Thơ thiền Lý-Trần hay
đường về cõi Phật qua thơ văn xưa




Đặt một tựa bài vừa mơ hồ và vừa đèo bồng như thế, không phải là một sự vô tình hay cầu kỳ của người viết. Thực ra đó là biểu hiện của một thái độ vô cùng dè dặt của tôi. Tôi đến với văn học của giai đoạn lịch sử nầy chỉ là một sự ngẫu nhiên, không định trước và không được toan tính chuẩn bị đầy
đủ. Vì thế khi mạo muội trình ra những nhận xét của mình, tôi làm việc nầy với tất cả sự khiêm nhường của một người đang "tầm sư học đạo ", đang đón chờ những âm vang phong phú hơn.


Thời đại Lý-Trần kéo dài từ thế kỷ X đến hết XIV, nhưng nó có nhiều giai đoạn, tùy theo góc độ nhìn. Bởi thế, cái mơ hồ đã nêu trên là muốn cho thời điểm luận bàn cũng như mặt tiếp cận không có một ranh giới tỏ rõ. Vì văn chương cũng như văn học, vừa là tiếng nói vừa là sản phẩm của thời đại không thể như thế được. Tôi có thể lồng đối tượng nghiên cứu vào một giai đoạn thời gian (văn học thế kỷ X vv...), nhưng giới hạn nầy có ý nghĩa gì đến những đối tượng không dứt đoạn hẳn với một thế hệ nào nhất định, mà nó có thể tồn tại, biến dạng, nhưng vẫn còn giữ được cái cốt lõi nguyên sinh từ thế hệ nầy sang thế hệ khác, để hun đúc cho sự hình thành của cá tính một cộng đồng, của đặc thù một dân tộc, của khí thiêng một đất nước, của tinh túy một nhân sinh hay vũ trụ quan ?

Gọi là văn học (1) Lý-Trần là cố ý gắn liền lịch sử văn học vói lịch sử chính trị, mặc dù " tự thân nó không nói lên điều gì về văn học " (Lê Trí Viễn : Đặc trưng văn học trung đại Việt Nam, 18) (2). Còn ghép giai đoạn văn học nầy vào một thời kỳ trung đại là một lập trường nghiên cứu có thể tự bào chữa nếu cách dùng từ và cách tiếp cận tránh né được những sự nhầm lẫn có thể có giữa Âu Tây và đặc thù của lịch sử văn học Việt Nam.

Đặt văn học mà tôi sẽ bàn đến trong bài nầy dưới danh đề " Lý-Trần " là một ngụ ý đễ nhấn mạnh vai trò của giai cấp có thể gọi là trí thức từ vua chúa, hoàng gia, đến tu sĩ trong tiến trình của giai đoạn văn học thành văn nầy. Nói thế không có nghĩa là nhân dân không tham dự vào công viêc ấy. Nhưng tất cả các bài viết về lịch sử văn học từ trước đến nay đều nhấn mạnh đến sự thiếu thốn, mất mát về tư liệu liên quan đến khía cạnh nầy của vấn đề. Sự dè dặt của tôi một phần lớn là do sự kiện trên gây ra.

Các yếu tố kinh tế, xã hội, lịch sử, địa lý đã bộc lộ rành rành qua những tác phẩm của thời kỳ nầy, may mắn còn giữ lại được. Và mặc dù văn học dùng chữ viết ta (nôm) không còn đễ lại một số lượng sáng tác đáng kể, và mặc dù các tác phẩm còn lại phần lớn được viết bằng chữ Hán, văn học trong giai
đoạn lịch sử nầy đã góp phần tích cực vào hành trình tâm linh Việt nam, vào xây dựng cá tính tư tưởng, tâm hồn Việt Nam. Văn học thời nầy đã được sáng tác trong một bối cảnh văn học, tư tưởng, tâm linh đặc thù.

Bối cảnh văn học : Tác gia là thiền sư dùng chữ Hán

Chữ nôm xuất hiện tự bao giờ ?

Ta không thể lấy thời điểm việc Hàn (Nguyễn) Thuyên dùng văn tế nôm diệt cásấu năm 1282 làm khởi điểm cho sự xuất hiện chữ nôm. Nó chỉ có tính cách tượng trưng khẳng định một quá trình hình thành đã có từ trước.

Nhiều nhà học giả đã khẳng định sự ra đời của lối viết nầy vào thế kỷ X-XV (3), với nhiều giai đoạn : cuối thế kỷ thứ X chữ nôm được dần dần hình thành, thế kỷ thứ XI, XII, nó tiếp tục phát triển, tự hoàn chỉnh, cuối thế kỷ XIII cơ bản được hoàn chế thực sự. Nhưng những văn phẩm, tư liệu còn lại hiện nay rất hiếm hoi : bia chữ nôm Tam Nông, Yên Lãng (Phú Thọ), Hộ Thành Sơn (Ninh Bình), bài viết trên chuông chùa Pháp Vân, Đồ Sơn... Về các sáng tác khác, nếu phải đợi đến Quốc âm thi tập của Nguyễn Trãi ra đời vào giữa thế kỷ thứ XV để có một bằng chứng văn nôm già dặn, thì biết bao nhiêu câu chuyện được lưu truyền về việc dùng chữ nôm để sáng tác : thơ phú Hàn Thuyên, thơ nôm trong Phi sa tập, thơ nôm Nguyễn Sĩ Cố, Tiều ẩn quốc ngữ thi tập của Chu Văn An...., nhưng nay văn bản đều không còn :

" Chữ nôm lúc đầu chắc là một lối chữ được sản sinh ra và được sử dụng chủ yếu là ở nhà chùa, sản sinh trên cơ sở vay mượn các yếu tố chữ vuông Hán và phương thức cấu tạo của chữ Hán. Nhưng vì chữ nôm là thứ chữ dùng để ghi tiếng nói dân tộc, có khả năng phục vụ các nhu cầu biên chép, sáng tác văn học của dân tộc, nên nghiễm nhiên nó dần dần trở thành chữ viết của dân tộc, được mọi tầng lớp xã hội chấp nhận và góp phần vào sự xây đắp. Sự xuất hiện của chữ nôm đáng được coi như là một cái mốc lớn trên con đường tiến lên của lịch sử, và gia tàng văn bản chữ nôm cũng như bản thân chữ nôm đáng được coi như là một gia tài văn hóa quý báu của dân tộc...." (Nguyễn Tài Cẩn..., 516).

Ngay cả văn học chữ Hán, sự mất mát cũng không phải nhỏ. Ngoài những lý do thường nói đến như sự hủy hoại chứng tích văn minh Việt Nam của người nhà Minh, ngoài những vấn đề khó khăn liên quan đến việc tồn trữ bảo trì văn phẩm trong một môi trường nóng ẫm nhiệt đới, việc in ấn và phổ biến sáng
tác trong thời kỳ nầy là một việc rất khó làm (4). Chỉ có nhà chùa hoặc triều đình mới có tương đối đầy đủ phương tiện. Sao, chép, lưu truyền trong dân gian một cách tất nhiên giới hạn cũng là những lý do tạo khó khăn cho việc nghiên cứu văn học. Đâu là nguyên bản, đâu là dị bản ?

Chỉ trong lãnh vực thơ kệ (5), sáng tác của các nhà sư Khánh Hỷ : Ngộ Đạo Ca thi tập ; của sư Viên Thông-Bảo Giác : Viên Thông tập, Hồng chung văn bi ký, Tăng gia tập lục ; của sư Huệ Sinh đều thất truyền... Nhiều tác giả chỉ còn để lại một vài bài thơ, hai ba câu kệ (Đàm Cứu Chỉ ?- ?, tác phẩm còn
lại một bài thơ, có kèm lời dẫn giải ; Từ Lộ : Đạo Hạnh ?-1117, tác phẩm hiện còn 4 bài thơ ; Hoàng Viên Học 1072-1136, hiện còn một bài thơ.... Thơ Văn Lý-Trần : TVLT, I, 253, 343, 448) (6).

Căn cứ vào hai tập tài liệu " Thiền Uyễn Tập Anh " (7) và " Thơ Văn Lý-Trần", tôi sẽ mạo muội đi vào thế giới thơ thiền. Vẫn biết rằng thời đại Lý-Trần là một " thời kỳ đấu tranh giữa nhiều trào lưu tư tưởng, nhất là giữa ba luồng tư tưởng Phật, Nho, Lão, nên thơ văn của thời đại nầy cũng có những bộ phận không thoát khỏi mang màu sắc của các hệ thống tôn giáo khá đậm " (Thơ Văn Lý-Trần, I, 9), và dòng tư tưởng đã tiến triển đều đều, nhưng văn học cũng giúp ta định được trong chừng mực nào đó các mốc thời gian của sự diễn biến đó.

Các màu sắc ấy có đi ra ngoài đời sống tâm linh của cộng đồng hay nó đã hòa huyện vào tâm thức của con người Việt Nam một cách trường tồn vĩnh viễn ? Những tác phẩm còn lại của giai đoạn lịch sử nầy tuy không viết bằng tiếng ta, nhưng không ai còn cho là không phải của ta nữa (8).

Quách Thanh Tâm
Còn Tiếp