kết quả từ 1 tới 15 trên 15

Ðề tài: Kiếm tiên môn

  1. #1

    Mặc định Kiếm tiên môn

    Kiếm tiên môn ở trung hoa có lẽ là hệ môn phái thần bí hàng đầu của đạo môn. Dùng đan hóa kiếm. dùng kiếm nhập đạo. Nhưng luyện đến tối thượng thiên tiên thì mới là khó. Ở một số môn phái thông qua công phu thì chỉ nội 49 ngày học trò tay đã có thể xuất kiếm khí dài 3-5m, nhưng luyện đến thiên tiên vẫn có khi mất đến 200 năm. Tương truyền. Cũng nghe đồn rằng Phiên Thiên Ấn trong phong thần cũng do một chi kiếm tiên nắm giữ.


    Bài này nói về kiếm tiên môn khá chuẩn nên xin phép anh tăng thuận post ở đây. Hiện người công phu địa tạng môn cũng đã theo ý trời mà xuất hiện. Trong


    KIẾM TIÊN
      剑 仙


    Kiếm Tiên là do thuật luyện Đơn tu Tiên của Đạo Gia đem Nội Đơn hóa thành Khí , sau đó hóa Khí trở thành Kiếm , nên được gọi là Kiếm Tiên . Bên Tàu , Kiếm Tiên có hai môn phái , đó là Nam Kiếm Môn và Bắc Kiếm Môn . Sự tu luyện của Nam Bắc Kiếm Môn trên căn bàn là giống nhau , chỉ có chổ khác nhau là Nam Kiếm Môn luyện Chưởng Trung Kiêm , khi phóng Kiếm Khí từ trong tay phóng ra ; còn Bắc Kiếm Môn luyện Phục Trung Kiếm , khi phóng Kiếm Khí phóng từ mủi và miệng ; Do đó , bất kể là phóng Kiếm khí từ tay hay miệng ; nhưng trên căn bản đều dùng tinh hoa của con người là Tinh – Khí – Thần kết hợp để luyện thành Nguyên Quang , Khi Kiếm Tiên phóng khí có thể phóng ra từ miệng một luồng bạch quang , được xử dụng như Kiếm Khí có thể cách không cắt đầu cọp và có công năng xuyên sơn phá thạch . Nhà Đạo Gia có thể hợp nhất thân mình và Kiếm Khí để hóa thành một đạo hào quang bay lượn trên không .
    Khi đã luyện thành Kiếm Khí , người xử dụng có thể làm thương tổn kẻ ác một cách vô hình , giai đoạn nầy là hành giả chỉ mới luyện thành Thần Kiếm , giai đoạn kế tiếp hành giả phải thu nhiếp ánh sáng , luyện Thần để có được Huệ Kiếm Nguyên Thần ; Sau đó hành giả còn phải luyện Hoàn Hư Hợp Đạo để có thể trở thành Phi Kiếm Thần Du được .
    Các loại Kiếm Tiên : Thủ Trung Kiêm – Phục Trung Kiêm – Thần Kiếm – Huệ Kiếm – Phi Kiếm .
    Do đó , trước tiên hành giả phải tựu Khí , tựu Quang để luyện Ánh Sáng , sau đó lấy Hư Vô mà luyện Nguyên Thần , để từ đó có thể xử dụng Kiếm Quang một cách ung dung tự tại .
    Môn phái Kiếm Tiên kể trên được lưu truyền từ thời Tống bên Tàu .



    KIẾM TIÊN NGŨ KIẾM

    THUỘC
    ĐỊA TẠNG MÔN KIẾM PHÁP

    Của Kim Kiều Giác thời Đường bên Tàu .

    Ngũ Kiếm là :
    Khí Kiếm - Quang Kiếm - Sắc Kiếm – Kim Kiếm – Vô Kiếm

    Khí Kiếm là do Khí hình thành , đó là bước đầu của Kiếm Tiên , vì lực còn yếu nên chỉ có thể phòng thân và giúp cơ thể mạnh khõe chống lại sự xâm nhập của bệnh tật .
    Quang Kiếm được hình thành trên cơ sở của Khí Kiếm phối hợp với sự vận dụng Linh Quang . Đây là Linh Tánh mới phát khởi , thần thông pháp lực bắt đầu manh nha ; Loại Quang Kiếm nầy có thể phát thu tự tại , có thể biến hóa dài ngắn , to nhỏ , lúc vận dụng như Kiếm Hình , lúc thu lại như hạt đạn nhỏ gọi là Viên Kiếm , cất giử tại đơn điền . Khi hành giả luyện thành công được Quang Kiếm , là bắt đầu có tư cách sơ khởi lên cấp bậc đầu tiên của Kiếm Tiên .
    Sắc Kiếm thuộc vào hàng trung cấp của Kiếm Tiên ; khi luyện thành lúc phóng kiếm hào quang lấp loáng muôn màu , có thể vượt thiên lý và có thể mang tải thông tin ; giúp hành giả mở thiên nhản , thấy được sự biến hóa vi diệu của thiên địa vạn vật ; khi ngoại giới có sự biến động , là tâm hành giả sẻ thu nhận được ngay ; bởi vì lúc đó vạn sự vạn vật như tương ứng trong tâm hành giả , biến hóa tự tri , ứng biến tùy tâm vậy .
    Kim Kiếm là Kiếm của Đại La Kim Tiên , trên cơ bản của Sắc Kiếm , thông qua hợp tâm luyện tính , thu nhiếp thiện duyên của tâm địa và thiên tính mà thành . Pháp lực của Kim Kiếm rất cao cường , có thể biến đổi , gây ảnh hưởng và cải thiện mật mả và qui luật của vũ trụ thiên nhiên ; nhưng Kim Kiếm chưa có khả năng hợp nhất với đại đạo và lực của vũ trụ thiên nhiên .
    Vô Kiếm là bước đại thành của Kiếm Tiên ; khi luyện thành Kiếm Tiên thì qui tựu được tam tài Thiên - Địa – Nhân ; hợp với thiên nhiên ; Vô Kiếm có đầy đủ Pháp Lực – Linh Diệu và Thần Thông ; nên Vô Kiếm có thể trở nên vô hình , vô tích , vô tướng ; người không thể thấy , quỷ thần không thể biết , biến hóa vô cùng . Vô Kiếm thuộc về vô lậu thần thông của hàng thượng thừa Kiếm Tiên , hành giả có thể hợp với thiên nhiên , hợp nhất vưới đại đạo , thông hư không , trùm pháp giới ; đạt đến cảnh giới ung dung tự tại vậy .



    TUYỆT KỶ CỦA KIẾM TIÊN

    Kiếm của Kiếm Tiên không phải loại kiếm làm bằng kim loại giết người sắc bén của người thường .
    Kiếm của Kiếm Tiên là loại Kiếm tinh chế nhất trong tất cả các loại kiếm , dùng Thiên Tính của trời và Tâm Địa của Tiên , để tựu khí luyện Kiếm cho đến phát Quang , từ phát Quang luyệnt thành Sắc , từ Sắc trở thành Kim và từ Kim luyện thành Vô , mà hợp với tự nhiên . Khi luyện thành công , Tâm và Kiếm của hành giả có thể hợp nhất ; biến hóa tại tâm , vãng laitự ý ; Kiếm có tánh linh , tâm tưởng đến đâu , thì Kiếm bay đến đó ; trong một nhấp nháy có thể bay từ nam cực qua bắc cực , nhanh như điện chớp . Phi kiếm có thể diệt bạo trừ yêu tà , và có thể mang và truyền tải thông tin của hành giả đến nơi nào mà hành giả muốn ; Khi hành giả phóng kiếm , chỉ cần suy nghỉ trong tâm những điều muốn nói hay những hình ảnh gì đó , yếm vào trong kiếm mà phóng đến người nhận , dù cách xa muôn dặm cũng có thể đến nơi và hiện ra rỏ ràng trong tâm người nhận những điều hành giả muốn gởi . Do đó , Kiếm Tiên có thể vô hình vô tướng vận công phóng kiếm để tiêu diệt tạp niệm cùng tà tâm và tham dục của con người .
    Kiếm do người luyện mà thành ; Người nhờ luyện được Kiếm mà trở thành Tiên .



    THÂN KIẾM VÀ TÂM KIẾM

    Thân Kiếm là vật hửu hình , Tâm Kiếm là vật vô hình ; Thân Kiếm hửu Vi , Tâm Kiếm Vô Vi .
    Người luyện kiếm , thu nhiếp thân thể , để đi vào thế giới của Tâm ; dùng Tâm Nhản để quán sát thế giới và vạn vật ; luyện đến một giai đoạn nào đó , hành giả sẻ thể hội được Linh Tính Bản Nguyên của mình , từ đó mà luyện được Linh Kiếm vậy .
    Tâm Kiếm : Kiếm tức Tâm , Tâm tức Kiếm , lấy Tâm dùng Kiếm thì vạn vật đều là Kiếm .
    Kiếm ở trong Tâm , không thấy hình , không thấy bóng . Khi Kiếm nằm trong tay , phóng phát như điện , vô hình vô tích khiến cho người ngoài không thể phòng ngự được .
    Tâm Kiếm có thể vượt khỏi sự giới hạn của Thân Kiếm , và có thể tung hành trong không gian diệu hữu .
    Thân Kiếm là vật sở dụng của Tâm Kiếm , lấy Thân làm Kiếm , vận hành chân khí , phóng phát toàn thân hoặc vận dụng chân khí xuống tay , từ tay bắt ấn Kiếm , Kiếm Ấn khi đánh ra , như một thanh kiếm sắc bén , đều nằm dưới sự xử dụng của tâm .
    Thân người là nơi ngụ của Tâm ; Tâm là Linh Thể của Thân ; Do Đó , khi hành giả đả hợp nhất được Thân Kiếm và Tâm Kiếm , từ đó tinh tấn tu luyện sẻ đạt đến cảnh giới thượng thừa của Kiếm Tiên vậy .



    KIẾM PHÙ VÀ KIẾM CHÚ

    Kiếm Phù là Ấn Chứng của người xử dụng kiếm ; Kiếm Chú là Chỉ Lệnh của người xử dụng kiếm . Khi Kiếm được luyện thành công , hành giả thường sở đắc luôn nhất Phù và Nhất Chú ; Để khi xử dụng kiếm hành giả vẻ chử Bùa nầy lên giấy rồi đốt đi , hay niệm một câu chú thì kiếm sẻ phóng đi , tùy tâm sở dục .
    Bùa là hình của Tâm , dùng để phóng xuất lực của tâm ý ; còn Chú là Linh Ngử lực của Tâm được phóng xuất .
    Khi luyện kiếm ở trình độ sơ cấp , thì chưa có thể sở đắc được chử Bùa Chú nầy . Việc sở đắc Bùa Chú nầy ở mổi người mổi khác ; vì khi mổi người luyện tập đến một giai đoạn nhất định nào đó , thì tư nhiên sẻ có được Tâm Phù và Thần Chú của riêng mình . Nhờ trong lúc luyện kiếm , trong thiền định sẻ tìm ra được Tâm Phù và Chú ngử của riêng mình xử dụng mà thôi , nên dù có truyền lại cho người khác cũng vô dụng và không có công hiệu . Do đó , Tâm Phù và Thần chú chỉ có thể thông qua sức lực của bản thân và được chứng ngộ từ trong tâm của tự bản thân , thì Tâm Phù và Thần chú nầy mới có hiệu nghiệm .



    SÁT NHÂN KIẾM VÀ HOẠT NHÂN KIẾM

    Kiếm có thể dùng để giết người và kiếm có thể cứu người ; tức kiếm có thể cứu người và cứu ta và kiếm có thể giết người và giết ta ; tất cả đều do sự vận dụng của tâm địa của người xử dụng kiếm .
    Tất cả các pháp thuật trong thiên hạ đề có chổ tương thông với nhau ; thuật giết người cũng là thuật cứu sống người ; Kiếm giết người cũng là kiếm cứu sống người .
    Sát nhân kiếm có thể giết người , là do tâm địa sát nhân tham dục vọng tưởng chủ động ẩn ở phía sau xử dụng ; Hoạt Nhân Kiếm có thể cứu người , là do tâm địa tinh khiết thuần lương tiềm tàng bên trong chi phối .
    Sát Nhân Kiếm , Hoạt Nhân Kiếm đều là kiếm của Tâm xử dụng . Do đó , sát nhân hay cứu người đều là cái dục phát nguyên từ Tâm của hành giả . Chỉ khi nào tâm của hành giả đi vào cỏi giới thanh tịnh vô vi , thì lúc đó kiếm mới có thể siêu xuất vượt khỏi cảnh sát nhân và cứu nhân , mà tung hoành tự tại trong hợp với đạo đức tự nhiên nhi nhiên của thiên địa .
    Có được một thanh kiếm toàn quyền sanh sát dưới sự xử dụng của tâm , cùng hợp tính đạo đức tự tại của kiếm , lúc đó hành giả có thể vượt lên khỏi vạn vật rồi vậy .
    Người luyện kiếm , hảy luyện cho mình một thanh kiếm cứu người , nó một thanh tâm tâm kiếm ung dung tự tại khả quí đấy .



    LINH KIẾM

    Kiếm là do người nắm , chỉ có người vô uý , kiếm mới vô úy ; chỉ có người trung trực , kiếm mới trung trực ; chỉ có tâm tà thì kiếm mới tà .
    Chỉ có cảnh giới tâm địa vượt khỏi sanh tử , vạn sự vô ngại , thì kiếm mới có linh hồn ; dùng tánh linh của kiếm để phù trợ chính nghĩa , tiêu trừ tà ác , thì mới xứng đáng là thiên hạ vô địch .
    Hảy tôn kiếm như Tiên , như Phật , như Tâm của ta , thì kiếm và ta hòa cùng nhất thể , thì âm thanh của kiếm là sự thố lộ linh ngử của tâm hồn ; nếu làm được như thế trong khi luyện kiếm , thì kiếm sẻ có được linh hồn tiềm ẩn trong đó vậy .
    Khi kiếm có sanh mạng , thì sẻ có linh hồn , thì sẻ phát sanh trí huệ ; khi đả ttrở thành một thanh kiếm trí huệ , thì nó có khả năng chặt đứt tất cả phiền nảo , tham ô và ái dục , thì đây thực là một thanh thuần dương chi kiếm .
    Khi dùng pháp lực của kiếm vào việc thiện , đó là tánh linh của kiếm và là hào quang của kiếm .
    Khi dùng pháp lực của kiếm vào việc ác , thì đó là sự cong vại và ô uế của kiếm .
    Nếu đem tình thương yêu bác ái lồng vào trong kiếm , khi đem xử dụng ở một nơi nào , thì một sanh mạng sẻ được sanh ra từ nơi đó ; đó là một thanh Ái Kiếm .
    Nếu đem tình yêu lồng vào trong kiếm , khi đem xử dụng ở một nơi nào , thì nơi đó sẻ có linh quang ; đó là một thanh Tình Kiếm .
    Sự linh diệu của kiếm phát xuất từ trong định , kiếm tâm luôn trau luyện từ trong thanh tịnh vô vi , chỉ cần trong tâm vận lên thanh linh kiếm của tâm tự tại nầy , thì mới có thể vượt qua tâm hải và hình tướng của vạn vật .
    Hành giả , hảy luyện cho mình một thanh kiếm vô tâm vượt lên khỏi tất cả , thì nó mới thật là một thanh linh kiếm vậy .

  2. #2

    Mặc định

    cám ơn những bài viết rất hay của huynh :).
    Lãng lí ba đào bất khả minh
    Tử đồ hà xứ cảm trì danh
    Tam nhân nhật hội phù gia nghiệp
    Phong lĩnh giang hà hoài nhất sinh
    <Bác Nhược Thủy>

  3. #3

    Mặc định

    Quá đổi là hay!

  4. #4

    Mặc định

    Xuất xứ bài này của huynh Ánh Sáng T2 Úc Châu. Đề nghị chú thích rõ.

  5. #5

    Mặc định

    Tôi đã ghi là xin phép anh tăng thuận post rồi rồi, thanhmai08 chắc thấy rõ chứ?

    Mượn bài này vì hiện nay địa tạng kiếm tiên môn trong bài viết đã xuất thế!

  6. #6

    Mặc định

    có biết cái chiêu "nhân kiếm hợp nhất" không?
    Người đạo sĩ cuối cùng

  7. #7

    Mặc định

    " Địa Tạng Kiếm" đã xuất hiện??? bác cho em hỏi xuất hiện ở đâu ạk??? cho em vài cái dẫn chứng để em mở mang tri thức với ạk...
    Thank bác!

  8. #8

    Mặc định

    Trích dẫn Nguyên văn bởi bộ xương Xem Bài Gởi
    có biết cái chiêu "nhân kiếm hợp nhất" không?
    chiêu mật tich cao cấp của võ đang kiếm trong kiếm thế :))

  9. #9

    Mặc định

    Chà chà Thiên Long Bát Bộ đọc thấy lục mạch thần kiếm thì hơi nhảm nên chán, không ngờ có môn kiếm này.
    Chẳng Tin Ai !:shame_on_you:

  10. #10

    Mặc định

    Có huynh nào biết luyện kiếm khí ra tay ko chỉ tiểu đệ zới
    Ngày đó sẽ rất gần!

  11. #11

    Mặc định

    Kiếm được 1 bộ để tu thì hay biết mấy nhỉ. Dùng kiếm nhập đạo kaka

  12. #12

    Mặc định

    Mình may mắn tìm kiếm được trên mạng, nên up cho mọi người cùng xem
    Luc Mạch Thần Kiếm quyển 1
    Thiên Long Thần Công Bí Điển

    Lục Mạch Thần Kiếm

    Thiên Long Thần Công bí điển tuyển lựa nhiều tinh hoa từ y học, đạo học, phật học, dịch học cùng pháp lý tinh hoa bách gia. Lấy thần làm căn bản, lấy khí làm nền, lấy lực làm phần phụ trợ, đồng luyện thần khí, kiêm tu nội ngọai. Về phương diện dịch học và y học hấp thu hết lý luận âm dương ngũ hành tương sinh tương khắc. tức kim (phế: phổi) sinh thủy, thủy (thận) sinh mộc, mộc (can: gan) sinh hỏa, hỏa (tâm) sinh thổ, thổ (tì vị) sinh kim. Đồng thời lấy khí thổ nạp cùng lục tự quyết cổ điển làm cách trị liệu cường tráng và luyện nguyên khí ngũ tạng cho lục phủ ngũ tạng. Võ học lấy hạ đan điền làm chủ, luyện dưỡng tiên thiên nguyên khí, gồm thái (thu hái) thiên địa chánh khí làm bổ sung. Nội ngọai kết hợp, bồi luyện chân nguyên. Đạo học hấp thu đan đạo chu thiên đả thông thập nhị (12) kinh mạch, kỳ kinh bát mạch cùng huyệt đạo tòan thân, kích thích bách mạch vận hành thông suốt, khí huyết lưu thông, khí lộ thông mở. Ở phật học thì tinh tuyển pháp quyết tọa thiền tu tâm thông linh, lấy tâm tu thân làm cho công lực ngày càng tinh thuần.

    Thứ nhất: Nội công tâm pháp.
    Thiên Long lục mạch kiếm do đòan thị Vân Nam truyền.
    Chọn từ y đạo võ đạo, lý pháp thông với pháp thiền của phật gia.
    Tính mệnh song tu pháp, Thiên cổ tuệ quang viên (Ngàn xưa làm đầy đủ tuệ quang).

    Tọa ngọa trạm hành thức (đi đứng nằm ngồi), ngọai luyện bì cân cốt (Bên ngòai luyện da gân cốt).

    Mạch khai kiếm khí xuất (mạch khai sẽ xuất hiện kiếm khí), kích địch ngự thiên quân (chống địch chế ngự ngàn quân).

    Chứng ngộ phật đạn ky (chứng ngộ cơ phật dạy), Đức tu vi quân hành ( tu đức là đang hành)

    Thiên cổ bí tịch kỷ (kỷ thuật trong sách từ ngàn xưa), Thận vật khinh truyền nhân (cẩn thận chẳng khinh truyền cho người).

    Nội công bao gồm hai phần mệnh công cùng tính công, mệnh công lấy tích khí, luyện khí, vận khí, hành khí đạt đến khí thông bách mạch cùng các huyệt ở bộ vị ngón tay tương ứng làm tu luyện lục mạch thần kiếm cùng các thần công đặc sắc có nội công cơ sở chuyên dùng để đánh. Tính công chủ tu luyện nguyên thần, đợi nguyên anh (anh nhi) ngưng kết, thần đạt lục thông, không ngừng tăng cường uy lực của khí lục mạch thần kiếm, có thể cùng lý thâm sâu của vũ trụ phát triển, theo đó mà tiến nhập từ hữu vi đến vô vi, vô vi mà vô bất vi cảnh giới thông huyền biến hóa, đến cảnh giới này, trước sau lấy ngón tay xuất vô hình kiếm khí, đừng chờ khi động tác hữu hình bộ tay xuất phát, mà là lấy thần ngự khí, khí động thần tri (khí động thần biết), thần động khí phát, công lực cao thâm có thể đạt thiên lý phi kiếm (kiếm bay ngàn dặm(, chế địch ở vô hình).

    Tu luyện nội công là gốc quan trọng trong tu luyện võ công. Yếu tố tu luyện nội công ở tại điều hình, điều tức, điều thần. Gọi là điều hình tức là hình thể động tác lúc luyện nội công. Gọi là điều tức đó là phương thức hô hấp lúc luyện nội công, gọi là điều thần tức là dùng ý niệm lúc tu luyện nội công.

    Mệnh công tổng quyết (các pháp bí truyền về mệnh công)

    Quyết viết:

    Thụy tuyết địch cấu ý tiêu nhàn (Tuyết ngọc quét sạch dơ bẩn, ý tự do nhàn hạ),

    Thu thị phản thính tổ khiếu gian (Thu sự nhìn ngó ở mắt, tai nghe ngược trở về tổ khiếu).

    Mi quang ẩn thì tuệ quang hiện (lúc ánh sáng trước chân mày ẩn thì tuệ quang hiện), tâm quang hợp nhất quy hạ điền (tâm và ánh sáng hợp nhất quy về hạ điền).

    Hữu trung diệc vô vô trung hữu (trong hữu là vô trong vô là hữu: trong có là không trong không là có),

    Nhất dương sanh thì kiền khôn chuyển (lúc nhất dương sinh kiền khôn vận chuyển).

    Khí hành nhâm đốc quán trung mạch (khí chạy theo mạch nhâm đốc đổ vào trung mạch),

    Tả hữu mạch lạc khí sung điền (khí trong mạch lạc trái phải sung vào đan điền).

    Thiên nhật hành công thông bách mạch (hành công ngàn ngày thông bát mạch),

    Tủy cốt tinh khí hóa chân nguyên (tinh khí tủy cốt hóa chân nguyên).
    Công hành nhất thiên bát bách chuyển ( công hành một ngàn tám trăm chuyển),

    Dẫn khí hồi phản hạ đan điền (dẫn khí trở về hạ đan điền).

    Tả chuyển hữu chuyển tam thập lục (chuyển trái chuyển phải ba mươi sáu lần),

    Thu công dục diện hõan tĩnh nhãn ( thu công xoa mặt thong thả liếc mắt).

    Lục mạch mệnh công thì thì hành (giờ giờ hành lục mạch mệnh công),

    Thì chí thần tri công lực hiện (lúc đạt thần tri công lực hiện).

    Trúc cơ công thành thể khang thái (Công phu trúc cơ thành cơ thể mạnh khỏe), kham vi nhân gian bất lão tiên (gọi là tiên bất lão của nhân gian).

    Giải nghĩa:

    Thụy tuyết là ẩn dụ chỉ khí linh quang của vũ trụ, tiêu nhàn là chỉ trạng thái ý tiêu diêu điềm tĩnh, câu này ý là thâm tâm thả lõng, trạng thái yên vui, điều động linh quang vũ trụ, linh khí, theo đỉnh đầu chảy vào bên trong cơ thể, tẩy đi tạp niệm, bệnh khí, uế khí bên trong thân thể là công phu chuẩn bị trước khi luyện.
    Tổ khiếu là tổ của các huyệt trong thân, bên trong có minh đường, động phòng, nê hòan, là cửa của thượng đan điền. thu thị là thu hồi lại tầm nhìn mà nhìn trở lại vào tổ khiếu, phản thính tứ lấy ý phong bế thính giác của tai, lấy tâm linh nghe diệu âm bên trong tổ khiếu.
    Sau khi sơ bộ nhập tĩnh, trước mắt có ánh sáng động lấp lánh đó là mi quang, phản ánh khí thuộc tạng, nhập tĩnh cực sâu biến ánh sáng lấp lánh của mi quang dần ẩn đi, tự nhiên cảm thấy cơ thể ánh sáng thấu qua trong suốt, phóng ra đại quang minh, đó là tuệ quang hiện, lúc này lấy mắt ngay ngắn nhìn mũi, khẩu vấn tâm điền (có lẽ dung miệng hỏi tâm) , sau đó lấy tâm ý cùng tuệ quang tương hợp, quy trở về trong hạ đan điền.
    Hữu trung vô, vô trung hữu, một cái hữu là hữu ý thức nghĩa là có ý thức thủ bám vào linh quang, linh khí trong hạ đan điền, Lúc mới tập hạ đan điền ít có động tĩnh đó là vô vậy tức là hữu trung diệc vô. Thời gian dài thêm một chút, lúc hỏang hốt cảm thấy như trong hạ đan điền có vật, đó là linh quang lấp lánh, trong hạ đan điền khiêu động (tức nhất dương sơ động), vô trung hữu vậy, đợi đến khi nhất dương sinh thì khí thông nhâm mạch, đốc mạch , tiểu chu thiên hình thành, tiếp theo cần tu khổ luyện đả thông thủ tâm âm kinh, thủ tam dương kinh, túc tam âm kinh, túc tam dương kinh, kì kinh bát mạch, đại chu thiên pháp luân vận chuyển hình thành. Từ nhất dương sinh đến lúc này gọi là tòan chuyển càn khôn.
    Khí hành trong nhâm đốc mạch chảy vào trung mạch đến tủy cốt tinh khí hóa chân nguyên, tương đương công phu tinh hoa dẫn nhập của du già ấn độ, đặc điểm công pháp này chỉ có một tức lấy việc sau khi hình thành đại chu thiên, dẫn khí thông suốt nhập vào từ đỉnh tâm đến hội âm của trung mạch, theo mạch trái phải, thẳng đến chân khí thông suốt bách mạch cốt tủy, lúc này tòan thân thượng hạ nội ngọai chân khí tràn đầy, tự có tinh lực vô cùng. Công hành nhất thiên bát bách chuyển là hư số thật tế trong quá trình tu luyện không thể đếm số, nếu mà đếm số sao lại không gia tăng tạp niệm. bên dưới câu này đều là phương pháp thu công, đồng thời báo đó là thời khắc trọng yếu của mệnh công lục mạch thần kiếm. Tu luyện mệnh công đi đứng nằm ngồi trong sinh họat thường ngày, thông quá tích góp ngày tháng tu luyện dần dần thâm sâu, từ khi bắt đầu đến thời kỳ nhất định khả năng cảm giác không lớn, khả năng có ít cảm giác, đó là từ lượng biến đổi đến chất biến đổi là một quá trình lâu dài, công phu tích lũy đến một trình độ nhất định thì tất nhiên sẽ phát sinh chất biến nhảy vọt. lúc này trong thân xuất hiện khí cảm chấn động mãnh liệt, tinh thần sáng sủa, cùng quá khứ so sánh y như hai người. đó thường gọi là đả thông sinh tử huyền quan, phạt mao tẩy tủy (tẩy lông rửa tủy), thoát cốt hoán thai. Công phu đến cảnh giới này trăm bệnh khó xâm nhập, ích thọ duyên niên (kéo dài tuổi thọ), không chỉ vậy, theo ý nghĩa giảng phía trên có thể xưng là bất lão tiên tại nhân gian vậy.

    Tính công tổng quyết (các pháp bí truyền về tính công)

    Quyết viết:

    Tính công chủ luyện thần, tùng tĩnh tâm tự định .(tính công chủ luyện thần, thả lỏng tâm tự định).

    Bế nhật thường dưỡng tâm, tồn thần thủ chân tĩnh. (Ngày thường đóng cửa dưỡng tâm, tồn thần thủ chân tĩnh).

    Thông huyền biến hóa thành, siêu nhập nhân tiên cảnh. (thông huyền quan biến hóa thành, siêu nhập nhân tiên cảnh).

    Hợp thích chí hư cực, phản phác hòan chân tính. (hợp với cùng cực hư vô, trở về chất phác hòan chân tính).

    Tính công chủ luyện thần, tính công cùng mệnh công tu luyện không thể tuyệt nhiên tách ra, tương ứng kết hợp tu luyện. tu luyện mệnh công thì tính công đã tự ở bên trong, tu luyện tính công thì mệnh công cũng đã tự ở bên trong, nói tính công mệnh công giai đọan không đồng, chủ thứ bất đồng là chính do người thường không hiểu. ví như thả lõng cùng tĩnh định tập luyện, bất luận mệnh công hay tính công đều thập phần cường điệu, có thể nói thả thả lõng cùng tĩnh định là cơ sở pháp môn quan trọng của mọi người. chỉ là mục đích cùng yêu cầu không đồng. mệnh công thông qua thả lõng cùng tĩnh định đạt đến bồi luyện chân khí, đả thông tòan thân kinh lạc cho đến da thịt cốt tủy. mục đích và chứng nghiệm là khứ bệnh kiện thân, ích thọ diên niên. Tính công là bồi luyện nguyên thần, đạt đến thần câu lục thông (thần đạt lục thông), linh thông biến hóa, mục đích và chứng nghiệm là đắc đại thần thông, khai đại trí huệ, đạt đại viên mãn, cùng diệu đạo vũ trụ phát triển biến hóa.
    Lúc chủ tu tính công, thông qua phương pháp tùng tĩnh, chủ yếu khống chế thức thần,đó gọi là tâm tức là thức thần hậu thiên. Thức thần là chủ tể thần họat động quan trọng, tính nó linh động, thường gọi là “tâm viên ý mã” là như vậy. tâm ý là thức thần hậu thiên. Viên là , thường gãy tai gãy má, thả ra là chạy nhảy. mã thường rung đuôi đạp chân. Chạy rong la hét. Cả hai đều động. động như vậy thì thức thần thống suất hết nhân thân. Nên nguyên thần bị che ở tận cùng thâm sâu vậy. thông qua tu luyện tính công bèn thu tâm cầu tĩnh, cầu tĩnh thu tâm thì theo tâm hậu thiên thức thần thu hồi, định tại bên dưới song lâm thụ, đó là “thu tâm viên, tỏa ý mã (thu tâm vượn, khóa ý ngựa)”. đó là bước thứ nhất của tính công. Tùy vào ngày tháng tích lũy. Công lực tăng cao, do thu tâm cầu tĩnh dần dần đến định cảnh. Lúc đó thức thần không bị kích họat trở lại. tất cả dần dần thóai vị. nguyên thần dần dần quy vị, đó là sơ bộ nhập định. Định là tĩnh thật thâm sâu. Cũng là ở trong giới hạn thời gian nhất định. Thức thần hoàn toàn đình chỉ hết họat động, lúc đó tư duy họat động của đại não hoàn toàn đình chỉ hết, đó là nhập định. Ban đầu loại định cảnh này rất ngắn tạm. chỉ có một sát na, thức thần lại phục lai. Tư duy họat động là tạp niệm lại khởi. đó là cái đích rất quý, lại chỉ có một sát na, cảm giác trong người rất thư thái, đối với điều tiết tinh thần có nhiều lợi ích nho nhỏ. Thông qua phản phục tu luyện tức là “bế mục thường dưỡng tâm”, dần dần thời gian quy vị của nguyên thần dần dần dài hơn rồi chiếm luôn địa vị chủ tể, lúc đó thần ôm ấp khí, khí dưỡng thần, nhập đại định, đó là chân tĩnh vậy. “tồn thần thủ chân tĩnh”chi thần là nguyên thần tiên thiên, thời gian nhập đại định có công phu sâu cạn không đồng, ít thì bảy ngày, nhiều thì số năm không đồng. đương nhiên cũng có căn cứ chuyên hạng công pháp bất đồng mà định giờ tọa quan hay khai quan. Tọa quan là nhập đại định. Xuất quan là xuất đại định vậy. ở mức tịch tĩnh thâm sâu. Trong thân thể người đại định, bất động mà thần thanh minh. Nguyên thần trong tu luyện dần dần ngưng kết thành hình, hợp cùng hư, đắc được đạo. do định mà ngộ gọi là tuệ vậy. sơ thì đạt thiên nhĩ thông. Nghe đến âm thanh thường nhân không nghe đến, thính giác này không phải là phàm nhĩ mà là dung tâm là thiên nhĩ. Loại thính này thính lực thậm chí có thể dời hướng dời vị trí, định điểm nghe đến bí thất thâm sâu, hoặc xa đến những âm thanh tận chân trời. kế tiếp là thiên hạn thông, có thể nhìn thấy những sự vật thường nhân không thể thấy. một là thấu thị, diêu thị (nhìn xa). Thứ hai là có thể nhìn đến siêu linh giới hay đê linh giới (giới ở thấp), giới là sự vậy. thứ ba là thần túc thông, không phải là khinh công của phàm nhân. Mà là theo ý muốn của tâm thì thân tức đến. sao lại sợ xa cách vạn lý. Niệm động tức đến. tu luyện đến đây không thời gian không chướng ngại. thứ tư là tha tâm thông. Thứ năm là túc mệnh thông. Thứ sáu là lậu tẫn thông. Ba cái thông sau mà đắc được, có thể cùng người ở xa tâm linh đồng bộ, có thể tri quá khứ vị lai, đạt đến cùng vũ trụ thiên địa diệu đạo, tiến thêm một bước có thể thông huyền biến hóa, siêu phàm nhập thánh, luyện hư hợp chí cực, do vô vi mà vô bất vi, phản phát quy chân (trở về chân thật chất phát). Có thể chân chánh nhận thức đến bổn tính nhất nhất chân ngã.

    Thứ nhất, tọa công (nhất)

    Tọa công là tu luyện nội công cần thiết căn bản. bất luận mệnh công hay tính công, cũng không luận công pháp phái nào. Tọa thức tu luyện là đích tối cơ bản. từ sơ thừa đến người hạ thủ ở cao tầng. kế đến là luyện hư hợp đạo, tòan từ tọa thức mà hòan thành. Đương nhiên cũng có từ trạm thức (thức đứng) hay ngọa thức (thức nằm) mà hòan thành nhưng chỉ là số ít.

    Quyết viết:

    Tọa thức tu đương bàn, thần tĩnh thể tự nhiên. (tọa thức cần ngồi bàn tọa (thế hoa sen), thần tĩnh thể như bong)).

    Song thủ như bão cầu, bế mục thủ đan điền. (hai tay như ôm cầu, nhắm mắt thủ đan điền.

    Xuy hư a hô, bách bệnh giai hóa tán. (thôi ra hô âm a, bách bệnh đều tan).

    Ngọc tạng thổ nạp thuật, liệu tật bảo bình an.( thuật thổ nạp cho tạng, trị bệnh bảo bình an).

    Nhất bộ tu luyện thuật, nội tráng thể khang kiện. (bước một thuật tu luyện, nội tráng, thân thể kiện khang).


    Lục thập thiên công thành, lục mạch đệ nhất quan. (sáu mươi ngày công thành, lục mạch là một quan (một cửa)).

    Giải nghĩa.

    Tu luyện tọa công toàn dung bàn tọa (ngồi hoa sen).

    Bàn tọa là một lọai công phu, nên cần thông qua tu luyện nghiêm cách cho đến nhẹ nhàng tựa như, tùy tâm sở dục (tùy theo tâm muốn), du già ấn độ đối với huấn luyện hình thể thập phần hà khắc. để đạt đến những trình độ cao cấp. mục đích là đề cao sự nhu nhuyễn, linh mẫn của thân thể, cả lực lượng lẫn cơ năng. Nhẹ nhàng như song bàn (còn gọi là liên hoa tọa). thì cơ năng thân thể nhu nhuyễn, linh mẫn. lực lượng đạt đến khởi mã thủy chuẩn (đạt đến chuẩn) một tiêu chí trọng yếu. bên dưới giới thiệu một lọai công pháp tu luyện tuần tự tiệm tiến bàn tọa.

    (thứ nhất) thân ngay ngắn ngồi trên đệm, hay chân để bằng nhau, tòan lực lượng thu đến trước hội âm, kế đến lòng bàn tay đè lên đều gối, một đè một thả lỏng tiến hành có tiết tấu, từ nhẹ đến nặng; đến khi đầu gối chạm đệm thì công thành. Bước kế hai tay nắm gót chân, lấy khủy tay đè đầu gối. đồng thời tòan thân hướng ra phía trước đà xuống đến khi trán chạm gót chân là thành công.

    (thứ hai) thân ngay ngắn ngồi trên đệm, gót chân trái chạm hội âm, gót chân phải chạm bên ngòai đùi nhỏ. Hai tay giơ lên. Lòng bàn tay hướng ra trước. tòan thân hướng trước đè xuống tạo thành hình trạng khấu bái (lạy). trán hướng ra trước đè xuống đệm, buông bàn công thành. (chú ý hai chân thay đổi luyện tập).

    (thứ ba) thân ngay ngắn ngồi trên đệm, hai gót chân để ở hội âm. Chân trái để bằng phẳng trên đùi nhỏ bên phải, hai tay giơ lên, lòng bàn tay hướng ra trước, tòan thân hướng ra trước đè xuống thành hình dạng bái lạy. trán hướng ra trước đè xuống đệm, chân trái để ở trên đùi lớn bên phải như thức trước đè xuống thành hình dạng bái lạy. trán hướng ra trước đè xuống đến đệm, đan bàn công thành, (chú ý hai chân thay đổi luyện tập).

    (thứ tư) thân ngồi ngay ngắn trên đệm, gót chân phải để ở hội âm. Hai tay từ chân trái hướng lên nắm vào cổ , hai chân thay nhau luyện tập.

    (thứ năm) thân ngay ngắn ngồi trên đệm, lấy chân trái thả lên đùi lớn bên phải, lại lấy chân phải thả lên đùi lớn bên trái. Hai tay hướng lên lòng bàn tay hướng ra trước. tòan thân hướng ra trước đè xuống, trán chạm đệm. ngồi ngay ngắn nữa thì thần trở lên, thì song bàn công thành. Song bàn luyện thành công chỉ là tọa công bước một. đó là bước một tối cơ bản, tức là điều thân. Tiếp theo tiến hành điều tâm (thần) tu luyện. bí quyết tu luyện từ xưa đến nay chỉ ở một chử “tĩnh” chỉ có tâm (thần) an tĩnh, có thể tiến nhập vào trạng thái khí công, muốn đạt tâm thần yên tĩnh, cần tòan thân thả lỏng mềm dẻo như bông. Cái đó gọi là thả lỏng thân tâm cầu tĩnh vậy. hai tay bảo cầu (nam tay trái trên, nữ tay phải trên), ngưng thần bế mục (ngưng thần, mắt nhắm), thu thị phản thính (gom cái nhìn và nghe trở về), ý thủ ở đan điền. gọi là đan điền vì đó là nơi sinh đan. Đan điền có ba, thượng đan điền, vị trí bên trong nê hòan cung. Thứ hai là trung đan điền, vị trí ở tuyến nối hai nhũ (vú) bên trong huyện đản trung, thứ ba là hạ đan điền, vị trí ở bên dưới bụng rốn. bên trong bụng. Cổ ngữ nói hạ đan điền tu mệnh, thượng đan điền tu tính. Nơi ý thủ là hạ đan điền. pháp ý thủ, sơ học thì cần chấp trước truy cầu đều là đạt bên trong hạ đan điền có vòng khí vậy. đó gọi là “thiết đan”. mục đích là ngưng thần cầu tĩnh giảm thiểu tạp niệm. tiến thêm một bước, công phu sâu rồi, tạp niệm giảm ít rồi, chỉ là giờ giờ tập hợp lại, có thể bỏ khí chấp trước trong huyễn tưởng (ảo tưởng) lờ mờ tích chứa trong đan điền có một vòng khí nhiệt, như có như không, vừa chân vừa huyễn (ảo), đó là huyễn đan vậy. lại tiến thêm một bước, công phu đạt tĩnh định cảnh, tạp niệm tiêu hết. lúc này bên trong đan điền khơi động, nhiệt khí hợp lại thành hình, đó là nhất dương sơ sanh, là ban đầu của hòan đan. Đó là nguyên thần quy vị, lúc nội khí sơ sanh. Đó là điều thần. kế đó phụ thêm thở hà hơi “a” thở ra “hi” tiến hành điều tức lục tự quyết. đó là ngũ tạng thổ nạp thuật. tại sao gọi là thổ nạp thuật? đó là âm lục tự ứng với lục phủ ngũ tạng, chử “hi” đối ứng tam tiêu vậy.

    Thận thuộc thủy dung thở khí nhẹ như mây để tiết (làm chảy ra) nó, lấy hấp khí (hít vào) mà bổ nó.
    Can thuộc mộc dùng thở hà hơi nhẹ như mây để tiết nó. Lấy hấp khí bổ nó.
    Phế thuộc kim dùng khí nhẹ như mây tiết nó, lấy hấp khí bổ nó.
    Tâm thuộc hỏa dùng a khí tiết nó, lấy hấp khí bổ nó.
    Tì thuộc thổ dùng hô khí tiết nó, lấy hấp khí bổ nó.
    Tam tiêu thuộc khí dùng khí tiết nó , lấy hấp khí bổ nó.

    Phương pháp luyện công lục tự quyết:

    Đầu tiên xem tạng phủ nơi nào bị bệnh, sau đó lại quyết định dùng chử gì. Thật hỏa tiết nó, hư hàn bổ nó. Tiết là do miệng phát tự âm (âm chử) hô khí (thở khí ra) trước hô (thở ra) sau hấp (hít vào), thở khí ra thì căng miệng, phần nhọn của lưỡi tùy theo từ phát âm tự nhiên điều chỉnh, do đan điền mặc niệm (niệm thầm) từ đang dùng. Khí là âm, ý là thanh, (không phải âm thanh xuất ra), một mặt nhả khí ra, bụng hít hơi vào, lúc khí nhả ra hết thì dùng lưỡi hấp khí, hấp khí lâu làm hô khí (khí thở ra) phân làm một phần ba, đồng thời mặc niệm “nhị” tự (từ thứ hai), nhẹ nhàng ngậm miệng, nghiến răng, một hô một hấp là một lần, mỗi từ không quá sáu lần, bổ là ban đầu hít vào sau đó thở ra, lấy lưỡi hấp khí mặc niệm “nhị “ tự, đồng thời đầu nhọn lưỡi để lên trên, bộ phân bụng, háng hướng ngòai , lúc hít khí xong lại dùng miệng thở ra, phương pháp cùng tiết hô hấp pháp tương đồng. phát sở dụng của tự âm, hô khí dài cùng hấp khí một phần ba, một hít một thở là một lần , mỗi chử không quá chín lần. một nơi có bệnh có thể luyện một chử , nhiều nơi có bệnh có thể luyện nhiều chử, cũng có thể luyện cả sáu chử. Phàm luyện lưỡng tự như trên thì cần thuận lấy chử ngủ hành tương sanh luyện, tức kim () tam tiêu (hi). Không thể đảo lộn, nếu không sẽ thành ngũ hành tương khắc, đối với thân bất lợi, đó là điều tức vậy.

    Lục tự điều hình ca quyết như sau:

    Can mộc hư khí tĩnh tự tình, phế kim khí song thủ kình. (gan mộc hư khí từ con ngươi, phổi kim hai khí tay giơ lên).

    Tâm hỏa a khí đính xoa thủ, thận thủy xuy khí bảo tất bình. (tâm hỏa a khí tay bắt tréo, thận thủy xuy khí ôm đầu gối).

    Tì thổ hô khí tu toát khẩu, tam tiêu hi khí hàn nhiệt trữ. (thì thở hô khí cần mở miệng, tam tiêu hi khí giữ hàn nhiệt).

    Bài ca quyết này khái quát hết luyện công điều hình của lục tự quyết tòan bộ tư thế cùng động tác, luyện can kinh thì ứng hai mắt yên tĩnh. Luyện phế kinh thì hai tay giơ lên , lòng bàn tay hướng lên trên, tùy trước hấp khí mặc niệm “nhị” tự mà hai tay thong thả hướng lên đến đỉnh đầu, hấp khí mặc niệm “nhị”tự lúc nâng lên trên, a khí (tức hô khí) thì hai tay đến đỉnh đầu. luyện thận kinh thì tùy vào “xuy” khí hai đầu gối hạ xuống, hai tay ôm lấy hai đầu gối, lúc chuyển khí (hấp khí), mặc niệm “nhị” tự tự khởi thành. Luyện tì kinh thì tùy vào hô khí tương tự khỏi. luyện tam tiêu có thể ngồi hay nằm hay đứng, hi khí lấy điều chỉnh hàn nhiệt của thượng trung hạ tam tiêu.
    Lấy bước một tu luyện lục mạch thần kiếm ở bên trên, chủ yếu là liệu thương trị bệnh. Đạt đến thân thể khang kiện, nỗ lực siêng tu lục tự mười năm thành công.

    Tọa công (thứ hai)

    Ngồi ngay ngắn, hai tay ôm quả cầu trước bụng, ý thủ hạ đan điền, lúc vòng nhiệt khí sinh ở hạ đan điền, hai tay ở trước bụng xoay quả cầu ba mươi sáu lần, tức hai tay mở rộng quả cầu ra bên ngoài, sau đó hai tay đối đẩy tựa như khí cầu bị đè xuống, một lần kéo một lần đẩy cùng hai tay hướng lên đến huyệt đản trung, lật tay, long bàn tay hướng xuống, đè xuống trước bụng. đồng thời quán tưởng lỗ chân long toàn thân rất căng khai, thiên địa linh khí, linh quang cuồn cuộn không đứt tiến nhậo vào thân, tụ nơi hạ đan điền. một lên một xuống cùng tiến hành ba mươi sáu lần, đó là lục mạch thần kiếm tu luyện bước thứ hai, trước quan trọng bồi dưỡng đan điền chân nguyên khí. Nỗ lực siêng năng tu luyện ba mươi năm công thành.

    Tọa công (thứ ba)

    Ngồi ngay ngắn, thu thị phản tính (nghe nhìn trở về), thùy kiểm bế mục (dịu mặt nhắm mắt). ý thủ đan điền, hai tay mười ngón giao nhau để ở trên đan điền trước bụng, đợi đến đan điền đầy khí, một làn nhiệt khí xuống hội âm qua hạ thước kiều phá cửa ngõ đuôi đốc mạch lên thẳng đỉnh côn lôn (tức bách hội) lại từ trước trán qua thượng thước kiều theo nhâm mạch hạ đến đản trung, thẳng tới hạ đan điền. đó là đả thông tiểu chu thiên vậy. mỗi lần luyện công, tiểu chu thiên pháp luân chuyển ba mươi sáu lần. đó là tọa công bước thứ ba. Dùng ngàn vạn lần tự nhiên đả thông tiểu chu thiên, không cần lấy ý mạnh dẫn khí, nỗ lực siêng năng tu trăm ngày công thành.

    Tọa công (thứ tư)

    Thân ngồi ngay ngắn, thu thị phản thính, thùy kiểm bế mục (mặt dịu mắt nhắm) ý thủ đan điền, hai tay mười ngón giao nhau, để lên trên đan điền, nữa khắc, tiểu chu thiên pháp luân vận chuyển, sau ba mươi sáu vòng, cùng khí thu nhập hạ đan điền, hai tay cùng khai, đè xuống, đổi lại, lòng bàn tay hướng lên, dẫn khí đan điền đến trung đan điền (đản trung). Lại đổi, lòng bàn tay hướng vào trong, mười ngón đối nhau, lao cung đối xéo xéo trung đan điền, ý thủ trung đan điền, thần chiếu trung đan điền, khâu tổ xử cơ nói: “kim đan đại dược bất nan cầu, nhật chiếu trung điền hạ thủ lưu, thủy hỏa tự giao vô thượng hạ, nhất đoàn sanh ky tại song mâu” (kim đan đại dược không khó cầu, chỉ chiếu trung điền hạ thủ thôi, thủy hỏa tự giao không thượng hạ, nhất đòan sanh cơ tại song mâu (hai con ngươi). Trong mắt là trung đan điền gọi là thần chiếu vậy. lúc đó là ý thủ hạ đan điền làm đầu. ở lúc hỗn loạn lặng yên thăng lên đến trung tĩnh chi trung (bên trong của bên trong của tĩnh) tự nhiên nhất đoàn (1 luồng) nhiệt khí từ gót chân đến đan điền, đó là thủ tam dương kinh, thủ tam âm kinh, túc tam âm kinh, trùng mạch, đới mạch, âm duy mạch, dương duy mạch, âm tề mạch, dương tề mạch, đều có khí lưu vận chuyển. não hải sấm vang, nhãn thổ kim quang (mắt phát kim quang), lục căn chấn động, thiên toàn địa chuyển ( trời xoay đất chuyển), đó là tượng đả thông đại chu thiên, kế đó khí lưu từ đốc mạch (bách hội) đổ vào trung mạch, mạch trái cùng mạch phải. đồng thời toàn thân khí lưu do kinh mạch nhập nội phủ, xuyên cốt tủy, phục đến da thịt, toàn thân trên dưới đều thông. Nổ lực siêng tu ba năm công thành.

    Tọa công (thứ năm)

    Ngồi ngay ngắn, thu thị phản thính, thùy kiểm bế mục (mặt dịu mắt nhắm), ý thủ đan điền, hai tay ôm vòng trước ngực, các ngón hai tay cách nhau nhất xích ( 1 thước), đầu nhọn bàn tay đối nhau, đợi sau khi đại chu thiên pháp luân vận chuyển một vòng, cùng khí thu đến hạ đan điền. sau đó từ hạ đan điền vận đến trung đan điền, từ trung đan điền cùng khí vận chuyển đến vai phải, chạy cánh tay trên bên phải mặt dương (bên ngòai), từ đầu ngọn ngón tay phát xuất, từ đầu nhọn ngón tay trái chạy đến cánh tay trên bên trái phía dương (bên ngòai) đến vai trái, lại từ mặt lưng đến vai phải, tuần hoàn đến đi, hình thành một cái phong bế khí lộ, toàn chuyển ba mươi sáu vòng, lại theo hướng ngược lại chuyển ba mươi sáu vòng. Lấy khí từ trung đan điền thu đến hạ đan điền, giữ yên lặng nữa giờ, lại từ hạ đan điền vận đến trung đan điền, vai trái, từ mặt âm tay trên (bên trong), từ phần nhọn ngón tay trái phát xuất, từ đầu nhọn ngón tay phải, cánh tay trên bên trái phía âm (bên trong) đến vai phải, theo mặt ngực đến vai trái, hình thành một cái phong bế khí lộ, toàn chuyển hai mươi bốn vòng, lại theo hướng ngược lại tòan chuyển hai mươi bốn vòng. Đưa khí từ trung đan điền đến hạ đan điền, nỗ lực siêng tu. Ba mươi năm nội khí ngoại phát, ngọai khí nội thu sơ bộ thành công vậy.

    Tọa công (thứ sáu)

    Ngồi thân ngay ngắn, thu thị phản thính, thùy kiểm bế mục (mắt dịu mắt nhắm), ý thủ đan điền, hai tay nắm tay không để ở trước bụng, công phu đến đây, trong vòng nữa giờ đan điền đầy khí, lúc này toàn thân đều thông sướng, khí không cần tuần kinh mạch lộ tuyến lại, mà là tùy ý điều động, tức đạt đến ý động khí hành. Tại nơi trước thân tam xích thuộc điểm nhất tịch, nâng nắm tay phải đối chuẩn tịch (điểm nhất tịch), như vậy thân thẳng năm ngón đồng thời phối hợp phát thanh “bộ khẩu chử mặc”, khí phát đan điền, nhanh như sấm, từ cánh tay trên phần dương tam dương kinh mạch đồng thời phát xạ mà xuất, đánh thẳng vào lửa. chú ý quyết không nghe theo những phong chi động tác (động tác gió). Toàn mượn nội lực đánh thẳng vào lửa. sau đó thu hồi khí. hai tay thay đổi luyện tập. đầu tiên luyện tam dương kinh thần kiếm, sau luyện tam âm kinh thần kiếm, mỗi lần luyện công không được ít hơn một thì thần. Tùy vào công lực tăng trưởng, chúc hỏa (đuốc hỏa) dần dần dời xa đến năm thước, bảy thước, chín thước, một trượng hay xa hơn. Một mực lấy một trượng làm tiêu chí. Siêng tu ba năm có thể đạt đến tự phát như ý là lục mạch thần kiếm sơ bộ thành công rồi.

    Thứ hai trạm công (thứ nhất)

    Trạm công (thứ nhất) là, chủ thái thiên địa vũ trụ linh khí, làm mạnh mẽ nội khí tự thân, tăng cường thể năng, khiến nội khí dạt dào như trường giang đại hà vô cùng vô tận.
    Thanh thần (lặng thần), lúc mặt trời lên, phía đông có những đám ráng khắp trời. hai chân đứng mở ra, cùng với vai khoan thai, gót chân tạo thành cửa bát, hai tay hạ xuống hai bên cơ thể. Lòng bàn tay đối nhau, tòan thân thả lỏng, tâm thần an tĩnh, nhìn những đám ráng phương đông, sau đó thu thị phản thính, dùng thiên mục diêu thị (nhìn xa) đến ngòai biên đông phương, đồng thời quán tưởng hạ đan điền, đợi nhiệt khí tụ hợp sinh thành, bành trướng, toàn thân mười vạn lỗ chân lông đều căng, khí từ thân trãi khắp vũ trụ, cùng vũ trụ linh năng hỗn hợp tan thành nhất thể. Lúc đó có ý niệm là: ta là vũ trụ, vũ trụ là ta, chánh khí của ta tức là khí hạo nhiên của vũ trụ, khí hạo nhiên của vũ trụ tứ là chánh khí của ta. Đứng tĩnh nữa thì thần. Thu công pháp không cần động tác, toàn bằng quán tưởng, quán tưởng chánh khí vũ trụ hạo nhiên từ từ theo tứ diện bát phương hướng tụ tập trung tâm, cuối cùng ngưng tụ thành nhất điểm, làm thành một cái vòng quang cao năng lượng, vòng quang cao năng lượng đó chính ngưng tụ tại bên trong trung tâm hạ đan điền. tối đến, chọn đêm trăng tròn, đối trăng tu luyện, phương pháp giống như trên. Công pháp này khí phách rộng lớn, rộng thu vũ trụ hạo nhiên chánh khí.

    Trạm công (thứ hai)

    Sang sớm hay lúc chiều, ở trên đỉnh núi cao, hoặc bên bờ suối nước, trong không gian rừng cây hoa lá, chọn nơi bình thản luyện công.
    Hai chân đứng mở ra, bên dưới tạo thành kị mã thung thức (thức cái cọc), y theo khả năng tình huống đầu tiên luyện cao vị thung (cái cọc ở vị trí cao), tiếp là bán mã thung, tiếp đến toàn mã thung, hai tay từ hai bên giơ lên bằng vai sau đó đổi tay, lòng bàn tay hướng lên trên hình thành bão thiên thức (thức ôm trời), đầu ngước lên. Mắt nhìn thiên căn, ý niệm cùng trời tạo thành một đại cầu bão trụ. Mỗi lần luyện công toàn dùng tồn kị mã thung được nữa giờ thìn trở lên là tốt. công phu này chủ luyện phần dưới, làm mạnh nội khí nhiều, thêm thái vũ trụ chánh khí.

    Trạm khuyến (thứ ba)

    Buồi sáng hay chiều, mắt đối mặt trời hay mặt trăng, sao, núi cao hay cây lớn luyện công.
    Vô cực thức trạm thung, đầu tiên lấy ý niệm thu hái khí thái dương, núi cao hay đại thụ. Rồi điều động nội khí trong thân tụ ở hạ đan điền, sau đó chân phải liến lên một bước, hình thành hàm ky thung , tức trọng tâm bảy phần rơi vào chân trái, đầu gối trái cong, chân phải hư điểm ở phía trước, hai tay từ trước bụng bắt đầu nâng lên (lòng bàn tay hướng lên), dẫn khí từ hạ đan điền lên đến trung đan điền, hai tay hướng ra trước trở kim cương quyền thu về hai bên lưng, nắm tay không, quyền (nắm tay) bên phải bắt đầu phía trước thân, thân ngay thẳng một sát na năm ngón đánh thẳng, đùi biến thành cong bên phải tiến bước. đồng thời lấy ý dẫn khí theo tay trên bên ngoài (hay bên trong). Nhanh như ánh sáng lấp lánh từ ngón tay phát xuất. đánh hướng mặt trời (thái dương), núi cao hay đại thụ, đồng thời phát xuất một âm thanh ngắn thúc uy mãnh “bộ khẩu hắc”! lấy thanh trợ khí, dùng thanh làm khí mạnh, chú ý khí đánh xuất ứng theo hoán khí tức khắc thu hồi.

    Hiệu ứng: tùy theo cương khí thần kiếm kích xuất, mặt trời mặt trăng hay sao hợp huyễn xuất các dạng tia sang khác nhau, núi cao không cốc phát xuất bôn lôi kêu ầm ầm, lá đại thụ phát xuất âm thanh hô khiếu (kêu hô), công lực thâm sâu, có thể khiến cây lay động, lá nhánh rối loạn.

    Trạm công (thứ tư)

    Buổi tối, ở phía sau một cây đại thụ mà đốt một cây nến, đứng trước cây khỏang năm trượng ngòai, trạm thức tùy công phu đến đây, dùng vô mà đạo dẫn, tùy ý mà đứng, tùy ý mà phát, diêu chỉ (chỉ xa), điểm, kích, phách (bửa ra), trảm (chém), lửa nến phía sau cây đại thụ theo tay mà diệt. sau đó bất luận đi đứng ngồi nằm, cương khí thần kiếm tùy ý mà phát thu, lục mạch thần kiếm trức cơ công thành vậy.

    Thứ ba, phụ trợ công (thứ nhất)

    Phụ trợ công là phối hợp tọa công cùng trạm công bồi luyện khí chân nguyên, khiến người tu luyện trong sáu nơi thường sinh hoạt ở trong thái độ khí công dưỡng khí luyện tính. Thật tế thì tính mệnh song tu, tính công thành phần lớn ở mệnh công. Công pháp chủ yếu quyết là “thủ trung”, tức bất luận ở lòng thành hay tình huống đều yếu thủ “trung tâm”. Cái trung tâm đó đều không chuyên chỉ đan điền, mà là chủ yếu “trung” trong trạng thái tinh thần. quá khứ gọi là “trung dung chi đạo” là nghiên cứu cái “trung”. Giảng nói cần rỏ ràng một chút, đó là khiến trạng thái tinh thần ở nơi tương đối ổn định, âm dương bình hành, tức bất hưng phấn cũng bất ức chế. Hưng phấn thì dương thịnh, ức chế thì âm thịnh. Cả hai đều bị lệnh rồi. “trung dung chi đạo” thì thủ trụ để hiểu cái “trung” đó, tức tiến nhập hiểu nội công cảnh giới cao, đó là “điềm đạm hư vô, chân khí tông chi” (chân khí theo nó), đạt đến cảnh giới này,công lực ngày càng thâm hậu không ngừng, lại tu dưỡng tính cách, đạo đức hòan mỹ. đó là danh ngôn nho gia thông qua “thủ trung”, trường dưỡng”hạo nhiên chánh khí của ta”. Dùng thuyết trên đã thấy công lý rồi, lại thấy công pháp. Vô luận hành (đi) (đường chạy hay đi) hay nằm, không câu nệ tư thức, đều lấy pháp trên. Lý nằm trong 6 cái thừơng trong sinh họat mà khiến nhân sĩ võ lâm nói. thông thường trong thái độ khí công đã ngụ ý tự vệ ở trong vô hình rồi. do thường có một vòng cương khí hộ thân phân bố bốn vòng, trách nhiệm là phải cảnh giác vật lạ đột phá xâm phạm đều khó. Nhiệm vụ đối với vật lạ đều tự cảnh giác đột nhập hộ thân cương khí. Có thể lập tức lựa chọn đối sách, lịch sử có truyền là na tam cầm ám khí phi đao ở xa sau lưng đạt ma tổ sư khoảng một trượng thì đột nhiên bị ba đóa kim lien hoa nâng lên ở trên đất. đó là một tầng thứ công phu chân thật tả lại.

    Trụ trợ công (thứ hai)

    Nội ngọai hợp luyện là một lọai phụ trợ công của lục mạch thần kiếm. thông qua nội ngọai hợp luyện có thể cường cân tráng cốt thêm một bước là tăng cường điều phát công phu cương khí thần kiếm.
    Bước thứ nhất: mười ngón quơ đất, lưng đùi duỗi thẳng, gót chân điểm địa, lúc hấp khí (dùng miệng hấp mạnh phát xuất âm thanh), hai khủy tay cong, ngực bụng như muốn dính vào mặt đất, hô khí (thở khí ra) (dùng lưỡi phun ra, phát ra chấn hưởng) hai khủy tay duỗi thẳng, như vậy làm lại ba mươi sáu lần.

    Bước thứ hai: mười ngón quơ đất, hông cong, gót chân điểm địa (dùng miệng hấp mạnh phát ra âm thanh), lúc hấp khí hai khủy tay cong, ngực nặng, tâm rơi vào ngón nhọn tay phải, hô khí (dùng lưỡi phun ra, phát ra chấn hưởng) hai khủy tay thẳng ra, tiến hành lại ba mươi sáu lần, sau đó lại theo hướng ngược lại tiến hành ba mươi sáu lần.

    Bước thứ ba đến thứ sáu: động tác hô hấp giống như trên, chỉ là dùng các ngón tay chống, đồng thời các ngón tay của hai tay trái phải giảm một ngón, cho đến giảm đồng thời ba ngón, mỗi tay còn một ngón chống.

    Từ bước một đến bước mười tám: động tác, hô hấp như trên, chỉ là gót chân đệm chuyên dùng có chân cao. Dùng trọng tâm phần lớn rơi ở đầu ngón tay, chia thứ mười hai bước mười chín như trên, hô hấp như trên, đảo lại, chỉ là dùng ngón tay chống, đầu tiên dùng bàn tay, lại dùng năm ngón, bốn ngón, ba ngón, hai ngón, một ngón, làm cong cong vận động toàn bộ.
    Thuật tu luyện trên đều phải có nghị lực thường rất lớn, lại khó thành công, một khi tu luyện thành công tức thân đều có kim thương thủ, nhất chỉ thần công, xa rời tuyệt kỷ thần kiếm cương khí, đó là độc bộ võ lâm vậy.

    Thứ tư, phật công
    Phật công là nhìn tên nghĩ nghĩa, đó là phật gia công pháp, trên toàn nước ta, phật giáo từ ấn độ truyền qua rộng rãi là hiển tông và mật tông hai đại tông phái, ở nơi đó chỉ thật có pháp môn tu trì cơ bản hiển tông. Chương này giới thiệu là thiền tông tị tổ khai sang thiếu lâm võ công là đại tông sư đạt ma lão tổ là thiền diện bích.

    Ở vùng Hà Nam là Thiếu thất sơn chân núi phía bắc thiếu lâm tự, tây bắc là ngọn núi ngũ nhủ trên đó có một thứ xưa nay nghe danh đó là đạt ma diện bích sơn động, tương truyền nơi động đó là tông tị tổ đạt ma năm đó diện bích tu thiền. quan hệ giữa thiền định cùng nội công trãi qua đều sự giải nghĩa sai lầm. đặc biệt là thứ nhất ít có nhân sĩ phật giáo phổ biến nhận là “thiền” cao ở “nội công”, môn khác nhận nội công là bồi dưỡng nguyên khí, công pháp khứ bệnh kiện thân, mà “thiền” tức truy cầu “minh tâm kiến tính”, khai phát trí huệ, phát hiện chân như (chân ngã), liễu thoát sinh tử. kỳ thật cái đó đối với “nội công” có thiên kiến hàm nghĩa bất minh. Nội công tức là tu luyện thân thể tinh khí thần bện trong. Lại dùng nó hợp phương pháp tu trì kiền đạo. pháp tu trì nội công rất nhiều, quy nạp từ xưa nay có phật gia, đạo gia, dân gian, võ công, y thuật ngũ phái. Do vì mục đích không đồng mà phương pháp tu trì (luyện) khác biệt. gọi là “nội công” (còn gọi là “khí công”) gần đây mục tiêu là khứ bệnh kiện thân, mục tiêu sau cùng là kỷ thuật kiện thân, minh tâm kiến tính, kích thích tiềm năng, khai huệ. Không có phần kiện thân nói trên, nói không như trên vậy đích sau cùng của nó là “minh tâm kiến tính”. Cuối cùng mục tiêu thật sự đã hiện, cần có thân thể kiện khang lại cần xúc tiến đề cao kiện khang thân thể. Thiền là phạn văn dịch âm của “thiền na”, nghĩa là “tĩnh lự” (tĩnh sự lo toan) hay “tư duy tu” (sữa chữa suy nghĩ). “viên giác kinh” viết: “vô ngại thỉnh tĩnh tuệ, giai vi thiền định sanh” (vô ngại cầu tĩnh tuệ, đều do thiền định sinh). Nói “thiền định” thuộc về bộ phận tính công nội công. Đạt ma diện bích công pháp như sau:

    (thứ nhất) lý nhập: ngồi ngay thẳng, điều tức êm nhẹ, tương chỉnh ý niệm đều ngưng (đọng lại) rót vào bức tường phía trên, vô tự vô tha (không ta không người), bền chặc giữ không rời. trạm nhiên tịch chiếu (tự nhiện lặng chiếu sâu), đuổi từ từ , quét đi phàm trần nghiệp chướng ở tâm đầu, phát trí tuệ tâm, hiện chân như định, kinh qua phản phục tu luyện, diện bích tọa thiền (mỗi lần một thì thần) đạt đến tình ý bất khởi, vọng niệm mất hết, thế giới phật cùng thân ta đều không tồn tại, chỉ có một mảng quang minh vĩnh hằng, mỹ diệu cùng vui đẹp.

    Thứ hai: hành nhập: vì phối hợp tu luyện diện bích thiền, cần chú ý sinh họat thường ngày “hành nhập”. pháp này có bốn, - nhật báo óan hành: là nhớ chính yếu phần ngực rộng lớn, không phải “ân óan” nhân gian. “yêu ghét” là nơi tình phiền nhiễu, gặp chuyện vui mừng mà không vui, gặp khổ không óan. Hai là tùy duyên hành: người tu trì cần định lực không sợ yêu hay nhục, đuổi khí lo toan mà lo mất lý của tâm, đến nơi tùy duyên, xét duyên khởi của thân; tâm thể tịch tĩnh bất động.

    Thứ ba vô sở cầu hành: xử thế trữ tình đạm bạc, bất chấp mê danh lợi vật chất truy cầu vô cùng tận. cần biết “hữu cầu giai khổ, vô cầu nãi nhạc” (có cầu đều khổ, không cầu liền vui).
    Thứ tư gọi là phá hành tứ lấy “pháp tịnh chi lý” làm tu trì cùng chỉ đạo nhân sinh.

    Phật công thực chất tứ thiền định, là thuộc phạm trù tính công trong nội công. Đời xưa cần xây dựng trên cơ sở mệnh công bền chặc. phật học sâu như biển, thiền định vô chỉ cảnh (thiền định không có cảnh dừng), tùy theo sự thâm hóa của tính công, liền nối đắc đại thần thông. Uy lực lục mạch thần kiếm tương đắc thêm rực rỡ vậy.

    Thứ năm, thiên trúc thần công

    Thiên trúc thần công thuộc nước thiên trúc là tu luyện bí pháp thượng thừa, còn gọi là nhật vô tướng du già. Đoạn này giới thiệu bảy loại thần công, chủ yếu tu ý niệm lực. lực lượng ý niệm là rất lớn, vô cùng, là cơ sở hiệu ứng tuyệt kỷ thần công cần thiết.

    Thứ sáu, định thân thuật

    Ngồi ngay ngắn, thu thị phản thính, hai tay để ở trước ngực, kết đại liên hoa ấn (mười ngón hướng lên trời, gốc bàn tay cùng lóng đầu tiên ngón út để phía ngòai, tạo hình trạng hoa sen đang nở). tĩnh tọa nữa giờ, mặc tụng (niệm thầm) “yểm” tự chân ngôn, quán tưởng vũ trụ linh năng hóa thành bạch quang từ luân xa đỉnh đầu nhập vào trong cơ thể, tiếp đó mặc tụng “ma” tự chân ngôn, quán tưởng bạch quang nhập vào luân xa yết hầu hóa thành hồng quang, kế đó mặc tụng “ni” tự chân ngôn, hồng quang nhập luân xa tâm hóa thành hòang quang. Kế tiếp mặc tụng “bá” tự chân ngôn, hòang quang nhập luân xa rốn. hóa hòang quang thành lan quang (ánh sang xanh da trời), tiếp đó mặc tụng “di” tự chân ngôn, lan quang nhập âm luân (hội âm) hóa thành tử quang (ánh sáng tím). Cuối cùng mặc tụng”ngưu” tự chân ngôn, quán tưởng tử quang từ truyến trong thân thể thẳng xông hướng lên đến luân xa đầu, lại mặc tụng tự âm “bột”, dẫn tử quang hạ xuống đến trong tâm khoang bụng nhỏ. Rồi lại tiến hành lại ba mươi sáu vòng, lại quán tưởng tử quang nở rộng , đầy kín tòan thân, khí cảm rất mạnh, kế đó hợp thiên cổ lôi âm phật ấn (hai tay mười đầu ngón đầu ngón đều hợp lại hướng ra trước, lòng bàn tay đối không), ý niệm tòan thân chân khí tụ tập ở đan điền, nhãn tình cùng đầu ngón tay. Đợi chân khí tụ tập sung túc, tự nhiên la mạnh âm thanh “a” (âm thanh ngắn nhưng mãnh liệt), lấy khí phát thanh, khí phát đan điền, quán tưởng thanh âm như sấm, thẳng đánh tâm điền của đối thủ, đồng thời cùng thiên cổ lôi âm phật ấn biến thành thật tâm hợp chưởng ấn, quán tưởng mười đầu ngón bắn ra mười đạo bạch quang đánh vào đối thủ huyệt tương thai, huyết lôn, đản trung, đỗ tễ, chương môn, khí hải, quan nguyên, trung cực, thập đại huyệt nội. đồng thời hai mắt lườm mạnh bắn ra hai đạo kim quang, như dây tơ, như lụa mềm, nhằm đối thủ trói thật chặc toàn thân. Như trên là trong một thời gian nhỏ mà “tam mật tương ứng”. sau khi luyện thành thục, đều có thể cùng niệm lực đồng thời phân tán tác dụng ở trên nhiều mục tiêu, theo mục tiêu định trụ. Đó gọi là “định thân thuật” vậy.

    Thứ bảy, thân ngoại hóa thân thuật

    Thân ngoại hóa thân là nguyên thần. nguyên thần xuất thể, có phân biệt âm thần cùng dương thần. dương thần là nguyên thần ngưng luyện, tụ mà thành nguyên anh, nguyên anh ngưng kết, có thể rời cơ thể mà chu du vũ trụ, tụ thì thành hình gọi là thân ngọai hóa thân, tán thì thành khí, ẩn ở vô hình vậy. âm thần là nguyên thần chưa ngưng luyện, không phải là hóa thân.
    Ngồi ngay ngắn, thu thị phản thính, hai tay kết thiền ấn (đầu ngón tay hai tay tương để, tám ngón giao nhau), để ở trên khoang bụng nhỏ, như pháp trước tụng lục tự đại minh chú, tam mật gia trì ba mươi sáu biến. quán tưởng trong tâm bụng nhỏ có một kim sắc liên thai (thai sen kim sắc), chân thân của ta (nguyên thần) ngồi ở trên liên thai, mặc tụng “ngưu” tự chơn ngôn, liên thai chân thân thăng nhập tâm luân (luân xa tâm), hầu luân (luân xa hầu), đỉnh luân (luân xa đỉnh đầu), lại quán tưởng hiểu phật âm, dàn trận đàn hương, đại nhật như lai suất thập vạn chư phật thừa kim sắc liên thai đến. khai đỉnh môn, nguyên thần dần dần bay lên, cùng không trung chư phật hội hợp. nháy mắt những cảnh xem thấy biến mất, vũ trụ quan chỉ còn linh năng ấu hóa chân thân (chân thân mới vừa hóa), thập phương quang minh. Ban đầu nguyên thần li thể lập tức hồi về, sau đó dần dần thời gian li thể cùng cự li dần dần dài hơn. Sau trăm ngày, có thể ngao du vũ trụ, du hí phong trần, ẩn hiện mạc trắc, phổ tế chúng sinh vậy.

    Thứ tám, ẩn hình thuật

    Ẩn hình thuật có hai, một là chướng nhãn chi thuật, tức có thể tụ tập mây vũ trụ thái quang khí chận mắt người. thứ hai là dùng công lực cho thân tự nhạt hóa, hóa thành vô hình. ẩn hình thuật thật thể hiện công lực thâm hậu, không phải tha lực, đích cuối cùng là đề cao đạo đức công lực tự thân. ẩn thân thuật luyện thành công tức chứng quả nhục thân thành phật. có nhiều người dùng thuật ẩn thân phá hoại sự vật, do vì đạo đức tình thao thấp kém thì không thể đạt cảnh giới này.
    Ngồi ngay ngắn (hay đứng) thu thị phản thính, hai tay kết ẩn hình ấn (thứ nhất) (tay trái hai đầu ngón cái và thực tương để, kết thành vòng, ba ngón còn lại thành hình thân cung mở, tay phải ngón cái sáp nhập tay trái loan trong, bốn ngón còn lại bao cổ tay trái, đặt ở trước ngực). mặc tụng đại minh thần chú. Tam mật gia trì tam thập lục biến. quán tưởng ngũ luân (đỉnh luân, hầu luân, tâm luân, tề luân, âm luân) phát ra bạch hồng hòang lan tử ngũ sắc quang luân hỗ tương dung hợp hình thành vòng tròn tia sắc quang quấn quanh tòan thân, làm thành ánh sáng chặn, ngoại thân chỉ thấy một tia sáng che thì chướng nhãn ẩn hình thuật thành vậy.
    ở mặt trước cơ sở luyện thành trên hai tay phân khai kết ẩn hình ấn (thứ hai) (hai tay ngón cái bấm gốc ngón vô danh để ở hai bên thân) quán tưởng củ tự đồ, từ thân hướng vũ trụ khoếch tán, mặc niệm tự quyết “a”, ở tam mật gia trì tác dụng xuống, nhục thể hóa thành khói trắng nhạt, hóa thành hư không, ẩn ở vô hình, tùy theo công lực nâng cao, đi đứng ngồi, nằm, đề có thể ẩn hình trong chớp mắt.

    Thứ chín, hàng ma thuật.

    ma phân thành nội ma ngọai ma. Nội ma là người tu luyện kỷ bất thuần, còn vọng niệm, tạp niệm, tà niệm, ác niệm mang nhập vào trong tu luyện. ở cao tầng, huyễn hóa xuất nhiều cảnh tượng, như khiến người tu luyện sản sinh chấp trứơc truy cầu, khiến tinh thần trạng thái xuất hiện âm dương thiên lệch, theo sẽ dẫn đến tẩu hỏa nhập ma. Gọi là “ma do tâm sanh” đó là như vậy. ngọai ma là tinh thinh quỷ quái trong vũ trụ, bao quát tu luyện có con rắn trắng, trùng độc vật, hoặc thể phụ nhân, lúc khiến người sản sanh thấu thị, diêu thị các công năng, đó là “quỷ thông” vậy. hoặc khí đạo nhân, khiến người tu luyện công lực hủy trong một sớm. một khi đến thời gian, ma phụ thể ra đi, bị người phụ thể công năng tiêu hết, tinh khí bị thái đạo nhất không. Trở về không còn như thường nhân vậy.
    Ngồi ngay ngắn, thu thị phản thính, thủ kết định ấn ( hai tay chồng nhau, long bàn tay hướng lên trời, đầu ngón cái tương để, tay trái để ở trên tay phải), mặc tụng lục tự đại minh thần chú tam thập lục biến, đạt đến vọng niệm bất sinh, huyễn cảnh cùng thiền định quang minh cảnh vô. Nếu lúc vọng niệm khởi, các huyễn cảnh tụ tập lại, nội ma đến vậy. ngoại ma thừa hư mà nhập. nên tu luyện đến lúc này, các nguy nan quanh thân, nếu không thể giải thoát, nhập vào ma đạo vậy. lúc đó tay trái lôi ấn (ngón cái bỏ đi đốt đầu ngón trung, thực chỉ, vô danh chỉ điểm trước trung chỉ, tay trái ngón út đáp ở trên ngón vô danh). Bên phải thủ kiếm ấn (thực, trung hai ngón thân thẳng, ngón cái áp ngón vô danh, trên lưng ngón út). Niệm thầm khẩu quyết” “tâm định như chỉ thủy, chánh niệm pháp lực cao, thần kiếm cương khí chí, nội ngọai ma đầu tiêu”. (tâm định như nước dừng, chánh niệm pháp lực cao, thần kiếm cương khí đến, đầu nội ngọai ma tiêu”. Tưởng tượng chim phượng, củ tữ đồ hát mạnh một thanh “a” tự chấn lay tương tự vạn ma.

  13. #13

    Mặc định

    Đọc cho vui chứ luyện thì vào viện tâm thần sớm

  14. #14

    Mặc định

    Luyện cái này cũng hay. Vì lợi ích của chúng sanh mà làm kiếm tiên.

  15. #15

    Mặc định

    thực thực ảo ảo, ko biết có thật ko nữa.

Thread Information

Users Browsing this Thread

There are currently 1 users browsing this thread. (0 members and 1 guests)

Bookmarks

Quyền Hạn Của Bạn

  • You may not post new threads
  • You may not post replies
  • You may not post attachments
  • You may not edit your posts
  •