KHÓM MẶC LAN
Minh Đức Triều Tâm Ảnh
Ảnh: vn thuquan.
Sáng nay, thức dậy lúc sao mai chênh xế nóc nhà, ông giáo già lụi cụi nấu nước sôi, chế trà rồi độc ẩm, thưởng trà cùng với sương sớm. Ông ngồi xếp bằng thế hoa sen, thẳng lưng, bưng chung trà cả hai tay, xoay xoay rồi nhắp từng ngụm nhỏ. Chậm rãi, cẩn trọng... ông uống trà, đồng thời, ông uống luôn cái vị, cái khí, cái không gian thanh bình, tĩnh lặng của miền quê cố đô yên ả... Mùa đông mà trời lạnh nhẹ, khá khô ráo, cũng lạ. Thời tiết đất Thần kinh mấy năm nay thay đổi khá thú vị; cái mưa dầm thối đất, sụt sùi, sủng nước, không biết nó đã di trú nơi nào, hay đã theo chân mù phương những người xa Huế? Cũng nhớ...
Ông đã qua bình trà thứ hai. Cái trà “Phổ nhĩ” Vân Nam này, vị không đậm mà ngọt hậu. Cũng rứa thôi, cũng như Thiết quan âm, Ô long, chẳng ngon gì! Ông đã quen với trà tuyết, lại thích chè xanh cây nhà lá vườn hơn. Vị nể ông bạn lai tàu nên mua uống thử. Trà nào mà không thanh nhiệt, lợi tiểu, sáng mắt...! Bày đặt quảng cáo, sinh ra dị ứng tất thảy! Nhưng khóm mặc lan được mang về từ đó – học trò ông biếu tặng - hoa đang nẩy chồi, là một giống lạ; nó không có hai đường chỉ trắng trên mép lá - trông khác với mặc lan cổ xưa Huế, có lẽ ta nên để dành để dâng thầy thưởng xuân... Ông cúi đầu xuống, lòng rưng rưng...
Trời ửng sáng. Ông bước ra hiên. Không gian đùng đục. Sương mù lất vất, mơ hồ. Ông đưa mắt nhìn những chậu địa lan ngồi an bình, lưu niên trên dãy giả đôn đầu voi trắng: Bạch ngọc, đại kiều, tiểu kiều, mặc lan... lá xanh ngời như có thể soi mặt được. Ông gật gù, mỉm cười. Đấy là thành quả từ công phu vuốt lá, ngày này sang ngày khác của ông và con trai. Cái hơi người - nhân điện- và tình cảm của người trồng chính là yếu tố quan trọng nhất. Thời này, chẳng còn ai chăm chút tỉ mỉ như vậy. Người ta không có thì giờ, kể cả không có thì giờ để thở! Tội nghiệp! Ông vui thầm trong bụng, ta tỉ mỉ chăm chút để bảo tồn vốn cổ, là cái mỹ học của cha ông đó chứ! Ai mà biết, phải không?
Ông nhớ, ông đã học được kỹ thuật trồng địa lan của một cụ Nghè. Địa lan của cụ ấy trồng nổi tiếng một thời, đến đổi cậu Cẩn cũng phải ghen tỵ. Nhìn những chậu địa lan ngời ngời xanh mướt, láng lẩy, chồi hoa tuy gầy nhưng ẩn chứa một sinh lực khoẻ khoắn, ông tò mò hỏi tưới phân chi? Cụ Nghè cười cười trong ánh mắt lấp lánh, rồi hỏi ngược lại, chú giáo, chú tưởng địa lan phàm phu tục tử lắm hay sao mà phải ăn phân này, phân nọ? Ông mở tròn mắt. Cụ Nghè ha hả cười, nắm tay ông kéo lên hiên, vào ngôi từ đường hương khói thời gian, sai bày bàn trà... Trong không gian cổ kính; mùi trầm, mùi văn chương thi phú, mùi của cốt cách tao nhã; mùi của nếp sống thư hương, kẻ sĩ... một lần ấy thôi; mà nó đã ngấm đẫm tâm hồn ông cả nửa cuộc đời còn lại. Phân chi ư? Cái đó là bí truyền, phải dấu kín. Hằng ngày, nó ăn và uống nước trong vắt, có than hoạt tính khử phèn. Tôi quý địa lan ở phong cách đó. Nó cho hương sắc, nhưng mà rất khiêm nhường. Sắc nó màu âm, màu lạnh; không phô trương, ồn ào như lan ngoại. Lại càng không rực rỡ, trình diễn ngoại hình thời trang như hoa hồng. Nó rất lặng lẽ, khiêm cung, từ tốn... Hương thì sâu, kín – đúng như chữ u hương trong Đường thi! Tôi không trồng hoa mà tôi trồng một bài thơ Đường! Nói xong, cụ Nghè cười sảng khoái! Suốt đời ông, có lẽ ông không bao giờ quên được nụ cười kỳ lạ của cụ Nghè. Một đời bình-sinh-thanh-cao-cốt-cách, nếu có được một nụ cười phiêu-diêu-khoát-hoạt; cùng lắm, cũng chỉ bằng nụ cười hôm ấy mà thôi! Thế còn địa lan Đà Lạt? Một hôm khác, ông hỏi. Cụ Nghè cất giọng xẵng, địa lan Đà Lạt! Không phải, cái đó là thổ lan, gọi địa lan là phỉ báng địa lan! Cái thổ lan ấy là cái giống Tây, bậm bạp, cao to, chắc khoẻ, uống ăn dung tục; rồi cứ nhón gót mà nở, cứ vỗ ngực mà nở... ồn ào, hỗn láo như một cậu thanh niên hippy hoa hòe hoa sói! Làm sao sánh được với cốt cách văn vật cao nhã cố đô!
... Những ngày nắng to, ông ra sau hè, đánh trần, xắn quần xuống ao vớt bùn non – chỉ là bùn non thôi - chuyển lên phơi trên một đám đất cao ráo. Nếu thiếu, ông đặt mua các ao đầm chỗ này, chỗ kia. Đứa con trưởng- lúc ấy đang là giáo sư chủ nhiệm phân khoa dân tộc học - trong giờ rãnh rỗi, thấy vậy ra tay phụ giúp với ông. Nó hỏi, cha làm chi mà vất vả rứa, sao không thuê người làm? Ông cười ruồi, tao đang thật sự nghỉ ngơi ấy chứ! Sự nghỉ ngơi của một con ngựa già, đã mỏi mệt sau những cuộc đua đường trường, một đời, lao nhọc! Đứa con dòng máu đại khoa, gène trí thức, nó kính trọng vị cha già có một vài phút giây tự mãn dễ thương; nó gật đầu mỉm cười, hỏi tiếp- thế cha sẽ dùng bùn này vào việc gì? Bí mật, ông đáp, tao trân trọng lời hứa thiêng liêng với một linh hồn cũ xưa ( cụ Nghè đã mất); nó đẹp như câu chữ của Đường thi, con không hiểu đâu! Quả thật, con ông không thể hiểu được! Thời đại này chúng không thể nào hiểu được cái tầng văn hoá ẩn mật trong cục đất, cục bùn, cục tâm nơi những chậu hoa địa lan; mà ở đó, chúng chan chứa cái đẹp của nhân văn, cái mỹ diệu của nghệ thuật sống; cái ân nghĩa vô lượng với cuộc đời, với thiên nhiên ngoại vật!
... Đất bùn non gom lại, phơi khô đúng một năm nắng, ông lại lụi cụi đập nhỏ, sàn, rây cho mịn... Ông con trí thức, lại hỏi, cha làm gì thế này, nghỉ tay một chút, vào góp ý giúp con về cái đề cương mà con đã phác thảo về bảo tồn vốn cổ của dân tộc... Ông ngước đầu lên, lấp lánh niềm vui trong ánh mắt, ừ, tốt, con đã không phụ lòng kỳ vọng của tiên tổ. Tốt, tốt... Rồi ông lại cúi xuống, đập, sàn, rây...Ông nói, tao cũng đang bảo tồn vốn cổ của dân tộc đấy chứ! Tao đang cặm cụi với hồn đất, hồn văn đó thôi! Ông nhướng mắt lên, cái kiếng trệ xuống, những công trình hiện vật cổ xưa, tìm, điều nghiên thì sẽ còn, kể cả các giá trị phi vật chất; nhưng bí quyết trồng một bài thơ Đường thì sẽ thất truyền, xót xa lắm, con ơi! Ông con nói, cha lại nhạo con rồi! Thế cha không góp ý giúp con à? Ông cất tiếng như giảng bài, nhưng giọng trầm ấm, xúc động, con là thanh niên thuộc thời đại mới- thời của Inte rnet- mà chân bước đi không hỏng đất, mắt không đắm cái hào nhoáng, óc không lây uế những giá trị ảo, trí không nhiễm thói kiêu căng, hãnh tiến; sở học đã không coi thường vốn cổ của cha ông, mà còn có những công trình tầm cỡ để gìn giữ, bảo tồn nữa. Tốt, rất tốt! Người con có vẻ phân trần, giải thích- công trình của con nó rất quan trọng, sẽ được đọc trong cuộc hội nghị khoa học toàn Châu Á, do Unesco tổ chức- người con nói tiếp, giọng buồn, ở Huế này chỉ có cha mới có thể đọc, hiểu và góp ý ở những chỗ bất cập... còn, thưa cha, con biết tìm ai nữa đâu! Ông tháo mắt kiếng, lấy vạt áo màu nâu bạc chùi bụi, con nói thế, biết bao nhiêu là giáo sư tiến sĩ thời đại mới; cha dẫu có chút học hàm, học vị nhưng già rồi, kiến thức thì quê mùa, lạc hậu rồi! Người con nói, giáo sư, tiến sĩ thời này ấy à- xì một tiếng, cười lạt- còn tệ hơn tiến sĩ giấy, tiến sĩ bù nhìn thời Nguyễn Khuyến, Trần Tế Xương... ! Con ông chợt cất giọng bùi ngùi, con không có bạn, thưa cha! Thầy, cũng vậy, con chỉ có cha thôi, ngoài ra, chẳng có ông thầy nào là xứng đáng cả! Ông bất đồ đứng thẳng lưng dậy, quăng dụng cụ, giận dữ - Không thầy à? Không ai xứng đáng à? Không thầy đố mầy làm nên. Nhất tự vi sư, bán tự vi sư. Con mà còn nuôi dưỡng ý tưởng kiêu mạn ấy thì sẽ làm ô nhiễm tâm hồn, ô nhiễm các giá trị thiêng liêng, con có biết không?
Ông con, giáo sư, hôm ấy, biết mình lỡ lời, sợ hãi, khép nép, im thin thít. Từ nhỏ, ông giáo huấn con rất nghiêm khắc; ông sử dụng rất ít kiến thức sách vở, không thích dùng lý luận biện chứng sáo mòn; mà chỉ nói chừng mực, vừa phải - cốt gợi ý về đời sống cụ thể, giữ gìn tác phong, nhân cách và tâm thái văn hóa trong giao tiếp, ứng xử, công việc... Sớm nào ông cũng cùng con nấu nước sôi, chế trà, pha trà... Cả hai tập chờ đợi, tập để tâm rỗng rang, tĩnh lặng; thưởng thức không gian và môi trường sống với thiên nhiên hoa cỏ ở xung quanh. Ông trao đổi với con, nói về bản lãnh của kẻ sĩ là phải thể hiện cho bằng được đời sống tinh thần không bị nhiễm ô, đừng bị vấy bẩn bởi khói, bụi và các loại chất độc vi tế... Nghệ thuật sống là phải biết quán niệm, lắng nghe và tự chủ ngay từ hơi thở đầu tiên trong ngày... Và cũng từ tách trà sớm tinh sương ấy, nó sẽ duy trì sinh lực để vô hiệu hoá những tư tưởng hèn yếu, bạc nhược - mà chúng thường lý luận rất hay ho để thoả hiệp với những cái dung tục của đời thường... Ông đã mãn nguyện khi đã định hướng cho con ông đi theo con đường bảo vệ những giá trị truyền thống... Bây giờ, con ông bảo là không có ai xứng đáng là thầy! Nó không phải sai. Nó có cái lý của nó. Hoặc do nó buồn về tình trạng tha hoá, tụt dốc phẩm chất, khuyết tật kiến thức của quá nhiều giáo sư, phó giáo sư, tiến sĩ... thời nay! Nhưng không nên phủi tay tuốt tuồn tuột như thế! Vong ân bội nghĩa quá! Thế hệ ông khác, một chữ cũng là thầy. Nó đâu có biết rằng... thế gian này có biết bao nhiêu là ông thầy!
Bùn rây xong, ông nhờ mấy o mấy mệ hàng xóm xin nước luộc nghêu, ốc, hến rồi hì hục bóp, nhồi, nhồi cho thật nhuyễn; trộn thêm với than hoa cỡ hạt đậu, hạt bắp. Xong, dùng bay, ông trải đất ra trên tấm ni-lông, san bằng, chà láng, dày chừng năm phân; lại dùng bay, dùng thước cắt ngang, xén dọc từng tấm hình vuông đều đặn tương tợ mặt bằng với từng ô ươm thuốc lá... Con ông lại hỏi, cha làm gì nữa đó? Giờ thì không bí mật nữa, cha chuẩn bị chất trồng đó con! Đợi đất khô, xắn ra từng tấm, từng tấm đặt vào lò nung, nung thủ công, nung sao đừng chín quá như gạch vồ, cũng đừng non quá, dễ vỡ! Địa lan được trồng với chất trồng này, quanh năm chỉ cần tưới nước sạch, nó sẽ phát triển xanh tốt, không cần một loại phân nào khác... Công phu quá, ông con giáo sư nói, phải cần có niềm vui, tâm tĩnh lặng, không còn vướng bận chuyện đời mới làm được. Ừ, con nói đúng! Là cái thú điền viên của người xưa đó con! Người con nói, hóa ra địa lan thích phân ngầm, như dồn tụ phẩm chất vào bên trong, thấm đẫm trong đất; rồi nó ăn một lần thôi! Ừ, ông khen, con nói hoàn toàn chính xác, dồn tụ phẩm chất vào bên trong, hay lắm; rồi ăn một lần thôi, hay lắm, ăn nhiều quá, dung tục quá thì còn gì là “an bần lạc đạo”nữa! Người con hiểu, gật gù, lẩm bẩm, ông già lúc nào cũng triết lý, không độc nhưng cay và sâu... thì ta cũng phải nói năng cho có trọng, có lượng một tí chứ!
Mặc lan Vân Nam lá dài, dày, to... chắc hẳn chồi hoa sẽ đậm đạp, mập ú, vươn cao. Nó có cái đẹp riêng của nó. Cái đẹp của một đế quốc đầy bản ngã, đầy kiêu căng, đầy tự hào nền văn hóa dày sâu nhiều ngàn năm của mình - nên cái gì cũng to, cũng lớn, cũng vĩ đại... cái gì cũng đại, họ quý chữ đại...! Ngược lại, ở ta, ở cái xứ đầu cứng mà bụng lép này, cái gì cũng bé, cũng nhỏ; mặc lan cổ xưa Huế bé nhỏ, xinh xắn, trông thanh nhã hơn nhiều. Lại còn thơm đậm, bền... Nói cho rôm rang chữ nghĩa một chút: nó bàng bạc, khinh diêu và du viễn, tuyệt! Mặc lan Vân Nam thô tháo, phàm tục quá, ta sẽ tặng thầy khóm mặc lan sáu chồi quý nhất, cốt cách nhất đất thần kinh này! Cứ quyết định vậy đi...
... Này con, hôm kia, ông nói, lúc cụ Nghè mất, bao nhiêu chậu địa lan quý nhất, ông sai con cháu mang biếu tặng các ngôi chùa và các bậc cao tăng mà ông quý trọng... Cái thanh khiết phải tặng cho người thanh khiết... Tâm nào cảnh nấy... chắc con hiểu chứ?
Ông con hiểu quá mà, nên khóm mặc lan, công phu và tâm huyết của cha... Ừ, ông nói, giọng bùi ngùi... Cái gì quý mới cúng, mới thờ... Con ông lại một lần nữa không hiểu ẩn ý đằng sau câu chữ...
Bookmarks