói rõ.

    Thiện nam tử, thiện nam hay thiện nữ có đức tin trong sáng, đối với phẩm Diệt trừ nghiệp chướng này của kinh Ánh sáng hoàng kim mà tiếp nhận, ghi nhớ, nghiên cứu, tụng thuộc, nhớ kyՠkhông quên, đem nói cho người một cách phong phú, thì được khối công đức vĩ đại, vô lượng vô biên. Ví như bao nhiêu chúng sinh trong đại thiên thế giới một lúc cùng được thân người, được thân người rồi thành Độc giác; thiện nam thiện nữ nào suốt đời kính trọng, hiến cúng bốn sự, lại hiến cúng mỗi vị Độc giác một khối bảy chất liệu quí báu bằng núi Tu di, các vị Độc giác này nhập diệt thì đối với vị nào cũng đem ngọc quí xây tháp mà hiến cúng, tháp ấy cao rộng đến mười hai du thiện na, hiến cúng thường xuyên bằng hoa hương, bảo cái, tràng phan, thì thiện nam tử, ý ông nghĩ thế nào, người hiến cúng ấy được công đức nhiều không? Đế thích thưa, rất nhiều, bạch đức Thế tôn. Thiện nam tử, mặt khác, có ai đối với phẩm Diệt trừ nghiệp chướng này của kinh Ánh sáng hoàng kim, bản kinh nhiệm mầu, vua của các kinh, mà biết tiếp nhận, ghi nhớ, nghiên cứu, tụng thuộc, nhớ kyՠkhông quên, đem nói cho người một cách phong phú, thì công đức người này có được, công đức hiến cúng của người trước không bằng một phần trăm, một phần ngàn, mười ngàn, trăm ngàn, cho đến toán số ví dụ cũng không thể diễn tả. Tại sao, vì người này đứng trong chánh hạnh, khuyến thỉnh chư vị Như lai chuyển đẩy pháp luân vô thượng và được các Ngài hoan hỷ tán thán. Thiện nam tử, Như lai đã nói rồi, trong mọi sự bố thí, pháp thí hơn hết. Do vậy, thiện nam tử, hiến cúng Tam bảo cũng không thể sánh bằng. Khuyến khích thọ ba qui y, giữ các giới pháp, không có vi phạm, ba nghiệp không trống rỗng, cũng không thể sánh bằng. Mọi chúng sinh trong mọi thế giới, tùy sức lực, tùy khả năng, tùy nguyện ước, mà đối với tam thừa khuyên người phát bồ đề tâm, cũng không thể sánh bằng. Trong mọi thế giới quá khứ hiện tại và vị lai, bao nhiêu chúng sinh đều được vô ngại, mau chóng làm cho thành đạt vô lượng công đức, cũng không thể sánh bằng. Tất cả chúng sinh trong các quốc độ quá khứ hiện tại vị lai đều làm cho không chướng ngại, thực hiện ba tuệ giác bồ đề, cũng không thể sánh bằng. Tất cả chúng sinh trong các quốc độ quá khứ hiện tại vị lai, khuyến khích cho họ mau chóng thoát ly cái khổ bốn nẻo đường dữ, cũng không thể sánh bằng. Tất cả chúng sinh trong các quốc độ quá khứ hiện tại vị lai, khuyến khích cho họ diệt trừ ác nghiệp rất nặng, cũng không thể sánh bằng. Tất cả chúng sinh khổ não, khuyến khích làm cho họ giải thoát cả, cũng không thể sánh bằng. Tất cả chúng sinh sợ hãi, khổ não bức bách, làm cho họ thoát cả, cũng không thể sánh bằng. Trước chư vị Như lai trong quá khứ hiện tại và vị lai, bao chúng sinh có bao công đức, khuyến khích cho họ tùy hỷ, phát bồ đề tâm, cũng không thể sánh bằng. Khuyến khích cho họ trừ khử hành vi độc ác, nhục mạ, mọi công đức đều mong họ thành tựu, và sinh ra ở đâu cũng khuyến khích cho họ hiến cúng, tôn trọng, tán thán tất cả Tam bảo, khuyến khích cho họ tịnh tu công đức, thành tựu bồ đề, cũng không thể sánh bằng. Thế nên phải nhận thức rằng, khuyến thỉnh Tam bảo quá khứ hiện tại vị lai trong mọi thế giới, khuyến thỉnh hoàn bị sáu ba la mật, khuyến thỉnh chuyển đẩy pháp luân vô thượng, khuyến thỉnh ở đời lâu đến vô lượng kiếp, diễn nói vô lượng diệu pháp rất sâu, công đức rất sâu như vậy thì không thể sánh bằng (42) .

    Bấy giờ Đế thích, nữ thần sông Hằng, vô lượng Phạn vương, thiên chúng của bốn Đại thiên vương, cùng từ chỗ ngồi đứng dậy, vắt vạt áo của vai bên phải, gối bên phải quì xuống chấm đất, chắp tay đảnh lễ rồi thưa rằng, bạch đức Thế tôn, chúng con được nghe kinh Ánh sáng hoàng kim này, nay xin tiếp nhận, ghi nhớ, nghiên cứu, tụng thuộc, một cách thông suốt, đem nói phong phú cho người, và y theo pháp của kinh ấy mà sống. Tại sao, bạch đức Thế tôn, vì chúng con muốn cầu vô thượng bồ đề, nên tùy thuận những sắc thái siêu việt của nghĩa lý kinh này mà thực hành đúng cách. Phạn vương, Đế thích, những vị đồng đẳng, ngay nơi chỗ đức Thế tôn thuyết pháp mà cùng nhau đem hoa mạn đà la rải trên Ngài. Đại thiên thế giới tức thì đại động. Thiên cổ và thiên nhạc không gióng mà tự kêu. Ánh sáng hoàng kim được phóng ra, trải đầy thế giới, xuất ra âm thanh tuyệt diệu. Đế thích lại thưa, bạch đức Thế tôn, tất cả cảnh tượng trên đây toàn là sức mạnh uy thần của kinh Ánh sáng hoàng kim, từ bi phổ độ, lợi ích đa dạng, đa dạng tăng trưởng công đức bồ tát, diệt trừ nghiệp chướng. Phật dạy Đế thích, đúng như vậy, đúng như ông nói. Tại sao, thiện nam tử, Như lai nhớ xưa kia, lâu hơn vô lượng trăm ngàn vô số kiếp, có đức Như lai danh hiệu là Bảo vương đại quang chiếu, bậc Đến như chư Phật, bậc Thích ứng hiến cúng, bậc Biết đúng và khắp, xuất hiện thế giới, tồn tại sáu trăm tám mươi ức kiếp. Lúc ấy đức Bảo vương đại quang chiếu như lai vì muốn độ thoát nhân loại, chư thiên, Đế thích, Phạn vương, sa môn, bà la môn, và hết thảy chúng sinh, làm cho họ yên vui, nên khi xuất hiện, thuyết pháp đại hội đầu tiên, Ngài hóa độ trăm ngàn vạn ức người đều thành A la hán, sạch hết mọi sự sơ hở, ba minh sáu thông đều tự tại vô ngại; thuyết pháp đại hội thứ hai, Ngài hóa độ chín mươi ngàn vạn ức người đều thành A la hán, sạch hết mọi sự sơ hở, ba minh sáu thông đều tự tại vô ngại; thuyết pháp đại hội thứ ba, Ngài hóa độ cho chín mươi tám ngàn vạn ức người, đều thành A la hán, viên mãn những phẩm chất đã nói như trên. Thiện nam tử, bấy giờ Như lai làm thân nữ nhân, tên là Phước bảo quang minh. Trong đại hội thứ ba, được thân gần đức Bảo vương đại quang chiếu như lai, vì cầu vô thượng bồ đề nên tiếp nhận, ghi nhớ, nghiên cứu, tụng thuộc kinh Ánh sáng hoàng kim, nói rộng rãi cho người. Nên bấy giờ đức Bảo vương đại quang chiếu như lai thọ ký cho, rằng thiện nữ Phước bảo quang minh này vị lai sẽ được trở thành Phật đà, danh hiệu là Thích ca mâu ni, bậc Đến như chư Phật, bậc Thích ứng hiến cúng, bậc Biết đúng và khắp, bậc Hoàn hảo sự sáng, bậc Khéo qua niết bàn, bậc Lý giải vũ trụ, bậc Không ai trên nữa, bậc Thuần hóa mọi người, bậc Thầy cả trời người, bậc Tuệ giác hoàn toàn, bậc Tôn cao nhất đời. Thế rồi Như lai xả bỏ nữ thân, và từ đó đến nay vượt qua bốn nẻo đường dữ, sinh trong nhân loại và chư thiên, hưởng thụ sự yên vui thượng diệu, tám mươi bốn trăm ngàn đời làm chuyển luân vương, và ngày nay thành bậc Chánh giác, danh tiếng vang khắp thế giới. Vào lúc bấy giờ cả đại hội đột nhiên ai cũng nhìn thấy đức Bảo vương đại quang chiếu như lai đang chuyển đẩy pháp luân vô thượng, diễn nói chánh pháp nhiệm mầu-- [dầu cả đại hội vẫn chưa biết đức Thế tôn mình thấy là ai]. [Đức Thế tôn nói với Đế thích], thiện nam tử, cách thế giới Sách ha này, về hướng đông, qua trăm ngàn hằng sa cõi Phật, thì có thế giới tên là Bảo trang nghiêm, đức Bảo vương đại quang chiếu như lai hiện còn ở đó, chưa nhập niết bàn, nói pháp nhiệm mầu quảng hóa chúng sinh. Đấng mà đại hội các người nhìn thấy, chính là đức Như lai ấy. Thiện nam tử, thiện nam hay thiện nữ nào nghe được danh hiệu của đức Bảo vương đại quang chiếu như lai thì không còn thoái chuyển vị trí bồ tát, đạt đến đại niết bàn. Nữ nhân nào nghe danh hiệu của đức Bảo vương đại quang chiếu như lai, thì khi lâm chung được thấy Ngài đến chỗ mình. Thấy Ngài rồi tuyệt đối không còn làm nữ thân nữa. Thiện nam tử, Ánh sáng hoàng kim, bản kinh nhiệm mầu này lắm cách lợi ích, lắm cách tăng thêm công đức bồ tát, diệt trừ nghiệp chướng. Thiện nam tử, bí sô, bí sô ni, ô ba sách ca, ô ba tư ca, những vị này ở chỗ nào giảng nói cho người bản kinh nhiệm mầu Ánh sáng hoàng kim này, thì quốc gia ấy được bốn sự phước lợi. Một là quốc vương vô bịnh, không mọi tai ách. Hai là thọ lượng lâu dài, không bị trở ngại. Ba là không có thù nghịch, quân đội hùng cường. Bốn là yên ổn sung túc, Phật pháp lưu thông. Tại sao được như vậy, vì vị nhân vương này thường được Đế thích, Phạn vương, bốn vị Thiên vương, bộ chúng Dược xoa, cùng nhau hộ vệ. Đức Thế tôn hỏi chúng chư thiên ấy, các thiện nam tử, có đúng như vậy không? Đế thích, Phạn vương, bốn vị Thiên vương, bộ chúng Dược xoa, đồng thanh trả lời đức Thế tôn, rằng đúng như vậy, đúng như vậy, bạch đức Thế tôn. Quốc gia nào mà có tuyên giảng hay đọc tụng bản kinh vua của các kinh này, thì quốc vương của quốc gia ấy thường được chúng con hộ vệ, cùng chung đi đứng. Quốc vương ấy nếu có mọi sự tai nạn và thù nghịch, thì chúng con làm cho tan biến, sự ưu sầu và bịnh truyền nhiễm cũng được trừ khử cho lành mạnh, thọ lượng tăng thêm, cảm ứng điềm lành, ước nguyện toại ý, luôn luôn vui vẻ. Chúng con cũng làm cho quốc gia ấy có quân đội hùng cường. Đức Thế tôn nói, lành thay các thiện nam tử, đúng như lời các người đã nói, các người hãy thực hiện như vậy. Bởi vì vị quốc vương ấy khi làm đúng Phật pháp thì toàn thể dân chúng đều theo quốc vương mà làm đúng Phật pháp. Các người cũng nhờ [hộ vệ cho họ] mà sắc tướng và sức lực đều hơn lên, cung điện sáng hơn lên, thân thuộc thịnh hơn lên. Đế thích, Phạn vương, cùng các vị đồng đẳng, thưa rằng đúng như vậy, bạch đức Thế tôn. Đức thế tôn nói, chỗ nào có giảng đọc và lưu hành kinh pháp mầu nhiệm này, thì trong quốc gia ấy các vị đại thần cùng quan thuộc có bốn cái lợi. Một là thân nhau, hòa nhau, tôn trọng và thương nhớ đến nhau. Hai là thường được quốc vương mến trọng, lại được sa môn, bà la môn, đại quốc, tiểu quốc, đều kính mến. Ba là khinh của trọng đạo, không cầu lợi lộc, tiếng tốt vang khắp, ai cũng kính ngưỡng. Bốn là thọ lượng lâu dài, yên ổn thích thú. Đó là bốn cái lợi. Quốc gia nào tuyên thuyết kinh này, thì sa môn, bà la môn ở đó có bốn cái lợi. Một là đồ mặc, đồ ăn, đồ nằm, thuốc men, không thiếu gì cả. Hai là yên tâm mà tư duy đọc tụng. Ba là ở núi rừng, sống yên vui. Bốn là tùy ý muốn gì cũng thỏa nguyện cả. Đó là bốn cái lợi. Quốc gia nào tuyên thuyết kinh này thì dân chúng ai cũng sung túc, hạnh phúc, không mọi thứ biểnh tật và truyền nhiễm, thương khách qua lại, được lắm bảo vật và hàng hóa, tràn đầy thắng phước. Đó là cái lợi đa dạng.

    Lúc ấy Phạn vương, Đế thích, bốn vị Thiên vương, và cả đại hội, cùng thưa, bạch đức Thế tôn, kinh điển như thế này nghĩa lý rất sâu xa, nếu còn thì ba mươi bảy giác phần còn cả, chưa mất; nếu mất thì chánh pháp cũng mất. Đức Thế tôn nói, đúng như vậy, các thiện nam tử. Do vậy, đối với kinh Ánh sáng hoàng kim này, dầu một câu hay một bài chỉnh cú, dầu một phẩm hay trọn bộ, các người phải nhất tâm mà chính xác đọc tụng, chính xác nghe nhớ, chính xác suy nghĩ, chính xác tu tập, vì chúng sinh mà quảng bá rộng rãi, thì luôn luôn yên vui, phước lợi vô cùng. Bấy giờ đại hội nghe đức Thế tôn nói rồi, ai cũng được lợi ích siêu việt, hoan hỷ mà thọ trì.
    VÔ CÔNG DỤNG HẠNH - VÔ KHUẤT LIỄU HẠNH - VÔ CẤU PHÁP - VÔ TÁT Ý - VÔ SỞ ĐẮC - VÔ SỞ CẦU - VÔ SỞ TRỤ - VÔ SỞ ÚY

  7. #7

    Mặc định

    Phẩm 6: Minh Chú Tịnh Địa

    Bấy giờ bồ tát Sư tử tướng vô ngại quang diệm, cùng với bộ chúng vô lượng, từ chỗ ngồi đứng dậy, vắt vạt áo của vai bên phải, gối bên phải quì xuống chấm đất, chắp tay cung kính, đảnh lễ ngang chân đức Thế tôn, đem các loại hoa hương và tràng phan bảo cái mà hiến cúng, rồi thưa rằng, bạch đức Thế tôn, có mấy nhân tố được tâm bồ đề? tâm bồ đề là gì? Bạch đức Thế tôn, nơi bồ đề thì tâm hiện tại không thể có, tâm vị lai không thể có, tâm quá khứ không thể có; rời bồ đề thì tâm bồ đề cũng không thể có. Bồ đề thì không thể diễn tả, tâm cũng phi sắc tướng, phi sự nghiệp (42) , phi tạo tác; chúng sinh cũng không thể có, cũng không thể biết. Bạch đức Thế tôn, cái nghĩa rất sâu xa như vậy của các pháp thì làm sao biết được? Đức Thế tôn dạy, thiện nam tử, đúng như vậy, đúng như vậy, bồ đề nhiệm mầu, sự nghiệp và tạo tác toàn là phi cả. Rời bồ đề thì tâm bồ đề cũng không thể có. Bồ đề không thể diễn tả, tâm cũng không thể diễn tả, phi sắc tướng, phi sự nghiệp. Chúng sinh cũng là không thể có. Tại sao, vì bồ đề với tâm đều là chân như, năng chứng sở chứng đều bình đẳng. Nhưng, thiện nam tử, không phải không các pháp mà có thấu hiểu. Bồ tát đại sĩ thấu hiểu như vậy thì mới gọi là thông suốt các pháp, là khéo nói về bồ đề và tâm bồ đề. Tâm bồ đề là phi quá khứ, phi vị lai, phi hiện tại. Tâm cũng vậy. Chúng sinh cũng vậy. Và trong đó nhị biên thật không thể có được. Tại sao, vì các pháp toàn là vô sinh. Nên bồ đề không thể có, cái tên bồ đề cũng không thể có, chúng sinh và cái tên chúng sinh không thể có, Thanh văn và cái tên Thanh văn không thể có, Độc giác và cái tên Độc giác không thể có, Bồ tát và cái tên Bồ tát không thể có, Phật đà và cái tên Phật đà không thể có, tu hành với không phải tu hành (43) không thể có, cái tên tu hành với không phải tu hành cũng không thể có. Vì không thể có, nên trong sự vắng lặng mà được đứng yên, và đó là do công đức mà được.

    Thiện nam tử, như núi ngọc Tu di lợi ích tất cả, tâm bồ đề lợi ích tất cả chúng sinh, đó là nhân tố của sự bố thí, ba la mật thứ nhất. Như đại địa giữ mọi sự vật, đó là nhân tố của sự trì giới, ba la mật thứ hai. Như sư tử oai sức rất lớn, đi một mình mà không sợ hãi gì, đó là nhân tố của sự nhẫn nhục, ba la mật thứ ba. Như tốc lực cực mạnh của gió, dũng cảm và mau chóng, tâm không thoái lui, đó là nhân tố của sự cần sách, ba la mật thứ tư. Như lầu đài bằng bảy chất liệu quí, có bốn đường cấp, gió mát thổi đến bốn cửa làm cho thích thú, kho tàng tịnh lự cũng vậy, thỏa mãn đầy đủ cho mọi sở cầu, đó là nhân tố của sự tịnh lự, ba la mật thứ năm. Như vầng thái dương sáng chói rực rỡ, tâm này mau chóng phá tan vô minh ám chướng, đó là nhân tố của sự trí tuệ, ba la mật thứ sáu. Như thương trưởng làm cho mọi tâm nguyện thỏa mãn, tâm này vượt được đường hiểm sinh tử, thu hoạch vàng ngọc công đức, đó là nhân tố của sự phương tiện, ba la mật thứ bảy. Như vầng trăng tròn sáng, tâm ấy trong sạch đầy đủ đối với mọi đối cảnh, đó là nhân tố của sự thệ nguyện, ba la mật thứ tám. Như tổng tư lịnh quân đội của luân vương tự do tùy ý, tâm này khéo trang hoàng thế giới, vô số công đức quảng lợi chúng sinh, đó là nhân tố của sự năng lực, ba la mật thứ chín. Như không gian và luân vương, tâm này đối với mọi đối cảnh không có chướng ngại, đối với mọi vị trí đều được tự tại, đạt đến địa vị quán đảnh, đó là nhân tố của sự trí giác, ba la mật thứ mười. Đó là mười nhân tố của tâm bồ đề. Mười nhân tố như vậy các người phải tu học.

    Thiện nam tử, do năm sự mà bồ tát đại sĩ thành tựu bố thí ba la mật: một là tín căn, hai là từ bi, ba là không có tâm lý cầu mong dục vọng, bốn là thu nhận hết thảy chúng sinh, năm là nguyện cầu trí nhất thế trí. Đó là bồ tát đại sĩ thành tựu bố thí ba la mật. Thiện nam tử, do năm sự mà bồ tát đại sĩ thành tựu trì giới ba la mật: một là thân miệng ý trong sáng, hai là không làm yếu tố gây ra phiền não cho chúng sinh, ba là đóng cửa đường dữ mở cửa đường lành, bốn là vượt qua vị trí thanh văn độc giác, năm là hoàn thiện đủ hết mọi thứ công đức. Đó là bồ tát đại sĩ thành tựu trì giới ba la mật. Thiện nam tử, do năm sự mà bồ tát đại sĩ thành tựu nhẫn nhục ba la mật: một là dẹp được phiền não tham lam tức giận, hai là không tiếc tính mạng, không cầu an, ba là nghĩ đến nghiệp cũ, gặp khổ nhẫn được, bốn là vì phát tâm từ bi thành thục thiện căn cho chúng sinh, năm là để được vô sinh pháp nhẫn cực kỳ sâu xa. Đó là bồ tát đại sĩ thành tựu nhẫn nhục ba la mật. Thiện nam tử, do năm sự mà bồ tát đại sĩ thành tựu cần sách ba la mật: một là không thích sống chung với mọi thứ phiền não, hai là công đức chưa đủ thì không hưởng yên vui, ba là không chán những sự khổ hạnh khó làm, bốn là đem đại từ bi lợi ích chúng sinh, phương tiện thành thục cho tất cả, năm là nguyện cầu vị trí không còn thoái chuyển. Đó là bồ tát đại sĩ thành tựu cần sách ba la mật. Thiện nam tử, do năm sự mà bồ tát đại sĩ thành tựu tịnh lự ba la mật: một là nắm giữ thiện pháp không cho tản mác, hai là thường mong giải thoát, không vướng nhị biên, ba là nguyện được thần thông để thành tựu thiện căn cho chúng sinh, bốn là vì làm trong sáng pháp giới, trừ khử dơ bẩn của tâm, năm là vì diệt trừ gốc rễ phiền não cho chúng sinh. Đó là bồ tát đại sĩ thành tựu tịnh lự ba la mật. Thiện nam tử, do năm sự mà bồ tát đại sĩ thành tựu trí tuệ ba la mật: một là phụng sự thân gần mà không chán bỏ đối với chư vị Như lai Bồ tát và những bậc minh trí, hai là tâm thường thích nghe mà không biết chán biết đủ đối với diệu pháp sâu xa của chư vị Như lai, ba là thích khéo phân biệt về thắng trí chân đế và thắng trí tục đế, bốn là cấp tốc diệt trừ tất cả kiến hoặc tu hoặc, năm là tinh thông tất cả năm minh xứ, trong đó có mọi kyՠthuật thế gian. Đó là bồ tát đại sĩ thành tựu trí tuệ ba la mật. Thiện nam tử, do năm sự mà bồ tát đại sĩ thành tựu phương tiện ba la mật: một là thông suốt hết thảy các dạng ý thích, phiền não và tâm hạnh của chúng sinh, hai là hiểu rõ vô lượng pháp môn đối trị, ba là tự do xuất và nhập định Đại từ bi, bốn là nguyện tu hành thành tựu đầy đủ các pháp ba la mật, năm là nguyện thấu suốt hết thảy Phật pháp, thu giữ không sót. Đó là bồ tát đại sĩ thành tựu phương tiện ba la mật. Thiện nam tử, do năm sự mà bồ tát đại sĩ thành tựu thệ nguyện ba la mật: một là tâm ở yên được nơi đạo lý các pháp xưa nay bất sinh diệt, phi hữu vô, hai là tách rời dơ bẩn, thể hiện trong sáng, tâm ở yên được mà quan sát ý nghĩa cực kỳ nhiệm mầu của các pháp, ba là siêu việt tất cả ý tưởng, tâm ở yên được nơi chân như của tâm không thi vi, không chuyển biến, không dị biệt, không dao động, bốn là vì muốn lợi ích chúng sinh nên tâm ở yên được nơi tục đế, năm là tâm ở yên được nơi sự song hành của chỉ quán. Đó là bồ tát đại sĩ thành tựu thệ nguyện ba la mật. Thiện nam tử, do năm sự mà bồ tát đại sĩ thành tựu năng lực ba la mật: một là đem năng lực của chánh trí mà thấu triệt tâm hạnh thiện ác của chúng sinh, hai là làm cho chúng sinh hội nhập diệu pháp cực kỳ sâu xa, ba là biết rõ chính xác chúng sinh tùy nghiệp mà sinh tử luân hồi, bốn là đem năng lực của chánh trí mà phân biệt biết rành ba loại căn tánh của chúng sinh, năm là do trí lực mà thuyết pháp hợp lý cho chúng sinh, làm cho họ gieo trồng thiện căn, thành thục và giải thoát. Đó là bồ tát đại sĩ thành tựu năng lực ba la mật. Thiện nam tử, do năm sự mà bồ tát đại sĩ thành tựu trí giác ba la mật: một là phân biệt thiện ác đối với các pháp, hai là rời xa pháp đen mà thu nhận pháp trắng, ba là không chán sinh tử không ưa niết bàn, bốn là đầy đủ phước đức và trí tuệ mà đạt đến vị trí cứu cánh, năm là tiếp nhận sự quán đảnh siêu việt, thực hiện mọi pháp bất cọng và trí nhất thế trí của chư vị Như lai. Đó là bồ tát đại sĩ thành tựu trí giác ba la mật.

    Thiện nam tử, ba la mật nghĩa là gì? Tu tập đạt được lợi ích siêu việt là nghĩa ba la mật. Hoàn hảo tuệ giác vô lượng, vĩ đại và rất sâu, là nghĩa ba la mật. Tâm không chấp trước pháp tu hành với pháp không phải tu hành, là nghĩa ba la mật. Tỉnh ngộ chính xác và quan sát chính xác tội lỗi của sinh tử với công đức của niết bàn, là nghĩa ba la mật. Người ngu người trí thu nhận tất cả, là nghĩa ba la mật. Hoạt hiện diệu pháp đủ hết các dạng quí báu nhiệm mầu, là nghĩa ba la mật. Đầy đủ trí tuệ vô ngại giải thoát là nghĩa ba la mật. Phân biệt biết chính xác pháp giới và chúng sinh giới, là nghĩa ba la mật. Bố thí cho đến trí giác đều làm cho đạt đến vị trí bất thoái chuyển, là nghĩa ba la mật. Hoàn thiện được vô sinh pháp nhẫn là nghĩa ba la mật. Làm cho chúng sinh thành thục thiện căn công đức là nghĩa ba la mật. Nơi tuệ giác vô thượng bồ đề, thành tựu được tất cả các pháp bất cọng của chư vị Như lai, là nghĩa ba la mật. Sinh tử với niết bàn rõ ràng bất nhị là nghĩa ba la mật. Cứu vớt tất cả là nghĩa ba la mật. Ngoại đạo chất vấn, khéo giải thích cho họ phục tùng, là nghĩa ba la mật. Chuyển được pháp luân đủ cả mười hai hành tướng là nghĩa ba la mật. Không vướng mắc, không quan điểm, không hệ lụy, là nghĩa ba la mật.

    Thiện nam tử, bồ tát địa thứ nhất thì sự trạng này biểu hiện trước hết, và bồ tát thấy rõ, đó là vô số kho báu (44) trong đại thiên thế giới đều tràn đầy. Thiện nam tử, bồ tát địa thứ hai thì sự trạng này biểu hiện trước hết, và bồ tát thấy rõ, đó là đại thiên thế giới đất bằng như bàn tay, với vô số vẻ đẹp của các loại ngọc quí và những đồ trang sức. Thiện nam tử, bồ tát địa thứ ba thì sự trạng này biểu hiện trước hết, và bồ tát thấy rõ, đó là bản thân hùng mạnh, áo giáp và vũ khí uy nghiêm, làm cho mọi kẻ thù nghịch đều khuất phục. Thiện nam tử, bồ tát địa thứ tư thì sự trạng này biểu hiện trước hết, và bồ tát thấy rõ, đó là có gió bốn hướng đưa những loại hoa tuyệt diệu đến rải đầy mặt đất. Thiện nam tử, bồ tát địa thứ năm thì sự trạng này biểu hiện trước hết, và bồ tát thấy rõ, đó là có những bảo nữ tuyệt diệu, trang sức những chuỗi ngọc và những hoa miện. Thiện nam tử, bồ tát địa thứ sáu thì sự trạng này biểu hiện trước hết, và bồ tát thấy rõ, đó là có hồ thất bảo lớn, với đường cấp bốn phía, cát vàng rải khắp, sạch sẽ không dơ, nước tám đặc tính quí tràn đầy trong hồ, các loại hoa sen mọc lên thích hợp vị trí, và nơi hồ đầy hoa sen này dạo đi thích thú, mát mẻ bậc nhất. Thiện nam tử, bồ tát địa thứ bảy thì sự trạng này biểu hiện trước hết, và bồ tát thấy rõ, đó là trước mặt bồ tát có những kẻ đáng đọa địa ngục, nhưng vì năng lực của bồ tát mà không đọa nữa, không thương tổn, không sợ hãi. Thiện nam tử, bồ tát địa thứ tám thì sự trạng này biểu hiện trước hết, và bồ tát thấy rõ, đó là hai bên thân mình có sư tử chúa hộ vệ, các loại thú vật đều khiếp sợ. Thiện nam tử, bồ tát địa thứ chín thì sự trạng này biểu hiện trước hết, và bồ tát thấy rõ, đó là làm luân vương, với vô số người bao quanh phụng sự, trên đỉnh có bảo cái trắng, được trang hoàng bởi vô số ngọc quí. Thiện nam tử, bồ tát địa thứ mười thì sự trạng này biểu hiện trước hết, và bồ tát thấy rõ, đó là thân thể Như lai màu vàng rực rỡ, đủ cả vô số ánh sáng trong suốt, với sô số Phạn vương bao quanh cung kính hiến cúng, chuyển đẩy pháp luân nhiệm mầu và tối thượng.

    Thiện nam tử, tại sao địa thứ nhất tên là hoan hỷ, [cho đến địa thứ mười tên là pháp vân]? Thiện nam tử, địa thứ nhất là đầu tiên chứng được tâm trí siêu việt thế gian, xưa chưa được mà nay mới được, đại dụng tùy nguyện mà thành tựu cả, sinh ra nỗi vui mừng cùng cực, nên địa thứ nhất tên là hoan hỷ. Lỗi lầm phạm giới nhỏ nhiệm nhất đều sạch sẽ cả, nên địa thứ hai tên là vô cấu. Vô số ánh sáng của trí tuệ và chánh định đều không thể bị khuynh động, không thể làm cho khuất phục, lấy tổng trì Nghe nhớ làm căn bản, nên địa thứ ba tên là minh. Đem lửa trí tuệ đốt các phiền não, tăng thêm ánh sáng, tu hành giác phần, nên địa thứ tư tên là diệm. Tu hành phương tiện nên thắng trí tự tại, đó là điều rất khó có, kiến hoặc tu hoặc khó dẹp mà dẹp được, nên địa thứ năm tên là nan thắng. Rất mực tỏ rõ về sự liên tục của các hành (45) , vô tướng tư duy hiện hành tất cả, nên địa thứ sáu tên là hiện tiền. Vô tướng tư duy đã vô lậu và liên tục, giải thoát và tam muội đều tu hành đã xa, sự trong sáng không có chướng ngại, nên địa thứ bảy tên là viễn hành. Vô tướng tư duy đã tu tự tại, mọi phiền não không thể khuynh động, nên địa thứ tám tên là bất động. Thuyết pháp đủ mọi dạng thức sai biệt mà được tự tại cả, không có hệ lụy, tăng trưởng trí tuệ đến tự tại vô ngại, nên địa thứ chín tên là thiện tuệ. Pháp thân như không gian, trí tuệ như mây lớn, bủa che khắp cả, nên địa thứ mười tên là pháp vân.

    Thiện nam tử, vô minh chấp trước ngã pháp, vô minh sợ hãi đường dữ, hai thứ vô minh này chướng ngại cho địa thứ nhất. Vô minh phạm giới nhỏ nhiệm, vô minh phát khởi hành nghiệp, hai thứ vô minh này chướng ngại cho địa thứ hai. Vô minh say đắm được cái chưa được, vô minh chướng ngại cho tổng trì thù thắng, hai thứ vô minh này chướng ngại cho địa thứ ba. Vô minh say đắm sự vui thích thiền định, vô minh say đắm diệu pháp trong sáng, hai thứ vô minh này chướng ngại cho địa thứ tư. Vô minh muốn bỏ sinh tử, vô minh mong đến niết bàn, hai thứ vô minh này chướng ngại cho địa thứ năm. Vô minh quán sát các hành lưu chuyển, vô minh hiện hành thô tướng, hai thứ vô minh này chướng ngại cho địa thứ sáu. Vô minh tế tướng hiện hành, vô minh tác ý ưa thích vô tướng, hai thứ vô minh này chướng ngại cho địa thứ bảy. Vô minh vô tướng quán có dụng công, vô minh chấp tướng tự tại, hai thứ vô minh này chướng ngại cho địa thứ tám. Vô minh chưa khéo léo về ý nghĩa và ngữ văn, vô minh chưa tự do về hùng biện, hai thứ vô minh này chướng ngại cho địa thứ chín. Vô minh chưa tự tại về đại thần thông, vô minh chưa thấu triệt về tối vi mật, hai thứ vô minh này chướng ngại cho địa thứ mười. Vô minh về sở tri chướng nhỏ nhất, vô minh về phiền não chướng nhỏ nhất, hai thứ vô minh này chướng ngại cho Phật địa.

    Thiện nam tử, bồ tát đại sĩ trong địa thứ nhất tu hành thí ba la mật, trong địa thứ hai tu hành giới ba la mật, trong địa thứ ba tu hành nhẫn ba la mật, trong địa thứ tư tu hành cần ba la mật, trong địa thứ năm tu hành định ba la mật, trong địa thứ sáu tu hành tuệ ba la mật, trong địa thứ bảy tu hành phương tiện ba la mật, trong địa thứ tám tu hành nguyện ba la mật, trong địa thứ chín tu hành lực ba la mật, trong địa thứ mười tu hành trí ba la mật.

    Thiện nam tử, bồ tát đại sĩ địa thứ nhất phát tâm thì tu định Sinh ra vàng ngọc tuyệt diệu, địa thứ hai phát tâm thì tu định Sinh ra cái vui khả ái, địa thứ ba phát tâm thì tu định Sinh ra sự khó lay động, địa thứ tư phát tâm thì tu định Sinh ra sự không thoái chuyển, địa thứ năm phát tâm thì tu định Sinh ra bông hoa ngọc ngà, địa thứ sáu phát tâm thì tu định Sinh ra ánh sáng thái dương, địa thứ bảy phát tâm thì tu định Sinh ra thỏa nguyện như ý, địa thứ tám phát tâm thì tu định Sinh ra hiện tiền chứng ngộ, địa thứ chín phát tâm thì tu định Sinh ra kho tàng trí tuệ, địa thứ mười phát tâm thì tu định Sinh ra tinh tiến dũng mãnh. Thiện nam tử, như thế ấy là mười sự phát tâm tu định của bồ tát đại sĩ.

    Thiện nam tử, bồ tát đại sĩ nơi địa thứ nhất được minh chú tên là Dựa sức công đức. Minh chú này do hơn một hằng sa Như lai tuyên thuyết để hộ trì cho bồ tát đại sĩ địa thứ nhất. Ai tụng trì minh chú này thì thoát được mọi sự sợ hãi, như cọp sói, sư tử, các ác thú khác, quỉ ác, người ác, thần ác, oán thù, giặc giã, tai họa, mọi sự khổ não, thoát cả năm chướng nạn như vậy (46) , không quên nhớ đến địa thứ nhất. Bấy giờ đức Thế tôn tuyên thuyết minh chú ấy (47) : Tát da tha, pua ni, măn tra tê, tu hu, tu hu, tu hu, da va, sua da, a va ba sa ti, da va, chăn dra, chu ku ti, ta va ta, rát sa, măng, chăn đa, pa ri ha răm, ku ru, soa ha. (Tadyatha purni mantrate tuhu tuhu tuhu yava surya avabhasati yava candra cukuti tavata raksa mam canda pariharam kuru svaha).

    Thiện nam tử, bồ tát đại sĩ nơi địa thứ hai được minh chú tên là Khéo sống yên vui. Minh chú này do hơn hai hằng sa Như lai tuyên thuyết để hộ trì cho bồ tát đại sĩ địa thứ hai. Ai tụng trì minh chú này thì thoát được mọi sự sợ hãi như ác thú, quỉ ác, người ác, thần ác, oán thù, giặc giã, tai họa, mọi sự khổ não, thoát cả năm chướng nạn như vậy, không quên nhớ đến địa thứ hai. Bấy giờ đức Thế tôn tuyên thuyết minh chú ấy: Tát da tha, un ta li, si ri, si ri, un ta li, tăn năng, jăn tu, jăn tu, un ta li, hu ru, hu ru, soa ha. (Tadyatha untali siri siri untali tannam jantu jantu untali huru huru svaha).

    Thiện nam tử, bồ tát đại sĩ nơi địa thứ ba được minh chú tên là Sức mạnh khó thắng. Minh chú này do hơn ba hằng sa Như lai tuyên thuyết để hộ trì cho bồ tát đại sĩ địa thứ ba. Ai tụng trì minh chú này thì thoát được mọi sự sợ hãi như ác thú, quỉ ác, người ác, thần ác, oán thù, giặc giã, tai họa, mọi sự khổ não, thoát cả năm chướng nạn như vậy, không quên nhớ đến địa thứ ba. Bấy giờ đức Thế tôn tuyên thuyết minh chú ấy: Tát da tha, tăn ta ki, pau ta ki, ka ra ti, kau ra ti, kê du ri, tăn ti li, soa ha. (Tadyatha tantaki pautaki karati kaurati keyuri tantili svaha).

    Thiện nam tử, bồ tát đại sĩ nơi địa thứ tư được minh chú tên là Sự ích lợi lớn. Minh chú này do hơn bốn hằng sa Như lai tuyên thuyết để hộ trì cho bồ tát đại sĩ địa thứ tư. Ai tụng trì minh chú này thì thoát được mọi sự sợ hãi như ác thú, quỉ ác, người ác, thần ác, oán thù, giặc giã, tai họa, mọi sự khổ não, thoát cả năm chướng nạn như vậy, không quên nhớ đến địa thứ tư. Bấy giờ đức Thế tôn tuyên thuyết minh chú ấy: Tát da tha, si ri, si ri, đa mi ni, đa mi ni, đa ri i, Si đa ri ni ri, si ri ni, vi cha ra, pa chi, pa chi na, păn đa mi tê, soa ha. (Tadyatha siri siri damini damini darii Sdariniri sirini vicara paci pacina pandamite svaha).

    Thiện nam tử, bồ tát đại sĩ nơi địa thứ năm được minh chú tên là Công đức trang nghiêm. Minh chú này do hơn năm hằng sa Như lai tuyên thuyết để hộ trì cho bồ tát đại sĩ địa thứ năm. Ai tụng trì minh chú này thì thoát được mọi sự sợ hãi như ác thú, quỉ ác, người ác, thần ác, oán thù, giặc giã, tai họa, mọi sự khổ não, thoát cả năm thứ chướng nạn như vậy, không quên nhớ đến địa thứ năm. Bấy giờ đức Thế tôn tuyên thuyết minh chú ấy: Tát da tha, ha ri, ha ri ni, cha ri, cha ri ni, ka ra ma ni, săm ra ma ni, sáp, su ni, chăm ba ni, si tau va ni, mo ha ni, si ja bu hê, soa ha. (Tadyatha hari harini cari carini karamani samkramani samb suni cambani stauvani mohani sijabuhe svaha).

    Thiện nam tử, bồ tát đại sĩ nơi địa thứ sáu được minh chú tên là Trí giác viên mãn. Minh chú này do hơn sáu hằng sa Như lai tuyên thuyết để hộ trì cho bồ tát đại sĩ địa thứ sáu. Ai tụng trì minh chú này thì thoát được mọi sự sợ hãi như ác thú, quỉ ác, người ác, thần ác, oán thù, giặc giã, tai họa, mọi sự khổ não, thoát cả năm chướng nạn như vậy, không quên nhớ đến địa thứ sáu. Bây giờ đức Thế tôn tuyên thuyết minh chú ấy: Tát da tha, vi tô ri, vi tô rim, a ri ni, ma ri ni, ki ri, ki ri, vi tô hăn ti, ru ru, ru ru, chu ru, chu ru, đua va, đu ru va, sá sa, sắc cha, va ri sá, soát ti, sát va sát toa năm, sít đi dăn tu, ma da, măn tra, pa đa ni, soa ha. (Tadyatha vitori vitorim arini marini kiri kiri vitohanti ruru ruru curu curu durva duruva sasa saccha varisa svasti sasvasattvanam siddhyantu maya mantra padani svaha).

    Thiện nam tử, bồ tát đại sĩ nơi địa thứ bảy được minh chú tên là Thắng hạnh của Pháp. Minh chú này do hơn bảy hằng sa Như lai tuyên thuyết để hộ trì cho bồ tát đại sĩ địa thứ bảy. Ai tụng trì minh chú này thì thoát được mọi sự sợ hãi như ác thú, quỉ ác, người ác, thần ác, oán thù, giặc giã, tai họa, mọi sự khổ não, thoát cả năm chướng nạn như vậy, không quên nhớ đến địa thứ bảy. Bấy giờ đức Thế tôn tuyên thuyết minh chú ấy: Tát da tha, ja ha, ja ha ru, ja ha, ja ha ru, vi đu kê, vi đu kê, ăm ri ta, kha ni, vri sa ni, vai ru, cha ni, vai ru chi kê, va ru vát ti, vi đi bi kê, băn đin, va ri ni, ăm ri ti kê, ba hu ja ja, ba hu ja du, soa ha (Tadyatha jaha jaharu jaha jaharu viduke viduke amrta khani vrsani vairu cani vairucike varuvatti vidhibike bhandin varini amrtike babujaja babujayu svaha).

    Thiện nam tử, bồ tát đại sĩ nơi địa thứ tám được minh chú tên là Kho tàng vô tận. Minh chú này do hơn tám hằng sa Như lai tuyên thuyết để hộ trì cho bồ tát đại sĩ địa thứ tám. Ai tụng trì minh chú này thì thoát được mọi sự sợ hãi như ác thú, quỉ ác, người ác, thần ác, oán thù, giặc giã, tai họa, mọi sự khổ não, thoát cả năm chướng nạn như vậy, không quên nhớ đến địa thứ tám. Bấy giờ đức Thế tôn tuyên thuyết minh chú ấy: Tát da tha, si ri, si ri, si ri ni, mi tê, mi tê, ka ri, ka ri, hê ru, hê ru, hê ru, chu ru, chu ru, văn da ni, soa ha. (Tadyatha siri siri sirini mite mite kari kari heru heru heru curu curu vandani svaha).

    Thiện nam tử, bồ tát đại sĩ nơi địa thứ chín được minh chú tên là Pháp môn vô lượng. Minh chú này do hơn chín hằng sa Như lai tuyên thuyết để hộ trì cho bồ tát đại sĩ địa thứ chín. Ai tụng trì minh chú này thì thoát được mọi sự sợ hãi như ác thú, quỉ ác, người ác, thần ác, oán thù, giặc giã, tai họa, mọi sự khổ não, thoát cả năm chướng nạn như vậy, không quên nhớ đến địa thứ chín. Bấy giờ đức Thế tôn tuyên thuyết minh chú ấy: Tát da tha, ha ri, chăn đa ri kê, ku la ma ba tê, tô ri si, ba ta, ba ta si, si ri, si ri, ka si ri, ka pi si ri, soát ti, sa va, soát ta năng, soa ha. (Tadyatha hari candarike kulamabhate torisi bata batasi siri siri kasiri kapisiri svasti sarva sattvanam svaha).

    Thiện nam tử, bồ tát đại sĩ nơi địa thứ mười được minh chú tên là Phá núi kim cương. Minh chú với những câu và chữ cát tường đưa đến vị trí Quán đảnh như thế này là do hơn mười hằng sa Như lai tuyên thuyết để hộ trì cho bồ tát đại sĩ địa thứ mười. Ai tụng trì minh chú này thì thoát được mọi sự sợ hãi như ác thú, quỉ ác, người ác, thần ác, oán thù, giặc giã, tai họa, mọi sự khổ não, thoát cả năm thứ chướng nạn như vậy, không quên nhớ đến địa thứ mười. Bây giờ đức Thế tôn tuyên thuyết minh chú ấy: Tát da tha, si đi, su si đê, mô cha ni, mốc sa ni, vi múc ti, a ma lê, vi ma lê, nia ma lê, mô ga lê, hi răn da ga bê, rát na ga bê, sa măn ta ba rê, sa văn tê, si tha ni, ma na si, ăm bu ti, ăn ti bu ti, a cha rê, vi ra sê, ăn ti, ăm ri ta, a ra sê, vi ra sê, brắt mê, brắt ma nê, pua ni, pu ra na, nao tra tê, soa ha. (Tadyatha sidhi susidhe mocani moksani vimukti amale vimale nirmale mogalehiranyagarbhe ratnagarbhe samantabhadre sarvante sthani manasi ambuti antibuti acare virase annti amrta arase virase brahme brahmane purni purana nautrate svaha).

    Vào lúc bấy giờ bồ tát Sư tử tướng vô ngại quang diệm nghe đức Thế tôn tuyên thuyết những minh chú bất khả tư nghị như vậy, liền từ chỗ ngồi đứng dậy, vắt vạt áo của vai bên phải, gối bên phải quì xuống chấm đất, chắp tay cung kính, đảnh lễ ngang chân đức Thế tôn, dùng những lời chỉnh cú mà tán dương Ngài.

    (1) Con kính lạy đấng

    Không thể ví dụ,

    và kính lạy pháp

    Ly tướng sâu xa.

    Chúng sinh bỏ mất

    cái biết chính xác,

    chỉ đức Thế tôn

    mới cứu vớt được.

    (2) Mắt tuệ sáng tỏ

    của đức Thế tôn

    thì không thấy có

    một pháp tướng nào,

    nhưng Ngài lại dùng

    mắt pháp chính xác

    chiếu soi khắp cả

    bất khả tư nghị.

    (3) Không hề thấy có

    một pháp sinh ra

    không hề thấy có

    một pháp diệt mất,

    do sự nhìn thấy

    bình đẳng như vậy

    mà được đạt đến

    vị trí vô thượng.

    (4) Không hề phá hoại

    đối với sinh tử,

    không hề trú ở

    đối với niết bàn;

    vì không vướng mắc

    nhị biên như vậy,

    nên đức Thế tôn

    thật chứng niết bàn.

    (5) Đối với thanh tịnh

    đối với tạp nhiễm

    thì đức Thế tôn

    biết là nhất vị,

    vì không phân biệt

    các pháp như vậy

    nên đức Thế tôn

    được tối thanh tịnh.

    (6) Thân không biên cương

    của đức Thế tôn

    không hề nói đến

    một chữ nào cả,

    thế mới làm cho

    các chúng đệ tử

    được sung mãn cả

    nước mưa chánh pháp.

    (7) Đức Thế tôn nhìn

    thì tướng chúng sinh

    tất cả chủng loại

    đều là không cả,

    thế nhưng đối với

    những người khổ não

    Ngài thường nổi dậy

    mọi sự cứu hộ.

    (8) Khổ não yên vui

    thường còn vô thường

    hữu ngã vô ngã

    những quan điểm ấy

    không là đồng nhất

    cũng không dị biệt

    không là phát sinh

    cũng không diệt mất.

    (9) Những nghĩa như vậy

    thật nhiều rất nhiều,

    chỉ do nói phô

    mà có sai biệt ;

    ví như tiếng vang

    dội từ hang trống,

    chỉ đức Thế tôn

    thấu rõ như vậy.

    (10) Thể tánh các pháp

    vốn không phân biệt,

    vì thế không có

    các thừa khác nhau;

    nhưng vì cứu độ

    cho bao chúng sinh,

    Thế tôn phân ra

    nói có tam thừa.

    Đại tự tại phạn thiên vương, lúc ấy, cũng từ chỗ ngồi đứng dậy, vắt vạt áo của vai bên phải, gối bên phải quì xuống chấm đất, chắp tay cung kính, đảnh lễ ngang chân đức Thế tôn mà thưa, bạch đức Thế tôn, kinh Ánh sáng hoàng kim này hiếm có, khó lường, phần đầu phần giữa phần cuối đều khéo léo, văn và nghĩa đều trọn vẹn, hoàn thành được toàn bộ Phật pháp. Ai thọ trì thì thế là người ấy báo đáp ơn đức của chư vị Thế tôn. Đức Thế tôn dạy, thiện nam tử, đúng như vậy, đúng như ông nói. Thiện nam tử, những ai được nghe kinh này thì toàn là những người không còn thoái chuyển vô thượng bồ đề, vì sao, thiện nam tử, vì những người ấy năng lực thành thục được thiện căn thù thắng của bồ tát ở địa vị không còn thoái chuyển. Kinh này là ấn tín bậc nhất của Phật pháp, là vua của các kinh, nên phải lắng nghe, tiếp nhận, ghi nhớ, cứu xét, tụng thuộc. Vì sao, thiện nam tử, vì nếu ai chưa gieo trồng thiện căn, chưa thành thục thiện căn, chưa thân cận chư vị Như lai, thì không thể lắng nghe diệu pháp như vầy. Nên thiện nam hay thiện nữ nào lắng nghe được thì diệt trừ nghiệp chướng, thực hiện thanh tịnh; thường được nhìn thấy chư vị Như lai, không rời xa các Ngài và những bậc thiện tri thức, những bậc thắng hạnh; thường nghe diệu pháp, đứng vững nơi vị trí không còn thoái chuyển, đạt được các pháp tổng trì thù thắng bất tận bất giảm -- là tổng trì Hải ấn xuất sinh công đức vi diệu, tổng trì Thông suốt tâm ý và ngôn ngữ của chúng sinh, tổng trì Thái dương tròn đầy phát xuất ánh sáng không gợn bẩn, tổng trì Vầng trăng tròn đầy phát xuất ánh sáng, tổng trì Dẹp được mê hoặc mà diễn ra dòng nước công đức, tổng trì Phá nát núi kim cương, tổng trì Nói về kho tàng duyên khởi là nghĩa lý không thể diễn nói, tổng trì Thông suốt nguyên tắc và âm thanh của ngôn ngữ chân thật, tổng trì Không gian trong sáng làm ấn tín của tâm, tổng trì Phật thân vô biên biến thể khắp cả. Thiện nam tử, thành tựu được các pháp tổng trì bất tận bất giảm như vậy, thì vị bồ tát đại sĩ này năng lực hóa hiện được Phật thân khắp trong mười phương quốc độ, diễn nói chánh pháp vô thượng, đủ mọi dạng thức; đối với chân như của các pháp thì không chuyển không trụ, không đến không đi; thành thục thiện căn cho chúng sinh mà không thấy một chúng sinh nào là người được thành thục; diễn nói các hành mà chính trong ngôn ngữ vẫn không chuyển không trụ, không đi không đến, chính nơi sinh diệt mà chứng bất sinh diệt. Tại sao nói các hành không có đi đến? Vì thể tánh các pháp không có dị biệt. Khi đức Thế tôn tuyên thuyết pháp thoại này thì ba mươi ngàn bồ tát đại sĩ được vô sinh pháp nhẫn, vô số bồ tát không còn thoái chuyển tâm bồ đề, vô số bí sô và bí sô ni được sự trong sáng của mắt pháp, vô số chúng sinh phát tâm bồ đề, và đức Thế tôn nói lời chỉnh cú sau đây.

    Thắng pháp ngược được

    dòng nước sinh tử,

    cùng cực nhiệm mầu

    khó mà thấy được.

    Chúng sinh đui mù

    tham ái che khuất,

    do không thấy được

    nên chịu khổ não.

    Bấy giờ cả đại hội đều đứng dậy, đảnh lễ ngang chân đức Thế tôn, cùng thưa rằng, bạch đức Thế tôn, chỗ nào giảng nói đọc tụng kinh Ánh sáng hoàng kim này thì chúng con đến đó để làm thính giả. Chúng con làm cho vị pháp sư tuyên thuyết kinh này được lợi ích, được yên vui, được không chướng ngại, thân thể và tâm ý đều thư thái. Chúng con thường tận tâm hiến cúng vị pháp sư ấy. Chúng con cũng làm cho những người nghe kinh này được yên ổn, vui thích; làm cho quốc gia của họ cư trú không oán thù, không giặc giã, không kinh hoàng, không ách nạn, không đói khát, không tất cả cái khổ như vậy, và dân chúng thì đông đảo, thịnh vượng. Chỗ tuyên thuyết kinh này chúng con làm cho thành nơi đạo tràng, chư thiên, nhân loại, loài khác, không ai nên giẫm đạp trên đó với sự dơ bẩn, vì sao, vì chỗ tuyên thuyết kinh này tức là bảo tháp tôn thờ đức Thế tôn, hãy hiến cúng bằng hoa hương, bằng lọng dù bằng lụa, và chúng con thường bảo vệ chỗ ấy, không cho suy tổn. Đức Thế tôn dạy đại hội, chư thiện nam thiện nữ, các người nên siêng năng tu tập bản kinh nhiệm mầu này, thì thế là chánh pháp tồn tại lâu dài trong thế giới này.
    VÔ CÔNG DỤNG HẠNH - VÔ KHUẤT LIỄU HẠNH - VÔ CẤU PHÁP - VÔ TÁT Ý - VÔ SỞ ĐẮC - VÔ SỞ CẦU - VÔ SỞ TRỤ - VÔ SỞ ÚY

  8. #8

    Mặc định

    Phẩm 7: Hoa Sen Ca Tụng (48)

    Bấy giờ đức Thế tôn bảo thọ thần của bồ đề đại thọ, rằng thiện nữ thiên, thiện nữ nên biết cái lý do bồ tát Diệu tràng mộng thấy trống hoàng kim xuất âm thanh lớn, ca tụng công đức Như lai và diệu pháp sám hối. Như lai sẽ nói cho các người về lý do ấy. Các người hãy nghe kyլ hãy khéo nghĩ khéo nhớ. Quá khứ có một đế vương tên Kim long chủ, thường đem hoa sen làm ví dụ mà ca tụng chư vị Như lai. Đức Thế tôn liền thuật lại cho đại hội nghe những lời ca tụng này.

    (1) Chư Phật quá khứ

    vị lai hiện tại,

    ở trong thế giới

    khắp cả mười phương,

    con nay chí thành

    cúi đầu kính lạy,

    nhất tâm ca tụng

    các đấng Tối thắng.

    (2) Đấng Đại mâu ni

    tối thượng thanh tịnh,

    ánh sáng thân thể

    rực như hoàng kim.

    Trong các thứ tiếng

    tiếng Ngài tối thượng,

    như tiếng Đại phạn

    như sấm rền vang.

    (3) Tóc Ngài thì như

    ong chúa đen huyền,

    đường nét uốn xoay

    ngời lên xanh biếc.

    Răng đều và sít

    trắng như tuyết, ngọc,

    rất bằng và thẳng

    và ngời sáng lên.

    (4) Mắt trong không gợn,

    cực đẹp, uy nghiêm,

    to lớn tựa như

    cánh hoa sen xanh.

    Tướng lưỡi rộng dài,

    cùng cực nhu nhuyến,

    đỏ như sen hồng

    từ nước trồi lên.

    (5) Giữa mày thường có

    ánh sáng bạch hào

    uốn xoay chiều phải

    với màu pha lê.

    Lông mày dài, mịn,

    sáng như trăng mới,

    ngời lên lóng lánh

    như thân ong chúa.

    (6) Mũi cao, dài, thẳng,

    tựa như đĩnh vàng,

    sạch sẽ, tươi sáng,

    không thiếu vẻ đẹp;

    mọi thứ hơi thơm

    trong thế giới này,

    mũi này ngửi thấy

    là biết ở đâu.

    (7) Thân màu hoàng kim

    siêu tuyệt bậc nhất,

    mỗi một đầu lông

    đẹp đẽ đồng đẳng,

    xanh biếc, mềm mại,

    uốn theo chiều phải,

    tinh tế ánh ngời

    khó có gì bằng.

    (8) Thân ấy mới sinh

    đã có ánh sáng,

    trải ra khắp cả

    thế giới mười phương,

    trừ được khổ não

    ba cõi chúng sinh,

    làm cho tất cả

    đều được yên vui.

    (9) Bất kể địa ngục,

    bàng sinh, ngạ quỉ,

    tô la, chư thiên,

    cùng với nhân loại,

    làm cho loại trừ

    các dạng khổ não,

    thường xuyên hưởng thụ

    cái vui tự nhiên.

    (10) Ánh sáng thân ấy

    thường chiếu khắp cả,

    tựa như vàng ròng

    tinh tế bậc nhất.

    Mặt thì sáng ngời

    tựa như trăng tròn.

    Môi thì đỏ tươi

    như trái tần bà.

    (11) Bước đi uy nghiêm

    như sư tử đi.

    Mình sáng in như

    mặt trời mới mọc

    Cánh tay thì dài,

    đứng quá đầu gối,

    thường buông thẳng xuống

    như nhánh sa la.

    (12) Vầng ánh sáng tròn

    một tầm, tỏa chiếu,

    rực rỡ tựa như

    trăm ngàn mặt trời,

    trải đến khắp cả

    quốc độ của Phật,

    tùy kẻ hữu duyên

    mà được thức tỉnh.

    (13) Ánh sáng trong suốt

    không chi sánh bằng,

    trải ra khắp cả

    trăm ngàn thế giới,

    và khắp mười phương,

    không gì trở ngại,

    mọi sự mờ tối

    đều tan biến cả.

    (14) Từ quang Thiện thệ

    ban cho yên vui,

    màu sắc trong suốt

    như núi vàng ròng,

    ánh sáng trải khắp

    trăm ngàn quốc độ,

    những ai gặp được

    cùng siêu thoát cả.

    (15) Vô biên thắng phước

    hoàn thành thân Phật,

    tất cả công đức

    trang sức Phật thân,

    vượt quá ba cõi,

    độc xưng Thế tôn,

    hơn hết thế giới

    thành bậc Vô đẳng.

    (16) Chư vị Thế tôn

    thuộc thì quá khứ

    nhiều như vi trần

    của cả đại địa,

    chư vị Thế tôn

    vị lại hiện tại

    cũng bằng vi trần

    của cả đại địa.

    (17) Đem thân miệng ý

    cùng cực chân thành

    con xin kính lạy

    tam thế Thế tôn,

    ca tụng biển cả

    công đức vô biên,

    hiến cúng đủ loại

    những hương và hoa.

    (18) Giả sử miệng con

    có cả ngàn lưỡi,

    ca tụng Thế tôn

    trong vô lượng kiếp,

    thì công đức Ngài

    là bất tư nghị,

    tối thắng, cực sâu,

    vẫn khó diễn tả.

    (19) Giả sử lưỡi con

    có cả trăm ngàn

    khen một công đức

    của một đức Phật

    cũng vẫn khó được

    một phần chút ít,

    huống chi vô biên

    công đức chư Phật.

    (20) Giả sử đại địa

    cho đến chư thiên

    đến trời Hữu đảnh

    toàn là biển nước,

    đầu lông nhỏ giọt

    đếm biết hết cả,

    một đức một Phật

    cũng khó lường biết.

    (21) Đem thân miệng ý

    cực kỳ chân thành

    mà con lễ bái

    cùng với tán dương

    công đức vô biên

    của chư Phật đà,

    sự lễ tán ấy

    được bao thắng phước

    quả báo siêu việt,

    con xin hồi hướng

    cho cả chúng sinh

    chóng thành Phật đà.

    *

    (22) Kim long chủ vương

    tán thán Phật rồi,

    tâm càng thâm thiết

    phát ra đại nguyện:

    nguyện con sau này

    trong thì vị lai

    sinh ra đến mấy

    đời kiếp đi nữa,

    (23) thường xuyên mộng thấy

    trống hoàng kim lớn,

    được nghe âm thanh

    diệu pháp sám hối.

    Công đức tán Phật

    thì như liên hoa,

    nguyện chứng Vô sinh

    thành bậc Chánh giác.

    (24) Thế tôn xuất thế

    lâu thay một lần,

    trăm ngàn đời kiếp

    cũng khó gặp được.

    Nên đêm thường mộng

    nghe tiếng trống vàng,

    ngày thì theo đó

    tu hành sám hối.

    (25) Con nguyện viên tu

    sáu ba la mật,

    cứu vớt chúng sinh

    ra khỏi biển khổ,

    sau con mới thành

    đấng Vô thượng giác,

    với một tịnh độ

    bất khả tư nghị.

    (26) Con đem trống vàng

    hiến lên chư Phật,

    tán thán chư Phật

    công đức chân thật,

    nguyện nhờ việc này

    sẽ gặp Thích tôn

    thọ ký cho con

    nối ngôi Pháp vương.

    (27) Kim long, Kim quang,

    là con của con,

    quá khứ đã làm

    bậc thiện tri thức;

    nguyện rằng đời đời

    vẫn sinh nhà con,

    cùng con tiếp nhận

    thọ ký bồ đề.

    (28) Với những chúng sinh

    không ai cứu giúp,

    trường kỳ luân hồi

    lãnh chịu khổ não,

    nguyện con đời sau

    làm nơi nương tựa

    cho họ thường được

    yên vui thích thú.

    (29) Cái khổ ba cõi

    con nguyện diệt trừ,

    làm cho tùy tâm

    ở nơi an lạc.

    Nguyện những đời sau

    tu hành bồ đề

    cũng như quá khứ

    các vị thành Phật.

    (30) Nguyện cầu cái phước

    trống vàng sám hối

    làm khô biển khổ

    loại trừ nghiệp chướng;

    nghiệp chướng hoặc chướng

    tan biến cả rồi,

    nguyện con chóng đạt

    quả báo trong sáng.

    (31) Biển cả phước trí

    giới hạn vô biên,

    trong suốt rất mực

    và sâu không cùng.

    Nguyện con thực hiện

    biển phước trí ấy,

    mau chóng thành đạt

    vô thượng bồ đề.

    (32) Sức mạnh sám hối

    của trống vàng này

    sẽ thể hiện được

    ánh sáng phước đức.

    Thể hiện ánh sáng

    nhiệm mầu như vậy,

    rồi đem trí quang

    chiếu soi khắp cả.

    (33) Nguyện cầu cho con

    thân thể, ánh sáng,

    phước đức, trí tuệ.

    đều như chư Phật,

    trong mọi thế giới

    độc xưng Thế tôn,

    uy lực tự tại

    không ai sánh bằng.

    (34) Nguyện cầu vượt qua

    biển khổ hữu lậu,

    nguyện thường du ngoạn

    biển vui vô vi,

    biển phước hiện tại

    nguyện thường dẫy đầy,

    biển trí tương lai

    nguyện được viên mãn.

    (35) Nguyện cõi của con

    siêu việt ba cõi,

    phẩm chất thù thắng

    không có số lượng,

    những ai liên hệ

    cùng sinh cõi ấy,

    cùng mau thành đạt

    trí giác thanh tịnh.

    *

    (36) Diệu tràng nên biết

    Kim long chủ vương

    đã phát nguyện ấy

    là bản thân ông.

    (37) Và hai người con

    Kim long, Kim quang

    thì nay chính là

    Ngân tướng, Ngân quang,

    sẽ cùng tiếp nhận

    Như lai thọ ký.

    Toàn thể đại hội nghe những lời này của đức Thế tôn, thì ai cũng phát tâm bồ đề, nguyện rằng hiện tại và vị lai thường y theo những lời ấy mà tu hành diệu pháp sám hối.
    VÔ CÔNG DỤNG HẠNH - VÔ KHUẤT LIỄU HẠNH - VÔ CẤU PHÁP - VÔ TÁT Ý - VÔ SỞ ĐẮC - VÔ SỞ CẦU - VÔ SỞ TRỤ - VÔ SỞ ÚY

  9. #9

    Mặc định

    Phẩm 8: Minh Chú Kim Thắng

    Bấy giờ đức Thế tôn nói với bồ tát đại sĩ Thiện trú ở trong đại hội, rằng thiện nam tử, có một minh chú danh hiệu Kim thắng. Thiện nam hay thiện nữ nào muốn cầu đích thân nhìn thấy chư vị Như lai trong quá khứ hiện tại vị lai để tôn kính hiến cúng, thì phải thọ trì minh chú này. Minh chú này là mẹ của chư vị Như lai trong ba thì gian. Do vậy, nên nhận thức rằng thọ trì minh chú này thì có đủ phước đức to lớn. Gieo trồng thiện căn nơi vô lượng chư vị Như lai quá khứ thì nay mới được thọ trì, được thanh tịnh giới pháp, không vi phạm, không thiếu sót, không có chướng ngại, quyết định thể nhập pháp môn sâu xa. Phép trì minh chú này là trước hết xưng niệm hồng danh mà chí thành kính lạy chư vị Như lai và chư vị Bồ tát sau đây, rồi mới trì tụng minh chú.

    Kính lạy chư vị Như lai,

    Kính lạy chư vị Bồ tát đại sĩ,

    Kính lạy chư vị Thanh văn Duyên giác.

    Kính lạy đức Thích ca mâu ni như lai,

    Kính lạy đức Bất động như lai ở hướng đông,

    Kính lạy đức Bảo tràng như lai ở hướng nam,

    Kính lạy đức A di đà như lai ở hướng tây,

    Kính lạy đức Thiên cổ âm vương như lai ở hướng bắc,

    Kính lạy đức Quảng chúng đức như lai ở hướng trên,

    Kính lạy đức Minh đức như lai ở hướng dưới,

    Kính lạy đức Bảo tạng như lai,

    Kính lạy đức Phổ quang như lai,

    Kính lạy đức Phổ minh như lai,

    Kính lạy đức Hương tích vương như lai,

    Kính lạy đức Liên hoa thắng như lai,

    Kính lạy đức Bình đẳng kiến như lai,

    Kính lạy đức Bảo kế như lai,

    Kính lạy đức Bảo thượng như lai,

    Kính lạy đức Bảo quang như lai,

    Kính lạy đức Vô cấu quang minh như lai,

    Kính lạy đức Biện tài trang nghiêm tư duy như lai,

    Kính lạy đức Tịnh nguyệt quang xưng tướng vương như lai,

    Kính lạy đức Hoa nghiêm quang như lai,

    Kính lạy đức Quang minh vương như lai,

    Kính lạy đức Thiện quang vô cấu xưng vương như lai,

    Kính lạy đức Quan sát vô úy tự tại vương như lai,

    Kính lạy đức Vô úy danh xưng như lai,

    Kính lạy đức Tối thắng vương như lai,

    Kính lạy đức Quan tự tại bồ tát đại sĩ,

    Kính lạy đức Địa tạng bồ tát đại sĩ,

    Kính lạy đức Hư không tạng bồ tát đại sĩ,

    Kính lạy đức Diệu cát tường bồ tát đại sĩ,

    Kính lạy đức Kim cang thủ bồ tát đại sĩ,

    Kính lạy đức Phổ hiền bồ tát đại sĩ,

    Kính lạy đức Vô tận ý bồ tát đại sĩ,

    Kính lạy đức Đại thế chí bồ tát đại sĩ,

    Kính lạy đức Từ thị bồ tát đại sĩ,

    Kính lạy đức Thiện tuệ bồ tát đại sĩ.

    Rồi trì tụng minh chú Kim thắng như sau: Nam mô, rát na, tra da da, tát da tha, kun tê, kun tê, ku sá tê, ku sá lê, ku sá lê, ích chi li, mi ti li, soa ha (Namo ratna trayaya tadyatha kunte kunte kusate kusale kusale icchili mitili svaha).

    Đức Thế tôn dạy bồ tát Thiện trú, minh chú này là mẹ của tam thế Như lai. Thiện nam hay thiện nữ nào trì minh chú này thì xuất sinh cái khối phước đức vô lượng vô biên, thì tức là hiến cúng, cung kính, tôn trọng, tán dương đối với vô số chư vị Như lai, thì chư vị Như lai ấy cùng thọ ký cho người ấy về vô thượng bồ đề. Thiện trú, ai trì minh chú này thì [hiện tại] tùy theo ý muốn mà cơm áo, tài sản, đa văn, thông minh, vô bịnh, sống lâu, đều được lắm phước trong đó, ước nguyện toại ý. Thiện trú, trì minh chú này thì, cho đến lúc thực chứng vô thượng bồ đề, thường xuyên được ở chung với đại bồ tát Kim thành sơn, đại bồ tát Từ thị, đại bồ tát Đại hải, đại bồ tát Quan tự tại, đại bồ tát Diêu cát tường, đại bồ tát Đại băng di la, và các vị đồng đẳng; được các vị đại bồ tát này hộ trì.

    Thiện trú, trì minh chú này thì theo cách thức sau đây. Trước hết phải trì tụng cho được mười ngàn lẻ tám biến, làm tiền phương tiện. Kế đó, trang hoàng đạo tràng ở trong phòng kín (49) , lấy ngày mồng một của tháng trăng tối mà tắm rửa sạch sẽ, mặc đồ sạch sẽ, rồi đốt hương rải hoa, hiến cúng như vậy, lại hiến cúng ẩm thực. Khi bước vào đạo tràng thì trước hết, như trước đã chỉ, xướng lạy chư vị Như lai và chư vị Bồ tát; tiếp theo, chí thành và thiết tha mà sám hối nghiệp chướng đã qua; sau đó, đầu gối bên phải quì xuống chấm đất, trì tụng minh chú cho được một ngàn lẻ tám biến; rồi ngồi ngay thẳng mà tư duy đến ước nguyện của mình. Mặt trời chưa mọc thì ở trong đạo tràng mà ăn thức ăn tịnh hắc (50) , và chỉ ăn mỗi ngày một bữa. Phải mười lăm ngày mới ra khỏi đạo tràng. Như vậy thì người ấy uy lực phước đức thật bất khả tư nghị, ước nguyện gì cũng toại ý cả.

    Nếu không toại ý thì lại nhập đạo tràng. Toại ý rồi vẫn thường xuyên trì tụng, đừng quên.
    VÔ CÔNG DỤNG HẠNH - VÔ KHUẤT LIỄU HẠNH - VÔ CẤU PHÁP - VÔ TÁT Ý - VÔ SỞ ĐẮC - VÔ SỞ CẦU - VÔ SỞ TRỤ - VÔ SỞ ÚY

  10. #10

    Mặc định

    Phẩm 9: Trùng Tuyên Về Không

    Đức Thế tôn nói về minh chú Kim thắng rồi, để lợi ích cho bồ tát đại sĩ, cho đại hội nhân loại chư thiên, làm cho ai cũng nhận thức đạo lý bậc nhất, thậm thâm chân thật, nên Ngài nói lại về Không, bằng những chỉnh cú sau đây.

    (1) Như lai ở trong

    các kinh sâu xa

    đã nói phong phú

    về diệu lý Không.

    Nay trong bản kinh

    vua các kinh này

    lược nói về Không

    siêu việt tư nghị.

    (2) Với diệu lý Không

    quảng đại sâu xa,

    chúng sinh vô trí

    không thể ý thức,

    thế nên Như lai

    trùng tuyên nơi đây

    về diệu lý ấy

    cho họ tỉnh ngộ.

    (3) Những bậc đại bi

    thương xót chúng sinh,

    đem thiện phương tiện

    làm thắng nhân duyên (51) ;

    thế nên Như lai

    trong đại hội này

    trùng tuyên cho họ

    thể nhận Không lý.

    (4) Không thì thân này

    tựa như xóm vắng,

    lục tặc ở đó

    mà không biết nhau;

    nhóm giặc sáu cảnh

    dựa riêng sáu căn

    mà không biết nhau

    cũng y như vậy.

    (5) Nhãn căn thường nhìn

    vào nơi sắc cảnh,

    nhĩ căn liên tục

    nghe vào thanh cảnh,

    tyՠcăn thường ngửi

    vào nơi hương cảnh,

    thiệt căn vị giác

    vào nơi myՠvị,

    (6) thân căn tiếp nhận

    xúc giác mềm dịu,

    ý căn biết pháp

    có chán bao giờ:

    như vậy sáu căn

    khởi theo yếu tố,

    cùng nơi cảnh riêng

    mà sinh phân biệt.

    (7) Thức như ảo hóa

    đâu phải chắc thật,

    nó dựa vào cảnh

    mà vọng tham cầu.

    Như người bôn ba

    trong xóm trống vắng,

    sáu thức cũng vậy

    dựa vào sáu căn.

    (8) Thức dông khắp cả

    chuyển theo vị trí,

    dựa căn vin cảnh

    mà biết mọi sự:

    đắm sắc thanh hương

    say vị xúc pháp,

    và riêng với pháp

    tầm tư không ngừng.

    (9) Thức theo duyên tố

    đi khắp sáu căn,

    tựa như con chim

    bay trong không gian.

    Nhưng phải nhờ căn

    làm chỗ y cứ

    thức mới nhận thức

    đối với các cảnh.

    (10) Không là tri giả,

    không là tác giả (52)

    thân không bền chắc,

    có do yếu tố.

    Tất cả là sinh

    từ vọng phân biệt,

    chỉ như bộ máy:

    chuyển động vì Nghiệp.

    (11) Đất nước lửa gió

    chung thành thân thể,

    và tùy yếu tố

    kết quả khác nhau.

    Nhưng ở một chỗ

    mà chúng hại nhau,

    như bốn rắn độc

    ở trong một hộp.

    (12) Bốn rắn tứ đại

    bản tính khác nhau,

    cùng trong một thân

    vẫn có thăng trầm,

    hoặc lên hoặc xuống

    khắp cả châu thân,

    thế nên chung cục

    qui về diệt vong.

    (13) Bốn con rắn độc

    tứ đại như vậy,

    đất nước hai loại

    đa số trầm xuống,

    gió lửa hai loại

    tính lại nhẹ bổng,

    do mâu thuẫn ấy

    bịnh hoạn phát sinh.

    (14) Tâm thức dựa vào

    cái thân như vậy,

    tạo nghiệp lành dữ

    đủ mọi dạng thức.

    Rồi trong trời người

    hay ba đường dữ

    tùy theo nghiệp lực

    mà nhận thân hình.

    (15) Thân hình ấy bịnh,

    rồi thân hình chết;

    bịnh thì đại tiểu

    từ thân thoát ra,

    chết thì thối rã

    giòi bọ ghê tởm,

    vất ở rừng thây (53)

    như vất gỗ mục.

    (16) Đại hội hãy xét

    thân là như vậy,

    tại sao chấp là

    bản ngã, sinh thể?

    Phải xét các pháp

    toàn là vô thường,

    toàn do năng lực

    vô minh khởi động.

    (17) Bốn thứ đại chủng

    toàn bộ hư vọng,

    bản chất không thật

    thật thể không sinh,

    nên Như lai nói

    đại chủng toàn không,

    thì biết phù hư

    không phải thật có.

    (18) Và chính vô minh

    tự tánh vốn không,

    có ra chỉ vì

    yếu tố hóa hợp,

    làm cho lúc nào

    cũng mất tuệ giác,

    nên Như lai nói

    đó là vô minh.

    (19) Do hành với thức

    mà có danh sắc,

    lục nhập và xúc

    cũng sinh từ đó,

    do ái thủ hữu

    có sinh già chết,

    lo buồn khổ não

    theo mãi chúng sinh.

    (20) Khổ não ác nghiệp

    ràng buộc bức bách,

    sinh tử luân hồi

    vì vậy không nghỉ.

    Bản lai phi hữu,

    thể tánh là không;

    vì không như lý,

    phân biệt sinh ra.

    (21) Như lai đã diệt

    mọi thứ phiền não,

    thường do chánh trí

    hiện hành mà sống:

    biết nhà ngũ uẩn

    toàn là trống rỗng,

    tiến chứng bồ đề

    nơi thật chân thật.

    (22) Như lai mở cửa

    đại thành cam lộ,

    chỉ cho đồ chứa

    cam lộ vi diệu.

    Tự mình đã được

    chân cam lộ vị,

    lại đem cho người

    cam lộ vị ấy.

    (23) Như lai gióng lên

    trống pháp tối thắng,

    Như lai thổi lên

    loa pháp tối thắng,

    Như lai đốt lên

    đèn pháp tối thắng,

    Như lai mưa xuống

    nước pháp tối thắng.

    (24) Chiến thắng phiền não

    cùng bao oán kết,

    Như lai dựng lên

    cờ pháp tối thượng.

    Từ biển sinh tử

    cứu vớt chúng sinh,

    Như lai đóng cửa

    ba nẻo đường dữ.

    (25) Phiền não lửa dữ

    thiêu đốt chúng sinh,

    không ai cứu cho

    không nơi nương tựa.

    Cam lộ mát ngọt

    làm cho sung mãn,

    thân tâm nóng bức

    đều loại trừ cả.

    (26) Do vậy Như lai

    trong vô số kiếp

    tôn kính hiến cúng

    chư vị Như lai,

    kiên trì giới pháp

    bước tới bồ đề,

    mong chứng pháp thân

    thể hiện an lạc.

    (27) Như lai đem cho

    tai mắt chân tay,

    vợ con tôi tớ

    cũng không tiếc lẫn,

    tài sản vàng ngọc

    cả đồ trang sức,

    tùy ai cầu gì

    Như lai cho cả.

    (28) Tu hành khắp cả

    sáu ba la mật,

    viên mãn mười địa

    mà thành chánh giác,

    thế nên được tôn

    bậc Nhất thế trí,

    không một ai khác

    lường nổi Như lai.

    (29) Giả sử đất đai

    đại thiên thế giới

    tất cả mọi nơi

    đều mọc cây cối,

    cây lùm cây rừng

    lúa mè tre lau

    cùng với bao nhiêu

    chủng loại cây khác.

    (30) Cây cối như vậy

    đều đốn chặt hết,

    và đem nghiền nhỏ

    thành vi trần cả ;

    tụ vi trần ấy

    thành khối thành đống,

    cho đến tụ lại

    đầy cả không gian.

    (31) Tất cả quốc độ

    khắp cả mười phương

    có được bao nhiêu

    đại thiên thế giới,

    đất đai trong đó

    cũng nghiền thành bụi,

    số lượng bụi ấy

    hết cách tính toán.

    (31) Giả sử trí tuệ

    của cả chúng sinh

    gom lại thành ra

    trí tuệ một người,

    và người như vậy

    nhiều đến vô số,

    có thể biết được

    số bụi nói trên.

    (33) Nhưng chỉ một thoáng

    tuệ giác Như lai,

    mà những người trên

    chung nhau suy lường

    trong những đời kiếp

    nhiều đến vô số,

    cũng không tính toán

    biết được phần ít.

    Bấy giờ đại hội nghe đức Thế tôn trùng tuyên về cái Không sâu xa, thì có vô lượng chúng sinh thấu triệt bốn đại năm uẩn thể tánh toàn không, sáu căn sáu cảnh chỉ ràng buộc một cách giả dối. Ai cũng nguyện bỏ luân hồi, chính xác tu tập giải thoát, thâm tâm vui mừng, phụng trì đúng lời đức Thế tôn chỉ dạy.
    VÔ CÔNG DỤNG HẠNH - VÔ KHUẤT LIỄU HẠNH - VÔ CẤU PHÁP - VÔ TÁT Ý - VÔ SỞ ĐẮC - VÔ SỞ CẦU - VÔ SỞ TRỤ - VÔ SỞ ÚY

  11. #11

    Mặc định

    Phẩm 10: Mãn Nguyện Vì Không

    Trong đại hội có thiên nữ Như ý bảo quang diệu, nghe đức Thế tôn tuyên thuyết diệu pháp sâu xa, thì hoan hỷ, phấn chấn, từ chỗ ngồi đứng dậy, vắt vạt áo của vai bên phải, gối bên phải quì xuống chấm đất, chắp tay cung kính mà thưa, bạch đức Thế tôn, xin đức Thế tôn dạy cho chúng con cách tu hành về diệu pháp sâu xa. Thiên nữ nói lời chỉnh cú sau đây.

    Đấng Soi thế giới!

    đấng Lưỡng túc tôn!

    đấng Tối thắng nhất!

    con xin hỏi Ngài

    về cách bồ tát

    tu hành chính xác.

    Xin Ngài từ bi

    cho phép con hỏi.

    Đức Thế tôn dạy, thiện nữ thiên, có điều gì nghi hoặc thì tùy ý mà hỏi. Như lai sẽ giảng giải cho. Thiện nữ thiên liền thỉnh vấn đức Thế tôn, rằng

    Các vị bồ tát

    làm sao tu hành

    bồ đề chánh hạnh,

    rời cả sinh tử

    cùng với niết bàn

    mà lợi mình người?

    Đức Thế tôn dạy, thiện nữ thiên, hãy dựa pháp tánh mà hành bồ đề, tu bình đẳng hạnh. Dựa pháp tánh mà hành bồ đề, tu bình đẳng hạnh là thế nào? Là chính nơi ngũ uẩn mà phát hiện pháp tánh. Pháp tánh là ngũ uẩn. Nhưng ngũ uẩn với pháp tánh không thể nói tức, cũng không thể nói rời. Nếu nói pháp tánh tức ngũ uẩn thì thế là đoạn kiến, nếu nói pháp tánh rời ngũ uẩn thì thế là thường kiến. Phải rời cả hai khái niệm, không vướng hai cực đoan, không thể thấy, vượt trên sự thấy, không danh từ, không ấn tượng, như thế mới là nói về pháp tánh.

    Thiện nữ thiên, chính nơi ngũ uẩn mà phát hiện pháp tánh là thế nào? Là xét ngũ uẩn không do yếu tố tương quan mà phát sinh. Nếu nói do yếu tố mà phát sinh, thì đã sinh mà sinh, hay chưa sinh mà sinh? Nếu nói đã sinh mà sinh thì cần gì yếu tố? Nếu nói chưa sinh mà sinh thì sự sinh ấy không thể có được. Chưa sinh là không có, không có danh từ, không có khái niệm, không phải tính toán hay ví dụ mà diễn tả được, vì đâu phải là cái do yếu tố tương quan mà sinh ra. Thiện nữ thiên, hãy nói như tiếng trống: do gỗ, do da, do dùi, do tay, do đủ thứ mới có tiếng phát ra. Tiếng ấy quá khứ đã không có, vị lai sẽ không có, hiện tại cũng không có. Tại sao, vì tiếng ấy không do gỗ mà có, không do da mà có, không do dùi do tay mà có, không có cả trong ba thì gian, thì thế là không sinh. Không sinh thì không diệt. Không diệt thì không đến từ đâu. Không đến từ đâu thì không đi đến đâu. Không đi đến đâu thì phi thường phi đoạn. Phi thường phi đoạn thì phi nhất phi dị. Nếu là nhất thì không khác pháp tánh, mà nếu thế thì phàm phu đáng lẽ thấy được pháp tánh, được niết bàn tối thượng an lạc; nhưng đã không phải như vậy thì biết phi nhất. Nếu là dị thì chư vị Như lai và chư vị Bồ tát thi hành toàn là chấp trước, chưa được giải thoát, không chứng bồ đề; nhưng đối với thánh giả thì cái ngũ uẩn chuyển biến với cái pháp tánh phi chuyển biến đồng là thật tánh, thế nên phi dị. Do vậy mà biết ngũ uẩn phi hữu phi vô, phi do yếu tố phát sinh, phi không do yếu tố phát sinh, và là cái thánh trí biết đến, không phải lĩnh vực của người khác; lại là cái không phải ngôn ngữ diễn tả, không danh từ, không khái niệm, không nhân tố, không duyên tố, không thể ví dụ, đầu cuối vắng lặng, xưa nay tự không. Như thế đó gọi là chính nơi ngũ uẩn mà phát hiện pháp tánh. Thiện nữ thiên, thiện nam hay thiện nữ nào muốn cầu vô thượng bồ đề thì phải phi chân phi tục, vượt quá suy lường, phàm cảnh thánh cảnh phi nhất phi dị, [nói tóm], không bỏ tục, không rời chân, thì đó là dựa pháp tánh mà hành bồ đề.

    Đức Thế tôn dạy như vậy rồi, thiện nữ thiên phấn chấn hoan hỷ, từ chỗ ngồi đứng dậy, vắt vạt áo của vai bên phải, gối bên phải quì xuống chấm đất, chắp tay cung kính, nhất tâm đảnh lễ, mà thưa, bạch đức Thế tôn, đúng như lời Ngài đã huấn dụ về bồ đề hạnh, con nguyện xin tu học.

    Bấy giờ đại phạn thiên vương chủ của thế giới hệ Sách ha, ở trong đại hội, hỏi thiện nữ thiên Như ý bảo quang diệu, rằng bồ đề hạnh như vậy thật khó tu tập, thiện nữ làm sao tự tại được với bồ đề hạnh ấy? Thiện nữ thiên nói, đại phạn vương, như lời Thế tôn huấn dụ thì thật sâu xa, chúng sinh khó mà nhận thức, vì đó là lĩnh vực của thánh giả, nhiệm mầu, khó biết. Nhưng, đối với diệu pháp ấy tôi sống được yên vui trong đó, nếu lời này mà thật thì ước nguyện toàn thể chúng sinh trong cái thời kỳ đầy cả năm thứ dơ bẩn này đều thành màu hoàng kim, đủ ba mươi hai tướng tốt, phi nam phi nữ, ngồi tòa sen ngọc, hưởng vô lượng yên vui, thiên hoa tự mưa xuống, thiên nhạc tự tấu lên, mọi cách hiến cúng đầy đủ tất cả. Thiện nữ thiên nói rồi, tất cả chúng sinh trong thời kỳ đầy cả năm thứ vẩn đục này đều thành màu hoàng kim, đủ tướng đại trượng phu, phi nam phi nữ, ngồi tòa sen ngọc, hưởng vô lượng yên vui y như Tha hóa tự tại thiên cung, không mọi đường dữ, cây ngọc có hàng có lối, hoa sen bảy chất liệu quí đầy cả thế giới, lại mưa xuống thiên hoa bảy chất liệu quý rất đẹp, thiên nhạc tấu lên. Và thiện nữ thiên Như ý bảo quang diệu thì biến thể nữ thân thành thân đại phạn vương. Bấy giờ đại phạn vương hỏi thiện nữ thiên Như ý bảo quang diệu, ngài hành bồ đề hạnh như thế nào? Thiện nữ thiên nói, đại phạn vương, như trăng dưới nước hành bồ đề hạnh thì tôi cũng hành bồ đề hạnh, như chiêm bao hành bồ đề hạnh thì tôi cũng hành bồ đề hạnh, như sóng nắng hành bồ đề hạnh thì tôi cũng hành bồ đề hạnh, như tiếng vang hành bồ đề hạnh thì tôi cũng hành bồ đề hạnh. Đại phạn vương nghe nói như vậy thì thưa rằng, kính bạch bồ tát, ngài dựa vào ý nghĩa nào mà nói như vậy? Thiện nữ thiên trả lời, đại phạn vương, không một pháp nào là thực tại, toàn do yếu tố tương quan mà thành. Đại phạn vương nói, nói như ngài thì phàm phu lẽ đáng được vô thượng bồ đề cả! Thiện nữ thiên nói, ngài nói như vậy là với ý gì? [Ngài nên biết, phàm phu thì cho] người ngu khác, người trí khác, bồ đề khác, phi bồ đề khác, giải thoát khác, phi giải thoát khác; nhưng, đại phạn vương, [thánh giả thì thấy] các pháp như vậy bình đẳng không khác, biết pháp tánh chân như phi nhất phi dị, cũng không có cái trung tính để mà chấp trước, bất tăng bất giảm. Đại phạn vương, như nhà ảo thuật và đồ đệ của mình, rất rành ảo thuật, đến chỗ ngã tư, dùng những vật liệu cát đất cỏ cây vân vân, gom lại một chỗ mà làm ảo thuật. Làm cho người ta thấy những voi, những ngựa, những xe, vân vân, thấy đống bảy loại quí báu, thấy kho lẫm tràn đầy. Rồi kẻ khờ khạo không biết suy xét, không hiểu ảo thuật, nên thấy hay nghe gì cũng cho là thật, voi thật ngựa thật vân vân, và chỉ thế là thật, ngoài ra là dối cả, sau đó không còn suy xét gì nữa. Còn người hiểu biết thì trái lại, biết cái gốc ảo thuật, nên thấy hay nghe gì cũng nghĩ, những thứ ta thấy, thấy voi thấy ngựa vân vân, toàn là giả cả, chỉ do ảo thuật mê hoặc mắt người, vọng cho là voi, là lẫm, nhưng chỉ có tên, không có thật, nên cái ta thấy nghe không nên chấp là thật, sau đó càng xét biết là dối trá. Do vậy, trí giả thì biết các pháp không thật, chỉ do thế nhân thấy gì nghe gì thì nói ra như thế, chứ xét cho kyՠthì không phải như thế. Và như thế thì cũng do nói giả mà xét ra nghĩa thật. Đại phạn vương, chúng sinh chưa có mắt tuệ của các vị thánh giả, chưa biết chân như của các pháp là không thể nói, nên thấy hay nghe cái pháp hữu vi chuyển biến với cái pháp vô vi phi chuyển biến thì tư duy y theo thấy nghe và chấp cho là thật; trong chân đế, họ không thể thấu hiểu chân như các pháp là không thể nói. Còn các vị thánh giả thấy hay nghe cái pháp hữu vi chuyển biến với cái pháp vô vi phi chuyển biến, thì tùy trí lực mà không chấp là thật có, thấu hiểu tất cả không có gì là hữu vi chuyển biến, không có gì là vô vi phi chuyển biến, chỉ vọng tưởng là chuyển biến phi chuyển biến, chỉ có tên không có thật. Thế rồi các vị thánh giả ấy tùy tục đế mà nói cho người khác biết sự thật là như vậy. Đại phạn vương, các vị thánh giả sử dụng sự thấy biết của bậc thánh, thấu hiểu chân như là không thể nói, chuyển biến phi chuyển biến cũng như vậy, nhưng vì làm cho người khác cũng biết như vậy nên nói ra bao nhiêu dạng thức của danh ngôn tục đế. Bấy giờ đại phạn vương lại hỏi bồ tát Như ý bảo quang diệu, rằng có bao nhiêu chúng sinh hiểu được cái pháp sâu xa như thế này? Bồ tát nói, đại phạn vương, có tâm vương và tâm sở của những người được ảo thuật tạo ra biết được cái pháp sâu xa này. Đại phạn vương nói, người ảo thuật thì không thật có, vậy tâm vương tâm sở có từ đâu? Bồ tát nói, [lời tôi nói có nghĩa] nếu biết pháp tánh phi hữu phi vô, thì người ấy biết được nghĩa lý sâu xa này.

    Đại phạn vương thưa đức Thế tôn, bạch Ngài, vị bồ tát Như ý bảo quang diệu này thật bất khả tư nghị, thông suốt đến như vậy đối với nghĩa lý cực kỳ sâu xa. Đức Thế tôn dạy, đúng như vậy, đại phạn vương, đúng như ông nói. Thiện nữ thiên Như ý bảo quang diệu đã từ lâu giáo huấn cho các người phát tâm tu học vô sinh pháp nhẫn. Đại phạn vương cùng với phạn chúng, liền đứng dậy khỏi chỗ họ ngồi, vắt vạt áo của vai bên phải, gối bên phải quì xuống chấm đất, chắp tay cung kính, lạy ngang chân bồ tát Như ý bảo quang diệu mà nói như vầy, thật là hiếm có, ngày nay chúng tôi hạnh ngộ đại sĩ, được nghe pháp nghĩa đại sĩ nói. Đức Thế tôn bảo đại phạn vương, vị thiện nữ thiên Như ý bảo quang diệu này, trong thì vị lai sẽ thành Phật đà, danh hiệu là Bảo diệm cát tường tạng, bậc Đến như chư Phật, bậc Thích ứng hiến cúng, bậc Biết đúng và khắp, bậc Hoàn hảo sự sáng, bậc Khéo qua niết bàn, bậc Lý giải vũ trụ, bậc Không ai trên nữa, bậc Thuần hóa mọi người, bậc Thầy cả trời người, bậc Tuệ giác hoàn toàn, bậc Tôn cao nhất đời.

    Khi đức Thế tôn tuyên thuyết pháp thoại này thì có ba ngàn ức bồ tát không còn thoái chuyển vô thượng bồ đề, tám ngàn ức thiên tử và vô số quốc vương cùng thần dân đều xa bụi bặm, rời dơ bẩn, được sự trong sáng của mắt pháp.

    Bấy giờ trong đại hội có năm mươi ức Bí sô hành bồ tát hạnh mà muốn thoái chuyển bồ đề tâm, nhưng khi nghe bồ tát Như ý bảo quang diệu thuyết pháp như trên thì ai cũng được sự kiên định bất khả tư nghị, thỏa mãn ước nguyện tối thượng, phát lại bồ đề tâm, và cởi pháp y mà hiến lên bồ tát, phát lại cái chí thắng tiến tối thượng, và nguyện rằng bao nhiêu thiện căn của chúng tôi đều được không còn thoái chuyển, hồi hướng về vô thượng bồ đề. Đức Thế tôn nói với đại phạn vương, các vị Bí sô này do công đức này mà tu hành đúng như huấn dụ, qua chín mươi đại kiếp thì sẽ được chứng ngộ, thoát ly sinh tử. Đức Thế tôn liền thọ ký cho, rằng chư vị Bí sô, qua ba mươi vô số kiếp, chư vị sẽ được thành Phật đà, với thời kỳ tên Nan thắng quang vương, quốc độ tên Vô cấu quang. Chư vị đồng thời chứng đắc vô thượng bồ đề, đồng một danh hiệu Nguyện trang nghiêm gián sức vương, đủ mười đức hiệu.

    Đại phạn vương, bản kinh nhiệm mầu Ánh sáng hoàng kim này ai chính xác nghe nhớ thì có uy lực rất lớn. Giả sử có ai tu hành sáu ba la mật trong trăm ngàn đại kiếp mà không có [sự nhận thức về Không làm] phương tiện, mặt khác, nếu có thiện nam hay thiện nữ nào sao chép kinh Ánh sáng hoàng kim này, cứ mỗi nửa tháng đọc tụng chuyên chú, thì cái khối công đức này, công đức trước không bằng một phần trăm, đến nỗi toán số hay ví dụ cũng không đối chiếu được. Đại phạn vương, do vậy mà Như lai khuyến khích các người tu học, chánh niệm, thọ trì, tuyên thuyết phong phú. Tại sao, vì xưa kia, khi Như lai đi trên đường đi bồ tát thì, như dũng sĩ xung trận, Như lai không tiếc tính mạng mà lưu thông bản kinh vua chúa và nhiệm mầu này, tiếp nhận, ghi nhớ, nghiên cứu, tụng thuộc, giải thích cho người. Đại phạn vương, luân vương còn thì thất bảo còn, luân vương mất thì thất bảo cũng tự nhiên mất theo. Cũng y như vậy, Đại phạn vương, kinh vua Ánh sáng hoàng kim này nếu còn thì pháp bảo tối thượng còn cả, nếu không còn thì pháp bảo cũng ẩn mất hết. Do vậy, đối với kinh vua này, các người phải chuyên tâm mà lắng nghe, mà ghi nhớ, nghiên cứu, tụng thuộc, giải thích phong phú cho bao người khác, khuyến khích họ cũng sao chép và tu hành bằng sự tinh tiến ba la mật, không tiếc tính mạng, không nài mệt nhọc. Đó là công đức siêu việt trong các công đức. Là đệ tử của Như lai thì các người phải siêng năng tu học như vậy. Đại phạn vương với vô số phạn chúng, Đế thích cùng bốn vị Thiên vương với bộ chúng Dược xoa, tất cả đều từ chỗ ngồi đứng dậy, vắt vạt áo của vai bên phải, gối bên phải quì xuống chấm đất, chắp tay cung kính mà thưa, bạch đức Thế tôn, chúng con cùng nhau nguyện giữ gìn và quảng bá kinh Ánh sáng hoàng kim này, nguyện giữ gìn cho các vị pháp sư giảng nói kinh này. Có tai nạn gì chúng con cũng trừ khử, làm cho có đủ mọi sự cát tường, sắc tướng và sức lực sung túc, hùng biện vô ngại, cơ thể và tâm trí đều thư thái cả. Và cả thính giả nữa cũng yên vui hết thảy. Quốc gia họ ở nếu bị đói khát, giặc giã, kẻ thù, quỉ thần, quấy rối và tác hại thì chư thiên chúng con sẽ hộ trì cho. Dân chúng mà yên ổn, sung túc, không oan khuất, không tai họa, là do sức của chư thiên chúng con. Ai hiến cúng kinh này thì chúng con tôn kính hiến cúng y như đối với đức Thế tôn, không khác gì cả. Đức Thế tôn bảo đại phạn vương, phạn chúng, cho đến bốn vị Thiên vương, cùng bộ chúng Dược xoa, lành thay, các người đã được nghe diệu pháp sâu xa, đối với kinh vua của diệu pháp ấy lại phát tâm hộ trì, hộ trì những ai thọ trì kinh ấy, thì các người đã đạt được cái phước thù thắng và vô biên, mau chóng thành tựu vô thượng bồ đề. Đại phạn vương, và mọi người đồng đẳng, nghe những lời đức Thế tôn huấn dụ thì hoan hỷ, cung kính mà tiếp nhận.
    VÔ CÔNG DỤNG HẠNH - VÔ KHUẤT LIỄU HẠNH - VÔ CẤU PHÁP - VÔ TÁT Ý - VÔ SỞ ĐẮC - VÔ SỞ CẦU - VÔ SỞ TRỤ - VÔ SỞ ÚY

  12. #12

    Mặc định

    Phẩm 11: Thiên Vương Quan Sát

    Vào lúc bấy giờ, thiên vương Đa văn, thiên vương Trì quốc, thiên vương Tăng trưởng, thiên vương Quảng mục, bốn vị cùng từ chỗ ngồi đứng dậy, vắt vạt áo của vai bên phải, gối bên phải quì xuống chấm đất, chắp tay hướng về đức Thế tôn, đảnh lễ ngang chân của Ngài, thưa rằng, bạch đức Thế tôn, bản kinh Ánh sáng hoàng kim này chư vị Thế tôn thường quan tâm, chư vị Bồ tát thường tôn kính, các bộ thiên long thường hiến cúng, tất cả chư thiên thường vui mừng, tất cả hộ thế thường ca tụng. Kinh này chư vị Thanh văn và chư vị Độc giác cùng nhau thọ trì. Kinh này có năng lực chiếu sáng cung điện chư thiên, có năng lực ban cho chúng sinh sự yên vui thượng thặng, có năng lực làm ngưng sự khổ sở trong các đường dữ, có năng lực loại trừ mọi sự sợ hãi, giải tỏa mọi sự thù địch, làm no những lúc đói khát, làm lành những bịnh truyền nhiễm, mọi tai biến với hàng trăm hàng ngàn khổ não đều tiêu tan cả. Bạch đức Thế tôn, kinh Ánh sáng hoàng kim năng lực làm được những lợi lạc như vậy, lợi ích cho chính chúng con. Kính xin đức Thế tôn, trong đại hội này, tuyên thuyết phong phú thêm nữa cho chúng con. Bốn thiên vương chúng con, cùng tùy thuộc của mình, được nghe pháp vị cam lộ tối thượng như thế này, thì khí lực sung mãn, uy quang tăng thêm, tinh tiến sẽ dũng mãnh hơn, thần lực sẽ phát triển hơn.

    Bạch đức Thế tôn, bốn thiên vương chúng con làm theo chánh pháp, nói theo chánh pháp, thường đem chánh pháp mà phục vụ thế giới. Chúng con lại làm cho tám bộ thiên long, cùng các vị quốc vương, cũng thường đem chánh pháp mà phục vụ thế giới, ngăn chận và hủy diệt những điều ác. Bao nhiêu quỉ thần không có từ tâm, hấp tinh khí của người, thì chúng con làm họ phải đi thật xa. Bạch đức Thế tôn, bốn thiên vương chúng con, cùng đại tướng của hai mươi tám bộ chúng Dược xoa, với vô số trăm ngàn Dược xoa tùy thuộc, dùng thiên nhãn trong suốt hơn thị lực của nhân loại mà quan sát và hộ trì cho đại lục Thiệm bộ này. Do vậy mà, bạch đức Thế tôn, chúng con được gọi là những người hộ vệ thế giới.

    Trong đại lục Thiệm bộ này, nếu có quốc vương nào quốc gia bị giặc thù xâm phạm luôn, quốc dân bị đói khát và tật dịch (54) hoành hành, bị hàng trăm hàng ngàn tai ách, thì, bạch đức Thế tôn, chúng con [vì họ mà] cung kính hiến cúng kinh Ánh sáng hoàng kim. Và nếu có vị pháp sư Bí sô nào thọ trì đọc tụng kinh này thì chúng con cùng đến mà thức tỉnh, khuyến thỉnh vị ấy; vị ấy, do thần lực của chúng con thức tỉnh khuyến thỉnh, nên đến quốc gia nói trên, tuyên thuyết rộng rãi bản kinh nhiệm mầu Ánh sáng hoàng kim. Do thần lực của kinh này mà hàng trăm hàng ngàn những sự tai ách đều bị loại trừ. Bạch đức Thế tôn, các vị quốc vương, khi có vị pháp sư Bí sô thọ trì kinh này đi đến quốc gia của họ, thì họ phải biết kinh này cũng đến quốc gia của họ. Do vậy, bạch đức Thế tôn, các vị quốc vương ấy hãy đến chỗ vị pháp sư mà lắng nghe vị ấy diễn giảng kinh này. Nghe rồi hoan hỷ, cung kính hiến cúng vị pháp sư, thâm tâm hộ trì cho vị ấy khỏi lo lắng để tuyên thuyết kinh này, lợi ích tất cả. Bạch đức Thế tôn, chính vì kinh này mà bốn thiên vương chúng con cùng nhau nhất tâm hộ trì vị quốc vương kia, cùng quốc dân của ông, làm cho xa rời tai họa, thường thường yên ổn. Bạch đức Thế tôn, nếu có vị Bí sô, Bí sô ni, ô ba sách ca, ô ba tư ca nào thọ trì kinh này, vị quốc vương kia nên hiến cúng, cung cấp những thứ cần dùng, không để thiếu thốn, thì bốn thiên vương chúng con làm cho vị quốc vương kia, và quốc dân của ông, ai cũng yên ổn, tách xa tai họa. Bạch đức Thế tôn, có ai thọ trì đọc tụng kinh này mà vị quốc vương cung kính, hiến cúng, tôn trọng, tán dương, thì chúng con làm cho vị quốc vương ấy được cung kính tôn trọng nhất trong các vị quốc vương, các vị quốc vương ai cũng tán dương ca tụng.

    Đại hội nghe nói như vậy, ai cũng hoan hỷ, tiếp nhận và ghi nhớ.
    VÔ CÔNG DỤNG HẠNH - VÔ KHUẤT LIỄU HẠNH - VÔ CẤU PHÁP - VÔ TÁT Ý - VÔ SỞ ĐẮC - VÔ SỞ CẦU - VÔ SỞ TRỤ - VÔ SỞ ÚY

  13. #13

    Mặc định

    Phẩm 12: Thiên Vương Hộ Quốc

    Vào lúc bấy giờ, đức Thế tôn nghe bốn vị thiên vương cung kính hiến cúng kinh Ánh sáng hoàng kim và hộ trì cho người thọ trì kinh ấy, thì tán dương rằng lành thay, bốn thiên vương, các người đã ở nơi vô số chư vị Như lai quá khứ cung kính hiến cúng tôn trọng tán dương, gieo trồng thiện căn, làm theo chánh pháp, nói theo chánh pháp, đem chánh pháp phục vụ thế giới. Đối với chúng sinh, các người trường kỳ nghĩ cách lợi ích, khởi tâm đại bi, nguyện đem yên vui lại cho họ. Chính vì lý do này mà làm các người hiện được hưởng thụ quả báo thù thắng. Nếu có quốc vương nào cung kính hiến cúng kinh Ánh sáng hoàng kim, thì các người phải siêng năng hộ trì cho [ông và quốc dân của ông] được yên ổn. Bốn thiên vương các người, và vô số dược xoa tùy thuộc, hộ trì kinh này, thì thế là hộ trì chánh pháp của chư vị Như lai quá khứ hiện tại vị lai, nên các người, với chư thiên và dược xoa, chiến đấu với tô la thì thường đắc thắng. Các người hộ trì kinh này thì do thần lực của kinh này mà loại trừ được mọi sự khổ não, giặc thù, đói khát, tật dịch. Do vậy, nếu thấy bốn chúng có ai thọ trì kinh vua này thì các người cũng nên siêng năng chung sức hộ trì, loại trừ suy tổn và đem lại yên vui cho họ.

    Bốn vị thiên vương, lúc ấy, từ chỗ ngồi đứng dậy, vắt vạt áo của vai bên phải, gối bên phải quì xuống chấm đất, chắp tay cung kính mà thưa, bạch đức Thế tôn, trong thì vị lai, nơi đất nước, thành thị, làng xóm, núi rừng, đồng nội, chỗ nào và lúc nào bản kinh vua Ánh sáng hoàng kim này lưu hành đến, thì quốc vương chỗ ấy và lúc ấy nên hết lòng lắng nghe, tán dương, hiến cúng, lại cung phụng cho những người trong bốn chúng thọ trì kinh này, thâm tâm hộ trì cho họ tách rời suy não. Vì lý do này, chúng con hộ trì cho quốc vương ấy, và cho quốc dân của ông, ai cũng yên ổn, rời xa lo buồn, thọ lượng tăng thêm, uy đức toàn hảo. Bạch đức Thế tôn, nếu quốc vương ấy thấy những người trong bốn chúng thọ trì kinh này mà cung kính hộ vệ như cha như mẹ, cung cấp những thứ nhu cầu, thì bốn thiên vương chúng con thường hộ vệ cho, làm cho ai cũng tôn kính. Chúng con và vô số các thần dược xoa, kinh vua này ở đâu cũng ẩn mình hộ vệ, không để bị cản trở. Chúng con cũng hộ vệ cho những thính giả, và quốc vương lắng nghe kinh này, loại trừ suy tổn và đem lại yên ổn cho họ, giặc thù từ xứ khác cũng được làm cho thoái tán. Thế nên nếu có quốc vương nào khi lắng nghe kinh này mà lân bang thù địch, động binh xâm lăng phá hoại thì, bạch đức Thế tôn, do thần lực của kinh này mà chúng con sẽ cùng vô số dược xoa tùy thuộc, ai cũng ẩn mình hỗ trợ, làm cho lân bang thù địch kia phải tự đầu hàng, không dám bước đến cương giới của quốc gia ấy, có đâu dám sử dụng vũ khí mà sát phạt (55) .

    Đức Thế tôn dạy bốn vị thiên vương rằng tốt lắm, các người có thể hộ vệ như vậy đối với kinh này. Vô số kiếp quá khứ, Như lai đã tu đủ loại khổ hạnh, được vô thượng bồ đề, chứng nhất thế chủng trí, nên ngày nay mới tuyên thuyết kinh này. Nếu có quốc vương nào thọ trì kinh này, cung kính hiến cúng, thì [uy lực kinh này] sẽ làm cho quốc vương ấy hết suy tổn, được yên ổn, lại làm cho tất cả đất nước của quốc vương ấy đến nỗi giặc thù cũng phải thoái tán. Uy lực kinh này cũng làm cho tất cả quốc vương trong đại lục Thiệm bộ không có suy tổn, chinh chiến. Mà, các người nên biết, đại lục Thiệm bộ có tám mươi bốn ngàn quốc gia và quốc vương, quốc vương nào cũng thích thú, tự do, tài sản sung túc, hưởng thụ đầy đủ, không xâm lăng chiếm đoạt lẫn nhau. Ai cũng tùy phước nhân đời trước mà thụ hưởng phước quả đời này, không ai nghĩ xấu, ham chiếm nước khác. Ai cũng giảm thiểu ham muốn, muốn lợi kẻ khác, không gây cái khổ chinh chiến, đày ải. Dân chúng của các quốc vương ấy thì thương nhau, trên dưới hòa thuận như nước với sữa, mến trọng lẫn nhau, hoan hỷ thư nhàn, hiền lành khiêm tốn, tăng tiến thiện căn. Do vậy mà đại lục Thiệm bộ này yên vui, sung túc, dân chúng đông đảo, đất đai màu mỡ, lạnh nóng điều hòa, thời tiết thích hợp, nhật nguyệt tinh tú vận hành bình thường, gió mưa đúng lúc, không có tai ương, tài sản phong phú, tâm tính hào phóng, thường hành huệ thí, đủ mười thiện nghiệp, và chết thì đa số sinh chư thiên, thiên chúng tăng lên. Bốn thiên vương, trong thì vị lai, có quốc vương nào lắng nghe kinh này, cung kính hiến cúng và thọ trì kinh này, thì được bốn chúng ca tụng, lại lợi ích cho chính các người và tùy thuộc của các người là vô số dược xoa. Vì vậy mà các quốc vương thường nên lắng nghe bản kinh vua này. Chính cái nước chánh pháp cái vị cam lộ này tăng thêm sức mạnh và tư thế cho thân tâm các người, làm cho các người tinh tiến mạnh mẽ, đầy đủ phước đức uy quang. Các quốc vương ấy nếu hết lòng lắng nghe kinh này thì thế là đã đem sự hiến cúng lớn lao và hiếm có mà hiến cúng cho ta, Thích ca như lai. Hiến cúng Như lai là hiến cúng vô số chư vị Như lai trong quá khứ hiện tại vị lai. Hiến cúng tam thế Như lai thì được cái khối công đức bất khả tư nghị. Vì lý do ấy, các người nên hộ trì [cho các quốc vương ấy], cho hoàng gia của họ, cho thần trấn hoàng cung, ai cũng khỏi suy tổn, được an lạc, thiện căn khó lường. Quốc dân của các quốc vương ấy cũng hưởng thụ đủ loại lạc thú ngũ dục, mọi sự xấu ác tiêu tan tất cả.

    Bốn thiên vương lại thưa, bạch đức Thế tôn, trong thì vị lại, có quốc vương nào ưa thích lắng nghe kinh vua Ánh sáng hoàng kim để cầu mong bản thân và hoàng gia được sự yên vui bậc nhất; để làm cho ngôi vua hiện tại được thịnh đạt; để thu hoạch cái khối phước đức vô lượng; để làm cho quốc dân và quốc gia của mình không bị thù địch, không lo buồn, không tai họa, thì, bạch đức Thế tôn, quốc vương ấy không nên phóng túng, nghĩ tưởng mông lung, mà phải cung kính, chân thành, thiết tha, muốn được lắng nghe tiếp nhận bản kinh vua tối thượng này. Muốn vậy thì trước hết quốc vương ấy phải trang hoàng một cung điện nào trong hoàng cung mà dễ thấy nhất và ông quí nhất, bằng cách đem nước thơm rưới đất, rải những bông hoa danh tiếng, đặt để pháp tòa sư tử đẹp nhất, trang khảm bằng ngọc quí, treo bảo cái tràng phan lên trên, rồi đốt hương liệu vô giá, tấu lên các loại âm nhạc. Bản thân quốc vương thì tắm rửa sạch sẽ, xoa hương thơm vào mình, mặc áo sạch và mới, đeo những chuỗi ngọc, nhưng ngồi trên cái ghế thấp nhỏ, không tự tôn, bỏ ngôi cao, rời ngạo mạn, đoan tâm chính niệm để chờ lắng nghe kinh vua này. Lại nữa, đối với vị pháp sư sẽ đến thì nghĩ tưởng là bậc đại sư; đối với thân quyến thì sinh từ tâm, nhìn nhau vui vẻ, mặt hiền hòa, nói dịu ngọt, đối với bản thân thì tràn ngập một nỗi vui mừng lớn lao, nghĩ rằng tôi được lợi ích vĩ đại, ấy là được hiến cúng long trọng đối với bản kinh vua chúa. Quốc vương chuẩn bị như vậy rồi, thấy vị pháp sư đến thì lòng thành kính, khao khát, ngưỡng mộ.

    Đức Thế tôn dạy bốn thiên vương, quốc vương ấy không nên không đi rước vị pháp sư. Quốc vương ấy phải mặc đồ sạch sẽ, trang sức bằng những chuỗi ngọc, đích thân cầm lọng dù màu trắng và hương hoa, nghiêm chỉnh quân cách, dàn nhiều nhạc cụ, đi bộ mà ra khỏi cửa hoàng thành đón rước vị pháp sư, vận dụng tâm tưởng, hết lòng tôn kính mà làm cái việc cầu chúc cát tường. Bốn thiên vương, tại sao quốc vương phải đích thân làm việc tôn kính hiến cúng như vậy? Vì quốc vương lúc ấy cất chân lên, đặt chân xuống, mỗi bước đã là tôn kính hiến cúng vô lượng chư vị Như lai, đã là vượt qua ngần ấy nỗi khổ sinh tử, đã là tương lai được làm ngần ấy ngôi vị luân vương. Lại tùy mỗi bước mà hiện tại phước đức tăng trưởng, vương vị tự tại, cảm ứng khó lường, quần chúng kính trọng; mà tương lai vô số kiếp được cung điện thất bảo trong nhân loại và trên chư thiên, sinh ra ở đâu cũng làm vua chúa, thọ lượng tăng thêm, nói năng thông suốt, người trời tin chịu, không e sợ gì, được tiếng khen lớn, ai cũng ngưỡng mộ, ở trong nhân thiên mà hưởng thụ hạnh phúc tuyệt diệu, được đại thế lực, có đại oai đức, thân tướng kỳ vĩ, uy nghiêm tột bậc, gặp được các đấng Nhân thiên sư, gặp được các bậc Thiêển tri thức, hoàn hảo cái khối phước đức vô lượng. Bốn thiên vương nên biết, quốc vương ấy thấy những lợi ích như vậy nên phải đích thân đi rước pháp sư từ một du thiện na cho đến hàng trăm hàng ngàn du thiện na. Hãy nghĩ tưởng vị pháp sư ấy là Như lai. Rước về hoàng thành rồi, nghĩ rằng thế là đức Thích ca thế tôn vào trong hoàng cung của tôi, nhận cho sự hiến cúng của tôi, nói cho tôi nghe về diệu pháp. Rằng nghe diệu pháp rồi tôi không còn thoái chuyển vô thượng bồ đề, được gặp vô lượng chư vị Thế tôn. Rằng ngày nay tôi đã tấu những nhạc cụ thượng thặng, và đem những cúng phẩm thù thắng, hiến lên tam thế Thế tôn. Rằng ngày nay tôi đã bạt nhổ vĩnh viễn cái khổ trong thế giới Diêm vương, đã gieo trồng hạt giống thiện căn của Phạn vương, Đế thích, Luân vương. Rằng việc tôi làm ngày nay sẽ làm cho vô số chúng sinh, thoát sinh tử được niết bàn, tích tụ cái khối phước đức bất khả tư nghị; làm cho thân quyến và con dân của tôi yên ổn; làm cho đất nước của tôi thanh bình, không tai họa, kẻ ác và giặc thù không thể quấy phá, xâm lược, rời xa mọi nỗi lo buồn. Bốn thiên vương, quốc vương ấy nên trân trọng như vậy đối với diệu pháp, lại nên hiến cúng cung kính tôn trọng tán dương đối với bốn bộ đệ tử Như lai. Rồi trước hết đem cái thắng phước của thiện căn này mà hồi hướng cho chính các người, và tùy thuộc của các người. Thì quốc vương ấy có cái phước đức rất lớn làm yếu tố, nên hiện tại được đại tự tại, tăng thêm uy quang, sự cát tường và tướng tốt đẹp đều trang nghiêm, và đối với mọi loại giặc thù ông có năng lực đem diệu pháp mà chiến thắng.

    Lúc ấy bốn thiên vương lại thưa, bạch đức Thế tôn, nếu quốc vương nào tôn kính diệu pháp, muốn nghe kinh vua được như vậy, lại tôn kính hiến cúng bốn bộ thọ trì kinh vua, [trong đó có vị pháp sư], và muốn làm cho chúng con hoan hỷ, thì gần một bên pháp tòa, hãy rưới nước thơm, rải bông hoa, đặt ghế bàn cho bốn thiên vương chúng con. Chúng con sẽ nghe pháp chung với quốc vương. Quốc vương được thiện căn thì cũng đem một phần cái phước của thiện căn ấy hồi hướng cho chúng con. Bạch đức Thế tôn, khi quốc vương thỉnh mời vị pháp sư bước lên pháp tòa, thì cũng có một phần vì chúng con mà đốt các danh hương hiến cúng kinh vua này. Bạch đức Thế tôn, khói hương ấy, trong khoảnh khắc, bay lên không gian, bay đến cung điện của chúng con, và biến thành hương cái ở trong không gian. Chư thiên chúng con liền nghe được hơi thơm của danh hương, và thấy khói hương có ánh sáng màu hoàng kim, chiếu rực cung điện của chúng con, chiếu đến cung điện của Phạn vương, của Đế thích, của Đại biện tài thiên, của Đại cát tường thiên, của Kiên lao địa thần, của Chánh liễu tri đại tướng, của chư thần hai mươi tám bộ dược xoa, của Đại tự tại thiên, của Kim cang mật chủ, của Bảo hiền đại tướng, của quỉ mẫu Ha lị để và năm trăm quỉ tử, của long vương hồ Vô nhiệt não, của long vương Đại dương. Bạch đức Thế tôn, chư thiên chư thần như vậy, nơi cung điện của mình, ai cũng thấy khói hương ấy trong khoảnh khắc biến thành hương cái, nghe hơi thơm của khói hương và thấy ánh sáng của khói hương đến khắp tất cả cung điện của chư thiên chư thần.

    Đức Thế tôn bảo bốn thiên vương, khói hương ấy, với hơi thơm và ánh sáng, không phải chỉ bay đến, biến thành hương vân hương cái và phóng ánh sáng lớn ở những cung điện [mà các người thấy được]. Khói hương do chính tay quốc vương tự bưng lò hương mà đốt lên để hiến cúng kinh vua ấy, trong khoảnh khắc, còn bay đến khắp đại thiên thế giới này với trăm ức nhật nguyệt, trăm ức núi Diệu cao, trăm ức bốn đại lục. Tại cung điện của tất cả tám bộ trong đại thiên thế giới này, khói hương ấy tràn đầy không gian, biến thành hương vân và hương cái, ánh sáng màu hoàng kim của vân cái này chiếu khắp cung điện chư thiên [và chư thần]. Tất cả hương vân và hương cái trong đại thiên thế giới này toàn là do cái lực của uy thần kinh vua Ánh sáng hoàng kim. Nhưng không phải khói hương do chính tay quốc vương bưng lò đốt lên hiến cúng kinh vua này chỉ bay đến khắp đại thiên thế giới này, mà, trong khoảnh khắc, cũng bay đến khắp vô lượng quốc độ của chư vị Như lai. Ở trên các Ngài, trong không gian, khói hương cũng [kết thành hương vân và] biến thành hương cái, chiếu ra ánh sáng hoàng kim. Đức Như lai nào cũng nghe hơi thơm của khói hương nhiệm mầu ấy, cũng nhìn thấy hương vân hương cái và ánh sáng hoàng kim ấy hiện ra khắp nơi vô lượng chư vị Như lai, thì chư vị Như lai cùng quan sát, và khác miệng cùng tiếng mà tán dương vị pháp sư, rằng lành thay bậc đại trượng phu, ông có năng lực quảng bá bản kinh sâu xa mầu nhiệm! Như thế là ông đã thành tựu cái khối phước đức bất khả tư nghị. Ai lắng nghe ông giảng kinh này thì cái lượng công đức có được thật quá nhiều, huống chi sao chép, tiếp nhận, ghi nhớ, nghiên cứu, tụng thuộc, diễn nói cho người, làm đúng kinh dạy. Tại sao, vì, thiện nam tử, ai nghe bản kinh Ánh sáng hoàng kim này thì không còn thoái chuyển nữa đối với vô thượng bồ đề. Chư vị Như lai trong vô lượng quốc độ còn khác miệng cùng tiếng, ngồi ngay trên pháp tòa mà tán dương vị pháp sư, rằng lành thay thiện nam tử, trong đời sau, ông do tinh tiến lực mà tu được vô số khổ hạnh, đầy đủ hai loại tư lương phước đức và trí tuệ, siêu việt trên hiền thánh, vượt ra quá ba cõi, làm bậc tối tôn tối thắng, sẽ ngồi dưới bồ đề thọ vương một cách trang nghiêm thù thắng, năng lực cứu được chúng sinh có liên hệ với mình (56) ở trong đại thiên thế giới, khéo léo thắng được ma quân hình nghi đáng sợ, thực hiện cái tuệ giác biết các pháp một cách hơn hết, trong sáng, rất sâu, không gì trên nữa, rất chính xác và cùng khắp. Thiện nam tử, ông sẽ ngồi trên kim cang tòa, chuyển cái pháp luân vô thượng, được chư vị Như lai tán dương, đủ cả mười hai hành tướng mầu nhiệm, cực kỳ sâu xa. Ông gióng trống pháp vô thượng rất lớn, thổi loa pháp vô thượng rất mầu, dựng cờ pháp vô thượng rất cao, đốt đuốc pháp vô thượng rất sáng, mưa nước pháp vô thượng rất ngọt, cắt đứt vô lượng phiền não kết thắt, làm cho vô lượng chúng sinh vượt qua biển cả đáng sợ mà không bến bờ, chấm dứt sự luân hồi bất tận của sinh tử, gặp được vô lượng chư vị Như lai.

    Bốn thiên vương lại thưa, bạch đức Thế tôn, kinh Ánh sáng hoàng kim này, trong hiện tại vị lai, thành tựu được vô lượng công đức như vậy. Thế nên quốc vương nào được nghe bản kinh mầu nhiệm này là vì đã gieo trồng thiện căn nơi vô lượng chư vị Thế tôn. Chúng con sẽ hộ trì cho quốc vương ấy. Lại vì nhìn thấy vô lượng phước đức, nên bốn thiên vương chúng con, cùng với vô lượng chư thần tùy thuộc, khi tại cung điện của mình thấy khói hương biến hiện hương vân hương cái, thì ẩn mình đi, vì để được nghe pháp nên đến chỗ thuyết pháp là cung điện bậc nhất của hoàng cung quốc vương. Các vị Phạn vương, Đế thích, Đại biện tài thiên, Đại cát tường thiên, Kiên lao địa thần, Chánh liễu tri đại tướng, chư thần hai mươi tám bộ dược xoa, Đại tự tại thiên, Kim cang mật chủ, Bảo hiền đại tướng, quỉ mẫu Ha lị để và năm trăm quỉ tử, long vương hồ Vô nhiệt não, long vương Đại dương, vô lượng chư thiên và dược xoa cũng vì để được nghe pháp nên ẩn mình mà đến chỗ đặt pháp tòa cao để thuyết pháp là cung điện bậc nhất của quốc vương. Bạch đức Thế tôn, bốn thiên vương chúng con, với chư thần dược xoa tùy thuộc, sẽ một lòng cùng quốc vương làm thiện tri thức cho nhau. Vì ông là đại thí chủ pháp thí, đem cam lộ vị mà sung mãn cho chúng con, nên chúng con sẽ hộ vệ cho ông, loại trừ tai họa cho ông, làm cho ông được yên ổn, lại làm cho hoàng cung, quốc gia và quốc dân của ông tiêu tan được mọi thứ tai biến.

    Bốn thiên vương lại cùng nhau chắp tay mà thưa, bạch đức Thế tôn, nếu quốc vương nào trong quốc gia của mình có kinh này mà chưa quảng bá bao giờ, muốn rời bỏ, không thích lắng nghe, không hiến cúng ca tụng, thấy người trong bốn bộ đệ tử Thế tôn thọ trì kinh này cũng không tôn trọng hiến cúng, làm cho chúng con cùng thân thuộc, và vô lượng chư thiên, không ai được nghe diệu pháp rất sâu xa, mất vị cam lộ, mất nước chánh pháp, không còn uy quang và thế lực, nẻo dữ thêm lên, người trời bớt đi, rơi sông sinh tử, mất đường niết bàn. Bạch đức Thế tôn, bốn thiên vương chúng con, và những dược xoa tùy thuộc của chúng con, thấy như vậy nên bỏ quốc gia ấy, không có lòng nào hộ vệ. Chẳng những chúng con bỏ quốc gia của quốc vương ấy, mà các đại thiện thần có thệ nguyện hộ vệ đất nước cũng bỏ mà đi. Bỏ đi rồi, quốc gia ấy có đủ loại tai họa. Vị thế quốc gia bị mất (57) . Quốc dân không có thiện tâm. Chỉ có tù đày, tàn hại, hận thù, đấu đá, dèm pha, dua nịnh, cô thế oan khuất, tật dịch hoành hành, sao chổi thường xuất hiện, hai mặt trời cùng xuất hiện (58) , nhật thực nguyệt thực bất thường, hai cầu vồng đen trắng xuất hiện, sao sa, địa chấn, lòng giếng phát tiếng, mưa bạo, gió dữ, thời tiết hổn loạn, đói, mất mùa, kẻ thù và giặc giã thường từ xứ khác đến cướp phá xâm lược, quốc dân khổ sở, đất nước không có chỗ nào bình yên. Bạch đức Thế tôn, khi bốn thiên vương chúng con, vô lượng chư thiên thiện thần, cùng với thiện thần cũ hộ vệ quốc gia ấy, đều xa lánh cả, thì quốc gia ấy sinh ra lắm sự tai quái dữ dằng như vậy.

    Bạch đức Thế tôn, quốc vương nào muốn quốc gia vui vẻ, muốn quốc dân yên ổn, muốn chiến thắng ngoại địch cho đất nước thịnh vượng, muốn lưu bố chánh pháp cho nỗi khổ điều dữ tan biến, thì, bạch đức Thế tôn, quốc vương ấy nên lắng nghe kinh vua nhiệm mầu này, nên hiến cúng những người thọ trì kinh này. Làm như vậy thì chúng con với vô lượng chư thiên thiện thần, do cái thiện căn lực lắng nghe chánh pháp và uống cam lộ vị mà gia tăng thắng ích cho chúng con, cho tùy thuộc của chúng con, cho chư thiên thiện thần, tại sao, vì quốc vương ấy hết lòng lắng nghe tiếp nhận kinh này.

    Bạch đức Thế tôn, vì chúng sinh mà Phạn vương thường nói những luận thuyết xuất thế, mà Đế thích nói những luận thuyết đa dạng, và các tiên nhân ngũ thông cũng nói mọi thứ luận thuyết. Phạn vương, Đế thích và tiên nhân ngũ thông tuy có vô số luận thuyết, nhưng đức Thế tôn vì thương nhân loại và chư thiên mà tuyên thuyết kinh Ánh sáng hoàng kim thì, so với những luận thuyết trên, phẩm chất hơn đến vô số bội số, không thể nào ví dụ được nữa. Tại sao? Vì kinh ấy có năng lực làm cho bao nhiêu quốc vương của đại lục Thiệm bộ đều đem chánh pháp mà phục vụ quốc gia, có năng lực ban cho chúng sinh mọi sự an lạc, làm cho bản thân các quốc vương, cho hoàng gia và quốc dân của các quốc vương ấy, đều không bị khổ não, không bị giặc thù xâm lăng tàn hại, mọi sự dữ dằng đều đi rất xa, đất nước trừ hết tai họa, hoán cải bằng chánh pháp mà không còn mọi sự tranh tụng. Do vậy, các quốc vương mỗi người nơi quốc gia của mình hãy đốt lên ngọn đuốc chánh pháp mà soi sáng vô tận, tăng thêm chư thiên và tùy thuộc của chư thiên. Bạch đức Thế tôn, bốn thiên vương chúng con với vô lượng chư thiên thiện thần, bộ chúng dược xoa, với bao nhiêu chư thiên thiện thần trong đại lục Thiệm bộ, do việc làm của quốc vương ấy mà được uống cam lộ vị tối thượng, được đại uy đức, thế lực và ánh sáng có đủ tất cả, và tất cả chúng sinh cũng được yên ổn; vị lai thì vô số kiếp thường hưởng hạnh phúc; được gặp chư vị Thế tôn, gieo trồng thiện căn, để rồi chứng được vô thượng bồ đề. Vô lượng thắng ích như vậy toàn là do đức Thế tôn đem đại từ bi quá hơn Phạn vương, đem đại trí tuệ quá hơn Đế thích, đem đại khổ hạnh quá hơn các tiên nhân ngũ thông, đem những sự trải qua vô số kiếp ấy, vì chúng sinh mà tuyên thuyết bản kinh nhiệm mầu này, làm cho tất cả quốc vương và dân chúng trong toàn cõi đại lục Thiệm bộ hiểu được, trong phạm vi thế gian, những phương thức quản trị quốc gia và cải hóa quốc dân. Nhờ kinh này quảng bá mà nơi nào cũng được yên vui. Cái phước như vậy toàn là do từ bi lực của đức Thích tôn, vị thầy cao cả của chúng con, quảng bá rộng rãi kinh này. Bạch đức Thế tôn, vì vậy mà các quốc vương hãy thọ trì, hiến cúng cung kính tôn trọng tán dương bản kinh vua nhiệm mầu này. Tại sao, vì bản kinh này đem những phước đức bất khả tư nghị như vậy mà lợi ích tất cả, nên còn mệnh danh là bản kinh Chúa tể tối thượng. Bấy giờ đức Thế tôn dạy bốn thiên vương, các người, và tùy thuộc của các người, cùng với vô lượng chư thiên, thấy quốc vương nào hết lòng lắng nghe, hiến cúng cung kính tôn trọng tán dương kinh này, thì hãy hộ trì cho quốc vương ấy hết mọi suy tổn, và như vậy cũng làm cho các người hưởng thụ yên vui. Trong bốn bộ đệ tử của Như lai, ai quảng bá được kinh vua này, thì thế là ngay trong nhân loại và chư thiên, những người ấy làm việc Phật làm một cách rộng lớn, đem lại thắng ích cho vô số chúng sinh. Những người như vậy, bốn thiên vương các người hãy thường xuyên hộ vệ, đừng để họ bị việc khác quấy nhiễu. Hãy làm cho thân tâm của những người như vậy được yên tĩnh để quảng bá kinh vua này tồn tại liên tục, lợi ích chúng sinh cho đến cùng tận thì gian vị lai.

    Bây giờ Đa văn thiên vương từ chỗ ngồi đứng dậy mà thưa, bạch đức Thế tôn, con có một minh chú tên là Ngọc như ý. Người nào ưa thích thọ trì minh chú ấy thì công đức vô lượng. Con luôn luôn hộ vệ cho người ấy rời khổ được vui, có năng lực hoàn thành hai loại tư lương phước đức và trí tuệ. Muốn thọ trì minh chú ấy thì trước hết phải trì tụng minh chú giữ gìn bản thân. Đa văn thiên vương liền nói minh chú giữ gìn bản thân: Nam mô, Vai sra va na da ma ha ra ja da, tát da tha, ra, ra, ra, ra, ku nu, ku nu, khu nu, khu nu, sa pa, sa pa, ma ha vi ka ra ma, ma ha vi ka ra ma, ma ha ra ja, rát sa, rát săn tu, năng, sa ra, sát toa năng, soa ha. (Namo Vaisravanayamaharajaya tadyatha ra ra ra ra kunu kunu khunu khunu sapa sapa mahavikarama mahavikarama maharaja raksa raksantu nam sarva sattvanam svaha).

    Bạch đức Thế tôn, trì tụng minh chú này thì phải lấy chỉ trắng mà trì tụng bảy biến, mỗi biến thắt một gút, rồi buộc vào sau khuỷu tay, thì việc giữ gìn bản thân được thành tựu. Kế đó, phải tắm rửa sạch sẽ, mặc đồ sạch sẽ, rồi đem các hương liệu như an tức, chiên đàn, long não, tô hạp, đa yết la, huân lục, mỗi phần bằng nhau, trộn chung lại, tự tay bưng lò hương mà đốt hương liệu ấy để hiến cúng. Rồi ở trong cái phòng yên tĩnh (59) mà trì tụng mình chú triệu thỉnh con, Đa văn thiên vương. Đa văn thiên vương liền nói minh chú triệu thỉnh: Nam mô, Vai sra va na da, nam mô, Đa na đa da, Đa nết va ra da, a ka sá, a pa ri mi ta, đa nết va ra, pa ra ma, ka ru ni ka, sa va, sát toa hi ta chin ta, ma ma, đa na, va đa pa dê, soa dăm, a ka sa, soa ha. (Namo Vaisravanya namo Danadaya Danesvaraya akarsa aparimita danesvara parama karunika sarva sattvahitacinta mama dana vardhaparye svayam akarsa svaha).

    Trì tụng minh chú này bảy biến rồi mới trì tụng minh chú căn bản là minh chú Ngọc như ý. Muốn trì tụng minh chú Ngọc như ý thì trước hết phải xướng hồng danh mà kính lạy Tam bảo, rồi lạy con, [với lời này: kính lạy] Đa văn thiên vương, người có năng lực ban cho tiền tài bảo vật, làm cho sở cầu mãn nguyện, thành tựu an lạc. Xướng lạy như vậy rồi trì tụng minh chú Ngọc như ý của con, Đa văn thiên vương, minh chú có năng lực đem cho người sự vui vẻ tùy ý. Đa văn thiên vương liền đối trước đức Thế tôn mà nói minh chú Ngọc như ý: Nam mô, rát na tra da da, nam mô, Vai sra ma na da, ma ha ra ja da, tát da tha, si mi, si mi, su mu, su mu, chăn đa, chăn đa, cha rê, cha rê, sa ra, sa ra, ka ra, ka ra, ki ri, ki ri, ku ru, ku ru, mu ru, mu ru, chu ru, chu ru, sa đa da, át ma năm, nít dăm, ăn ta ra, đa tu, soa ha; nam mô, Vai sra ma na da, soa ha, đa na đa da, soa ha, na mô ra tha, pa ri pu ri ka da, soa ha. (Namo ratnatrayaya namo Vaisramanaya maharajaya tadyatha simi simi sumu sumu canda canda care care sara sara kara kara kiri kiri kuru kuru muru muru curu curu sadaya atmanam nityam antara dhatu svaha; namo Vaisramanaya svaha dhanadaya svaha namoratha paripurikaya svaha).

    [Bạch đức Thế tôn], thọ trì minh chú Ngọc như ý thì trước hết tụng một ngàn biến, sau đó, nơi trong tịnh thất (60) dùng cù ma (61) bôi đất, làm một đàn tràng nhỏ. Tùy thời mà đem ẩm thực nhất tâm hiến cúng. Thường xuyên đốt hương quí, sao cho khói hương không ngớt. Rồi tụng minh chú Ngọc như ý, ngày đêm tập trung tâm trí vào đó. Tụng sao chỉ tai mình tự nghe, đừng để ai biết. Thì bấy giờ sẽ có con của con, Đa văn thiên vương, tên là vương tử Thiền ni si, hiện thân đồng tử, đến chỗ người trì tụng, hỏi người cần gì mà kêu gọi phụ vương của tôi? Người trì tụng hãy trả lời, rằng tôi muốn hiến cúng Tam bảo nên cần tiền của, xin thiên vương ban cho. Vương tử Thiền ni si nghe lời ấy rồi, tức tốc trở về, tâu với con, rằng thưa phụ vương, nay có thiện nhân muốn chí thành hiến cúng Tam bảo mà thiếu tiền của, vì vậy mà triệu thỉnh phụ vương. Con bảo, con đi gấp đi, mỗi ngày đem cho thiện nhân ấy một trăm ca lị sa ba na (62) . Người thọ trì minh chú thấy như vậy thì biết việc thành được. Hãy một mình ở trong tịnh thất ấy, đốt hương mà nằm. Đặt một cái hộp thơm bên giường. Mỗi sáng sớm nhìn vào sẽ được của mình cầu. Mỗi khi được của thì nội ngày ấy hãy hiến cúng Tam bảo bằng hương hoa ẩm thực, lại đem cho những người nghèo thiếu. Phải sử dụng như vậy cho hết, không được cất giữ. Đối với chúng sinh phải sinh tâm từ bi, không được sinh lòng giận dữ, dối trá, dua nịnh, tác hại. Giận dữ thì tức khắc mất linh nghiệm. Phải thường xuyên giữ cho tâm chớ có giận dữ. Lại nữa, thọ trì minh chú Ngọc như ý thì mỗi ngày tưởng nhớ đến con, Đa văn thiên vương, cùng với con trai con gái thân quyến của con, ca tụng, tán dương, và thường đem mười thiện nghiệp mà hỗ trợ cho nhau, làm cho chư thiên chúng con phước lực càng sáng, thiện nghiệp càng lớn, chứng được bồ đề. Chư thiên chúng con thấy như vậy thì ai cũng rất hoan hỷ, cùng đến hộ vệ cho người thọ trì minh chú. Người thọ trì minh chú ấy thọ lượng lâu dài, vĩnh ly ba nẻo đường dữ, thường xuyên tuyệt hết tai nạn. Người ấy cũng được làm cho được ngọc như ý, được kho tàng ẩn trong lòng đất, thần lực tự tại, sở nguyện thành cả. Cầu quan chức, vinh hoa, không có gì không vừa ý. Lại còn hiểu được tiếng nói của chim muông.

    Bạch đức Thế tôn, thọ trì minh chú Ngọc như ý mà muốn nhìn thấy con tự hiện thân, thì ngày tám hoặc ngày rằm mỗi tháng, lấy vải trắng vẽ tượng đức Thế tôn, bằng cách dùng nhựa cây và nhiều màu mà tô vẽ. Người vẽ tượng phải được truyền thọ cho giới Bát quan trai. Bên trái tượng đức Thế tôn thì vẽ tượng Cát tường thiên nữ, bên phải tượng đức Thế tôn thì vẽ con, Đa văn thiên vương. Lại vẽ con trai con gái thân quyến của con. Rồi đặt để cho đúng phép. Bày ra bông hoa đủ màu, đốt lên hương liệu danh tiếng. Thắp đèn sáng luôn, ngày đêm không tắt. Aẫm thực thượng hạng và tinh tế, những thứ quí lạ, đều đem lòng thiết tha mà hiến cúng theo lúc. Thọ trì minh chú Ngọc như ý thì không được với tâm trí dễ dãi. Và khi triệu thỉnh con thì tụng minh chú này: Na ma hơ, Sri, kăn na da, bút đa da, nam mô, Vai sra ma na da, dát sa ra ja da, ma ha ra ja, a đi ra ja da, na ma hơ, sri dê, ma ha đêv dê, tát da tha, ta ra, ta ra, tu ru, tu ru, ba la, ba la, su sút đi, ha na, ha na, ma ni ka na ka, va rát vai đu ry da, múc ti ka lăm kri ta, sa ra ra da, sar va sát toa, hi ta ka ma, Vai sra ma na sri da, đê vi pra đa ya, ê hi, ê hi, ma vi lăm ba, gu ri na, gu ri na, pra si da, pra si da, đa đa hi, ma ma, a na ka na ma da, đa sá na, ka ma si da, đa săn năn, ma ma, ma na, pa ri ha ra đa da, soa ha. (Namah Sri kannaya buddhaya namo Vaisramanaya yaksarajaya maharaja adhirajaya namah sriye mahadevye tadyatha tara tara turu turu bala bala susuddhi hana hana manikanaka vajravaidurya muktikalamkrsta sariraya sarvasattva hitakama Vaisramanasriya devipradhaya ehy ehi mavilamba ghurna ghurna prasya prasya dadhahi mama amakanamaya darsana kamasya darsanan mama mana pariharadhaya svaha).

    Bạch đức Thế tôn, nếu con thấy người ấy tụng trì minh chú, lại thấy hiến cúng trang trọng như vậy, thì thương mến và hoan hỷ. Con liền biến thể làm thân thiếu nhi, thân lão trượng, hay thân Bí sô, tay cầm ngọc như ý và túi vàng mà vào đạo tràng, thân thì thể hiện tôn kính, miệng thì niệm hồng danh của đức Thế tôn, rồi nói với người thọ trì minh chú Ngọc như ý, rằng tùy người cầu gì tôi cũng làm cho như nguyện. Muốn ẩn rừng rú, muốn chế tạo ngọc, muốn mọi người yêu mến, muốn những thứ bạc vàng, muốn trì minh chú nào cũng linh nghiệm, muốn thần thông, trường thọ, thắng diệu lạc, không có gì không vừa ý. Tôi nay chỉ nói mấy việc như vậy. Muốn cầu gì nữa thì cũng tùy ý thành tựu. Kho báu thì vô tận, phước đức thì vô cùng. Giả sử mặt trời mặt trăng sa xuống mặt đất, hoặc đại địa có lúc di chuyển vị trí, lời nói chắc thật của tôi cũng không bao giờ vô hiệu quả, yên vui thường có, hạnh phúc tùy tâm.

    Bạch đức Thế tôn, có ai thọ trì kinh vua Ánh sáng hoàng kim mà đọc tụng minh chú Ngọc như ý, thì không mượn sự mệt nhọc nhiều lắm mà linh nghiệm vẫn mau chóng thành tựu. Bạch đức Thế tôn, nay con vì bao kẻ nghèo nàn, khốn khó, khổ não, mà tuyên thuyết minh chú Ngọc như ý là để cho họ được lợi ích lớn lao, được giàu vui, tự tại, vô bịnh, cho đến suốt đời vẫn được con hộ vệ, theo dõi người thọ trì minh chú mà loại trừ cho họ bao nhiêu tai ách. Con lại làm cho những người quảng bá mà duy trì kinh vua Ánh sáng hoàng kim, và những người thọ trì minh chú Ngọc như ý, trong chu vi mỗi phía trăm bước, được ánh sáng chiếu đến. Cả ngàn thần dược xoa của con cũng thường hộ vệ, tùy ý sai sử, họ làm vừa lòng cả. Con nói chân thành, không rỗng, không dối, chỉ có đức Thế tôn chứng biết cho con.

    Bấy giờ, khi Đa văn thiên vương nói về minh chú Ngọc như ý rồi, đức Thế tôn dạy, rằng lành thay thiên vương, ông có năng lực xé nát mạng lưới nghèo khổ cho chúng sinh, làm cho họ giàu, vui, nên đã tuyên thuyết minh chú Ngọc như ý. Ông lại làm cho kinh vua này quảng bá cả thế giới.

    Bốn vị thiên vương cùng từ chỗ ngồi đứng dậy, vắt vạt áo một bên vai, đảnh lễ ngang chân đức Thế tôn, rồi gối bên phải quì xuống chấm đất, chắp tay cung kính, đem chỉnh cú tuyệt diệu mà tán dương đức Thế tôn.

    (1) Khuôn mặt Thế tôn

    như trăng tròn sáng,

    như ngàn mặt trời

    phóng ánh quang minh.

    Mắt trong dài rộng

    như cánh sen xanh.

    Răng thì đều khít

    trắng như tuyết ngọc.

    (2) Đức tính Thế tôn

    vô biên như biển,

    bao phẩm chất quí

    dồn lại ở đây;

    nước đại giác tuệ

    được giữ dẫy đầy,

    ngọc đại thắng định

    sung mãn trong đó.

    (3) Bàn chân chỉ tròn

    bố trí tuyệt đẹp,

    bằng phẳng vững vàng

    như bánh xe êm (63) .

    Các ngón tay chân

    có mạng tuyệt đẹp,

    tựa như mạng chân

    của con nga vương.

    (4) Thân thể Thế tôn

    núi vàng sáng rực,

    trong sạch đặc thù

    không ai sánh bằng,

    lại đầy phước đức

    như núi Diệu cao:

    chúng con kính lạy

    Núi chúa như vậy.

    (5) Tướng hảo vô lượng

    tựa như không gian,

    phóng ra ánh sáng

    hơn ngàn mặt trời;

    coi như huyễn ảo

    bất khả tư nghị:

    chúng con kính lạy

    đấng Không vướng mắc.

    Bốn thiên vương tán dương đức Thế tôn rồi, Ngài cũng nói lại bằng những chỉnh cú sau đây.

    (6) Ánh sáng hoàng kim

    kinh tối thượng này

    là được tuyên thuyết

    bởi đấng Vô thượng.

    Thiên vương các người

    hãy thường hộ vệ;

    hãy có tâm chí

    dũng mãnh bất thoái.

    (7) Kinh này quí báu

    cùng cực sâu xa,

    năng lực làm cho

    chúng sinh yên vui.

    Bởi vì làm cho

    chúng sinh yên vui,

    nên thường lưu hành

    đại lục Thiệm bộ.

    (8) Nhưng làm cho cả

    đại thiên thế giới

    bao loại chúng sinh

    trong thế giới ấy,

    nhất là địa ngục

    ngạ quỉ bàng sinh,

    những nẻo khổ ấy

    đều được loại trừ.

    (9) Những vị quốc vương

    toàn cõi Thiệm bộ,

    cùng với bao nhiêu

    quốc dân của họ,

    cái lực kinh này

    làm cho hoan hỷ,

    và được hộ vệ

    giữ cho thanh bình.

    (10) Tất cả nhân loại

    trong đại lục này

    không bịnh không khổ

    không giặc không cướp;

    nhờ trong quốc gia

    quảng bá kinh này,

    quốc dân yên ổn

    sung túc vui thỏa.

    (11) Những ai lắng nghe

    bản kinh vua này,

    muốn cầu cao sang

    cầu tài cầu lợi,

    cầu cho đất nước

    phong phú thái bình,

    tùy tâm cầu nguyện

    thỏa mãn tất cả.

    (12) Giặc từ xứ khác

    cũng làm lui mất,

    trong quốc gia mình

    thường sống yên ổn;

    chính nhờ cái lực

    của kinh vua này

    mà thoát khổ não

    mà không lo sợ.

    (13) Tựa như cây ngọc

    ở chính trong nhà

    thì sinh tất cả

    công cụ hạnh phúc;

    bản kinh tối thượng

    cũng là như vậy,

    ban cho quốc vương

    bao nhiêu thắng phước.

    (14) Như nước trong sạch

    mà lại mát ngọt,

    thì trừ được hết

    cái nóng đói khát;

    bản kinh tối thượng

    cũng là như vậy,

    ai ưa phước lạc

    làm cho thỏa mãn.

    (15) Như kẻ trong nhà

    có hộp ngọc quí,

    thì sự hưởng dụng

    toàn theo ý muốn;

    bản kinh tối thượng

    cũng là như vậy,

    phước lạc tùy tâm

    không thiếu thốn gì.

    (16) Thiên vương các người

    cùng với chư thiên

    hãy nên hiến cúng

    bản kinh vua này;

    phụng trì kinh này

    theo lời Như lai,

    thì đủ tất cả

    trí tuệ uy thần.

    (17) Hiện tại mười phương

    chư vị Như lai

    cùng nhau hộ trì

    bản kinh vua này;

    thấy ai đọc tụng

    thọ trì kinh này

    thì khen lành thay,

    rất là hiếm có!

    (18) Những ai lắng nghe

    bản kinh vua này,

    thân tâm phấn chấn

    hoan hỷ tràn ngập;

    thường có trăm ngàn

    bộ chúng dược xoa

    ở đâu cũng theo

    mà hộ vệ cho.

    (19) Thế giới hệ này

    bộ chúng chư thiên

    số lượng vô lượng

    không thể nghĩ bàn,

    ai cũng lắng nghe

    bản kinh vua này

    hoan hỷ hộ vệ

    chứ không thoái chuyển.

    (20) Những ai lắng nghe

    bản kinh vua này,

    thì uy đức mạnh

    thì tự tại luôn;

    làm cho tăng thêm

    nhân loại chư thiên,

    làm hết suy bại

    làm thêm ánh sáng.

    Bốn thiên vương nghe những lời chỉnh cú này rồi hoan hỷ phấn chấn, thưa rằng bạch đức Thế tôn, từ xưa đến nay chúng con chưa từng được nghe pháp âm thậm thâm vi diệu như thế này, trong lòng vừa mừng vừa tủi, mắt mũi trào nước, cả người chấn động, chứng được sự thể hiếm có, bất khả tư nghị. Các thiên vương liền lấy thiên hoa mạn đà và đại mạn đà tung rải trên đức Thế tôn. Họ hiến cúng một cách thù thắng như vậy rồi, lại thưa, bạch đức Thế tôn, bốn thiên vương chúng con ai cũng có năm trăm dược xoa tùy thuộc, sẽ thường xuyên hộ vệ kinh này, và vị pháp sư tuyên thuyết kinh này, đem ánh sáng trí tuệ mà hỗ trợ. Vị pháp sư ấy có quên chữ nghĩa nào trong kinh vua này, thì chúng con làm cho vị ấy nhớ lại, không quên. Chúng con cũng hiến cho vị pháp sự ấy minh chú thù thắng, để vị ấy được toàn hảo. Lại làm cho bản kinh vua tối thượng này ở đâu thì quảng bá cho người, không mau chóng ẩn mất.

    Khi ở trong đại hội, đức thế tôn tuyên thuyết pháp thoại này, thì vô lượng chúng sinh được sự hùng biện đầy trí lớn thông minh, thu thập cái khối phước đức vô số lượng, rời lo buồn, phát hoan hỷ, khéo hiểu mọi thứ luận thuyết, bước lên trên đường thoát ly, không còn thoái chuyển mà mau chóng chứng được vô thượng bồ đề.
    VÔ CÔNG DỤNG HẠNH - VÔ KHUẤT LIỄU HẠNH - VÔ CẤU PHÁP - VÔ TÁT Ý - VÔ SỞ ĐẮC - VÔ SỞ CẦU - VÔ SỞ TRỤ - VÔ SỞ ÚY

  14. #14

    Mặc định

    Phẩm 12: Thiên Vương Hộ Quốc

    Vào lúc bấy giờ, đức Thế tôn nghe bốn vị thiên vương cung kính hiến cúng kinh Ánh sáng hoàng kim và hộ trì cho người thọ trì kinh ấy, thì tán dương rằng lành thay, bốn thiên vương, các người đã ở nơi vô số chư vị Như lai quá khứ cung kính hiến cúng tôn trọng tán dương, gieo trồng thiện căn, làm theo chánh pháp, nói theo chánh pháp, đem chánh pháp phục vụ thế giới. Đối với chúng sinh, các người trường kỳ nghĩ cách lợi ích, khởi tâm đại bi, nguyện đem yên vui lại cho họ. Chính vì lý do này mà làm các người hiện được hưởng thụ quả báo thù thắng. Nếu có quốc vương nào cung kính hiến cúng kinh Ánh sáng hoàng kim, thì các người phải siêng năng hộ trì cho [ông và quốc dân của ông] được yên ổn. Bốn thiên vương các người, và vô số dược xoa tùy thuộc, hộ trì kinh này, thì thế là hộ trì chánh pháp của chư vị Như lai quá khứ hiện tại vị lai, nên các người, với chư thiên và dược xoa, chiến đấu với tô la thì thường đắc thắng. Các người hộ trì kinh này thì do thần lực của kinh này mà loại trừ được mọi sự khổ não, giặc thù, đói khát, tật dịch. Do vậy, nếu thấy bốn chúng có ai thọ trì kinh vua này thì các người cũng nên siêng năng chung sức hộ trì, loại trừ suy tổn và đem lại yên vui cho họ.

    Bốn vị thiên vương, lúc ấy, từ chỗ ngồi đứng dậy, vắt vạt áo của vai bên phải, gối bên phải quì xuống chấm đất, chắp tay cung kính mà thưa, bạch đức Thế tôn, trong thì vị lai, nơi đất nước, thành thị, làng xóm, núi rừng, đồng nội, chỗ nào và lúc nào bản kinh vua Ánh sáng hoàng kim này lưu hành đến, thì quốc vương chỗ ấy và lúc ấy nên hết lòng lắng nghe, tán dương, hiến cúng, lại cung phụng cho những người trong bốn chúng thọ trì kinh này, thâm tâm hộ trì cho họ tách rời suy não. Vì lý do này, chúng con hộ trì cho quốc vương ấy, và cho quốc dân của ông, ai cũng yên ổn, rời xa lo buồn, thọ lượng tăng thêm, uy đức toàn hảo. Bạch đức Thế tôn, nếu quốc vương ấy thấy những người trong bốn chúng thọ trì kinh này mà cung kính hộ vệ như cha như mẹ, cung cấp những thứ nhu cầu, thì bốn thiên vương chúng con thường hộ vệ cho, làm cho ai cũng tôn kính. Chúng con và vô số các thần dược xoa, kinh vua này ở đâu cũng ẩn mình hộ vệ, không để bị cản trở. Chúng con cũng hộ vệ cho những thính giả, và quốc vương lắng nghe kinh này, loại trừ suy tổn và đem lại yên ổn cho họ, giặc thù từ xứ khác cũng được làm cho thoái tán. Thế nên nếu có quốc vương nào khi lắng nghe kinh này mà lân bang thù địch, động binh xâm lăng phá hoại thì, bạch đức Thế tôn, do thần lực của kinh này mà chúng con sẽ cùng vô số dược xoa tùy thuộc, ai cũng ẩn mình hỗ trợ, làm cho lân bang thù địch kia phải tự đầu hàng, không dám bước đến cương giới của quốc gia ấy, có đâu dám sử dụng vũ khí mà sát phạt (55) .

    Đức Thế tôn dạy bốn vị thiên vương rằng tốt lắm, các người có thể hộ vệ như vậy đối với kinh này. Vô số kiếp quá khứ, Như lai đã tu đủ loại khổ hạnh, được vô thượng bồ đề, chứng nhất thế chủng trí, nên ngày nay mới tuyên thuyết kinh này. Nếu có quốc vương nào thọ trì kinh này, cung kính hiến cúng, thì [uy lực kinh này] sẽ làm cho quốc vương ấy hết suy tổn, được yên ổn, lại làm cho tất cả đất nước của quốc vương ấy đến nỗi giặc thù cũng phải thoái tán. Uy lực kinh này cũng làm cho tất cả quốc vương trong đại lục Thiệm bộ không có suy tổn, chinh chiến. Mà, các người nên biết, đại lục Thiệm bộ có tám mươi bốn ngàn quốc gia và quốc vương, quốc vương nào cũng thích thú, tự do, tài sản sung túc, hưởng thụ đầy đủ, không xâm lăng chiếm đoạt lẫn nhau. Ai cũng tùy phước nhân đời trước mà thụ hưởng phước quả đời này, không ai nghĩ xấu, ham chiếm nước khác. Ai cũng giảm thiểu ham muốn, muốn lợi kẻ khác, không gây cái khổ chinh chiến, đày ải. Dân chúng của các quốc vương ấy thì thương nhau, trên dưới hòa thuận như nước với sữa, mến trọng lẫn nhau, hoan hỷ thư nhàn, hiền lành khiêm tốn, tăng tiến thiện căn. Do vậy mà đại lục Thiệm bộ này yên vui, sung túc, dân chúng đông đảo, đất đai màu mỡ, lạnh nóng điều hòa, thời tiết thích hợp, nhật nguyệt tinh tú vận hành bình thường, gió mưa đúng lúc, không có tai ương, tài sản phong phú, tâm tính hào phóng, thường hành huệ thí, đủ mười thiện nghiệp, và chết thì đa số sinh chư thiên, thiên chúng tăng lên. Bốn thiên vương, trong thì vị lai, có quốc vương nào lắng nghe kinh này, cung kính hiến cúng và thọ trì kinh này, thì được bốn chúng ca tụng, lại lợi ích cho chính các người và tùy thuộc của các người là vô số dược xoa. Vì vậy mà các quốc vương thường nên lắng nghe bản kinh vua này. Chính cái nước chánh pháp cái vị cam lộ này tăng thêm sức mạnh và tư thế cho thân tâm các người, làm cho các người tinh tiến mạnh mẽ, đầy đủ phước đức uy quang. Các quốc vương ấy nếu hết lòng lắng nghe kinh này thì thế là đã đem sự hiến cúng lớn lao và hiếm có mà hiến cúng cho ta, Thích ca như lai. Hiến cúng Như lai là hiến cúng vô số chư vị Như lai trong quá khứ hiện tại vị lai. Hiến cúng tam thế Như lai thì được cái khối công đức bất khả tư nghị. Vì lý do ấy, các người nên hộ trì [cho các quốc vương ấy], cho hoàng gia của họ, cho thần trấn hoàng cung, ai cũng khỏi suy tổn, được an lạc, thiện căn khó lường. Quốc dân của các quốc vương ấy cũng hưởng thụ đủ loại lạc thú ngũ dục, mọi sự xấu ác tiêu tan tất cả.

    Bốn thiên vương lại thưa, bạch đức Thế tôn, trong thì vị lại, có quốc vương nào ưa thích lắng nghe kinh vua Ánh sáng hoàng kim để cầu mong bản thân và hoàng gia được sự yên vui bậc nhất; để làm cho ngôi vua hiện tại được thịnh đạt; để thu hoạch cái khối phước đức vô lượng; để làm cho quốc dân và quốc gia của mình không bị thù địch, không lo buồn, không tai họa, thì, bạch đức Thế tôn, quốc vương ấy không nên phóng túng, nghĩ tưởng mông lung, mà phải cung kính, chân thành, thiết tha, muốn được lắng nghe tiếp nhận bản kinh vua tối thượng này. Muốn vậy thì trước hết quốc vương ấy phải trang hoàng một cung điện nào trong hoàng cung mà dễ thấy nhất và ông quí nhất, bằng cách đem nước thơm rưới đất, rải những bông hoa danh tiếng, đặt để pháp tòa sư tử đẹp nhất, trang khảm bằng ngọc quí, treo bảo cái tràng phan lên trên, rồi đốt hương liệu vô giá, tấu lên các loại âm nhạc. Bản thân quốc vương thì tắm rửa sạch sẽ, xoa hương thơm vào mình, mặc áo sạch và mới, đeo những chuỗi ngọc, nhưng ngồi trên cái ghế thấp nhỏ, không tự tôn, bỏ ngôi cao, rời ngạo mạn, đoan tâm chính niệm để chờ lắng nghe kinh vua này. Lại nữa, đối với vị pháp sư sẽ đến thì nghĩ tưởng là bậc đại sư; đối với thân quyến thì sinh từ tâm, nhìn nhau vui vẻ, mặt hiền hòa, nói dịu ngọt, đối với bản thân thì tràn ngập một nỗi vui mừng lớn lao, nghĩ rằng tôi được lợi ích vĩ đại, ấy là được hiến cúng long trọng đối với bản kinh vua chúa. Quốc vương chuẩn bị như vậy rồi, thấy vị pháp sư đến thì lòng thành kính, khao khát, ngưỡng mộ.

    Đức Thế tôn dạy bốn thiên vương, quốc vương ấy không nên không đi rước vị pháp sư. Quốc vương ấy phải mặc đồ sạch sẽ, trang sức bằng những chuỗi ngọc, đích thân cầm lọng dù màu trắng và hương hoa, nghiêm chỉnh quân cách, dàn nhiều nhạc cụ, đi bộ mà ra khỏi cửa hoàng thành đón rước vị pháp sư, vận dụng tâm tưởng, hết lòng tôn kính mà làm cái việc cầu chúc cát tường. Bốn thiên vương, tại sao quốc vương phải đích thân làm việc tôn kính hiến cúng như vậy? Vì quốc vương lúc ấy cất chân lên, đặt chân xuống, mỗi bước đã là tôn kính hiến cúng vô lượng chư vị Như lai, đã là vượt qua ngần ấy nỗi khổ sinh tử, đã là tương lai được làm ngần ấy ngôi vị luân vương. Lại tùy mỗi bước mà hiện tại phước đức tăng trưởng, vương vị tự tại, cảm ứng khó lường, quần chúng kính trọng; mà tương lai vô số kiếp được cung điện thất bảo trong nhân loại và trên chư thiên, sinh ra ở đâu cũng làm vua chúa, thọ lượng tăng thêm, nói năng thông suốt, người trời tin chịu, không e sợ gì, được tiếng khen lớn, ai cũng ngưỡng mộ, ở trong nhân thiên mà hưởng thụ hạnh phúc tuyệt diệu, được đại thế lực, có đại oai đức, thân tướng kỳ vĩ, uy nghiêm tột bậc, gặp được các đấng Nhân thiên sư, gặp được các bậc Thiêển tri thức, hoàn hảo cái khối phước đức vô lượng. Bốn thiên vương nên biết, quốc vương ấy thấy những lợi ích như vậy nên phải đích thân đi rước pháp sư từ một du thiện na cho đến hàng trăm hàng ngàn du thiện na. Hãy nghĩ tưởng vị pháp sư ấy là Như lai. Rước về hoàng thành rồi, nghĩ rằng thế là đức Thích ca thế tôn vào trong hoàng cung của tôi, nhận cho sự hiến cúng của tôi, nói cho tôi nghe về diệu pháp. Rằng nghe diệu pháp rồi tôi không còn thoái chuyển vô thượng bồ đề, được gặp vô lượng chư vị Thế tôn. Rằng ngày nay tôi đã tấu những nhạc cụ thượng thặng, và đem những cúng phẩm thù thắng, hiến lên tam thế Thế tôn. Rằng ngày nay tôi đã bạt nhổ vĩnh viễn cái khổ trong thế giới Diêm vương, đã gieo trồng hạt giống thiện căn của Phạn vương, Đế thích, Luân vương. Rằng việc tôi làm ngày nay sẽ làm cho vô số chúng sinh, thoát sinh tử được niết bàn, tích tụ cái khối phước đức bất khả tư nghị; làm cho thân quyến và con dân của tôi yên ổn; làm cho đất nước của tôi thanh bình, không tai họa, kẻ ác và giặc thù không thể quấy phá, xâm lược, rời xa mọi nỗi lo buồn. Bốn thiên vương, quốc vương ấy nên trân trọng như vậy đối với diệu pháp, lại nên hiến cúng cung kính tôn trọng tán dương đối với bốn bộ đệ tử Như lai. Rồi trước hết đem cái thắng phước của thiện căn này mà hồi hướng cho chính các người, và tùy thuộc của các người. Thì quốc vương ấy có cái phước đức rất lớn làm yếu tố, nên hiện tại được đại tự tại, tăng thêm uy quang, sự cát tường và tướng tốt đẹp đều trang nghiêm, và đối với mọi loại giặc thù ông có năng lực đem diệu pháp mà chiến thắng.

    Lúc ấy bốn thiên vương lại thưa, bạch đức Thế tôn, nếu quốc vương nào tôn kính diệu pháp, muốn nghe kinh vua được như vậy, lại tôn kính hiến cúng bốn bộ thọ trì kinh vua, [trong đó có vị pháp sư], và muốn làm cho chúng con hoan hỷ, thì gần một bên pháp tòa, hãy rưới nước thơm, rải bông hoa, đặt ghế bàn cho bốn thiên vương chúng con. Chúng con sẽ nghe pháp chung với quốc vương. Quốc vương được thiện căn thì cũng đem một phần cái phước của thiện căn ấy hồi hướng cho chúng con. Bạch đức Thế tôn, khi quốc vương thỉnh mời vị pháp sư bước lên pháp tòa, thì cũng có một phần vì chúng con mà đốt các danh hương hiến cúng kinh vua này. Bạch đức Thế tôn, khói hương ấy, trong khoảnh khắc, bay lên không gian, bay đến cung điện của chúng con, và biến thành hương cái ở trong không gian. Chư thiên chúng con liền nghe được hơi thơm của danh hương, và thấy khói hương có ánh sáng màu hoàng kim, chiếu rực cung điện của chúng con, chiếu đến cung điện của Phạn vương, của Đế thích, của Đại biện tài thiên, của Đại cát tường thiên, của Kiên lao địa thần, của Chánh liễu tri đại tướng, của chư thần hai mươi tám bộ dược xoa, của Đại tự tại thiên, của Kim cang mật chủ, của Bảo hiền đại tướng, của quỉ mẫu Ha lị để và năm trăm quỉ tử, của long vương hồ Vô nhiệt não, của long vương Đại dương. Bạch đức Thế tôn, chư thiên chư thần như vậy, nơi cung điện của mình, ai cũng thấy khói hương ấy trong khoảnh khắc biến thành hương cái, nghe hơi thơm của khói hương và thấy ánh sáng của khói hương đến khắp tất cả cung điện của chư thiên chư thần.

    Đức Thế tôn bảo bốn thiên vương, khói hương ấy, với hơi thơm và ánh sáng, không phải chỉ bay đến, biến thành hương vân hương cái và phóng ánh sáng lớn ở những cung điện [mà các người thấy được]. Khói hương do chính tay quốc vương tự bưng lò hương mà đốt lên để hiến cúng kinh vua ấy, trong khoảnh khắc, còn bay đến khắp đại thiên thế giới này với trăm ức nhật nguyệt, trăm ức núi Diệu cao, trăm ức bốn đại lục. Tại cung điện của tất cả tám bộ trong đại thiên thế giới này, khói hương ấy tràn đầy không gian, biến thành hương vân và hương cái, ánh sáng màu hoàng kim của vân cái này chiếu khắp cung điện chư thiên [và chư thần]. Tất cả hương vân và hương cái trong đại thiên thế giới này toàn là do cái lực của uy thần kinh vua Ánh sáng hoàng kim. Nhưng không phải khói hương do chính tay quốc vương bưng lò đốt lên hiến cúng kinh vua này chỉ bay đến khắp đại thiên thế giới này, mà, trong khoảnh khắc, cũng bay đến khắp vô lượng quốc độ của chư vị Như lai. Ở trên các Ngài, trong không gian, khói hương cũng [kết thành hương vân và] biến thành hương cái, chiếu ra ánh sáng hoàng kim. Đức Như lai nào cũng nghe hơi thơm của khói hương nhiệm mầu ấy, cũng nhìn thấy hương vân hương cái và ánh sáng hoàng kim ấy hiện ra khắp nơi vô lượng chư vị Như lai, thì chư vị Như lai cùng quan sát, và khác miệng cùng tiếng mà tán dương vị pháp sư, rằng lành thay bậc đại trượng phu, ông có năng lực quảng bá bản kinh sâu xa mầu nhiệm! Như thế là ông đã thành tựu cái khối phước đức bất khả tư nghị. Ai lắng nghe ông giảng kinh này thì cái lượng công đức có được thật quá nhiều, huống chi sao chép, tiếp nhận, ghi nhớ, nghiên cứu, tụng thuộc, diễn nói cho người, làm đúng kinh dạy. Tại sao, vì, thiện nam tử, ai nghe bản kinh Ánh sáng hoàng kim này thì không còn thoái chuyển nữa đối với vô thượng bồ đề. Chư vị Như lai trong vô lượng quốc độ còn khác miệng cùng tiếng, ngồi ngay trên pháp tòa mà tán dương vị pháp sư, rằng lành thay thiện nam tử, trong đời sau, ông do tinh tiến lực mà tu được vô số khổ hạnh, đầy đủ hai loại tư lương phước đức và trí tuệ, siêu việt trên hiền thánh, vượt ra quá ba cõi, làm bậc tối tôn tối thắng, sẽ ngồi dưới bồ đề thọ vương một cách trang nghiêm thù thắng, năng lực cứu được chúng sinh có liên hệ với mình (56) ở trong đại thiên thế giới, khéo léo thắng được ma quân hình nghi đáng sợ, thực hiện cái tuệ giác biết các pháp một cách hơn hết, trong sáng, rất sâu, không gì trên nữa, rất chính xác và cùng khắp. Thiện nam tử, ông sẽ ngồi trên kim cang tòa, chuyển cái pháp luân vô thượng, được chư vị Như lai tán dương, đủ cả mười hai hành tướng mầu nhiệm, cực kỳ sâu xa. Ông gióng trống pháp vô thượng rất lớn, thổi loa pháp vô thượng rất mầu, dựng cờ pháp vô thượng rất cao, đốt đuốc pháp vô thượng rất sáng, mưa nước pháp vô thượng rất ngọt, cắt đứt vô lượng phiền não kết thắt, làm cho vô lượng chúng sinh vượt qua biển cả đáng sợ mà không bến bờ, chấm dứt sự luân hồi bất tận của sinh tử, gặp được vô lượng chư vị Như lai.

    Bốn thiên vương lại thưa, bạch đức Thế tôn, kinh Ánh sáng hoàng kim này, trong hiện tại vị lai, thành tựu được vô lượng công đức như vậy. Thế nên quốc vương nào được nghe bản kinh mầu nhiệm này là vì đã gieo trồng thiện căn nơi vô lượng chư vị Thế tôn. Chúng con sẽ hộ trì cho quốc vương ấy. Lại vì nhìn thấy vô lượng phước đức, nên bốn thiên vương chúng con, cùng với vô lượng chư thần tùy thuộc, khi tại cung điện của mình thấy khói hương biến hiện hương vân hương cái, thì ẩn mình đi, vì để được nghe pháp nên đến chỗ thuyết pháp là cung điện bậc nhất của hoàng cung quốc vương. Các vị Phạn vương, Đế thích, Đại biện tài thiên, Đại cát tường thiên, Kiên lao địa thần, Chánh liễu tri đại tướng, chư thần hai mươi tám bộ dược xoa, Đại tự tại thiên, Kim cang mật chủ, Bảo hiền đại tướng, quỉ mẫu Ha lị để và năm trăm quỉ tử, long vương hồ Vô nhiệt não, long vương Đại dương, vô lượng chư thiên và dược xoa cũng vì để được nghe pháp nên ẩn mình mà đến chỗ đặt pháp tòa cao để thuyết pháp là cung điện bậc nhất của quốc vương. Bạch đức Thế tôn, bốn thiên vương chúng con, với chư thần dược xoa tùy thuộc, sẽ một lòng cùng quốc vương làm thiện tri thức cho nhau. Vì ông là đại thí chủ pháp thí, đem cam lộ vị mà sung mãn cho chúng con, nên chúng con sẽ hộ vệ cho ông, loại trừ tai họa cho ông, làm cho ông được yên ổn, lại làm cho hoàng cung, quốc gia và quốc dân của ông tiêu tan được mọi thứ tai biến.

    Bốn thiên vương lại cùng nhau chắp tay mà thưa, bạch đức Thế tôn, nếu quốc vương nào trong quốc gia của mình có kinh này mà chưa quảng bá bao giờ, muốn rời bỏ, không thích lắng nghe, không hiến cúng ca tụng, thấy người trong bốn bộ đệ tử Thế tôn thọ trì kinh này cũng không tôn trọng hiến cúng, làm cho chúng con cùng thân thuộc, và vô lượng chư thiên, không ai được nghe diệu pháp rất sâu xa, mất vị cam lộ, mất nước chánh pháp, không còn uy quang và thế lực, nẻo dữ thêm lên, người trời bớt đi, rơi sông sinh tử, mất đường niết bàn. Bạch đức Thế tôn, bốn thiên vương chúng con, và những dược xoa tùy thuộc của chúng con, thấy như vậy nên bỏ quốc gia ấy, không có lòng nào hộ vệ. Chẳng những chúng con bỏ quốc gia của quốc vương ấy, mà các đại thiện thần có thệ nguyện hộ vệ đất nước cũng bỏ mà đi. Bỏ đi rồi, quốc gia ấy có đủ loại tai họa. Vị thế quốc gia bị mất (57) . Quốc dân không có thiện tâm. Chỉ có tù đày, tàn hại, hận thù, đấu đá, dèm pha, dua nịnh, cô thế oan khuất, tật dịch hoành hành, sao chổi thường xuất hiện, hai mặt trời cùng xuất hiện (58) , nhật thực nguyệt thực bất thường, hai cầu vồng đen trắng xuất hiện, sao sa, địa chấn, lòng giếng phát tiếng, mưa bạo, gió dữ, thời tiết hổn loạn, đói, mất mùa, kẻ thù và giặc giã thường từ xứ khác đến cướp phá xâm lược, quốc dân khổ sở, đất nước không có chỗ nào bình yên. Bạch đức Thế tôn, khi bốn thiên vương chúng con, vô lượng chư thiên thiện thần, cùng với thiện thần cũ hộ vệ quốc gia ấy, đều xa lánh cả, thì quốc gia ấy sinh ra lắm sự tai quái dữ dằng như vậy.

    Bạch đức Thế tôn, quốc vương nào muốn quốc gia vui vẻ, muốn quốc dân yên ổn, muốn chiến thắng ngoại địch cho đất nước thịnh vượng, muốn lưu bố chánh pháp cho nỗi khổ điều dữ tan biến, thì, bạch đức Thế tôn, quốc vương ấy nên lắng nghe kinh vua nhiệm mầu này, nên hiến cúng những người thọ trì kinh này. Làm như vậy thì chúng con với vô lượng chư thiên thiện thần, do cái thiện căn lực lắng nghe chánh pháp và uống cam lộ vị mà gia tăng thắng ích cho chúng con, cho tùy thuộc của chúng con, cho chư thiên thiện thần, tại sao, vì quốc vương ấy hết lòng lắng nghe tiếp nhận kinh này.

    Bạch đức Thế tôn, vì chúng sinh mà Phạn vương thường nói những luận thuyết xuất thế, mà Đế thích nói những luận thuyết đa dạng, và các tiên nhân ngũ thông cũng nói mọi thứ luận thuyết. Phạn vương, Đế thích và tiên nhân ngũ thông tuy có vô số luận thuyết, nhưng đức Thế tôn vì thương nhân loại và chư thiên mà tuyên thuyết kinh Ánh sáng hoàng kim thì, so với những luận thuyết trên, phẩm chất hơn đến vô số bội số, không thể nào ví dụ được nữa. Tại sao? Vì kinh ấy có năng lực làm cho bao nhiêu quốc vương của đại lục Thiệm bộ đều đem chánh pháp mà phục vụ quốc gia, có năng lực ban cho chúng sinh mọi sự an lạc, làm cho bản thân các quốc vương, cho hoàng gia và quốc dân của các quốc vương ấy, đều không bị khổ não, không bị giặc thù xâm lăng tàn hại, mọi sự dữ dằng đều đi rất xa, đất nước trừ hết tai họa, hoán cải bằng chánh pháp mà không còn mọi sự tranh tụng. Do vậy, các quốc vương mỗi người nơi quốc gia của mình hãy đốt lên ngọn đuốc chánh pháp mà soi sáng vô tận, tăng thêm chư thiên và tùy thuộc của chư thiên. Bạch đức Thế tôn, bốn thiên vương chúng con với vô lượng chư thiên thiện thần, bộ chúng dược xoa, với bao nhiêu chư thiên thiện thần trong đại lục Thiệm bộ, do việc làm của quốc vương ấy mà được uống cam lộ vị tối thượng, được đại uy đức, thế lực và ánh sáng có đủ tất cả, và tất cả chúng sinh cũng được yên ổn; vị lai thì vô số kiếp thường hưởng hạnh phúc; được gặp chư vị Thế tôn, gieo trồng thiện căn, để rồi chứng được vô thượng bồ đề. Vô lượng thắng ích như vậy toàn là do đức Thế tôn đem đại từ bi quá hơn Phạn vương, đem đại trí tuệ quá hơn Đế thích, đem đại khổ hạnh quá hơn các tiên nhân ngũ thông, đem những sự trải qua vô số kiếp ấy, vì chúng sinh mà tuyên thuyết bản kinh nhiệm mầu này, làm cho tất cả quốc vương và dân chúng trong toàn cõi đại lục Thiệm bộ hiểu được, trong phạm vi thế gian, những phương thức quản trị quốc gia và cải hóa quốc dân. Nhờ kinh này quảng bá mà nơi nào cũng được yên vui. Cái phước như vậy toàn là do từ bi lực của đức Thích tôn, vị thầy cao cả của chúng con, quảng bá rộng rãi kinh này. Bạch đức Thế tôn, vì vậy mà các quốc vương hãy thọ trì, hiến cúng cung kính tôn trọng tán dương bản kinh vua nhiệm mầu này. Tại sao, vì bản kinh này đem những phước đức bất khả tư nghị như vậy mà lợi ích tất cả, nên còn mệnh danh là bản kinh Chúa tể tối thượng. Bấy giờ đức Thế tôn dạy bốn thiên vương, các người, và tùy thuộc của các người, cùng với vô lượng chư thiên, thấy quốc vương nào hết lòng lắng nghe, hiến cúng cung kính tôn trọng tán dương kinh này, thì hãy hộ trì cho quốc vương ấy hết mọi suy tổn, và như vậy cũng làm cho các người hưởng thụ yên vui. Trong bốn bộ đệ tử của Như lai, ai quảng bá được kinh vua này, thì thế là ngay trong nhân loại và chư thiên, những người ấy làm việc Phật làm một cách rộng lớn, đem lại thắng ích cho vô số chúng sinh. Những người như vậy, bốn thiên vương các người hãy thường xuyên hộ vệ, đừng để họ bị việc khác quấy nhiễu. Hãy làm cho thân tâm của những người như vậy được yên tĩnh để quảng bá kinh vua này tồn tại liên tục, lợi ích chúng sinh cho đến cùng tận thì gian vị lai.

    Bây giờ Đa văn thiên vương từ chỗ ngồi đứng dậy mà thưa, bạch đức Thế tôn, con có một minh chú tên là Ngọc như ý. Người nào ưa thích thọ trì minh chú ấy thì công đức vô lượng. Con luôn luôn hộ vệ cho người ấy rời khổ được vui, có năng lực hoàn thành hai loại tư lương phước đức và trí tuệ. Muốn thọ trì minh chú ấy thì trước hết phải trì tụng minh chú giữ gìn bản thân. Đa văn thiên vương liền nói minh chú giữ gìn bản thân: Nam mô, Vai sra va na da ma ha ra ja da, tát da tha, ra, ra, ra, ra, ku nu, ku nu, khu nu, khu nu, sa pa, sa pa, ma ha vi ka ra ma, ma ha vi ka ra ma, ma ha ra ja, rát sa, rát săn tu, năng, sa ra, sát toa năng, soa ha. (Namo Vaisravanayamaharajaya tadyatha ra ra ra ra kunu kunu khunu khunu sapa sapa mahavikarama mahavikarama maharaja raksa raksantu nam sarva sattvanam svaha).

    Bạch đức Thế tôn, trì tụng minh chú này thì phải lấy chỉ trắng mà trì tụng bảy biến, mỗi biến thắt một gút, rồi buộc vào sau khuỷu tay, thì việc giữ gìn bản thân được thành tựu. Kế đó, phải tắm rửa sạch sẽ, mặc đồ sạch sẽ, rồi đem các hương liệu như an tức, chiên đàn, long não, tô hạp, đa yết la, huân lục, mỗi phần bằng nhau, trộn chung lại, tự tay bưng lò hương mà đốt hương liệu ấy để hiến cúng. Rồi ở trong cái phòng yên tĩnh (59) mà trì tụng mình chú triệu thỉnh con, Đa văn thiên vương. Đa văn thiên vương liền nói minh chú triệu thỉnh: Nam mô, Vai sra va na da, nam mô, Đa na đa da, Đa nết va ra da, a ka sá, a pa ri mi ta, đa nết va ra, pa ra ma, ka ru ni ka, sa va, sát toa hi ta chin ta, ma ma, đa na, va đa pa dê, soa dăm, a ka sa, soa ha. (Namo Vaisravanya namo Danadaya Danesvaraya akarsa aparimita danesvara parama karunika sarva sattvahitacinta mama dana vardhaparye svayam akarsa svaha).

    Trì tụng minh chú này bảy biến rồi mới trì tụng minh chú căn bản là minh chú Ngọc như ý. Muốn trì tụng minh chú Ngọc như ý thì trước hết phải xướng hồng danh mà kính lạy Tam bảo, rồi lạy con, [với lời này: kính lạy] Đa văn thiên vương, người có năng lực ban cho tiền tài bảo vật, làm cho sở cầu mãn nguyện, thành tựu an lạc. Xướng lạy như vậy rồi trì tụng minh chú Ngọc như ý của con, Đa văn thiên vương, minh chú có năng lực đem cho người sự vui vẻ tùy ý. Đa văn thiên vương liền đối trước đức Thế tôn mà nói minh chú Ngọc như ý: Nam mô, rát na tra da da, nam mô, Vai sra ma na da, ma ha ra ja da, tát da tha, si mi, si mi, su mu, su mu, chăn đa, chăn đa, cha rê, cha rê, sa ra, sa ra, ka ra, ka ra, ki ri, ki ri, ku ru, ku ru, mu ru, mu ru, chu ru, chu ru, sa đa da, át ma năm, nít dăm, ăn ta ra, đa tu, soa ha; nam mô, Vai sra ma na da, soa ha, đa na đa da, soa ha, na mô ra tha, pa ri pu ri ka da, soa ha. (Namo ratnatrayaya namo Vaisramanaya maharajaya tadyatha simi simi sumu sumu canda canda care care sara sara kara kara kiri kiri kuru kuru muru muru curu curu sadaya atmanam nityam antara dhatu svaha; namo Vaisramanaya svaha dhanadaya svaha namoratha paripurikaya svaha).

    [Bạch đức Thế tôn], thọ trì minh chú Ngọc như ý thì trước hết tụng một ngàn biến, sau đó, nơi trong tịnh thất (60) dùng cù ma (61) bôi đất, làm một đàn tràng nhỏ. Tùy thời mà đem ẩm thực nhất tâm hiến cúng. Thường xuyên đốt hương quí, sao cho khói hương không ngớt. Rồi tụng minh chú Ngọc như ý, ngày đêm tập trung tâm trí vào đó. Tụng sao chỉ tai mình tự nghe, đừng để ai biết. Thì bấy giờ sẽ có con của con, Đa văn thiên vương, tên là vương tử Thiền ni si, hiện thân đồng tử, đến chỗ người trì tụng, hỏi người cần gì mà kêu gọi phụ vương của tôi? Người trì tụng hãy trả lời, rằng tôi muốn hiến cúng Tam bảo nên cần tiền của, xin thiên vương ban cho. Vương tử Thiền ni si nghe lời ấy rồi, tức tốc trở về, tâu với con, rằng thưa phụ vương, nay có thiện nhân muốn chí thành hiến cúng Tam bảo mà thiếu tiền của, vì vậy mà triệu thỉnh phụ vương. Con bảo, con đi gấp đi, mỗi ngày đem cho thiện nhân ấy một trăm ca lị sa ba na (62) . Người thọ trì minh chú thấy như vậy thì biết việc thành được. Hãy một mình ở trong tịnh thất ấy, đốt hương mà nằm. Đặt một cái hộp thơm bên giường. Mỗi sáng sớm nhìn vào sẽ được của mình cầu. Mỗi khi được của thì nội ngày ấy hãy hiến cúng Tam bảo bằng hương hoa ẩm thực, lại đem cho những người nghèo thiếu. Phải sử dụng như vậy cho hết, không được cất giữ. Đối với chúng sinh phải sinh tâm từ bi, không được sinh lòng giận dữ, dối trá, dua nịnh, tác hại. Giận dữ thì tức khắc mất linh nghiệm. Phải thường xuyên giữ cho tâm chớ có giận dữ. Lại nữa, thọ trì minh chú Ngọc như ý thì mỗi ngày tưởng nhớ đến con, Đa văn thiên vương, cùng với con trai con gái thân quyến của con, ca tụng, tán dương, và thường đem mười thiện nghiệp mà hỗ trợ cho nhau, làm cho chư thiên chúng con phước lực càng sáng, thiện nghiệp càng lớn, chứng được bồ đề. Chư thiên chúng con thấy như vậy thì ai cũng rất hoan hỷ, cùng đến hộ vệ cho người thọ trì minh chú. Người thọ trì minh chú ấy thọ lượng lâu dài, vĩnh ly ba nẻo đường dữ, thường xuyên tuyệt hết tai nạn. Người ấy cũng được làm cho được ngọc như ý, được kho tàng ẩn trong lòng đất, thần lực tự tại, sở nguyện thành cả. Cầu quan chức, vinh hoa, không có gì không vừa ý. Lại còn hiểu được tiếng nói của chim muông.

    Bạch đức Thế tôn, thọ trì minh chú Ngọc như ý mà muốn nhìn thấy con tự hiện thân, thì ngày tám hoặc ngày rằm mỗi tháng, lấy vải trắng vẽ tượng đức Thế tôn, bằng cách dùng nhựa cây và nhiều màu mà tô vẽ. Người vẽ tượng phải được truyền thọ cho giới Bát quan trai. Bên trái tượng đức Thế tôn thì vẽ tượng Cát tường thiên nữ, bên phải tượng đức Thế tôn thì vẽ con, Đa văn thiên vương. Lại vẽ con trai con gái thân quyến của con. Rồi đặt để cho đúng phép. Bày ra bông hoa đủ màu, đốt lên hương liệu danh tiếng. Thắp đèn sáng luôn, ngày đêm không tắt. Aẫm thực thượng hạng và tinh tế, những thứ quí lạ, đều đem lòng thiết tha mà hiến cúng theo lúc. Thọ trì minh chú Ngọc như ý thì không được với tâm trí dễ dãi. Và khi triệu thỉnh con thì tụng minh chú này: Na ma hơ, Sri, kăn na da, bút đa da, nam mô, Vai sra ma na da, dát sa ra ja da, ma ha ra ja, a đi ra ja da, na ma hơ, sri dê, ma ha đêv dê, tát da tha, ta ra, ta ra, tu ru, tu ru, ba la, ba la, su sút đi, ha na, ha na, ma ni ka na ka, va rát vai đu ry da, múc ti ka lăm kri ta, sa ra ra da, sar va sát toa, hi ta ka ma, Vai sra ma na sri da, đê vi pra đa ya, ê hi, ê hi, ma vi lăm ba, gu ri na, gu ri na, pra si da, pra si da, đa đa hi, ma ma, a na ka na ma da, đa sá na, ka ma si da, đa săn năn, ma ma, ma na, pa ri ha ra đa da, soa ha. (Namah Sri kannaya buddhaya namo Vaisramanaya yaksarajaya maharaja adhirajaya namah sriye mahadevye tadyatha tara tara turu turu bala bala susuddhi hana hana manikanaka vajravaidurya muktikalamkrsta sariraya sarvasattva hitakama Vaisramanasriya devipradhaya ehy ehi mavilamba ghurna ghurna prasya prasya dadhahi mama amakanamaya darsana kamasya darsanan mama mana pariharadhaya svaha).

    Bạch đức Thế tôn, nếu con thấy người ấy tụng trì minh chú, lại thấy hiến cúng trang trọng như vậy, thì thương mến và hoan hỷ. Con liền biến thể làm thân thiếu nhi, thân lão trượng, hay thân Bí sô, tay cầm ngọc như ý và túi vàng mà vào đạo tràng, thân thì thể hiện tôn kính, miệng thì niệm hồng danh của đức Thế tôn, rồi nói với người thọ trì minh chú Ngọc như ý, rằng tùy người cầu gì tôi cũng làm cho như nguyện. Muốn ẩn rừng rú, muốn chế tạo ngọc, muốn mọi người yêu mến, muốn những thứ bạc vàng, muốn trì minh chú nào cũng linh nghiệm, muốn thần thông, trường thọ, thắng diệu lạc, không có gì không vừa ý. Tôi nay chỉ nói mấy việc như vậy. Muốn cầu gì nữa thì cũng tùy ý thành tựu. Kho báu thì vô tận, phước đức thì vô cùng. Giả sử mặt trời mặt trăng sa xuống mặt đất, hoặc đại địa có lúc di chuyển vị trí, lời nói chắc thật của tôi cũng không bao giờ vô hiệu quả, yên vui thường có, hạnh phúc tùy tâm.

    Bạch đức Thế tôn, có ai thọ trì kinh vua Ánh sáng hoàng kim mà đọc tụng minh chú Ngọc như ý, thì không mượn sự mệt nhọc nhiều lắm mà linh nghiệm vẫn mau chóng thành tựu. Bạch đức Thế tôn, nay con vì bao kẻ nghèo nàn, khốn khó, khổ não, mà tuyên thuyết minh chú Ngọc như ý là để cho họ được lợi ích lớn lao, được giàu vui, tự tại, vô bịnh, cho đến suốt đời vẫn được con hộ vệ, theo dõi người thọ trì minh chú mà loại trừ cho họ bao nhiêu tai ách. Con lại làm cho những người quảng bá mà duy trì kinh vua Ánh sáng hoàng kim, và những người thọ trì minh chú Ngọc như ý, trong chu vi mỗi phía trăm bước, được ánh sáng chiếu đến. Cả ngàn thần dược xoa của con cũng thường hộ vệ, tùy ý sai sử, họ làm vừa lòng cả. Con nói chân thành, không rỗng, không dối, chỉ có đức Thế tôn chứng biết cho con.

    Bấy giờ, khi Đa văn thiên vương nói về minh chú Ngọc như ý rồi, đức Thế tôn dạy, rằng lành thay thiên vương, ông có năng lực xé nát mạng lưới nghèo khổ cho chúng sinh, làm cho họ giàu, vui, nên đã tuyên thuyết minh chú Ngọc như ý. Ông lại làm cho kinh vua này quảng bá cả thế giới.

    Bốn vị thiên vương cùng từ chỗ ngồi đứng dậy, vắt vạt áo một bên vai, đảnh lễ ngang chân đức Thế tôn, rồi gối bên phải quì xuống chấm đất, chắp tay cung kính, đem chỉnh cú tuyệt diệu mà tán dương đức Thế tôn.

    (1) Khuôn mặt Thế tôn

    như trăng tròn sáng,

    như ngàn mặt trời

    phóng ánh quang minh.

    Mắt trong dài rộng

    như cánh sen xanh.

    Răng thì đều khít

    trắng như tuyết ngọc.

    (2) Đức tính Thế tôn

    vô biên như biển,

    bao phẩm chất quí

    dồn lại ở đây;

    nước đại giác tuệ

    được giữ dẫy đầy,

    ngọc đại thắng định

    sung mãn trong đó.

    (3) Bàn chân chỉ tròn

    bố trí tuyệt đẹp,

    bằng phẳng vững vàng

    như bánh xe êm (63) .

    Các ngón tay chân

    có mạng tuyệt đẹp,

    tựa như mạng chân

    của con nga vương.

    (4) Thân thể Thế tôn

    núi vàng sáng rực,

    trong sạch đặc thù

    không ai sánh bằng,

    lại đầy phước đức

    như núi Diệu cao:

    chúng con kính lạy

    Núi chúa như vậy.

    (5) Tướng hảo vô lượng

    tựa như không gian,

    phóng ra ánh sáng

    hơn ngàn mặt trời;

    coi như huyễn ảo

    bất khả tư nghị:

    chúng con kính lạy

    đấng Không vướng mắc.

    Bốn thiên vương tán dương đức Thế tôn rồi, Ngài cũng nói lại bằng những chỉnh cú sau đây.

    (6) Ánh sáng hoàng kim

    kinh tối thượng này

    là được tuyên thuyết

    bởi đấng Vô thượng.

    Thiên vương các người

    hãy thường hộ vệ;

    hãy có tâm chí

    dũng mãnh bất thoái.

    (7) Kinh này quí báu

    cùng cực sâu xa,

    năng lực làm cho

    chúng sinh yên vui.

    Bởi vì làm cho

    chúng sinh yên vui,

    nên thường lưu hành

    đại lục Thiệm bộ.

    (8) Nhưng làm cho cả

    đại thiên thế giới

    bao loại chúng sinh

    trong thế giới ấy,

    nhất là địa ngục

    ngạ quỉ bàng sinh,

    những nẻo khổ ấy

    đều được loại trừ.

    (9) Những vị quốc vương

    toàn cõi Thiệm bộ,

    cùng với bao nhiêu

    quốc dân của họ,

    cái lực kinh này

    làm cho hoan hỷ,

    và được hộ vệ

    giữ cho thanh bình.

    (10) Tất cả nhân loại

    trong đại lục này

    không bịnh không khổ

    không giặc không cướp;

    nhờ trong quốc gia

    quảng bá kinh này,

    quốc dân yên ổn

    sung túc vui thỏa.

    (11) Những ai lắng nghe

    bản kinh vua này,

    muốn cầu cao sang

    cầu tài cầu lợi,

    cầu cho đất nước

    phong phú thái bình,

    tùy tâm cầu nguyện

    thỏa mãn tất cả.

    (12) Giặc từ xứ khác

    cũng làm lui mất,

    trong quốc gia mình

    thường sống yên ổn;

    chính nhờ cái lực

    của kinh vua này

    mà thoát khổ não

    mà không lo sợ.

    (13) Tựa như cây ngọc

    ở chính trong nhà

    thì sinh tất cả

    công cụ hạnh phúc;

    bản kinh tối thượng

    cũng là như vậy,

    ban cho quốc vương

    bao nhiêu thắng phước.

    (14) Như nước trong sạch

    mà lại mát ngọt,

    thì trừ được hết

    cái nóng đói khát;

    bản kinh tối thượng

    cũng là như vậy,

    ai ưa phước lạc

    làm cho thỏa mãn.

    (15) Như kẻ trong nhà

    có hộp ngọc quí,

    thì sự hưởng dụng

    toàn theo ý muốn;

    bản kinh tối thượng

    cũng là như vậy,

    phước lạc tùy tâm

    không thiếu thốn gì.

    (16) Thiên vương các người

    cùng với chư thiên

    hãy nên hiến cúng

    bản kinh vua này;

    phụng trì kinh này

    theo lời Như lai,

    thì đủ tất cả

    trí tuệ uy thần.

    (17) Hiện tại mười phương

    chư vị Như lai

    cùng nhau hộ trì

    bản kinh vua này;

    thấy ai đọc tụng

    thọ trì kinh này

    thì khen lành thay,

    rất là hiếm có!

    (18) Những ai lắng nghe

    bản kinh vua này,

    thân tâm phấn chấn

    hoan hỷ tràn ngập;

    thường có trăm ngàn

    bộ chúng dược xoa

    ở đâu cũng theo

    mà hộ vệ cho.

    (19) Thế giới hệ này

    bộ chúng chư thiên

    số lượng vô lượng

    không thể nghĩ bàn,

    ai cũng lắng nghe

    bản kinh vua này

    hoan hỷ hộ vệ

    chứ không thoái chuyển.

    (20) Những ai lắng nghe

    bản kinh vua này,

    thì uy đức mạnh

    thì tự tại luôn;

    làm cho tăng thêm

    nhân loại chư thiên,

    làm hết suy bại

    làm thêm ánh sáng.

    Bốn thiên vương nghe những lời chỉnh cú này rồi hoan hỷ phấn chấn, thưa rằng bạch đức Thế tôn, từ xưa đến nay chúng con chưa từng được nghe pháp âm thậm thâm vi diệu như thế này, trong lòng vừa mừng vừa tủi, mắt mũi trào nước, cả người chấn động, chứng được sự thể hiếm có, bất khả tư nghị. Các thiên vương liền lấy thiên hoa mạn đà và đại mạn đà tung rải trên đức Thế tôn. Họ hiến cúng một cách thù thắng như vậy rồi, lại thưa, bạch đức Thế tôn, bốn thiên vương chúng con ai cũng có năm trăm dược xoa tùy thuộc, sẽ thường xuyên hộ vệ kinh này, và vị pháp sư tuyên thuyết kinh này, đem ánh sáng trí tuệ mà hỗ trợ. Vị pháp sư ấy có quên chữ nghĩa nào trong kinh vua này, thì chúng con làm cho vị ấy nhớ lại, không quên. Chúng con cũng hiến cho vị pháp sự ấy minh chú thù thắng, để vị ấy được toàn hảo. Lại làm cho bản kinh vua tối thượng này ở đâu thì quảng bá cho người, không mau chóng ẩn mất.

    Khi ở trong đại hội, đức thế tôn tuyên thuyết pháp thoại này, thì vô lượng chúng sinh được sự hùng biện đầy trí lớn thông minh, thu thập cái khối phước đức vô số lượng, rời lo buồn, phát hoan hỷ, khéo hiểu mọi thứ luận thuyết, bước lên trên đường thoát ly, không còn thoái chuyển mà mau chóng chứng được vô thượng bồ đề.
    VÔ CÔNG DỤNG HẠNH - VÔ KHUẤT LIỄU HẠNH - VÔ CẤU PHÁP - VÔ TÁT Ý - VÔ SỞ ĐẮC - VÔ SỞ CẦU - VÔ SỞ TRỤ - VÔ SỞ ÚY

  15. #15

    Mặc định

    Kinh tạng thì quả khó học, khó nhớ chỉ tâm bồ đề hướng việc thiện tránh điều giữ gần điều lành là dễ thực hành sẽ được lợi lộc không kể xiết cho nhiều đời nhiều kiếp! kể cả hiện tiền !
    :thumbs_up:the
    NAM MÔ A DI ĐÀ PHẬT :not_worthy::not_worthy:!!!Nguyện sinh tây phương tịnh độ trung, cửu phẩm liên hoa vi phụ mẫu, hoa khai kiến Phật ngộ vô sinh bất thối chuyển Bồ Tátwellcome1

Thread Information

Users Browsing this Thread

There are currently 1 users browsing this thread. (0 members and 1 guests)

Similar Threads

  1. Kinh Địa Mẫu - Bản 01
    By Love_Tamlinh in forum Quang Minh Tu Đức
    Trả lời: 27
    Bài mới gởi: 24-09-2013, 03:30 PM
  2. Vòng ánh sáng màu xanh .
    By AXua in forum Hỏi Đáp, Tư Vấn
    Trả lời: 13
    Bài mới gởi: 08-01-2011, 12:42 PM
  3. Nguồn gốc loài người
    By compassion in forum Đạo Phật
    Trả lời: 11
    Bài mới gởi: 05-01-2011, 01:37 PM
  4. Nghệ Thuật Sáng Tác Dưới Ánh Mắt Phật Giáo
    By bienvasong in forum Đạo Phật
    Trả lời: 1
    Bài mới gởi: 20-12-2010, 07:36 PM

Bookmarks

Quyền Hạn Của Bạn

  • You may not post new threads
  • You may not post replies
  • You may not post attachments
  • You may not edit your posts
  •