Thơ thiền Lý-Trần hay
đường về cõi Phật qua thơ văn xưa
Bối cảnh tư tưởng, tôn giáo, tâm linh
Sự quan trọng của Phật Giáo Thiền Tông.
Từ các dòng Thiền Nam Phương, Quán Bích đến Thảo Đường, Trúc Lâm hay là từ sự tiếp thu bên ngoài đến việc xây dựng các dòng Thiền mang nhiều màu sắc Việt Nam
Dẫn lối về nguồn : thơ thiền Lý-Trần trong tâm thức
Thơ thiền là thơ viết bằng chữ Hán.
Thơ thiền phần lớn là ngững bài kệ, hoặc là vấn đáp giữa sư phụ và môn đệ cốt đưa đến việc khai thông trí tuệ. Nhiều bài cũng khô khan nghiêm khắc như những pháp cú, nhưng cũng có nhiều bài đẹp như một bài thơ. Nhiều khi những câu trả lời còn có dạng công án không trực tiếp liền nghĩa với câu hỏi như trong bài Tham đồ hiển quyết (Chỉ rõ bí quyết đạo thiền cho môn đệ) của Viên Chiếu (Mai trực, 999-1091) (21) về Phật và Thánh. Sư đáp ở hai câu đầu :
Ly hạ trùng dương cúc
Chi đầu thục khí oanh
(Trùng dương đến cúc vàng dưới dậu
Xuân ấm về, oanh náo đầu cành) (22)
Huệ Chi - Băng Thanh dịch, TVLT, I, 266-293
Nói về sự gần gũi của Phật bằng những hình ảnh vô cùng linh động, tràn đầy sức sống trong cao điểm của mùa thu (trùng dương hay trùng cửu nhầm 9 thánh 9 âm lịch), một mùa thường được xem là mùa buồn đi về đìu hiu, chết chóc, nhưng lại được sưởi ấm bằng màu vàng của hoa cúc quanh quẩn bên thềm. Lại đến lúc xuân về thì bao nhiêu là cảm giác của sức sống mạnh mẽ đến với con người một cách tự nhiên, không ngại kêu gọi đến lục căn (thân căn và nhĩ căn : xuân ấm, oanh náo). Thế cũng là cách đến với Phật Thánh. Chúng sinh và Phật Thánh rất gần nhau, hàm chứa trong cảnh vật thiên nhiên trong tiếng chim chót vót đầu cành. Nhưng tất cả đều đến với những ai biết trầm mình trong thiên nhiên, không thành kiến cố chấp, không ray rức, không dấy động trong tuần huờn vũ trụ. Chỉ có bao nhiêu từ mà giác quan con người trần tục được vận dụng để đưa con người về với Phật. Về không phải để tôn thờ, để đề cao pháp lý mà về để thấy và hưởng được cái đẹp của cúc vàng, để sưởi ấm trong nắng xuân, để quên mệt nhọc phiền não khi nghe tiếng oanh thúc dục (hay như trong dị bản khi thấy sắc nồng của hoa đào). Thời gian như không còn xa xôi lê thê, mà đọng lại trong vận chuyển, không gian ấp ủ thân mật khiến con người không cảm thấy bơ vơ. Cái thân mật được gợi ra từ những từ rất bình dân của cây cỏ quanh nhà như " dưới dậu, đầu cành ". Thời gian, không gian, sân khấu của thế giới hiện tượng trong tục đế quấn quyện lấy con người đưa thế giới nhân sinh vào bao la bất tận, trong vĩnh cữu trường tồn.
Thiền sư Vạnh Hạnh (?-1018) (23) cũng nói về con đường từ bản thể chân ly
vượt lên những cái phiền não do thế giới hiện tượng gây ra, bằng cách khêu gợi trí tưởng tượng. Kiếp người nhanh như một chớp điện có rồi không trong khoảnh khắc, mỏng manh đầy đe dọa như hạt sương động rung rinh đầu cỏ. Nhưng những ai biết nhận thức với cái nhìn bên kia những sắc tướng do ngũ uẩn kết cấu thì không những không còn sợ hãi mà còn đi đến được trạng thái an nhiên, bất diệt điềm tĩnh dửng dưng như các pho tượng Thích Ca. Phút chốc là vô tận. Sự xoay vần biến hóa của trời đất (xuân vinh, thu khô) cũng như sự thịnh suy trên đời đi theo lẽ tự nhiên của nó, không hề hấn gì đến chân lý vĩnh hằng.
Thân như điện ảnh hữu hoàn vô
Vạn mộc xuân vinh, thu hựu khô
Nhậm vận thịnh suy vô bố úy
Thịnh suy như lộ thảo đầu phô
(Thân như bóng chớp, có rồi không
Cây cối xuân tươi, thu não nùng
Mặc cuộc thịnh suy đừng sợ hãi
Kìa kìa ngọn cỏ giọt sương đông)
Ngô Tất Tố dịch trong Văn học đời Lý,
VHĐL (NXB Mai Lĩnh, Hà Nội, 1942)
Thiền sư Chân Không (Vương Hải Thiềm 1046-1100) (24), thiền phái Nam Phương cũng nhắc đi nhắc lại cái mầu nhiệm của chân không làm tươi thắm lại vạn vật khi bão lửa (lực lượng to lớn của Phật pháp phá vô minh) đã đốt tàn rụi hết những vết u minh chất chứa bên trong. Chân pháp thường trụ như núi rừng xanh thẫm. Mây có trắng đến đâu, có tan mau nhưng lúc nào cũng chực sẵn để tái hiện đe dọa những ai sơ hở chểnh mảng. Sức sống tái hồi mạnh hơn, thơm hơn vì đã được lửa làm tinh khiết.
.......
Kiếp hỏa đỗng nhiên hào mạt tận
Thanh sơn y cựu bạch vân phi
(Lửa bùng thiêu đến mảy tơ,
Ngàn xanh, mây trắng bây giờ còn bay)
.......
Bình nguyên kinh hỏa hậu
Thực vật các thù phương
(Đồng bằng trải lửa thiêu
Cỏ cây thơm hơn nhiều)
hoặc giả ngài còn nói về cái bất diệt, cái sức sống vô cùng của vạn vật bằng
cảnh của mùa xuân trong cõi Phật :
Xuân lai xuân khứ nghi xuân tận
Hoa lạc hoa khai chỉ thị xuân
(Xuân qua xuân lại ngỡ xuân tàn,
Hoa dù rụng nở, vẫn hoàn tiết xuân)
Phạm Tú Châu dịch trong TVLT, I, 303
Những câu trên nhắc ta nhớ đến bài kệ của thiền sư Mãn Giác (Lý Trường 1052-1096) (25) thiền phái Bích Quán thế hệ thứ tám làm trước khi tịch diệt. Tư tưởng, lời thơ, giáo lý đượm một màu xuân vĩnh cửu, tràn đầy niềm tin vào chân không bao la. Chết không cô đơn, không là hết mà cũng không phải là sa vào cái vòng lẩn quẩn trầm luân. Cành mai là tượng trưng cho cái đẹp, cái tươi của Phật pháp, rất gần gũi (trước sân), không bị che lấp đối với người biết tìm đường, mặc dù bóng tối (đêm qua). Ngài khuyên mọi ngườ đừng lầm lũi chạy theo những việc đời không đáng kể :
Xuân khứ bách hoa lạc,
Xuân đáo bách hoa khai.
Sự trực nhãn tiền quá,
Lão tòng đầu thượng lai.
Mạc vị xuân tàn hoa lạc tận,
Đình tiền tạc dạ nhất chi mai.
(Xuân ruổi, trăm hoa rụng,
Xuân tới, trăm hoa cười
Trước mắt, việc đi mãi
Trên đầu, già đến rồi
Đừng tưởng xuân tàn hoa lạc tận
Đêm qua, sân trước, một cành mai)
Ngô Tất Tố dịch, VHĐL
Các vấn đề sinh tử thân tâm luôn luôn là nòng cốt của lập luận. Nhưng ít khi các vị thiền sư luận bàn một cách trừu tượng siêu hình, xa trần tục. Viên Chiếu(26) đã so sánh thân xác con người với bức tường đổ nát xiêu vẹo. Mà thân xác hay là cả kiếp người cũng thế ! Lúc nào cũng phải đương đầu với thử thách, với khổ đau. Thân xác là ngũ uẩn kết hợp với những đòi hỏi của nó, với những thích thú hay đau đớn, mới thấy đẹp đẽ đó thì lại thối rữa ra đó :
Thân như tường bích dĩ đồi thì, ,)
Cử thế thông thông thục bât bi. (.)
Nhược đạt tâm không vô sắc tướng, (,)
Sắc không ẩn hiện nhậm thôi di .
(Thân như tường vách đã lung lay
Lật đật người đời, những xót thay
Nếu được"lòng không"không tướng sắc
" Sắc " " không ", ẩn hiện, mặc vần xoay.)
Ngô Tất Tố dịch, VHĐL
Cái nhìn và lối giảng của thiền sư thật là sâu sắc, đầy chi tiết hiện thực đập mạnh vào tâm trí con người (bức tường đã dãi dầu với mưa nắng nên đến lúc phải đổ nát). Thấy bên ngoài là thế, nó gợi lên trước mắt người nhìn (sư là người tu Quán Bích) những hành động tác dụng đưa đến trạng thái ấy (người ta phí sức sinh hoạt hấp tấp không ngừng để suy nghĩ : cử thế thông thông). Phương tiện giải thoát đi đến tự do không bị dục vọng ràng buộc ở gần kề, chỉ cần để cho tâm không bị dao động, tin vào pháp thân bất diệt thì, cũng như ngài đã dạy " mặc vận thịnh suy vô bố úy ".
Như thế, từ những thí dụ rất cụ thể, gần gũi các thiền sư đã đề cập đến những vấn đề siêu hình một cách rất tự nhiên không cầu kỳ trừu tượng như sắc, không, tục đế, diệu đế. Tác dụng chân không, mô tả, định nghĩa diệu tính chân không đều được nói lên đi từ riêng rẽ đến đại đồng.
Quách Thanh Tâm
Còn Tiếp
Bookmarks