TRỞ VỀ ÐẠO PHẬT

BÁC SĨ TRÍ & ÐỨC TÂM
(Ghi chép theo băng giảng của Sa Môn Thích Thông Lạc)


Nam mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật.

Trước khi tôi kể lại sự tu hành trong ba năm nhập thất xin quí vị cùng tôi niệm hồng danh
Ðức Phật. Trước là để tưởng nhớ công ơn của Người đã chịu bao nhiêu gian nan khó khổ và còn phải dày công tu tập trên đường tìm chân lý giải thoát. Người đã chứng nghiệm được sự giải thoát nơi thân tâm của mình, rồi mới đem dạy lại cho chúng ta. Nhờ thế ngày nay chúng
ta mới có đường lối tu hành chân chánh.

Bây giờ quí Phật tử chắp tay lên cùng tôi niệm Phật ba lần.

Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật (3 lần).

Niệm Phật xong xin quí Phật tử chắp tay lại, đem cả lòng thanh tịnh không còn chút bợn nhơ của thế tục kính cẩn chào nhau. Ðó là chúng ta, những người con Phật phải thể hiện đức hạnh trong muôn ngàn đức hạnh của Ðạo Phật.

Bắt đầu quí vị chắp tay lên, mắt hướng về tượng Phật cúi đầu chào nhau.

Hôm nay là ngày ra thất của tôi sau ba năm nhập thất tu hành (ba năm nhập thất là ba năm làm gương cho chúng tu tập chứ tôi đã tu hành xong).

Kính thưa quí vị Phật tử! quí vị đã không ngại đường xá xa xôi, dành những thì giờ quí báu, cùng bỏ những công ăn việc làm để huân tập về đây với lòng chân thành ngưỡng mộ sự tu hành của tôi và cũng để tìm hiểu pháp môn tu hành của tôi có kết quả hay không? Và kết quả ấy có lợi ích trong đời sống thiết thực của con người hay không? Sự giải thoát kết quả mà tôi đã tu tập có phải là sự giải thoát của Ðạo Phật hay không?

Ðể trả lời những câu hỏi thắc mắc trên đây của quí vị tức là tôi kể lại sự tu hành của tôi và chính cũng là giải toả được mối nghi ngờ trong tâm của quí vị.

Kính thưa quí vị Phật tử! Từ lâu quí vị đã hướng thân tâm của mình về Phật pháp, từng đi chùa lễ phật, tụng kinh, bái sám, từng đi nghe thuyết giảng kinh sách, từng để tâm nghiên cứu học hỏi giáo pháp của Ðức Phật, với một lòng chân thành. Nhưng quí vị rất đau lòng và nghi ngờ Phật pháp vì tận mắt quí vị đã thấy, tai quí vị đã nghe các bậc chân tu mà quí vị đã từng gặp trong cuộc đời của mình. Các vị ấy là bậc Thầy Tổ của quí vị, đã từng hướng dẫn cho quí vị biết Phật pháp, biết tu học Phật pháp, đã từng chỉ dạy cho quí vị biết cách thức tu tập như: niệm Phật, niệm chú, tụng kinh, ăn chay, ngồi thiền, làm các điều lành và còn dạy cho quí vị biết thiền quán xả tâm, tham thiền nhập định theo thiền Ðông Ðộ, thiền Yoga. Mỗi vị đều đem hết khả năng tu học của mình chỉ dạy cho quí vị để quí vị đạt được sự giải thoát. Nhưng khi ra đi các vị ấy không giải thoát, phải chịu đau khổ trên giường bệnh, nhức nhối khổ sở trong các cơn đau, mệt mỏi thở chẳng ra hơi, hay lẫn lộn quên trước, quên sau khi tuổi già sức yếu.

Suốt cuộc đời quí vị Phật tử đã chứng kiến biết bao nhiêu cảnh trạng đau lòng của Thầy Tổ mình, giải thoát đâu không thấy, chỉ thấy toàn một sự đau khổ, thì làm sao quí vị không nghi ngờ Phật pháp được?

Ngược lại những gì quí vị đã học trong kinh điển nói về các Tổ và các Thiền sư tu như thế nào mà khi chết được tự tại làm chủ sanh tử luân hồi mà thế mà hiện giờ thì không thấy có vị nào chết được tự tại, hay đây chỉ là huyền thoại để lừa bịp người sau chăng?


Ðể trả lời câu hỏi thứ nhất:
Pháp môn tu hành của tôi là Pháp môn nào?

Xin trả lời, tôi tu hành theo pháp môn Giới, Ðịnh, Tuệ của Ðức Phật. Trước khi chưa tu, là một tăng sinh đang học Phật pháp, tôi đã từng học qua những lời di chúc của Ðức Phật. Lời di chúc là lời dạy sau cùng của Ðức Phật trước khi Ngài nhập Niết bàn.

Lời di chúc thứ nhất Ðức Phật dạy: "Này các Tỳ kheo, các con hãy lấy Giáo Pháp và Giới Luật của ta làm Thầy và làm chỗ nương tựa để tu hành vững chắc khi ta nhập Niết bàn". Lời dạy này tôi ghi khắc mãi không quên và không bao giờ quên ông Thầy của chúng tôi là Giới Luật, là chỗ nương tựa vững chắc cho sự tu hành của chúng tôi ngày mai.

Lời di chúc thứ hai Ðức Phật dạy: "Giới Luật còn là Phật còn tại thế, Giới Luật mất là Phật mất". Lời dạy này cho thấy hình ảnh Giới Luật là hình ảnh của Ðức Phật, nên tôi nghiêm khắc mình trong Giới Luật không để vi phạm một lỗi nhỏ nhặt nào. Tôi lấy đó làm giai đoạn tu hành thứ nhất của mình.

Lời di chúc thứ ba: Ta thành Chánh giác là nhờ tâm không phóng dật, các pháp lành đều nhờ đó mà sanh, các Tỳ kheo hãy nhớ lấy mà tu tập.

Lời di chúc thứ tư đó là lời di chúc không lời, khi nhập niết bàn, Ðức Phật nhập từ Sơ
Thiền đến Tứ Thiền, nhập đi nhập lại tới ba lần rồi mới chịu nhập niết bàn.

Kính thưa quí vị, ở đây Phật muốn nhắc nhở người sau phải ráng công tu tập thiền định này đừng bao giờ tu tập thiền định nào khác. Vì trong cuộc sống của chúng ta hiện giờ, trong thời Ðức Phật và cũng như ở ngày mai vậy, có biết bao nhiêu thứ thiền mà chẳng có thiền nào đưa chúng ta đến giải thoát được thân tâm và chấm dứt sự tái sanh luân hồi. Cho nên Phật chỉ định có thứ thiền này mới làm chủ được sanh tử, tự tại bỏ báo thân chấm dứt được tái sanh luân hồi mà thôi. Vậy xin quí vị Phật tử hãy lưu ý chỗ này. Khi nhập xuôi nhập ngược ba lần xong, thì Ngài nhập Tứ Thiền xả bỏ báo thân, nhập niết bàn. Thể theo những
lời di chúc này tôi tu tập ngày đêm không biết mệt mỏi, ốm đau, quyết không bỏ giờ tu suốt ba năm trời trong thất chịu từng đắng cay gian khổ để chiến đấu với tạp khí thói quen tật xấu với nghiệp lực quá nặng nề, với tâm tham ái, dục vọng dẫy đầy. Nhiều khi tôi tưởng chừng không thắng nổi. Nhưng với sự bền lòng, kiên cường, gan dạ, dũng cảm quyết liệt tôi đã chiến thắng thân tâm của chính mình và chứng nghiệm được sự giải thoát của Ðạo Phật.

Ðể trả lời câu hỏi thứ hai:
Sự tu hành của tôi có kết quả hay không?

Kính thưa quí vị! Giới luật là pháp môn tu để giải thoát được đời sống của con người. Tôi đã chứng nghiệm được điều này rất thực tẽ và cụ thể. Ví dụ trước kia tôi ăn ngày ba bữa, bây giờ ăn ngày một bữa, không ăn uống lặt vặt gì hết, cơ thể thì rất khỏe mạnh, ít bị bệnh tật, suốt ngày không lo về ăn uống gì cả, tâm ít vọng tưởng, ít ngủ. Ăn ngày một bữa, tôi tìm
thấy giải thoát được hai bữa ăn và đầu óc ít nghĩ bậy bạ, tâm không ham muốn và không ham ngủ. Sự giải thoát chân thật cụ thể này thì quí vị không thể nào phủ nhận được. Cũng từ trong sự tu giới luật này tôi đã được giải thoát nhiều điều trong đời sống hàng ngày. Nhưng thì giờ có hạn không cho phép tôi kể dông dài làm mất thì giờ của quí vị vô ích.

Thưa quí vị, thiền định của Ðạo Phật từ Sơ Thiền đến Tứ Thiền là những pháp môn giải thoát, tự tại sanh tử, làm chủ sự sống chết của thân tâm, tôi nhận biết rõ ràng bằng cách chứng nghiệm rất cụ thể. Ví dụ: Tôi nhập Tứ Thiền suốt một tuần lễ, nửa tháng hoặc một tháng, không ăn uống gì hết, không đi đại tiểu tiện, không mệt nhọc, không có đau khổ và cũng không chết. Xuất định, tôi cảm thấy nhẹ nhàng, an lạc. Ðó là một bằng chứng rất cụ thể. Như vậy sự tu hành của tôi sống đã có giới luật, tâm ly dục ly ác pháp nên tâm hồn bất động và chết đã có thiền định, làm chủ được hơi thở nên tôi cũng đã có sự giải thoát ở mức cao độ, vì thế tôi cần phải có sự hiểu biết về vô lậu của mình. Sự hiểu biết vô lậu là do trí tuệ của tôi. Vì thế tôi phải thực hiện Tam Minh, trong đó, lậu tận minh là trí tuệ cuối cùng của tôi. Ðến đây tôi đã có đủ: giới, định, tuệ theo con đường tu tập của tôi mà Ðức Phật đã vạch ra và chỉ dạy từ ngàn xưa.


Ðể trả lời câu hỏi thứ ba:
kết quả ấy có thiết thực giải thoát cho đời người hay không?

Sau ba năm nhập thất này tôi chỉ nhập thất làm gương cho chúng tu hành, chứ riêng tôi tu hành đã thành tựu vào năm 1980. Sự nhập thất lần này (năm 1994, chú thích của người ghi) mục đích là đem kinh nghiệm của mình dạy lại cho người khác. Vì thế, không phải riêng có tôi mà còn có những người đang nhập thất với tôi, ngoài ra còn có những người cư sĩ đang sống tại gia đình cũng như Cô Út, người phục vụ cơm nước cho chúng hằng ngày ở đây và cháu Ðào ở Phước Hải. Họ được nghe băng của tôi, tự nghiêm khắc mình trong giới luật bằng ba hạnh ăn, ngủ và độc cư. Họ cũng đã chứng nghiệm được sự giải thoát và đang chủ động điều khiển diệt tầm tứ trong hơi thở để chuẩn bị sự nhập định phá thọ làm chủ thân
tâm. Hiện giờ tôi chưa cho phép họ nhập định vì họ chưa ly dục và ác pháp hoàn toàn, họ còn phải học xong và sống đúng giới luật đức hạnh giải thoát của Ðạo Phật thì sẽ không lọt vào thiền tưởng. Tại sao? Vì giới luật và đức hạnh là pháp môn đầu tiên của Ðạo Phật, là bước đường đầu tiên đi vào con đường giải thoát của đạo.

Tóm lại, tôi cũng đã có những người chứng nghiệm được sự giải thoát chân thật nhưng chưa phải viên mãn hoàn toàn. Vì giai đoạn nhập định là giai đoạn khó nhất, nếu ly dục ly ác pháp chưa xong thì rất là nguy hiểm, có thể rơi vào thiền tưởng và cũng có thể loạn óc
điên khùng. Nhưng có điều chắc chắn hiện giờ đứng trước cuộc sống nghèo đói, bịnh tật, tử
vong tôi chẳng hề nao núng, vì làm chủ được tâm mình.

Tôi không còn bị chướng ngại hoặc bị các ác pháp cám dỗ bằng bất cứ hình thức nào và chẳng còn biết sợ hãi mọi điều gì cả, tuy rằng tôi chưa chuyển được toàn diện nhân quả.

Ðể trả lời câu hỏi thứ tư :
Sự giải thoát đó có phải của Ðạo Phật hay không?

Kính thưa quí vị! quí vị hãy vui lòng đọc lại các Kinh điển Nguyên Thủy của Ðạo Phật, rồi nghiệm lại đời sống của Ðức Phật và đời sống của chúng tôi. Ðời sống của Ðức Phật:

• Ăn ngày một bữa, không ăn uống lặt vặt phi thời.
• Ngủ ít.
• Không có của cải, châu báu, ngọc ngà, tiền bạc và cũng không có chùa to, Phật lớn sang đẹp.
• Sống lấy gốc cây làm giường nằm, chết dưới gốc cây.

Hiện giờ chúng tôi cũng sống như vậy: không ăn uống lặt vặt phi thời. Nhà ở bằng cây tầm vông, vách bằng liếp đan và nếu đủ duyên chúng tôi sẽ sống trong hang núi và cũng chết dưới gốc cây như Ðức Phật. Ðó là lối sống của Ðức Phật và lối sống của chúng tôi đều giống nhau. Cho nên quí vị không thể nào nói rằng chúng tôi tu sai pháp Phật được.

Phần làm chủ thân tâm thứ hai cũng rất cụ thể. Ðức Phật tuyên bố trước mọi người còn ba tháng nữa ta sẽ nhập Niết Bàn. Ðiều này Ðức Phật đã giữ đúng lời hứa. Chúng tôi đã nhập được Tứ Thiền phá được thọ tịnh chỉ đươc hơi thở, cho nên chúng tôi cũng làm được điều này khi chúng tôi muốn dứt bỏ báo thân.

Kính thưa quí vị! Chúng tôi có làm khác Ðức Phật hay không? Ở đây quí vị không thể nào viện một lý do gì bảo rằng chúng tôi tu sai pháp Phật được. Xưa Ðức Phật đã làm được điều gì thì bây giờ tôi cũng làm được như vậy. Tuy rằng tôi không giảng Kinh, thuyết pháp như các Thầy khác nhưng tôi thân giáo bằng hành động thân, khẩu, ý bằng sự sống của tôi để hướng dẫn người qua kinh nghiệm bản thân của mình hơn là ngôn ngữ. Vì sự hướng
dẫn này theo tôi nghĩ là thực tế và cụ thể hơn.

Trên đường tu theo Ðạo Phật tôi tu hành như vậy không còn sợ sai trái với Ðạo Phật và không còn sợ mọi ảnh hưởng của các tôn giáo khác đang đồng hóa Ðạo Phật.

Kính thưa quí vị Phật tử! Khi nghe tôi nói đến đây, quí vị nên nghỉ xả hơi một chút để ngồi
suy ngẫm những gì tôi đã nói ra có đúng hay sai. Nếu quí vị thấy có điều sai thì xin quí vị cho biết thêm những ý kiến để tôi chứng minh những lời Phật dạy, khiến cho quí vị không còn
nghi ngời nữa.

Bây giờ chúng ta tiếp tục lại câu chuyện còn đang dở dang.

Sau khi đã được trả lời những câu hỏi mà bấy lâu nay quí vị đã từng ôm ấp trong lòng, hằng chờ đợi đến ngày ra thất của tôi. Nay quí vị đã được giải bày thông suốt. Nhưng tôi biết chắc quí vị còn một điều muốn thưa hỏi, đó là con đường thiền Ðông Ðộ mà Thầy chúng tôi (Hoà Thượng Thanh Từ) đã ra công triển khai và chấn hưng suốt 24 năm nay, kể từ năm 1970,
cho đến nay, quá trình thời gian rất dài. Nhưng nhìn lại trong đó không thấy có kết quả gì thì mọi người cũng phải nghi ngờ, thời gian là một xác chứng cụ thể của con đường thiền đó,
mà không chứng minh được, do đó quí vị phải có một mối nghi trong tâm là đúng, nhưng còn e ngại chưa muốn hỏi tôi, tôi hứa sẽ giải nghi cho quí vị nếu có đủ thì giờ bằng không chúng
ta phải chờ một dịp khác. Bây giờ chúng ta trở lại vấn đề.

Kính thưa quí vị Phật tử! Nãy giờ quí vị đã suy ngẫm những gì tôi đã nói, tôi xin nhắc lại, quí vị đã biết rằng ai là Thầy của quí vị thì người đó sẽ dẫn dắt quí vị trên đường tu theo Ðạo Phật mà không hề sợ lạc lối. Tôi xin hỏi quí vị một lần nữa, Thầy của quí vị là ai? quí vị cứ trả lời xem, đừng dựa vào huyền sử 33 vị Tổ sư Thiền Ðông Ðộ và Trung Hoa, vì đó là sự dựng lên những trang sử không có thật của người sau.

Kính thưa quí vị! Nãy giờ quí vị không trả lời là vì quí vị còn dè dặt, để tôi trả lời thay cho quí vị.

Kính thưa quí vị! Cứ theo kinh sách Nguyên Thủy thì Thầy của quí vị không phải là chúng tôi. Chúng tôi là những con người bằng xương bằng thịt như quí vị, chúng tôi cũng không được Ðức Phật chỉ định làm người thừa kế dẫn dắt quí vị trên đương tu theo Ðạo Phật. Cho nên quí vị đừng nương tựa theo chúng tôi tu hành. Nương tựa theo chúng tôi tu hành sẽ có nhiều điều bất lợi và khó khăn cho quí vị:

1.- Chúng tôi không phải là người thừa kế của Ðạo Phật, vì thế quí vị không đủ niềm tin đối với chúng tôi. Khi quí vị nghe người ta nói xấu chúng tôi, cho chúng tôi tu hành không đúng Ðạo Phật, tu theo ngoại đạo thì chừng đó quí vị còn đủ niềm tin đối với chúng tôi chăng?

2.- Thời điểm hiện giờ Phật Giáo suy thoái. Người tu sĩ Phật Giáo đắm danh hám lợi, lòng ganh tị nhỏ nhen ích kỷ hẹp hòi và tinh thần tỵ hiềm cao độ.

3.- Pháp môn tu hành của Ðạo Phật hiện giờ đã bị lẫn lộn nhiều pháp môn của ngoại đạo khó phân biệt tà chánh.

4.- Các bậc Tôn túc đi trước tu hành sai, người sau không dám sửa đổi sợ Thầy Tổ buồn phiền. Thầy chúng tôi là Hòa Thượng Thích Thanh Từ tu thiền, Hòa thượng Thiện Hoa là Thầy bổn sư nhưng không vừa ý.

5.- Lòng người còn ham danh đắm lợi ham mê sắc dục không muốn rời xa 5 thứ dục lạc của thế gian (danh, lợi, sắc, thực, thùy).

6.- Ðời người còn lạc hậu, nặng lòng mê tín, thường cầu khẩn, bái lạy, tụng kinh, niệm chú, lấy uy lực chư Phật làm chỗ nương tựa tu hành, không tự cứu mình.

7.- Ham mê thần thông, bùa chú linh hiển, tin chuyện quá khứ vị lai.

8.- Lòng người bây giờ thiếu thành thật, thường dối Thầy, dối Tổ, dối mình và dối người khác.

9.- Ham danh học thức cao, chạy theo cấp bằng này, cấp bằng nọ.

10.- Những bậc chân tu không xu hướng chính trị bên này bên kia thì bị cô lập.

Do 10 điều trên đây quí vị không nên theo tôi tu hành vì rất khó khăn cho quí vị và cho tôi. Vả lại theo tôi tu hành đông đảo chắc chắn sẽ để lại một trang sử Phật giáo không tốt đẹp. Xưa Huệ Khả bị giết, Lục Tổ Huệ Năng bị hành thích, gần đây Tổ Sư Minh Ðăng Quang bị bắt cóc mất tích, ông Ðạo nằm Nguyễn văn Thế bị ám sát bắn chết tại chùa.

Kính thưa quí vị Phật tử, người Thầy của quí vị chính là Giới Luật. Giới Luật là người thừa kế của Ðức Phật và đã được Ðức Phật chỉ định trước giờ nhập Niết bàn. Chính chúng tôi tu học cũng từ Ông Thầy Giới Luật mà có được như ngày hôm nay. Vậy quí vị hãy trở về nương tựa nơi ông Thầy Giới Luật của quí vị đi. Ðừng nương tựa vào ai hết dù bất cứ ông Thầy nào, họ là những con mọt kinh sách, chẳng có một chút kinh nghiệm gì trên đường tu tập. Họ chỉ nói bằng miệng mà cuộc sống tu hành chẳng có kết quả gì. Họ đâu biết rằng kinh sách hôm nay là do tam sao thất bổn, có nghĩa là ba lần sao chép làm cho Kinh mất gốc, không đúng lời Phật dạy.

Kính thưa quí vị, vả lại còn do tưởng giải của người sau thêm bớt quá nhiều theo kiến thức hiểu biết của họ rồi cho rằng đúng, do đó họ đã làm lệch lạc con đường tu hành của Ðạo
Phật ở đời sau. Họ không dám tu giới luật, lúc nào cũng tìm cách tránh né viện cớ này cớ kia hoặc chạy theo con đường phá giới, phá oai nghi tế hạnh của Ðạo Phật.

Tóm lại chẳng ai chịu nghe Ông Thầy Giới Luật nên tình trạng Phật Giáo mới ra nông nỗi này.

Họ dám bẻ vụn Giới Luật, biến Phật giáo thành Thần Giáo, ông Phật thành ông Thần. Hiện giờ Chùa là nơi cúng bái cầu siêu, cầu an, cầu tài, cầu lợi, xin xăm bói quẻ, cúng sao giải hạn, coi ngày giờ tốt xấu, dựng vợ gả chồng,... Vì thế chùa là nơi mê tín dị đoan.

Họ dám bẻ hỏng Giới Luật, biến chùa thành Nghĩa địa nhà mồ vì tư lợi nhỏ mọn cá nhân để Phật tử tới lui cúng bái và giỗ chạp làm tuần, làm tự, cúng vongm tiễn linh lúc nào cũng ồn náo; biến chùa thành nơi phục vụ mê tín cho những người Phật tử còn lạc hậu.

Họ dám bẻ hỏng giới luật và giáo pháp của Phật, biến chùa thành khu du lịch để làm nơi ăn chơi của Phật tử, của khách hành hương tham quan du ngoạn. Bắt Tăng, Ni phục vụ cơm nước để được lòng Phật tử, được cúng dường.

Họ dám bẻ hỏng Giới Luật biến chùa thành chỗ tổ hợp buôn bán làm tương, làm chao làm đủ
mọi thứ nghề nghiệp, biến Tu sĩ thành công nhân sản xuất gia dụng, còn đâu những thì giờ để tu hành thật là phí uổng một đời người.

Họ dám bẻ hỏng Giới Luật biến chùa thành cửa hàng ăn uống, bắt Tăng Ni phục vụ, còn gì thể thống đạo đức của người tu. Họ chỉ biết có tiền, có lợi mà không thấy việc làm của họ đúng hay sai.

Họ dám bẻ hỏng Giới Luật biến chùa thành nông trại, tu sĩ thành nông dân để có miếng cơm manh áo hằng ngày không đúng tư cách của người tu sĩ. Họ lấy gương Bách Trượng một ngày không làm một ngày không ăn sách động tu sĩ lao động để xây dựng chùa to Phật lớn như cung đình, lao tác quần quật như con ong và như vậy còn gì là đời tu của tu sĩ.

Họ dám bẻ hỏng Giới luật biến chùa thành cơ quan từ thiện xã hội, nay kêu đoàn Phật tử này quyên góp tiền bạc và đồ vật gia dụng đi cứu tế chỗ này, mai kêu đoàn Phật tử khác quyên góp tiền bạc và đồ vật gia dụng đi cứu tế chỗ kia. Họ đâu biết rằng bổn phận của họ là lo giải quyết sanh tử trước mắt thì Phật Giáo mới còn, chứ đâu phải làm việc này; việc này là của người cư sĩ. Thời Ðức Phật ông Cấp Cô Ðộc là người cư sĩ làm những việc này nên mới có tên là Cấp Cô Ðộc, còn bây giờ Tăng, Ni là Cấp Cô Ðộc không còn là những bậc Thánh Tăng và Thánh Ni nữa. Họ dám bẻ hỏng Giới Luật biến chùa thành Tuệ Tĩnh Ðường, trạm y tế, bịnh viện, trạm xá, trường học. Biến tu sĩ thành Thầy thuốc ta, thuốc bắc, bác sĩ, y sĩ, dược tá, y tá, giáo viên ... khiến nơi tu hành mất hết vẻ tôn nghiêm thanh tịnh.

Họ dám bẻ hỏng Giới Luật chuyên lo đào đất làm hồ, xây dựng chùa to tháp lớn, biến Tăng
Ni thành lao công quanh năm suốt tháng lao động quần quật, còn sức đâu mà tu hành.

Họ dám bẻ hỏng Giới Luật đi quyên góp tiền Phật tử xây chùa to tháp lớn như đền đài cung điện các vua chúa và tạo cây cảnh vườn tược đẹp đẽ để quyến rũ Phật tử và khách tham quan, biến tu sĩ trở thành những lao công quét dọn công viên và chăm sóc cây cảnh.

Những việc làm này ngược lại Ðạo giải thoát của Phật.

Họ dám bẻ hỏng Giới Luật đi khất thực không đúng oai nghi tế hạnh, xin tiền, xin Ðô la làm những việc tồi bại như bọn ăn mày khất cái.

Những điều mà quí vị đã làm ở trên đều vi phạm vào Giới Luật của Ðức Phật, vì danh, vì lợi sang đẹp mà quí vị đã bắt chước các tôn giáo khác và người thế tục, những việc làm này không phải là tu sĩ Phật Giáo làm. Nếu trong kinh sách của Phật có dạy làm những điều này là do những người sau họ bị ảnh hưởng của các tôn giáo khác mà thêm vào.

Kính thưa quí vị Phật tử, những gì quí Thầy đã làm và tôi đã nói ở trên không phải là những gì làm sai đối với thế gian, những người thế tục, nhưng chỉ sai đối với Ðạo Phật, lại đúng đối với các tôn giáo khác, cho nên tôi nói Phật Giáo chịu ảnh hưởng của các tôn giáo khác là vậy. Phật Giáo chủ trương đường lối buông xả, mục đích của Ðạo Phật là để giải thoát mọi cá nhân ra khỏi sự đau khổ sanh, lão, bịnh, tử của đời người. Cá nhân được thoát khổ thì xã hội mới an vui. Cá nhân còn đau khổ thì quí vị có giải quyết từ thiện bằng cách nào thì xã hội vẫn còn đau khổ và còn hơn thế nữa. Tuy rằng trước mắt tạm thời quí vị an ủi họ một chút mà thôi vì bản chất dục vọng tham lam, ham muốn, ganh tị hơn thua, gian dối xảo trá, giết sanh linh ăn thịt chúng của loài nguời, ngàn đời không bao giờ từ bỏ được. Do nguyên nhân này mà con người bóc lột lẫn nhau bằng mọi thủ đoạn mánh khóe gian xảo. Ngoài mặt làm ra vẻ thương yêu bác ái, nhưng còn bên trong toàn là gươm đao, súng đạn. Giai cấp bị bóc lột đứng lên đấu tranh để bảo tồn quyền lợi sống còn của mình, do đó thế giới mới có chiến tranh liên miên, không nước này thì cũng nước khác. Vì thế Ðạo Phật nhắm vào giải
quyết cá nhân, giải quyết cá nhân là giải quyết xã hội. Cá nhân tốt thì xã hội mới tốt, cá nhân xấu thì xã hội xấu. Cá nhân hay tập thể làm từ thiện mà trong đó còn có danh cầu từ thiện
thì không phải là từ thiện. Làm từ thiện để được tiếng từ thiện thì còn nghĩa lý gì là từ thiện.

Kính thưa quí vị Phật tử! Vì việc làm từ thiện mà cá nhân và gia đình quí vị toàn là gặp đau khổ không thiện chút nào.

Kính thưa quí vị Phật tử! Những điều tôi nói ở trên, Tăng, Ni hay là những người từng học Giới Luật của Phật, họ đều biết rất rõ những điều ngăn cấm này. Nhưng có điều hiện giờ sự tu hành của họ không có chất liệu của sự giải thoát. Họ chỉ học lý thuyết suông nên họ phải chuyển qua làm những việc này không còn cách nào khác để tiêu thụ cái nợ đàn na thí chủ. Nếu không làm thì nuốt sao trôi.

Giới Luật của Phật là bậc Thầy của quí vị, nó thường ngăn cấm quí vị làm những điều sai, mà cớ sao quí vị không nương tựa vào ông Thầy của mình để sửa những điều sai mà lại nương tựa vào những bậc vạn năng, những đấng sáng tạo và Tiên, Thần, Thánh để cho Phật Giáo bây giờ mới ra nông nỗi này!

Nếu quí vị tu hành đúng Giới Luật, nghiêm khắc mình trong Giới Luật thì đó chính là con
đường của Ðạo Phật, con đường giải thoát thật sự.

Cuộc sống đức hạnh giải thoát của quí vị chính là quí vị đã chấn hưng Phật Giáo, chứ đâu phải cất chùa to tháp lớn mới gọi là chấn hưng. Ðạo Phật không cần những thứ này. Chính cuộc sống đức hạnh giải thoát của quí vị là quí vị làm sáng tỏ Phật Pháp, chứ đâu cần có Tăng Ni cho nhiều mà Giới Luật chẳng ra gì.

Cuộc sống đức hạnh giải thoát của quí vị là quí vị đã xây dựng một xã hội tốt đẹp hơn một ngàn lần quí vị làm công tác từ thiện xã hội.

Kính thưa quí vị, đến đây chúng tôi xin quí vị nghỉ xả hơi một chút để suy ngẫm lại những
điều tôi đã nói.

PHÁP MÔN PHẬT GIÁO CHÂN CHÁNH

Kính thưa quí vị, bây giờ chúng ta nên trở lại vấn đề. Sau khi được nghe tôi kể lại sự tu hành và chỉ định ông Thầy của quí vị, quí vị phải cẩn thận nghiên cứu kỹ pháp môn nào tu được pháp môn nào không tu được, pháp môn nào của chính Ðức Phật và pháp môn nào không phải của Ðức Phật và ai là ông Thầy của quí vị. Do sự cẩn thận suy xét, tôi tin chắc rằng quí vị sẽ hướng về chúng tôi. Nhưng kính thưa quí vị chúng tôi là những tu sĩ Phật giáo, chúng tôi đâu có chùa, đâu có chỗ ăn, chỗ ở cho quí vị, chúng tôi là những người ăn xin, ở trọ của người khác.

Khi nghe tôi nói đến đây quí vị rất lấy làm ngạc nhiên có phải vậy không? Tuy quí vị chưa dám nói ra, nhưng tự nghi vấn trong lòng rằng: Tu viện Chơn Như trước mắt đây mà Thầy nói rằng Thầy không có chùa thì bảo sao chúng tôi tin được? Xin thưa với quí vị Phật tử, từ những khu đất rộng rãi này đến những ngôi nhà chư Tăng, Ni ở, cùng trai đường, nhà bếp, điện thờ Phật, Thiền Ðường, Tổ đường, phòng vệ sinh, phòng tắm, hồ nước và tất cả tài sản trong chùa đều là của các cư sĩ như Cô Út Diệu Quang ờ đây, vợ chồng Chơn Tâm, Tâm Như, Tâm Giác, Như Trì, Như Lý, vợ chồng Minh Tâm, cô Diệu Tâm, Diệu Mỹ, ông Muời,
Diệu Hương, vợ chồng Thiện Hiển, Ngộ Ngọc và Cháu Tùng v.v.... Còn những cái ăn cái mặc hàng ngày cũng đều do các cư sĩ này và nhiều cư sĩ khác nữa. Từng thùng gạo, từng ổ
bánh mì, từng chai nước tương, từng hạt muối, đường, sữa, trái cây, xà bông, bột ngọt, vải xồ, y áo và thuốc thang trị bịnh,... Cho nên tôi đâu có gì để nuôi quí vị. Xưa Ðức Thế Tôn không có nuôi một vị Tỳ kheo nào hết. Các vị muốn tu theo Ðạo Phật phải tự đi xin mà ăn.
Tôi bây giờ cũng vậy, là người xin ăn ở trọ. Tôi đâu dám làm phiền những vị cư sĩ này, vì
kinh tế gia đình của họ có mức độ.

Kính thưa quí vị, tôi là tu sĩ Phật Giáo không bao giờ dám mở miệng xin tiền cất chùa hoặc xin tiền để làm những việc gì khác cho cá nhân mình. Vì Ðức Phật và Giới Luật không có dạy tôi làm điều đó. Nếu quí vị Phật tử có nghĩ đến tôi là kẻ tu hành chơn chánh thì cúng dường cho tôi được no lòng và y áo được lành lặn. Còn không cúng dường thì tôi chịu đói lòng và rách nát. Dù sống trong cảnh trạng như vậy tôi cũng chẳng hề mở miệng than thở, xin xỏ cùng ai. Còn ngược lại quí vị cúng dường mà không có tâm thành thì tôi thà chịu đói chứ không thọ dụng. Cúng dường những vật dụng không đúng cách tôi cũng chẳng dùng. Tôi là tu sĩ Phật Giáo nghiêm khắc mình trong Giới Luật không thể dùng những lời hoa mỹ đẹp đẽ để giả dối đạo đức để lừa gạt người, làm danh làm lợi cho mình. Tôi là tu sĩ Phật Giáo không dám dùng những điều mê tín dị đoan bùa linh chú giỏi nói chuyện quá khứ vị lai coi bói xem tướng coi sao giải hạn để gạt người bằng cách vô lương tâm, gây tạo sự mê tín cho muôn người là điều bất chánh phi đạo đức. Tôi là tu sĩ Phật Giáo không thể tổ chức hành hương đi chỗ này chỗ kia hoặc đi mười chùa, hai mươi chùa để khéo léo móc túi tiền của phật tử ham vui thích đi.

Kính thưa quí vị Phật tử, vì thế tôi không có chùa, không có cơm để ban cho quí vị ăn, không có áo để cho quí vị mặc. Tôi là người giải thoát hoàn toàn không có gì cả ngoài cái bát để ăn cơm hàng ngày và vài bộ y áo để mặc kín thân. Nếu quí vị muốn tu theo tôi thì chỉ khi nào
có những vị cư sĩ tự phát tâm cúng dường, chứ quí vị không được kêu gọi họ. Khi nào quí vị có chỗ ăn chỗ ở thì quí vị thỉnh mời tôi về đó. Tôi sẽ cho người hướng dẫn quí vị tu hành. Khi quí vị tu xong thì cũng là lúc tôi sẽ liền rời khỏi nơi đó và ẩn mình trong hang đá gốc
cây. Tôi là những người đã sống buông xả hết, vì thế tôi được tự tại giải thoát không còn vướng bận chuyện trần ai. Khi đủ duyên tôi hướng dẫn quí vị, thiếu duyên tôi ẩn mình trong núi hoặc nơi thanh vắng ít người, quí vị khó lòng mà tìm. Sau ngày ra thất quí vị có về Chơn Như nhưng quí vị cũng khó mà gặp tôi. Kính thưa quí vị Phật tử, quí vị muốn tu theo tôi, nếu quí vị là Tăng hay là Ni thì quí vị hãy đến Tu viện Huệ Quang và Ấn Quang xin gặp Thầy Minh Cảnh và Thầy Minh Thành, hai người này đã nhận lời di chúc của Hòa Thượng Huệ Hưng xây dựng Tu viện chuyên tu cho Tăng và Ni. quí vị sẽ về đó đòi hỏi hai Thầy này phải thực hiện lời di chúc để Tăng, Ni có chỗ tu tập Giới Ðức và Thiền Ðịnh. Nếu hai Thầy này đứng ra làm công việc cho quí vị thì quí vị phải góp công, góp sức, góp của với hai Thầy này để công việc được sớm viên mãn thì nơi
tu hành của quí vị mới được yên ổn. Nhà nước và Giáo Hội sẽ giúp đỡ hai vị này. Khi công việc hoàn thành thì quí vị đến thỉnh tôi. Tôi sẵn sàng cho người về đó để hướng dẫn cho quí vị tu hành, bằng không thì tôi ẩn bóng.

Kính thưa quí vị, nếu quí vị muốn học kinh thì quí vị đến Hoà thượng Thích Minh Châu ở Thiền viện Vạn Hạnh, TP. H.C.M; nếu quí vị muốn tu Thiền Ðông Ðộ thì quí vị hãy đến Hoà Thượng Thích Thanh Từ ở Thiền Viện Trúc Lâm Ðà Lat; nếu quí vị muốn tu theo Tịnh Ðộ thì quí vị hãy đến Hoà Thượng Thích Trí Tịnh ở chùa Vạn Ðức Thủ Ðức; nếu quí vị muốn tu theo Mật tông thì quí vị hãy đến Hòa Thượng Thích Tịch Chiếu ở Bình Dương; nếu quí vị muốn tu theo Thiền đốn ngộ thì quí vị hãy đến Hòa Thượng Bửu Thắng ở Gò Công; nếu quí vị muốn
tu theo thiền Công Án thì quí vị hãy đến Hòa Thượng Duy Luật ở chùa Từ Ân Chợ Lớn, TP. H.C.M. Tất cả những vị này sẽ chỉ dạy cho quí vị đúng với sở nguyện của mình.

Kính thưa quí vị Phật tử, tại sao tu viện Chơn Như không đề Thiền Viện Chơn Như? Chúng tôi ở đây tu theo ba pháp môn Giới, Ðịnh, Tuệ nên không thể nào đề Thiền Viện được vì thế chúng tôi dùng chữ Tu Viện mới đúng nghĩa của ba pháp môn này. Ngày xưa Ðức Phật không tự xưng mình là Thiền sư mà chỉ xưng mình là bậc Như Lai, Ứng Cúng Chánh Biến Tri, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Ðiều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhơn Sư, Phật, Thế Tôn.

Kính thưa quí vị, một sự vô ý hay hữu ý mà người ta chạy theo xu hướng Thiền Tông rầm rộ rồi tự đặt tên chùa là Thiền Viện này Thiền Viện nọ để thu hút lòng hiếu tu thiền của người Phật tử. Chúng tôi tu theo Ðạo Phật, không bị mọi xu hướng của thời đại và không chạy theo mọi phong trào của quần chúng. Chúng tôi luôn luôn tự xét mình làm cái gì đúng, làm cái gì sai để không lầm lỗi, để không bị ảnh hưởng mọi phong tục tập quán của con người. Vì vậy tên Tu Viện Chơn Như vẫn đứng vững vàng không bị ảnh hưởng của Thầy Tổ. Cất chùa bằng tầm vông liếp đan, nhưng mãi mãi muôn đời người ta sẽ ghi nhớ không quên.

Kính thưa quí vị Phật tử, hôm nay đã được nghe tôi kể lại sự tu hành xin quí vị đừng nghĩ rằng tôi là Phật, là Bồ Tát, là A La Hán. Tôi tu hành chẳng có chứng đắc gì cả. Chỉ hằng ngày tu tập làm chủ thân tâm của mình. Lâu ngày tôi làm chủ được nó nên không thể nào gọi là Phật, là Bồ Tát, là A La Hán, vì tôi thấy mình cũng bằng xương bằng thịt như chính quí vị vậy, cũng cười, cũng nói, vui vẻ như quí vị. Vì thế tôi chẳng phải Phật, Bồ Tát, A La Hán. Nhờ tu tập làm chủ thân tâm, tôi trở thành con người biết cách làm chủ mình nên tâm không buông lung, phóng dật, thân không hành động thô ác, miệng không nói lời hung dữ gian dối, xảo trá, ý không khởi niệm xằng bậy. Tôi cũng chẳng phải là Thánh Ðức, Hiền Nhân, Siêu nhân. Tôi là con người bình thường như bao con người khác, nhưng có điều tôi biết chắc rằng tôi không bao giờ làm khổ mình khổ người và cũng biết chắc rằng tôi chẳng có thần thông phép tắc gì cả. Tôi không thể kêu mây, hóa lửa, làm gió. Tôi chẳng biết chuyện quá khứ vi lai của ai hết. Tôi chỉ biết đủ và không cầu mong gì hết, cho nên quí vị đừng đảnh lễ tôi. Tôi không phải là Thầy của quí vị và cũng không phải vị Tổ Sư nào cả, tôi cũng không phải Bồ Tát, A La Hán nữa. Tôi cũng bình đẳng và bình thường như quí vị.

Tôi là bạn lành của quí vị. Tôi xin nhắc lại một lần nữa, lưu ý quí vị, tôi là bạn lành của quí vị. Vậy từ nay về sau quí vị đừng đảnh lễ tôi. Nếu quí vị đảnh lễ tôi là quí vị đã làm cách xa tôi với quí vị. quí vị đã biến tôi thành ông Thần, ông Thánh, ông vua để quí vị lạy chứ không phải quí vị theo tôi để tu hành. Ðạo Phật là một tôn giáo không có giai cấp thế mà quí vị biến tôi thành giai cấp bề trên để cho quí vị không bao giờ dám mở miệng khuyên răn khi tôi làm những điều sai với Ðạo Phật. Nhiều khi quí vị còn a dua theo tôi để bây giờ quí vị chứng kiến sự tệ hại của Phật Giáo đến tận cùng.

Kính thưa quí vị, tôi xin quí vị mỗi lần gặp nhau đều chắp tay lên xá nhau là đủ lắm rồi. Vì đôi bàn tay của quí vị chấp lại tượng trưng cho búp sen. Sen là một loài thảo mộc, mọc dưới nước bùn nhơ hôi thối, thế mà hoa sen vươn lên không hôi thối mùi bùn mà còn toả hương thơm ngát. Cũng giống như chúng ta vậy, sống trong cõi đời đầy ô trược mà luôn luôn lúc nào cũng giữ thân tâm trong sạch như hoa sen kia vậy. Chúng ta chắp tay lại là tượng trưng cho hoa sen, đó là nói lên được lòng trong sạch thanh khiết của chúng ta kính cẩn chân
thành chào nhau thì trên đời này không có gì quí bằng.

Kính thưa quí vị, các bậc Tôn túc Thầy Tổ của chúng ta đã bị ảnh hưởng bởi vua chúa phong kiến quá nặng, nên cuộc sống của các ngài đều tỏa mùi phong kiến, khiến cho nhân phẩm bình đẳng của con người mất đi (dân lạy quan, quan lạy vua) và tình cảm của chúng ta bị xa cách vì giai cấp quân thần.

Thưa quí vị Phật tử, những gì chúng ta làm là chúng ta phải có ý thức đầy đủ đừng để phong tục tập quán của con người đồng hóa Phật Giáo mà người ta coi rẻ và khinh thường Ðạo Phật.

Kính thưa quí vị Phật tử, bây giờ chúng ta tạm dừng câu chuyện tại đây để trả lời bức thư của một người Phật tử gửi đến hỏi tôi cách thức tu hành của vị này có đúng hay không. Tôi xin trả lời và xin mời người chủ của bức thơ chú ý nghe.

Trong thư Phật tử này đã nêu năm Pháp môn:

1 - Quán tâm theo kiểu Ðại thừa
2 - Mật Tông thần chú
3 - Tịnh Ðộ
4 - Giới Luật
5 - Hơi thở

Phật tử này đã tổng hợp 5 pháp môn này làm thành một pháp môn để tu hành. Tuy trước mắt Phật tử có một lợi nhỏ nhưng tu lâu về sau không nhập được các chánh định của Phật, phần chắc sẽ nhập vào định tưởng. Cách thức mà Phật tử đã trình trong thơ, tôi nghiệm xét thấy:

1 - Quán tâm chẳng ra quán tâm
2 - Mật Tông chẳng ra Mật Tông
3 - Tịnh Ðộ chẳng ra Tịnh Ðộ
4 - Giới Luật chẳng ra Giới Luật
5 - Hơi thở chẳng ra hơi thở

Trong thư Phật tử đó còn cho chúng tôi biết kết quả ưu điểm của sự tu tập này như:

1.- Lúc nào con cũng thấy tâm con vui an lạc. Tối nằm xuống là ngủ liền, không trằn trọc, không chiêm bao mộng mị, không cảm thấy nhớ nhung gia đình, lòng dạ rỗng rang vô tư lự như trẻ con.

2.- Trạng thái thiền định của con cũng tốt, không bao giờ bị tán loạn hôn trầm. Con định tâm cũng dễ, đôi khi hơi thở và câu niệm PHẬT của con chỉ còn mong manh nhu nhuyễn như một sợi chỉ. Con chìm đắm trong một trạng thái tĩnh lặng rất dễ chịu, nhưng con vẫn tỉnh chứ không mê. Lúc đó con hoàn toàn không cần một chút dụng công nào. Con chỉ để cho hơi
thở ra vào một cách tự nhiên và nó tự nhẹ lần, chứ con không tác ý.

Kính thưa quí vị Phật tử, tôi xin trả lời gọn và dễ hiểu để không mất thì giờ. Theo lối tu tập của vị Phật tử này không có kinh nghiệm chuyên môn mà chỉ chạy theo an lạc do xúc tưởng hỷ lạc sinh ra. Lối tu này là của Phật Giáo cổ truyền trong các chùa Tịnh Ðộ thuộc Phật Giáo Cổ Sơn Môn, Lục hoà Tăng theo nghi thức tụng niệm của họ.

Xin thưa quí Phật tử, người Phật tử này đang đi tìm dục lạc mới hay đi tìm thế giới siêu hình thần thông phép lạ trong các pháp môn này thuộc hệ thống Ðại Thừa hơn là tìm tu giải thoát. Ðó là một pháp môn tổng hợp Thiền, Tịnh, Mật của quốc sư Ngọc Lâm trong thời vua Nhà Thanh,Trung Hoa. Tôi xin nhắc lại một lần nữa "người Phật tử này đang đi tìm dục lạc mới hay đi tìm thế giới siêu hình thần thông phép lạ trong các pháp môn tổng hợp". Tu như vậy không phải là ngươì đi tìm sự giải thoát của Ðạo Phật. Ðây cũng là một thứ bịnh tu hành thời đại cầu mong tìm hỷ lạc dễ chịu để trốn khổ trong cuộc sống hay đi tìm một thứ cao siêu vượt bực, khác của con người.

Kính thưa quí vị Phật tử, trong những ngày nhập thất tôi đã được biết có một số Tăng Ni và Phật tử đều thuộc giới có học thức thế mà lại tu theo pháp môn của ngoại đạo. Những pháp môn này mạo danh là của Ðạo Phật. Họ thường sống ẩn dật trong núi non luyện tập bùa chú thiền định xuất hồn, thiền định luyện tinh khí thần, thiền định luân xa, thiền định hiển linh vô vi tạo những điều linh hiển kỳ lạ, biến thế giới tâm tưởng thành thế giới siêu hình đầy dẫy linh hồn người chết, ma quái quỉ, Thần Thánh, Tiên, Phật, Trời,...

Ðối với những Phật tử, những tu sĩ này thường phô trương tiên đoán chuyện quá khứ vị lai của mọi người, thường làm thầy thuốc nam, thuốc bắc, hoặc bùa chú, hoặc truyền điển linh luân xa để trị bệnh khiến cho mọi người mê tín lại càng thêm mê tín hơn. Họ nói chuyện toàn là khoe khoang sự xuất hồn đi chu du trong các cõi Tiên, cõi Phật và làm những điều thần thông quái lạ khiến cho mọi người say mê thích thú và phục lăn họ, xem họ như Phật sống, như Thần, Thánh, Tiên đang sống tại thế vậy. Ðó là những hành động dối gạt, bịp người,
làm những điều sai trái phạm vào Giới Luật của Phật.

Xưa Ðức Phật thường cấm các đệ tử không được thể hiện thần thông, không được làm những điều kỳ lạ, vì Ðức Phật cho những thần thông biến hóa và biết chuyện quá khứ và vị lai là những trò huyễn hóa lừa đảo người. Những tu sĩ này đã biến Phật Giáo thành một tôn giáo mê tín dị đoan, và như vậy là xa lìa mục đích tu hành chân chánh của Ðạo Phật, khiến cho hàng Phật tử lòng dạ hoang mang chẳng biết Phật Pháp như thế nào đúng và như thế nào sai. Giống như người đứng trước ngã ba đường.

Hình ảnh Tế Công Phật sống tức là Tế điên Hòa Thượng, Phật sống Cựu Kim Sơn, đó là những hình ảnh tu sĩ ma quái mượn danh nghĩa Phật Giáo luyện thần thông trị bệnh làm những điều mê tín, dị đoan, cứu thế độ dân. Ðó là những hành động phá hoại Giới Luật đức hạnh giải thoát và những oai nghi tế hạnh của Ðạo Phật. Xưa Ðức Phật dạy: Này các Tỳ kheo, Các Thầy hãy giữ gìn Giới Luật của ta nghiêm túc thì hàng Phật tử sẽ kính mộ các Thầy, thường quì xuống trải tóc dài trên đường cho quí Thầy đi.

Ðối với những hạng tu sĩ ma quái như Tế Ðiên Tăng và Phật sống Cựu kim Sơn, hiện giờ có người vẫn còn tin đó là Phật sống và còn phổ biến kinh sách ca ngợi những hạng người này. Họ đâu biết rằng sự sống chết đau khổ của cuộc đời con người là do nhân quả, không thể có một Tế Ðiên Phật sống nào mà cứu họ được. Cho dù có một ngàn Tế Công cũng chẳng cứu họ được.

Kính thưa quí vị Phật tử, Ðạo Phật là Ðạo làm chủ thân tâm chứ không phải là Ðạo đi tìm sự an lạc tiêu cực trong cuộc sống hoặc đi tìm thần thông phép lạ. Hầu hết quí Phật tử đến chùa tu tập theo Ðạo Phật là đi tìm dục lạc mới trong tôn giáo hoặc đi tìm sự an ủi tinh thần trong kinh điển vì cuộc sống ở thế gian quá khổ sở, quá cay nghiệt, quá phiền toái, hoặc đi
tìm thế giới siêu hình để thoả mãn lòng mơ tưởng của mình. Chính vì thế, vô tình quí Phật tử đã dùng tiền bạc sai quí Thầy phục vụ tinh thần trong đời sống của quí vị. quí vị cúng dường bố thí trai tăng là luôn luôn đòi hỏi quí Thầy phải thuyết pháp giảng kinh hoặc cúng bái, cầu siêu, cầu an, coi bói xem tướng, v.v... chứ không bao giờ quí vị đến cúng dường cho Chư Tăng bằng một tấm lòng cầu mong quí Thầy giữ gìn Giới Luật thanh tịnh để Tam Bảo được trường tồn. quí vị đến chùa là đến với sự trao đổi, chứ không phải đến với tâm giữ gìn Phật Pháp.

Còn riêng quí Thầy, Chư Tăng, Ni cũng vì vật chất tiền bạc tình cảm cuộc sống cho nên đã
để Phật Giáo bị đồng hóa theo phong tục tập quán của con người. Từ đó quí Thầy quí Cô đã sản xuất ra những loại kinh sách cúng bái, tụng niệm như ca hát giọng cao giọng thấp, cúng vong tiễn linh theo tiếng trống tiếng kèn, tiếng mõ nhạc dập dìu du dương, ảo não ru lòng người đam mê say thích, Tăng Ni tụng niệm giống như đào kép hát tuồng, khiến cho tín đồ thích thú và còn bày vẽ ra nhiều điều mê tín lừa đảo tín đồ. Toàn bộ các tu sĩ này đều phạm giới phá Giới Luật của Phật. Rồi cũng từ đó quí Thầy sản xuất ra những loại kinh sách để an ủi người Phật tử khi đau ốm bịnh tật, khi sân hận thù oán, khi phiền não tái tê, khi ganh tỵ hơn thua và khi tử biệt phân ly. Những kinh sách này không phải để tu hành làm chủ thân tâm giải thoát sanh tử, nó chỉ là nguồn an ủi tinh thần làm dịu bớt cơn buồn khổ. Nhờ đó mà quí Thầy quí Cô mới tiêu thụ được món nợ trai tăng cúng dường của quí Phật tử. Hay nói cách khác là trao đổi.

Phải nói vì vật chất, tiền bạc, tình cảm và cuộc sống của quí Thầy, quí Cô mà đã biến quí thầy quí cô trở thành người phục dịch cho Phật tử từ cái ăn cho đến cái đi chơi và mọi sự của Phật tử mà quí Thầy và quí Cô đều phải lo hết. Do đó quí Thầy quí Cô phải thức thâu đêm dịch kinh viết sách cho Phật tử đọc, quí Thầy quí Cô cũng nặng đầu bóp trán suy nghĩ
tìm mọi cách tạo ra cây cảnh đẹp đẽ để cho Phật tử du ngoạn thưởng thức. Như vậy còn thì giờ đâu mà quí Thầy quí Cô tu hành. Tu hành không phải là một việc dễ làm, phải thường hằng tập sửa những sự sai lầm nơi mình. Phải thường hằng gìn giữ Giới Luật nghiêm túc cho nên không thể một sớm một chiều mà thành tựu được. Vì thế quí Thầy đã trở thành những công viên chức của Phật tử mà không hề hay biết. Kinh sách Phật được bày bán la liệt không có vẻ tôn nghiêm ngoài hè phố, ngoài lề đường và cũng vì thế mà người tu theo Phật Giáo thời nay rất là hời hợt. Những Giới Luật của Phật Giáo con người thời đại ngày
nay đã quên hết, chỉ còn biết làm danh làm lợi trên những đống kinh sách này. Ðem hết cuộc đời và công sức của mình, bỏ hết thì giờ quí báu, thay vì để tu tập giải thoát khỏi cảnh đời ô trược này thì quí Thầy quí Cô lại chôn mình trong bùn lầy danh lợi hôi tanh, làm mất giá trị
Pháp Bảo của Phật.

quí Thầy quí Cô nghiêm khắc mình trong Giới Luật thực hiện thiền định sâu mầu là quí Thầy quí Cô đã phổ biến Pháp Bảo quí báu nhất của Phật đến tận hang cùng ngõ hẻm của con người, chứ không phải việc in kinh viết kinh sách bày bán khắp chợ là phổ biến Pháp Bảo. Ðó là quí Thầy quí Cô đã ném Pháp Bảo xuống bùn nhơ hôi thối.
Kính thưa quí vị, khi nghe tôi nói đến đây quí vị hãy suy ngẫm lại, chứ đừng vội lên án tôi. Kính thưa quí vị, kinh sách bày bán la liệt mà người tu bây giờ chẳng ra làm sao! Ngay chính
bản thân của quí vị tu hành thì quí vị cũng tự biết lấy rất rõ ràng. Kinh sách Phật là để cho
người tu tập giải thoát, chứ không phải để an ủi người đời. Bởi vậy Phật Giáo ngày nay không người tu chứng là vậy. Nếu muốn tu giải thoát thì quí vị phải đến chùa tu hành hẳn
hoi, chứ không phải đi lang thang chùa này chùa khác để nghe thuyết pháp chơi. Vả lại chùa
cũng chẳng phải là chỗ để cho quí vị đi chơi ngắm cảnh giải trí an ủi tinh thần. Nếu quí vị muốn tu thì phải nghiêm chỉnh thực hành đúng như lời của Phật dạy và nghiêm khắc mình trong kỷ luật của nhà chùa chứ không phải dùng tiền bạc cúng dường bố thí trai tăng rồi muốn sai sử quí Thầy cách nào cũng được. Từ lâu quí vị đã dùng tiền bạc của mình để an ủi tinh thần mình mà biến Phật Giáo thành Thần giáo, ông Phật thành ông Thần, và quí Thầy
trở thành nhân viên của quí vị cư sĩ.

Một lần nữa tôi xin nhắc lại chùa là nơi để tu hành giải thoát chứ không phải chùa là nơi để quí vị nghỉ mát nghỉ hè làm việc mê tín, dị đoan. Chùa là nơi để cho Tăng, Ni tu tập giải thoát khỏi sự khổ đau của cuộc đời và chấm dứt tái sanh luân hồi, chứ không phải là trường học, trạm y tế, tuệ tĩnh đường, phòng thuốc từ thiện xã hội,...

Kính thưa quí vị Phật tử, quí vị đến chùa cốt là để học hỏi những lời vàng ngọc của Phật để tu học giải thoát thân tâm, để vượt ra khỏi cảnh đời ô trược, chứ không phải đi tìm cái ăn cái ở trong chùa, đi tìm cái được mạnh giỏi, đi tìm cái phù hộ, cái gia bị của chư Phật. Ðó là những điều mê tín, phi đạo đức, đó là những điều sai không đúng của Ðạo Phật. Khi đến chùa quí vị đừng làm bận tâm những người tu hành ở đây, vì cái ăn cái mặc của quí vị. Khi đi đến chùa quí vị đừng để người tu hành phục vụ quí vị mà mất phước. Khi đi đến chùa quí vị đừng ăn mặc hở hang bày da hở thịt, mặc quần áo màu sắc rực rỡ bông hoa lòe loẹt. Khi đi đến chùa quí vị đừng thoa son đánh phấn như đi dự tiệc tùng đám cưới đám hỏi .... Khi đi đến chùa quí vị đừng làm ồn náo cười nói phải giữ mình có nết hạnh. Khi đi đến chùa đừng nghĩ mình có xe hơi, xe gắn máy chạy đậu sát thềm chùa. Ðó là tư cách thiếu đạo đức, quí vị cần sửa lại. Khi đi đến chùa quí vị phải đậu xe ở ngoài cổng, dắt xe vào phải cởi bỏ giày dép đi chân trần vào chùa và hết lòng cầu Pháp thì may ra quí vị mới hưởng được Pháp vị của Ðức Phật. Khi đến chùa quí vị đừng biến chùa thành cái chợ. Xưa vua A Xà Thế đến thăm Ðức Phật phải dừng xe ở đầu rừng rồi đi bộ đến gặp Phật. Khi đi đến chùa đừng nghĩ rằng có tiền là có tất cả, đừng ỷ rằng mình có tiền quăng tiền ra là có đủ loại kinh sách và còn được ưu tiên nghe thuyết giảng các loại kinh, có biết đâu đó là những bài Pháp đầu môi chót lưỡi, chính người thuyết pháp đó cũng chưa thực hành được. Những bài thuyết pháp đó thường bán rẻ mạt ở đầu đường xó chợ. Những bài thuyết pháp này quí vị có tu ngàn đời cũng chẳng ra gì. Pháp không cầu mà có là pháp giả, pháp không cầu mà bày bán la liệt là pháp không có giá trị tu hành. Pháp ấy là pháp danh, pháp lợi chứ không phải chân pháp của Ðạo Phật.

Kính thưa quí vị Phật tử, khi đi đến chùa Tăng, quí vị là nữ cư sĩ hoặc Ni cô thì quí vị nên đi từ hai người trở lên vào tu viện nam. Là người cư sĩ nam hay chư Tăng khi đến chùa Ni hoặc tịnh thất của cư sĩ nữ thì quí vị phải đi từ hai người trở lên chứ không thể đi một người vào chỗ đó được. Khi đi vào chỗ tu hành quí vị không thể đi xông pha mà phải đi theo người hướng dẫn, nói chuyện nhẹ nhàng để giữ gìn sự thanh tịnh cho những người tu hành tại đó. Khi cần gặp người quen thì nhờ người tiếp khách gọi hộ chứ không được tự động đến chỗ người thân ở. Người tu hành ở tại tu viện cũng không được đưa dắt người thân bạn bè đi tham quan làm động chúng tu hành. Ðó là điều làm sai, xin quí vị lưu ý. Một cư sĩ nữ hay một ni cô khi đến chùa Tăng mà tự do đi lại thì phải biết đó là một người thiếu đức hạnh phải
sửa lại. Ngược lại một cư sĩ nam hoặc một vị Tăng cũng vậy không được ngang nhiên đi vào nơi tu hành tu sĩ nữ. Vậy khi đến nơi tu hành xin quí vị lưu ý hãy cẩn trọng chớ xem thường chỗ tu hành như chỗ du lịch tham quan, chỗ ăn chơi hò hẹn. Một việc làm vô ý tứ là gây ra
tai hại cho mình cho người. Ở trong nhà chúng ta sống sao cũng được, nhưng chúng ta phải biết đó là những người thiếu đạo đức nhân cách. Ngược lại ra ngoài cũng phải tùy nơi tùy chỗ thì quí vị mới xứng đáng là đệ tử của Phật, đầy đủ tác phong phẩm chất đạo đức giải thoát của Ðạo Phật. Tám năm trời chúng tôi mở tu viện Chơn Như, chẳng tìm thấy một
người cầu pháp chân thật, toàn là thứ ăn hại của đàn na thí chủ, làm những điều tồi tệ phá Giới Luật cống cao ngã mạn, hiêu hiêu tự đắc coi mình là bực Thầy, Tổ của thiên hạ. Xét lại họ chỉ toàn là những con mọt sách.

Tóm lại Tăng Ni và Phật tử đối với Phật Pháp còn biết bao nhiêu điều sai trái nhưng không đủ thì giờ cho phép chúng tôi nêu ra đây hết được. Khi nào đủ duyên Cô Diệu Quang mở khóa tu đạo đức giải thoát thì tôi sẽ giảng dạy cho quí vị.

Kính thưa quí vị Phật tử, tôi biết rằng lời thật mất lòng nhưng tôi phải nói. Nói vì sự tồn vong của Phật Giáo, dù biết rằng tôi nói sẽ không có chùa để ở, không có cơm để ăn, không có y áo để mặc thì tôi cũng vẫn phải nói. Nói để cảnh tỉnh Tăng Ni và quí vị cư sĩ. Nói để quí vị sửa sai, nói để quí vị không bị đọa địa ngục ngay cảnh sống thế gian này. Nói để cho quí vị hiểu Phật Pháp đúng cách.

Kính thưa quí vị Phật tử, quí vị phải hiểu tôi nói ở đây không có ý phê phán chỉ trích ai hết. Ai muốn tu sao cũng được. Tôi chỉ biết nêu lên ở đây những ý này để quí vị đừng hiểu sai Ðạo Phật, đừng lầm đường lạc lối tu tập sai mục đích của Ðạo Phật mà uổng phí thì giờ quí báu của quí vị.

Kính thưa quí vị, chúng ta là những đệ tử của Phật mà không tu hành theo pháp môn của Ðạo Phật, lại đi tu hành theo pháp môn của các tôn giáo khác mà cứ tự nhìn nhận tu theo Ðạo Phật. Sự lầm lạc này khiến cho Phật Giáo không có người tu chứng, không có người giải thoát thật sự. Hiện giờ Phật Giáo xem như bị mất gốc chỉ còn cành lá mà thôi. Cho nên tôi gióng lên tiếng chuông để cảnh tỉnh quí vị, để nhắc nhở quí vị. Còn nghe hay không là quyền của quí vị. Tôi chẳng có ý gì khác hơn. Tu đúng, tu sai là quí vị nhờ chứ tôi chẳng có ích lợi gì trong đó cả. Tôi chỉ mong quí vị tỉnh ngộ quay về với con đường chân chánh của Ðạo Phật để có sự ích lợi thiết thực cụ thể hơn. Những điều quí vị tu hành và những việc làm của quí vị đều tốt đều thiện, nhưng tốt và thiện đối với Tôn giáo khác, còn đối với Phật Giáo thì quí vị đã lầm lạc. Bởi quí vị đã không tu Giới Luật mà còn phá Giới Luật, làm những điều sai trái phạm vào Giới Luật, trong khi Giới Luật là ông Thầy mà quí vị từ bỏ không chịu tu theo. Tôi cũng không biết nói thế nào nữa cho đúng. Nếu đi tu mà không chịu nghe lời dạy không chịu nương tựa vào ông Thầy của mình thì quí vị sống với ai, tu tập cái gì?

Nếu tôi tu tập Giới Luật, Thiền định, Trí tuệ của Ðạo Phật mà không có kết quả như ngày
hôm nay thì tôi cũng chẳng nói lên đây làm gì. Vì có kết quả quá rõ ràng cho nên tôi cho nổi cơn sấm sét để quí vị tỉnh cơn mơ mộng trong các kinh sách thời nay, trong các pháp tu thời nay.

Kính thưa quí vị Phật tử, quí vị hãy cùng tôi sửa sai lại những gì quí vị đã từ lâu không biết, đã làm sai. quí vị hãy chấm dứt, đừng vì lợi ích nhỏ mọn, ích kỷ cá nhân tầm thường mà làm tổn hại Phật pháp. Bấy lâu nay cũng vì hiểu sai Phật Pháp, tu sai mà tưởng là bồi đắp xây dựng Phật Pháp. Vì thế dầu quí vị có tìm khắp nơi trên thế giới cũng không tìm ra một bậc tu chứng.

Tôi sẽ giải nghi cho quí vị về con đường Thiền Ðông Ðộ. Tôi biết rằng khi nói đến Thiền Ðông Ðộ là chạm đến Thầy chúng tôi. Song tôi tin rằng Thầy chúng tôi không phải là ngươì tầm thường. Thầy chúng tôi luôn sáng suốt và thường để tâm theo dõi chúng tôi, sẵn sàng giúp đỡ chúng tôi trên bước đường tu tập cũng như khai thác những kinh nghiệm gì mà
chúng tôi đã gặt hái được kết quả lợi ích thiết thực và cụ thể của Ðạo Phật để lấy đó phục hồi chấn hưng làm sáng tỏ Thiền tông Việt Nam.

Kính thưa quí vị Phật tử, cách đây 14 năm khi tôi tu hành có kết quả về trình lại với Thầy và có ý xin Thầy cho phép tôi nhập diệt bỏ báo thân này. Thầy chúng tôi không bằng lòng và khuyên bảo tôi ở lại giúp Thầy chấn hưng Thiền Tông Việt Nam. Tôi nhận lời và ở lại giúp Thầy. Cho nên suốt 14 năm nay tôi đã gặp bao nhiêu cay đắng phũ phàng và chịu nhiều gian khổ, tôi cũng chẳng sờn lòng. Dù sông kia có thể cạn, núi kia có thể mòn, song lòng dạ tôi không hề thay đổi. Nguyện đem đời tu hành của mình làm viên đá để Thầy chúng tôi xây dựng lại ngôi nhà Thiền Tông Việt Nam như ước vọng của Thầy chúng tôi. Tôi biết rằng Thầy chúng tôi không bao giờ cố chấp chịu khô cằn trong giáo điều Thiền Ðông Ðộ và cũng không bao giờ chịu chết cứng trong giáo điều Thiền Trúc Lâm. Vì Thầy đã từng nói với chúng tôi: Thầy trò hiểu nhau là hơn hết.

Mặc dù Thầy chúng tôi có nói với quí vị tôi tu lạc vào Thiền ngọai đạo, bị ngũ ấm ma và còn nói với quí vị rằng tôi chẳng hiểu Phật Pháp, nói tôi tu theo Tiểu Thừa tiêu nha, bại chủng, chồi khô mộng lép, hoặc nói tôi khai trừ Thầy. Những lời nói này quí vị không thể hiểu nỗi Thầy chúng tôi đâu. quí vị nên nhớ, nhờ có Thầy chúng tôi mà quí vị mới biết tôi ngày nay. Một lát nữa tôi sẽ giải thích cho quí vị nghe.

Thầy chúng tôi đã tận tụy hy sinh cả đời mình vì Phật Pháp. Tìm thấy cái gì hay trong kinh sách vội đem ra kêu chúng tôi về cho tu tập. Cho nên cuộc đời của Thầy chúng tôi nguyện đem hết sức mình lo cho Tăng Ni và Phật tử quá nhiều, luôn luôn lúc nào Thầy của chúng tôi cũng chịu cực khổ lo giảng kinh dạy đạo và còn dịch viết kinh sách Thiền để cho quí vị không lầm đường tu hành. Bởi vậy chúng tôi tin Thầy của chúng tôi hơn ai hết.

Thầy nói điều gì về chúng tôi là nhắc nhở chúng tôi tránh những điều sai lầm. Như nói tôi tu lạc vào thiền ngoại đạo là nhắc nhở tôi kiểm tra lại đường lối tu hành của mình. Nói tôi không hiểu kinh điển là bảo tôi ôn cố lại kinh điển. Nói tôi bị ngũ ấm ma là nói tôi ý tứ từng lời nói và việc làm. Nói tôi tiêu nha bại chủng là nói tôi tận lực tu hành để trợ giúp Thầy chấn hưng
Phật Pháp làm Bồ Tát hạnh. Nói tôi khai trừ Thầy là bảo tôi gắn bó cùng Thầy để Thầy trò cùng nhau làm lợi ích chúng sanh.

Kính thưa quí vị Phật tử, những lời dạy bảo này là vì nguyên nhân Phật Pháp hôm nay đã bị pha trộn đủ loại pháp môn tu hành. Người tu hành thường hay bị rơi vào ngũ ấm ma mà không hề hay biết, nên Thầy chúng tôi ngăn ngừa cảnh giác, nói thẳng về sự tu hành của tôi để tôi coi chừng tránh lầm lạc.

Kính thưa quí vị Phật tử, những lời nói này là những lời khuyên vàng ngọc của Thầy đối với tôi. Những lời nói này làm cho tôi cảm thấy rằng Thầy luôn lúc nào cũng ở bên mình dìu dắt tôi từng bước đi không để tôi bị ngã té trên đường tu học. Lòng thương yêu của Thầy chúng tôi không thể lấy trời biển núi non mà sánh được.

Kính thưa quí vị Phật tử, tâm nguyện lớn lao hy sinh cả cuộc đời mình cho Phật Pháp nên Thầy chúng tôi thường dạy bảo: một người tu chứng là Phật Pháp thường còn. Vì thế ngày nay đã biết bao nhiêu người thấm nhuần công đức của Thầy chúng tôi. Vì có hiểu Thầy như vậy nên tôi không ngần ngaị nói lên những điều mà tôi đã thấy biết được để giúp Thầy
chấn hưng Phật Pháp và cũng để giúp quí vị tu hành không hoài công phí cuộc đời.