kết quả từ 1 tới 1 trên 1

Ðề tài: Hệ thống thước đo thời Nguyễn

Threaded View

Previous Post Previous Post   Next Post Next Post
  1. #1

    Mặc định Hệ thống thước đo thời Nguyễn

    Hệ thống thước đo thời Nguyễn
    09:08' 12/01/2005 (GMT+7)


    Ðối với mối quốc gia, mỗi dân tộc, hệ thống thước đo là sự biểu hiện một cách trực tiếp và cụ thể phương thức tư duy, cách tính toán và cả đặc trưng văn hóa của họ. Tuy nhiên, đã từ hàng thế kỷ nay, với ảnh hưởng mạnh mẽ của văn minh phương Tây, hệ thước mét có nguồn gốc từ châu Âu đã dần dần "thôn tính" hoàn cầu, khiến ít quốc gia, dân tộc còn giữ được hệ thước đo truyền thống của mình. Việt Nam chúng ta không phải là một ngoại lệ. Thực tế này biểu hiện rất rõ trong mọi mặt của cuộc sống, ngay cả trong những ngành nghề được xem là truyền thống mà chúng ta đang cố gắng giữ gìn như nghề mộc, nề ngõa, chạm khắc, may thêu (trang phục truyền thống) thì việc sử dụng hệ thước Tây đã trở thành phổ biến.vv..

    Nhưng việc khôi phục lại hệ thống thước đo xưa có lẽ là rất viễn vông và sẽ không ít người cho là lố bịch nếu chúng ta không hiểu được ý nghĩa và những giá trị văn hóa sâu sắc hàm chứa bên trong nó. Trên tinh thần ấy, trong bài viết dưới đây, chúng tôi xin nêu lên một số kết quả trong việc tìm hiểu về hệ thống thước đo được sử dụng trong thời Nguyễn (1802-1945), thời kỳ tồn tại của chế độ quân chủ cuối cùng tại Việt Nam; cũng là thời kỳ chuyển tiếp của lịch sử dân tộc từ Trung Ðại sang Cận Ðại và Hiện Ðại.

    Liên quan đến các hệ đo lường cũ (gồm cả cân, đong, đo, đếm), từ trước đến nay đã có một số người quan tâm nghiên cứu nhưng các kết quả đã công bố thì vẫn còn rất khiêm tốn. Thực ra, hệ đo lường trước đây của người Việt khá phong phú và có đặc điểm riêng, muốn tìm hiểu nguồn gốc và cách sử dụng thực không phải đơn giản. Ở bài viết này chúng tôi chỉ xin đề cập riêng đến hệ thước đo truyền thống được sử dụng trong thời Nguyễn.

    I.Ðôi điều về cách hiểu hiện nay về hệ thước đo truyền thống

    Có thể nói, cho đến hiện tại việc hiểu và giải thích về hệ thước truyền thống của chúng ta vẫn còn nhiều điều bất cập, nếu không nói là lộn xộn và còn không ít nhầm lẫn. Thử điểm qua hệ thống từ điển và những công trình lớn đã và đang được sử dụng phổ biến hiện nay thì chúng ta sẽ thấy rõ điều này:

    1-Theo Từ điển tiếng Việt của Viện Ngôn Ngữ học do Hoàng Phê chủ biên:

    -Chữ Thước có 4 nghĩa, trong đó nghĩa thứ nhất và nghĩa thứ hai được giảng như sau: "1.Ðơn vị cũ đo độ dài, bằng khoảng 0,425m (thước mộc), hoặc bằng 0,645m (thước đo vải). 2 Ðơn vị cũ đo diện tích ruộng đất, bằng 24m2(thước Bắc Bộ) hoặc bằng 33m2(thước Trung Bộ). Nhà có dăm thước đất."


    Thước đo thời Nguyễn

    +Chữ Thước mộc thì được định nghĩa: "Ðơn vị cũ đô độ dài, bằng 0,425m"

    +Thước ta d. (kng). Thước mộc, phân biệt với mét (thước tây).

    +Thước thợ d. Thước của thợ mộc dùng để đo góc vuông. (tr.1007)

    -Chữ Dặm có 3 nghĩa, trong đó nghĩa thứ nhất là: "Ðơn vị cũ đo độ dài bằng 444,44 mét..."(tr.264).

    -Chữ Trượng có 2 nghĩa là: "1 Ðơn vị cũ đo độ dài, bằng 10 thước Trung Quốc cổ(tức là bằng 3,33 mét). 2 Ðơn vị cũ đo độ dài, bằng bốn thước mộc (tức là bằng 1,70 mét). Thang cao hai trượng". (tr. 1093)

    2-Theo Hán Việt từ điển của Ðào Duy Anh:

    -"Xích : Thước đo, là 10 tấc". (tr.576)

    -Chữ Tầm có 5 nghĩa, trong đó có một nghĩa: "Tám thước (xích) là một tầm". (tr.245).

    -Chữ Trượng có 2 nghĩa, trong đó có một nghĩa: "Mười thước là một trượng". (tr.519).

    3- Theo Hán Việt tự điển của Thiều Chửu:

    -" Xích: Thước, mười tấc là một thước". (tr.156).

    4-Theo Từ lâm Hán Việt từ điển của Vĩnh Cao và Nguyễn Phố:

    -"Chữ Xích: (danh) Ðơn vị đo chiều dài, thước (Trung Quốc), mười tấc là một thước, (tương đương 0,33m)". (tr.331).

    -Chữ Lý có 2 nghĩa, trong đó nghĩa thứ hai là "Ðơn vị đo độ dài. Gồm có: a.Công lý: Kilomètre (3125 xích). b.Thị lý dài chừng 1562,55 xích. c. ?Dặm, đơn vị độ dài ngày xưa dùng để xây dựng, dài 1800 xích (576m)".(tr.1368).

    5- Theo Nguyễn Ðình Ðầu trong Nghiên cứu địa bạ triều Nguyễn

    *Tập Biên Hòa (Nxb Thành phố Hồ Chí Minh, 1994):

    - Trường xích: 0,4664m

    *Tập Thừa Thiên (Nxb Thành phố Hồ Chí Minh, 1997):

    - Ðiền xích: (thước đo ruộng) 0,4664m

    6-Theo Lê Thành Khôi trong bài Tìm hiểu một số đơn vị đo lường ngày trước đăng trên Kỷ yếu Hội thảo phục hồi điện Cần Chánh (Trung tâm BTDTCÐ Huế & Ðại học Waseda xuất bản năm 2000):

    "Dưới triều Nguyễn, thước đo được khoảng 0,425cm. Năm 1890, giá trị của nó được ấn định là 0,4m.

    Trượng 10 thước 4m

    Ngũ 5 thước 2m

    Thước 10 tấc 0,40m

    Tấc 10 phân 0,04m

    Ngoài từ ngũ, tất cả các đơn vị khác đều mang hình thức thập phân. Ngũ không phải là đơn vị bậc dưới của trượng, nhưng là một đơn vị có thể thay thế trượng. Khi người ta dùng trượng thì không dùng ngũ và ngược lại"(tr.93)

    ..vv...


    Thước đo thời Nguyễn

    Như vậy, ngay cả trong hệ thống từ-tự điển và các sách công cụ đang được sử dụng rất phổ biến hiện nay, hệ thống thước đo truyền thống vẫn được hiểu không thống nhất, nếu không nói là là vừa thiếu vừa lộn xộn! Ðiều này thể ở những đặc điểm sau:

    -Ðịnh nghĩa không đầy đủ.

    -Không phân biệt được hệ thống thước đo theo từng loại hình riêng biệt.

    -Cách hiểu về một đối tượng giữa các từ điển không giống nhau.

    -Nhầm lẫn hoặc hiểu một cách mập mờ về hệ thống thước đo giữa ta và Trung Quốc.

    Thực ra, để hiểu một cách chính xác và đầy đủ về hệ thống thước đo truyền thống của dân tộc chúng ta phải có một cái nhìn toàn diện về loại hình, công năng cũng như lịch sử tồn tại của hệ thống thước đo này.

    II. Các hệ thước đo của người Việt trong thời Nguyễn.

    Hệ thước đo xưa của người Việt, về cơ bản gồm 3 loại chính là hệ thước đo vải -hay thước may (tên chữ Hán là Phùng xích hay Quan Phùng xích, hệ thước đo ruộng đất-hay thước ruộng (tên chữ Hán là Ðiền xích hay Ðộ Ðiền xích và hệ thước mộc-hay thước ta (tên chữ Hán là Quan mộc xích: hay Mộc xích.

    Dưới đây chúng tôi sẽ bước đầu giới thiệu về từng hệ thước, trong đó sẽ đặc biệt chú trọng đến hệ thước mộc

    1- Hệ thước đo vải -hay thước may

    Chưa rõ hệ thước này có nguồn gốc xuất phát từ đâu, chỉ biết độ dài của nó luôn khác với hệ thước khác. Một số nghệ nhân nghề dệt truyền thống thì cho rằng, chiếc thước này được hình thành và bị "ràng buộc" với khuôn khổ của chiếc khung cửi cổ truyền. Sự hạn chế của phương pháp thủ công khiến kích thước khổ vải dệt ngày xưa ít thay đổi qua thời gian. Bởi vậy, dù kích thước của các cây thước mộc, thước ruộng từng thay đổi rất nhiều qua các triều đại, nhưng đối với cây thước may thì sự điều chỉnh trên hầu như không đáng kể. Hiện nay, tại Bảo tàng Mỹ thuật Cung đình Huế vẫn còn lưu giữ được một cây thước rất đẹp, tương truyền là thước của Bộ Công triều Nguyễn (xem ảnh). Toàn bộ cây thước này dài đúng 1 mét Tây (100cm); 3 mặt khắc giá trị của 3 loại thước khác nhau, gồm Kinh xích, Chu Nguyên xích và Phùng xích. Tại mặt khắc giá trị của Phùng xích, tức thước đo vải- thước may, giá trị của 01 thước đo được là 59,80cm, tức xấp xỉ 0,6m(1).

    Tuy nhiên, theo các thợ may lão thành vùng Huế, thì giá trị của cây thước may cũng có thể dao động trong khoảng từ 0,6m-0,65m. Những cây thước cổ thường có giá trị lớn hơn, trong khoảng 0,64-0,65m, còn những cây thước muộn thường có giá trị xấp xỉ 0,6m. Từ điển tiếng Việt của Viện Ngôn Ngữ học, không rõ căn cứ vào đâu nhưng cũng cho rằng, giá trị cây thước may là 0,645m. Như vậy, bước đầu có thể nhận định rằng, dưới thời Nguyễn, giá trị thực của cây Phùng xích hay thước may nằm trong khoảng 0,6m-0,65m.

    2- Hệ thước đo ruộng đất-hay thước ruộng

    Căn cứ vào sử sách, có thể khẳng định rằng, hệ thước đo ruộng đất được áp dụng dưới thời Nguyễn là có nguồn gốc từ thời Lê. Tuy nhiên, việc áp dụng hệ thước đo này cũng có diễn biến rất phức tạp.

    Nguyên từ thời chúa Nguyễn, các chúa đã cho đo ruộng đất toàn bộ Ðàng Trong để lập địa bạ từ năm 1669. Nhưng không rõ giá trị của cây Ðiền xích lúc ấy là bao nhiêu và có phải nó đúng là cây thước vốn được sử dụng từ triều Lê hay không? Nhưng đến đầu triều Nguyễn, vào năm Gia Long thứ 5 [1806], để thống nhất đơn vị đo ruộng đất trong toàn quốc, nhà vua đã sai chế ra cây thước Trung Bình (Trung Bình xích: Cây thước này được áp dụng đến năm 1810, sau khi một người dân ở xã Cổ Linh, huyện Gia Lâm trình lên cây Ðiền xích của nhà Lê và vua Nguyễn cho áp dụng nó làm cây thước chuẩn để đo đạc lại ruộng đất trong toàn quốc thì mới chấm dứt vai trò. Sách Ðại Nam thực lục của Quốc Sử Qúan triều Nguyễn có ghi rõ: "Tháng 8 [Năm Canh Ngọ, Gia Long thứ 9 (1810)], ban thước kinh đo ruộng cho trong ngoài. Thước kinh do triều Lê cũ chế ra ban hành đã lâu, dân gian vẫn thường dùng. Năm Gia Long thứ 5 [1806] mới dùng thước trung bình, chế hơi dài hơn, bởi thế đo ruộng mẫu số sai nhau nhiều. Vua sai hỏi tìm được thước kinh cũ. Lấy được ở dân xã Cổ-linh huyện Gia-lâm, bèn theo cách thức ấy lấy đồng (nặng 1 cân12 lạng) mà làm ban cho các thành dinh trấn. Những ruộng đất công tư từ trước đã dùng thước trung bình mà khám đạc, thì làm sổ để đó mà theo. Từ nay nếu có việc tranh địa giới hay tố cáo ẩn lậu và báo xin khai khẩn thì dùng thước kinh để đo" (2).

    Như vậy, từ năm 1810 trở về sau, cây thước đo ruộng của triều Nguyễn chính là cây Ðiền xích của triều Lê; giá trị của nó được xác định bằng 47cm (lúc này, 01 mẫu ta ruộng đất được tính bằng một diện tích hình vuông, mỗi cạnh là 150 thước, tức bằng 4.970m2). Việc áp dụng cây thước này trên toàn quốc kéo dài đến năm 1867 thì giới hạn lại trong khu vực Bắc Kỳ và Trung Kỳ vì Nam Kỳ đã bị thực dân Pháp chiếm đóng và áp dụng theo hệ thước đo của người Pháp, tức hệ thước mét. Ðến năm 1898, cây thước trên chỉ còn áp dụng tại khu vực Trung Kỳ do tại Bắc Kỳ đã áp dụng một hệ thước có giá trị nhỏ hơn. Sở dĩ chúng ta biết được điều này vì trong Sử cũng ghi rõ, vào ngày 2 tháng 6 năm 1897, Toàn quyền Pháp Paul Doumer đã ra một nghị định quy định: "Kể từ ngày 1/1/1898, ở Bắc Kỳ, 01 thước ta có độ dài bằng 0,4 mét (tức thụt hơn trước 0,070 mét)"(3) Theo tác giả cuốn Việt Nam những sự kiện lịch sử thì đây thực chất là một thủ đoạn nham hiểm của thực dân Pháp nhằm tăng diện tích ruộng đất lên một cách giả tạo, mục đích là để tăng ngân sách từ việc đánh thuế vào người nông dân. Bởi từ thời điểm này trở đi, 01 mẫu ta áp dụng ở Bắc Kỳ chỉ còn bằng 3.600 m2(4).

    Còn ở Trung Kỳ, cây thước Ðiền xích vẫn giữ nguyên giá trị độ dài là 47cm đến khi nhà Nguyễn cáo chung, thậm chí đến tận ngày nay một số người vẫn quen "tư duy" bằng cây thước này.

    Có một trường hợp rất thú vị có thể dẫn ra ở đây là tại đình làng Văn Xá, huyện Hương Trà, tỉnh Thừa Thiên Huế, để "cố định hóa" cây Ðiền xích và để không ai có thể thay đổi được, dân làng Văn Xá đã đem khắc nguyên giá trị của cây Ðiền xích lên cột đình làng. Qua bao nhiêu lần sửa sang tu bổ, cây thước này vẫn không hề suy suyển, giá trị của nó vẫn là 47cm!

    3- Hệ thước mộc- hay thước ta:


    Thước đo thời Nguyễn

    Ðây là loại thước khá phức tạp bởi bao gồm nhiều hệ khác nhau, cụ thể gồm 3 hệ chính:

    +Hệ thước đo độ dài.

    +Hệ thước kỹ thuật hay thước nghề

    +Hệ thước tín ngưỡng hay thước Lỗ Ban, thước Chu Nguyên.

    -Về thước đo độ dài tức cây thước đo chiều dài của cột, kèo, gian, chái, đo chiều dài đường đi hay khoảng cách giữa các khu vực. Ðây là cây thước phổ biến nhất nên được gọi là Thước Kinh. Thước Kinh dưới thời Nguyễn trong giai đoạn đầu có giá trị trong khoảng 42,4cm-42,5cm. Ðiều này được chứng minh bằng kết quả khảo sát đo đạc khu vực Hoàng thành cùng các công trình kiến trúc cung đình của Huế mà chúng tôi đã từng công bố trên Tạp chí Khảo Cổ Học, số 1/1998 (5). Tuy nhiên, kể từ ngày 1/1/1898, theo Nghị định của Toàn quyền Paul Doumer, cây thước này đã bị hợp nhất với cây thước đo ruộng và đều gọi chung là Thước ta, với giá trị là 40cm. Cây thước hiện lưu trữ tại Bảo tàng Mỹ thuật Cung đình Huế, chắc chắn được làm sau thời điểm này nên mặt Kinh Xích (thước Kinh) của nó có giá trị là 40cm.

    -Về hệ thước kỹ thuật hay thước nghề thì có nhiều loại: thước Ðinh, thước Sàm, thước Vuông, thước Nách...Nhìn chung đây đều là những loại thước phục vụ cho người thợ mộc trong quá trình thao tác kỹ thuật. Lê Vĩnh An trong bài Công cụ chế tác nhà rường Huế đăng trên Tạp chí Nghiên cứu và Phát triển, số 2/2002 đã có sự giới thiệu khá kỹ về các loại thước này. Nhìn chung, các loại Thước nghề thường khắc kèm giá trị của cây thước Kinh để tiện dụng cho người thợ.

    -Về hệ thước tín ngưỡng hay thước Lỗ Ban, thước Chu Nguyên thì hết sức phức tạp bởi có rất nhiều loại với quan niệm và cách sử dụng khác nhau.

    Lỗ Ban là tên một người thợ mộc lừng danh của Trung Hoa cổ đại, tương truyền là người phát minh ra cưa, đục và các dụng cụ của nghề mộc. Ông được tôn làm Tổ của ngành mộc Trung Quốc. Thước Lỗ Ban tương truyền là do ông sáng chế, nó còn có các tên gọi khác như Môn xích, Bát tự xích. Ðây là loại thước người thợ mộc thời xưa dùng để đo kích thước nhà cửa, phòng ốc, đình viện, giường phòng và các loại khí cụ. Theo sách Trung Quốc cổ đại kiến trúc từ điển của Sở Nghiên cứu văn vật Bắc Kinh, hiện nay tại Bảo tàng Cố cung Bắc Kinh vẫn còn 1 cây Môn Xích, được xem là cây thước chân truyền của đời xưa. Thước dài 46cm, rộng 5,5cm, dày 1,36cm. 2 mặt lớn của thước đều chia làm 8 trực. Một mặt, giữa các trực khắc các chữ "Tài Ðại Tinh, Bệnh Thổ Tinh, Li Thổ Tinh, Nghĩa Thủy Tinh, Quan Kim Tinh, Chấp Hỏa Tinh, Hại Hỏa Tinh, Cát Kim Tinh", 2 bên lại khắc các câu về điều tốt xấu (cát, hung).

    Mặt kia, giữa 8 trực khắc các chữ: "Quý Nhân Tinh, Thiên Hội Tinh, Tể Tướng Tinh, v.v... Mỗi trực lớn, ở hai bên lại chia khắc 5 trực nhỏ, phân ra khắc các chữ "Quý Nhân", "Phát Tài", hoặc Tà Yêu, Hội Hại.v.v...( 6)

    Nhìn chung trong thời cổ, ở Trung Quốc và các nước ảnh hưởng văn hoá Hán, thước Lỗ Ban được sử dụng rất phổ biến và có nhiều biến dạng.

    Hiện nay có 2 loại thước Lỗ Ban chính, lưu truyền không chỉ ở nước ta mà còn ở cả Trung Quốc, Ðài Loan, Hồng Kông là: thước trực 8 (Bát môn xích) và thước trực 10 (Thập môn xích) với giá trị rất khác nhau. Chúng ta có thể dễ dàng tìm thấy cả 2 loại thước này cùng in trên cây thước sắt cuốn do Ðài Loan sản xuất (thường in kèm trong thước sắt 7,5m), bán khá phổ biến tại trên thị trường.

    Theo 2 loại thước này thì:

    1-Loại thước trực 8 (8 tấc) dài tổng cộng 42,8cm, 8 trực là: TÀI-BỆNH-LI-NGHĨA-QUAN-CHẤP-HẠI-BẢN; mỗi trực lại chia thành 4 phần chia làm 2 khoảng, mỗi phần khắc 2 chữ:

    TÀI: Tài Ðức, Bửu Khố - Lục Hợp, Nghênh Phúc

    BỆNH: Thoái Tài, Công Sự - Tể Chấp, Cô Quả

    NGHĨA: Thiêm Ðinh, Ích Lợi - Quý Tử, Ðại Cát

    QUAN: Thuận Lợi, Hoành Tài - Tấn Ích, Phú Quý

    CHẤP: Tử Biệt, Thoái Khẩu - Li Hương, Tài Thất

    HẠI: Linh Chí, Tử Tuyệt - Bệnh Lâm, Khẩu Thiệt

    BẢN: Tài Chí, Ðăng Khoa - Tấn Bửu, Hưng Vượng

    Toàn bộ thước gồm 32 từ kép với 64 chữ.

    2-Loại thước trực 10 dài tổng cộng 38,8cm; 10 trực là:

    ÐINH-HẠI-VƯỢNG-KHỔ-NGHĨA-QUAN-TỬ-HƯNG-THẤT-TÀI. Mỗi trực lại chia thành 4 phần chia làm 2 khoảng, mỗi phần khắc 2 chữ:

    ÐINH: Phúc Tinh, Cập Ðệ - Tài Vượng, Ðăng Khoa

    HẠI: Khẩu Thiệt, Bệnh Lâm -Tử Tuyệt, Linh Chí

    VƯỢNG: Thiên Ðức, Hỉ Sự - Tấn Bửu, Nạp Phúc

    KHỔ: Thất Thoát, Quan Quỷ - Chấp Tài, Vô Tự

    NGHĨA: Ðại Cát, Tài Vương - Ích Lợi, Thiên Khố

    QUAN: Phú Quý, Tấn Bửu - Hoành Tài, Thuận Khoa

    TỬ: Li Hương, Tử Biệt - Thối Ðinh, Thất Tài

    HƯNG: Ðăng Khoa, Quý Tử - Thiêm Ðinh, Hưng Vượng

    THẤT: Cô Quả , Tể Chấp - Công Sự, Thối Tài

    TÀI: Nghênh Phúc, Lục Hợp - Tấn Bửu, Tài Ðức

    Toàn bộ thước gồm 40 từ ghép với 80 chữ.

    Tuy nhiên trên thực tế tại nước ta, thước Lỗ Ban có nhiều biến thể rất phong phú. Cùng là loại Bát môn xích nhưng có cây thước giá trị là 43,9cm, có cây dài đến 56cm (thước Chu Nguyên xích tại Bảo tàng Mỹ thuật Cung đình Huế), cũng có cây chỉ dài 28,4cm... nên thật khó có kết luận chung về loại thûúác này! (xem bảng thống kê các cây thước tiêu biểu của chúng tôi in kèm ở phần Phụ lục).

    Trên đây chỉ là một số ý kiến mang tính chất đặt vấn đề của chúng tôi về hệ thước đo truyền thống của dân tộc. Chúng tôi rất mong vấn đề này sẽ được nhiều nhà nghiên cứu quan tâm và thảo luận kỹ càng hơn.






    Chú thích:

    (1). Cây thước tại Bảo tàng MTCÐ Huế mặt khắc 3 cây thước khác nhau là:

    1-Chu nguyên xích: 55,8cm, gồm 8 cung, mỗi cung 7cm

    2-Kinh xích: 40,5cm, trực 10, mỗi cung=4,05cm

    3-Phùng xích: 59,7cm, trực 10, mỗi cung =5,97cm

    Trên Chu nguyên xích có khắc 2 dòng chữ Hán,

    Dòng bên trái

    Bảo vật hà hội thủ

    Phân minh định bất sai

    Nhất thân li bệnh tật

    Dâm loạn nam nữ ương

    Phu thê xung khắc viễn

    Nam nữ thất gia hương

    Tài lộc toàn gia quý

    Trập thằng tích hí phương

    Bửu tấn tăng điền trạch`

    Thông minh trí huệ anh

    Quan sự lâm li tán

    Ðạo tặc viễn tức hoành

    Phá gia tài thoái tán

    Phong vũ bất an ninh

    Ngũ âm tài đỉnh xuất

    Công hầu phú quý vinh

    Bên hữu có hàng dọc

    Tham lang tiến hoành tài

    Xứng ý tự nhiên lai

    Cự môn hiếu phục thương

    Du hí tẩu tha phương

    Lộc tồn nhân đa lang

    L
    Last edited by Bin571; 21-01-2008 at 09:37 PM.
    NAM QUỐC sơn hà NAM ĐẾ cư
    TIỆT NHIÊN định phận tại THIÊN THƯ

    Đây là link Fanpage của Diễn đàn TGVH anh em nha https://www.facebook.com/thegioivohinh.fanpage/
    Đ
    ây là Youtube của Diễn đàn hay đăng ký ủng hộ nhé : https://www.youtube.com/@thegioivohinh571
    Tiktok1 - @thegioivohinh.571 : https://www.tiktok.com/@thegioivohin...9Wjn42o3s&_r=1

    Tiktok2 - @thegioivohinh.com : https://www.tiktok.com/@thegioivohin...9WnFaFDRX&_r=1

Thread Information

Users Browsing this Thread

There are currently 1 users browsing this thread. (0 members and 1 guests)

Bookmarks

Quyền Hạn Của Bạn

  • You may not post new threads
  • You may not post replies
  • You may not post attachments
  • You may not edit your posts
  •