Thơ thiền Lý-Trần hay
đường về cõi Phật qua thơ văn xưa



Đặt một tựa bài vừa mơ hồ và vừa đèo bồng như thế, không phải là một sự vô tình hay cầu kỳ của người viết. Thực ra đó là biểu hiện của một thái độ vô cùng dè dặt của tôi. Tôi đến với văn học của giai đoạn lịch sử nầy chỉ là một sự ngẫu nhiên, không định trước và không được toan tính chuẩn bị đầy
đủ. Vì thế khi mạo muội trình ra những nhận xét của mình, tôi làm việc nầy với tất cả sự khiêm nhường của một người đang "tầm sư học đạo ", đang đón chờ những âm vang phong phú hơn.

Thời đại Lý-Trần kéo dài từ thế kỷ X đến hết XIV, nhưng nó có nhiều giai đoạn, tùy theo góc độ nhìn. Bởi thế, cái mơ hồ đã nêu trên là muốn cho thời điểm luận bàn cũng như mặt tiếp cận không có một ranh giới tỏ rõ. Vì văn chương cũng như văn học, vừa là tiếng nói vừa là sản phẩm của thời đại không thể như thế được. Tôi có thể lồng đối tượng nghiên cứu vào một giai đoạn thời gian (văn học thế kỷ X vv...), nhưng giới hạn nầy có ý nghĩa gì đến những đối tượng không dứt đoạn hẳn với một thế hệ nào nhất định, mà nó có thể tồn tại, biến dạng, nhưng vẫn còn giữ được cái cốt lõi nguyên sinh từ thế hệ nầy sang thế hệ khác, để hun đúc cho sự hình thành của cá tính một cộng đồng, của đặc thù một dân tộc, của khí thiêng một đất nước, của tinh túy một nhân sinh hay vũ trụ quan ?

Gọi là văn học (1) Lý-Trần là cố ý gắn liền lịch sử văn học vói lịch sử chính trị, mặc dù " tự thân nó không nói lên điều gì về văn học " (Lê Trí Viễn : Đặc trưng văn học trung đại Việt Nam, 18) (2). Còn ghép giai đoạn văn học nầy vào một thời kỳ trung đại là một lập trường nghiên cứu có thể tự bào chữa nếu cách dùng từ và cách tiếp cận tránh né được những sự nhầm lẫn có thể có giữa Âu Tây và đặc thù của lịch sử văn học Việt Nam.

Đặt văn học mà tôi sẽ bàn đến trong bài nầy dưới danh đề " Lý-Trần " là một ngụ ý đễ nhấn mạnh vai trò của giai cấp có thể gọi là trí thức từ vua chúa, hoàng gia, đến tu sĩ trong tiến trình của giai đoạn văn học thành văn nầy. Nói thế không có nghĩa là nhân dân không tham dự vào công viêc ấy. Nhưng tất cả các bài viết về lịch sử văn học từ trước đến nay đều nhấn mạnh đến sự thiếu thốn, mất mát về tư liệu liên quan đến khía cạnh nầy của vấn đề. Sự dè dặt của tôi một phần lớn là do sự kiện trên gây ra.

Các yếu tố kinh tế, xã hội, lịch sử, địa lý đã bộc lộ rành rành qua những tác phẩm của thời kỳ nầy, may mắn còn giữ lại được. Và mặc dù văn học dùng chữ viết ta (nôm) không còn đễ lại một số lượng sáng tác đáng kể, và mặc dù các tác phẩm còn lại phần lớn được viết bằng chữ Hán, văn học trong giai
đoạn lịch sử nầy đã góp phần tích cực vào hành trình tâm linh Việt nam, vào xây dựng cá tính tư tưởng, tâm hồn Việt Nam. Văn học thời nầy đã được sáng tác trong một bối cảnh văn học, tư tưởng, tâm linh đặc thù.

Bối cảnh văn học : Tác gia là thiền sư dùng chữ Hán

Chữ nôm xuất hiện tự bao giờ ?

Ta không thể lấy thời điểm việc Hàn (Nguyễn) Thuyên dùng văn tế nôm diệt cásấu năm 1282 làm khởi điểm cho sự xuất hiện chữ nôm. Nó chỉ có tính cách tượng trưng khẳng định một quá trình hình thành đã có từ trước.

Nhiều nhà học giả đã khẳng định sự ra đời của lối viết nầy vào thế kỷ X-XV (3), với nhiều giai đoạn : cuối thế kỷ thứ X chữ nôm được dần dần hình thành, thế kỷ thứ XI, XII, nó tiếp tục phát triển, tự hoàn chỉnh, cuối thế kỷ XIII cơ bản được hoàn chế thực sự. Nhưng những văn phẩm, tư liệu còn lại hiện nay rất hiếm hoi : bia chữ nôm Tam Nông, Yên Lãng (Phú Thọ), Hộ Thành Sơn (Ninh Bình), bài viết trên chuông chùa Pháp Vân, Đồ Sơn... Về các sáng tác khác, nếu phải đợi đến Quốc âm thi tập của Nguyễn Trãi ra đời vào giữa thế kỷ thứ XV để có một bằng chứng văn nôm già dặn, thì biết bao nhiêu câu chuyện được lưu truyền về việc dùng chữ nôm để sáng tác : thơ phú Hàn Thuyên, thơ nôm trong Phi sa tập, thơ nôm Nguyễn Sĩ Cố, Tiều ẩn quốc ngữ thi tập của Chu Văn An...., nhưng nay văn bản đều không còn :

" Chữ nôm lúc đầu chắc là một lối chữ được sản sinh ra và được sử dụng chủ yếu là ở nhà chùa, sản sinh trên cơ sở vay mượn các yếu tố chữ vuông Hán và phương thức cấu tạo của chữ Hán. Nhưng vì chữ nôm là thứ chữ dùng để ghi tiếng nói dân tộc, có khả năng phục vụ các nhu cầu biên chép, sáng tác văn học của dân tộc, nên nghiễm nhiên nó dần dần trở thành chữ viết của dân tộc, được mọi tầng lớp xã hội chấp nhận và góp phần vào sự xây đắp. Sự xuất hiện của chữ nôm đáng được coi như là một cái mốc lớn trên con đường tiến lên của lịch sử, và gia tàng văn bản chữ nôm cũng như bản thân chữ nôm đáng được coi như là một gia tài văn hóa quý báu của dân tộc...." (Nguyễn Tài Cẩn..., 516).

Ngay cả văn học chữ Hán, sự mất mát cũng không phải nhỏ. Ngoài những lý do thường nói đến như sự hủy hoại chứng tích văn minh Việt Nam của người nhà Minh, ngoài những vấn đề khó khăn liên quan đến việc tồn trữ bảo trì văn phẩm trong một môi trường nóng ẫm nhiệt đới, việc in ấn và phổ biến sáng
tác trong thời kỳ nầy là một việc rất khó làm (4). Chỉ có nhà chùa hoặc triều đình mới có tương đối đầy đủ phương tiện. Sao, chép, lưu truyền trong dân gian một cách tất nhiên giới hạn cũng là những lý do tạo khó khăn cho việc nghiên cứu văn học. Đâu là nguyên bản, đâu là dị bản ?

Chỉ trong lãnh vực thơ kệ (5), sáng tác của các nhà sư Khánh Hỷ : Ngộ Đạo Ca thi tập ; của sư Viên Thông-Bảo Giác : Viên Thông tập, Hồng chung văn bi ký, Tăng gia tập lục ; của sư Huệ Sinh đều thất truyền... Nhiều tác giả chỉ còn để lại một vài bài thơ, hai ba câu kệ (Đàm Cứu Chỉ ?- ?, tác phẩm còn
lại một bài thơ, có kèm lời dẫn giải ; Từ Lộ : Đạo Hạnh ?-1117, tác phẩm hiện còn 4 bài thơ ; Hoàng Viên Học 1072-1136, hiện còn một bài thơ.... Thơ Văn Lý-Trần : TVLT, I, 253, 343, 448) (6).

Căn cứ vào hai tập tài liệu " Thiền Uyễn Tập Anh " (7) và " Thơ Văn Lý-Trần", tôi sẽ mạo muội đi vào thế giới thơ thiền. Vẫn biết rằng thời đại Lý-Trần là một " thời kỳ đấu tranh giữa nhiều trào lưu tư tưởng, nhất là giữa ba luồng tư tưởng Phật, Nho, Lão, nên thơ văn của thời đại nầy cũng có những bộ phận không thoát khỏi mang màu sắc của các hệ thống tôn giáo khá đậm " (Thơ Văn Lý-Trần, I, 9), và dòng tư tưởng đã tiến triển đều đều, nhưng văn học cũng giúp ta định được trong chừng mực nào đó các mốc thời gian của sự diễn biến đó.

Các màu sắc ấy có đi ra ngoài đời sống tâm linh của cộng đồng hay nó đã hòa huyện vào tâm thức của con người Việt Nam một cách trường tồn vĩnh viễn ? Những tác phẩm còn lại của giai đoạn lịch sử nầy tuy không viết bằng tiếng ta, nhưng không ai còn cho là không phải của ta nữa (8).

Bối cảnh tư tưởng, tôn giáo, tâm linh :
sự quan trọng của Phật giáo thiền tông. Từ các dòng Thiền Nam Phương,
Quán Bích đến Thảo Đường, Trúc Lâm hay là từ sự tiếp thu
bên ngoài đến việc xây dựng các dòng Thiền mang nhiều màu sắc Việt nam.

Lịch sử Phật giáo Việt Nam đã xác định sự hiện diện rất sớm của đạo Phật trên đất Giao Chỉ (9). Nhưng mãi đến cuối thế kỷ VI mới bắt đầu có sự xuất hiện các dòng thiền.

Dòng thiền Tì-ni-đa-lưu-chi (580-1216)

Vinitarucci (Tì-ni-đa-lưu-chi), người Ấn Độ, dòng dõi Bà La Môn gốc Nam Thiên Trúc , vân du qua Trung Hoa, đến Trường An năm 562. Vì lúc bấy giờ có sự đàn áp Phật giáo tại Trung Quốc, ông đi về đất Nghiệp, miền Hà Nam gặp tổ Tăng Xán cũng đang tỵ nạn tại đây, và xin thụ giới cùng vị tổ thứ ba nầy của thiền tông Trung Hoa. Theo lời khuyên của Tăng Xán ông đi về phía nam, dừng chân lại đất Quảng Châu để dịch kinh, rồi vào đất Giao Chỉ vào năm 580 (10) trụ trì tại chùa Pháp Vân (11). Dòng thiền đầu tiên nầy đã truyền thừa trên đất Việt được 19 thế hệ từ Tì-ni-đa-lưu-chi đến Y Sơn (1216). Như thế tư tưởng Phật giáo, nhất là tư tưởng của Long Thọ bồ tát đã được nghiền ngẫm, lý giải, luận bàn trong các nơi tu hành của các thiền sư trên địa bàn châu thổ sông Hồng. Ngài Long Thọ (12) tên phạn Nagarjuna là tổ thứ mười bốn trong hai mươi tám vị tổ nối truyền chánh pháp của Phật ở Ấn Độ, sanh khoảng 160 sau C.N. người Nam Ấn (Vidharba : Tì-đạt-bà). Ngài là người dòng Bà La Môn, đã từng theo Bà La Môn giáo, sau theo Phật giáo, hành đạo chú trọng nhiều về thiền định, một đặc điểm của thiền Ấn Độ. Ngài rất nổi danh về phép thần thông, về lý mật ẩn. Ngài cũng chịu nhiều ảnh hưởng tư tưởng Bát Nhã. Ngài còn để lại nhiều bộ kinh, luận trong đó có bộ Trung quán luận (Madhyâmika-çastra) mở đầu bằng bài kệ " tám không " : không sinh không diệt, không thường không đoạn, không một không khác, không đến không đi. Thiền Nam Phương chú trọng nhiều về thực hành và thiên về thần bí (Nguyễn Lang, I, 95), nặng ảnh hưởng Ấn Độ, thuộc Phật giáo đại thừa (Nguyễn Lang,I, 133). Nhưng không phải thế mà các vấn đề siêu hình, thân tâm không được bàn đến. Tuy nhiên, tinh thần bất lập văn tự, đặt trọng tâm vào việc truyền tâm ấn, có khuynh hướng nhập thế, dùng phong thủy, sấm vĩ, đã ghi dấu ấn trong không khí của đời sống tâm linh còn phảng phất lại qua tiểu sử của các thiền sư, cũng như qua các văn học còn lại.

Những bài kệ của các môn đệ, tiếp tục khơi sáng ngọn đuốc của tổ Tì-ni-đa-lưu-chi đã bàn nhiều đến chân tâm đến thực tướng của các pháp mà người hành đạo chỉ có thể nhập vào khi trí tuệ Bát Nhã được bừng sáng. Các bài kệ còn lưu lại cho chúng ta nghe được tiếng nói vừa ngắn gọn vừa hàm
súc của lời các tổ dặn dò.

Dòng thiền Quán Bích (826-1221)

Dòng thiền nầy còn được biết dưới tên của người sáng lập là thiền sư Vô Ngôn Thông hay Bất Ngữ Thông (Truyền Đăng Lục). Ngài là người Quảng Châu, vì ít nói nên được người đương thời tặng tên hiệu trên. Ít nói vì tính tình, mà còn là một thái độ hiểu đạo và hành đạo của ngài vì thiền " là một
sự tỉnh thức, sự sinh hoạt trong thế giới thực tại, chỉ có thể thể nghiệm mà không thể đàm luận và giảng giải " (Nguyễn Lang, I, 167). Ngài là đệ tử của thiền sư Bách Trượng (13) mà Bách Trượng tuy là môn đệ của dòng Nam tông, nhưng địa bàn hoằng pháp được phát triển về phương bắc, hai phái Lâm Tế và Qui Ngưỡng đã tận lực truyền bá thiền tại phương Bắc, có lẽ vì thế mà có sách đã ghi là Bắc Tông (Di tích lịch sử văn hóa Việt Nam, 371) (14). Ngài đến Bắc Việt vào năm 820 trụ tại chùa Kiến Sơ (15). Tôn chỉ của dòng thiền nầy vẫn nhằm vào đốn ngộ căn cứ trên quan niệm tâm địa, bản nguyên vạn pháp (tâm địa bản nguyên) mà khi đã khai thông được thì đoat đến giác ngộ. " Tức tâm tức Phật ", tâm là Phật, pháp là Phật, tất cả những gì từ tâm địa phát sinh đều là Phật một khi đã giác ngộ (Nguyễn Lang, I, 179). Thiền phái nầy còn nhấn mạnh đến sự tự lực để đi đến giác ngộ. Tự lực tự tiến, lấy tính không làm căn bản luận siêu hình, nhưng lúc nào cũng lập luận bằng những hình ảnh ví dụ của đời sống thực tại.

Nhưng trong suốt thời gian hoằng truyền trong nhiều thế kỷ của Phật giáo thiền tông, ảnh hưởng của Mật giáo và Tịnh độ giáo được thể hiện nhiều qua các bài kinh kệ của các thiền sư.

Tịnh độ truyền pháp môn vãng sinh tịnh độ lấy Phật thuyết vô lượng thọ kinh, Phật thuyết quán vô lượng thọ kinh, Phật thuyết A Di Đà kinh và Vãng sinh tịnh độ luận làm căn bản giáo nghĩa. Tịnh độ khởi đầu từ Trung Hoa với Tụê Viễn (334-416) đời Đông Tấn, người sáng lập hội niệm Phật tại Lư Sơn (Giang Tây). Ngài còn sáng lập hội niệm Phật đặt tên " Bạch Liên Xã " vì trong ao trước chùa Đông Lâm có trồng sen trắng. Tại Việt nam chiều hướng tu tịnh độ ít nhất đã có từ nhà Lý (chùa Diên Hựu, hay chùa Một Cột, quận Ba Đình Hà Nội, xây dựng năm 1049 đời Lý Thái Tông, cầu Phật Quan Âm gia tăng tuổi thọ cho vua ; chùa được sửa lại đời Lý Thánh Tông năm 1080 để báo ân Phật Quan Âm cho con cầu tự). Nhưng Tịnh độ chưa phát triển mạnh vào thời đại nầy, tu thiền vẫn còn vững ưu thế hàng đầu.

Mật giáo đại khái được thành lập đời Đường do Thiện Vô Úy, Kim Cương Trí và Bất Không đem từ Ấn Độ truyền sang Trung Hoa thành hệ thống riêng có tên là Mật Tông. Thiền Uyển Tập Anh không chép có vị sư nào thuộc Mật tông cả, chỉ chép là thiền sư Ma Ha tụng kinh Đại Bi Tâm chú và sư Vạn Hạnh chuyên học tập phép tổng trì tam ma địa (16) (TUTA, 182, 188), Không Lộ tu thiền, tu mật, cùng Giác Hải. Nguyễn Giác Hải ( ?- ?) và Thông Huyền chân nhân còn để lại truyền thuyết dùng pháp trị bệnh lạ cho Lý Nhân Tông. Những cột kinh ở Hoa Lư đã chứng minh sự thịnh hành của Phật phái nầy trên không gian kinh đô Việt xưa. Việc dùng pháp thuật, bùa chú, thần thông để trị bịnh, trấn an, giúp dân hay phục vụ cho một triều đại được TUTA ghi lại trong quá trình hành đạo của nhiều vị thiền sư (Đạo Hạnh, Không Lộ, Giác Hải...). Và những nét nầy cũng đã bộc lộ qua lời thơ tiếng kệ tạo ra một không khí huyền ảo, chớp nhoáng, như nửa mộng nửa tỉnh của thế giới Lão-Trang. Nhưng khi dùng sự biến thiên dời đổi để nói lên tư tưởng có-có, không-không, những vị thiền sư không gây ấn tượng tiêu cực, yếm thế mà trái lại đã tỏ ra một thái độ thanh thản điềm nhiên lâng lâng yêu đời cũa những người đã đạt được chính ngộ, trong trọn vẹn, vô thủy vô chung, vượt lên trên cái đổi dời của sắc tướng nhất thời. Yêu đời trong vô biên phật tính, trong vô tận vũ trụ cũng như trong tận cùng đáy lòng của từng cá nhân là lời dạy của Phật pháp đại thừa. Và lúc nào người hành đạo cũng phải tận dụng tâm lực của chính mình để giữ vững chân tâm bất biến, lung linh và mỏng manh, nhưng trong sáng như hạt sương mai đầu cỏ.

Với dòng thiền Thảo Đường, Mật Tông càng được rỏ nét hơn nửa. Dòng thiền nầy đã phát triển trong suốt thế kỷ XII (khoảng sau 1069-1210) từ lúc thiền sư Thảo Đường thành lập tông phái truyền thừa qua sáu thế hệ với 19 vị thiền sư, trong đó có các vì vua như Lý Thánh Tông, Lý Anh Tông, Lý Cao Tông (theo Nguyễn Lang, I, 205-209). Thảo Đường huý là Trọng hiếu người Trung Hoa, là một trong những tù nhân mà Lý Thánh Tông đã bắt được trong cuộc đi đánh Chiêm Thành năm 1069, và được đưa đi phục vụ cho một vị tăng lục tại kinh đô. Sau khi biết rỏ trình độ thâm hiểu đạo pháp của Thảo Đừơng, Lý Thánh Tông phong ngài làm thiền sư trụ trì tại chùa Khai Quốc (Hà Nội). Ngài là môn đệ của thiền sư Tuyết Đậu-Minh Giác (980-1052), người đã làm hưng thịnh lại phái Vân Môn, một trong năm tông thiền Trung Hoa. Tuyết Đậu-Minh Giác là một vị bác học và còn có tài văn học và sáng tác. Thiền Thảo Đường có nhiều tín đồ phần lớn thuộc thành phần thượng lưu trí thức vua quan cư sĩ tại gia. Dĩ nhiên là với từng lớp trí thức ấy và ở vào thời điểm nầy (17), Khổng học đã có cơ thâm nhập Phật giáo. Khuynh hướng thi ca cùng những ảnh hưởng phong phú kia đã đem đến cho đời sống tâm linh lúc bấy giờ một sự sôi động nồng nhiệt qua các thơ, kệ, vấn, đáp mà chúng ta còn được thưởng thức trong thơ văn, nhất là qua các bài còn lưu truyền của sư Không Lộ và Giác Hải. Ảnh hưởng của phái Thảo Đường đến hai thiền phái Vô Ngôn Thông và Tì-ni-đa-lưu-chi qua bộ Tuyết Đậu Ngữ Lục đã là một bước đầu đưa đến thống nhất tông phái trên đất Đại Việt. Sự ra đời của dòng thiền Trúc Lâm là một chứng minh của chiều hướng ấy.

Dòng thiền Trúc Lâm

Đặc điểm đầu là dòng thiền phát xuất từ một vị trí địa lý xa kinh đô, trên núi Yên Tử (huyện Đông Triều, Quảng Ninh). Người sáng lập là thiền sư Hiện Quang (1184-1220). Sự tương phản giửa không khí trí thức thượng lưu của thiền phái Thảo Đường và lối tu khổ hạnh tịch mịch của sư Hiện Quang nói lên được sự đa dạng và khả năng lựa lọc, cải tiến của tư tưởng Phật giáo vào đầu thế kỷ XIII qua hành trạng của các thiền sư.

Thiền sư Hiện Quang (Lê Thuần) được thiền sư Thường Chiếu thuộc phái Vô Ngôn Thông, trụ trì tại chùa Lục Tổ nhận làm môn đệ lúc mười tuổi. Nhưng nếu ngài thông hiểu tam giáo, ngài chưa kịp suy cứu yếu chỉ thiền tông thì thầy ngài đã tịch (1203). Và Hiện Quang đã lên đường tìm thầy học đạo, vào nơi yên tĩnh như núi Uyên Trừng phủ Nghệ An thụ giới. Chính ngài đã từng nói " Bồ Tát đường rộng, Phật giáo vô lường, lấy nhẫn nhục làm giáp trụ, lấy tinh tiến làm giáo mác... Ta sinh ra không ích gì cho ai, chỉ làm cho mọi người phải cung đốn... " (TUTA, 160). Cái tinh thần chuộng thanh bần, xa tục luỵ đã đưa ngài đến núi Yên Tử sống thanh đạm trong am tranh, khai sơn chùa Hoa Yên, và đã từ chối lời mời về kinh của Lý Hụê Tông. Nhưng người chính thức dựng dòng thiền Trúc Lâm được sử ghi lại là vua Trần Nhân Tông (Trần Khâm 258 - 1308), môn đệ của Tuệ Trung thượng sĩ (Trần Tung 1230-1290). Trần Nhân Tông là vị Trúc Lâm đệ nhất tổ còn được gọi là Trúc Lâm Đại Đầu Đà, tổ thứ nhì là sư Pháp Loa (Đồng Kiên Cương 1281-1330), tổ thứ ba là sư Huyền Quang (Lý Đạo Tái 1251-1334). Lịch sử truyền thừa Trúc Lâm và danh sách các vị sư tiếp nối tu tại chùa Hoa Yên (theo Thiền Uyển Kế đăng lục của hòa thượng Phúc Điền in vào khoảng 1858) cho thấy sau Huyền Quang còn đến 15 vị nữa vào đời Trần, nhưng lịch kế thừa không được minh định chính xác. Và Hiện Quang người khai sơn chùa Hoa Yên, Yên Tử lại thuộc thiền phái Vô Ngôn Thông. Như thế tư tưởng của Phật giáo Việt Nam đã gần như liên tục trong thời gian.

Sau Huyền Quang lịch sử truyền thừa không để lại đầy đủ chi tiết nữa vì khi Hồ Quí Ly đoạt ngôi (1400), hoàng gia và những người thân cận quyền thế đã vào nơi tu hành nầy để ẩn lánh, dấu danh.

Sau khi Lê Lợi lên ngôi (1428), hoàng gia cũ, vì sợ triều đình mới truy nã đã trốn tránh trong rừng núi xa xôi hẻo lánh đến tận cực nam quốc gia thời bấy giờ, thay tên đổi họ, và dấu luôn cả tông phái của mình. Tài liệu về lịch sử Trúc Lâm mờ mịt từ Huyền Quang đến thế kỷ thứ XVI. Rất nhiều vị thiền sư tuy thuộc Trúc Lâm nhưng ẩn danh dưới dòng Lâm Tế.

Trong thời kỳ Trịnh Nguyễn phân tranh, dòng Trúc Lâm bắt đằu tái hoạt động công khai trở lại bên cạnh các chúa Nguyễn, nhưng năm 1682 vì bị tình nghi có thiện cảm với các chúa Trịnh, nhiều thiền sư Trúc Lâm lại phải bỏ đi, lẩn tránh, và chúa Nguyễn Phúc Trăn (1687-1691) lại phải nhờ vào các sư người Trung Hoa dòng thiền Lâm Tế như Nguyên Thiều-Siêu Bạch về hoằng đạo. Vì thế mà ta có cảm giác là hai dòng Lâm Tế, Trúc Lâm không còn phân biệt nhau nữa.

Vào thế kỷ XIX hai trường phái nầy được gọi chung là Liên Tông. Sau vì kỵ úy (Thiệu Trị húy là Miên Tông) tên trên đổi thành Liên Phái (18). Ngày nay thiền Trúc Lâm vẫn sống với dân tộc và vẫn hoạt động tâm linh cạnh các tôn giáo khác hay các tông phái khác.

Tư tưởng và giáo lý Trúc Lâm dồi dào, đa giạng không thể nói hết được trong một bài viết nhỏ. Chỉ xin nêu ra đây một vài nét trường tồn đã dự phần vào sự đúc kết tâm hồn, tư tưởng dân tộc. Tiếp nối ý hướng dung hoà của Trần Thái Tông đã lộ rõ trong tác phẩm Khóa Hư Lục, tinh thần " hòa quan đồng trần ", thông triết lý cao siêu của Phật nhưng không tìm thú vui ở thoát ly trần thế của Tuệ Trung, Trần Nhân Tông người sáng lập ra dòng thiền Trúc Lâm, một vị vua dấn thân vào đời hoạt động tích cực đã dựng ra một nền Phật giáo nhập thế được quần chúng hâm mộ. Phật tức tâm, pháp cũng là tâm, mà pháp vốn không pháp thì tâm lại là không tâm. Mọi người đều có thể tự giác ngộ nhưng không nên cố truy tầm đối tượng như đã được nói lên trong bài kệ kết bài Cư trần lạc đạo :

Cư trần lạc đạo thả tùy duyên (Cõi trần vui đạo, hãy tùy duyên)
Cơ tắc xan hề khốn tắc miên (Đói cứ ăn no, mệt ngủ liền)
Gia trung hữu bảo hưu tầm mịch (Báu sẵn trong nhà, thôi khỏi kiếm)
Đối cảnh vô tâm mạc vấn thiên (Vô tâm trước cảnh, hỏi chi thiền)
Trần Nhân Tông
Huệ Chi dịch, TVLT, II, 510

Thiền đời Trần kế thừa các tư tưởng tôn giáo triết lý các đời trước dung hòa đốn ngộ, tiệm ngộ, thiền, tịnh, mật, dùng công án cũng như diễn giảng tỏ rõ để truyền đạo. Những lập luận trừu tượng để bàn về thân-tâm, sinh-tử, hữu-vô, đại thừa-tiểu thừa, bất vô-bất nhị, vô ngã-hữu ngã thường được diễn giảng bằng những hình ảnh đầy thơ mộng lấy từ phong cảnh, sắc hương của thiên nhiên vô tận, của nước non gấm vóc. Các nhà sư Đại Việt dù là vua hay tăng đã là những thi nhân tha thiết với đời và với người. Đọc thơ thiền là đi vào thế giới tâm linh linh động, tĩnh mịch, cao siêu là đi vào cửa Phật.

Chùa Quỳnh Lâm (19) (xã Hạ Lôi, huyện Đông Triều, Quảng Ninh) có tượng Phật lớn được xếp vào hàng một trong bốn bảo vật lớn ngày xưa (tứ đại quí), là một trung tâm quan trọng của tư tưởng Phật-Đạo-Nho đời Trần. Tương truyền sư Không Lộ (Nguyễn Minh Không ?-1119) là người đầu tiên đến đây và truyền thuyết cho là người sáng lập chùa nầy, thuộc thế hệ 9 dòng thiền Vô ngôn thông, trì được phép thiền và mật cũng là vị thiền sư được truyền thuyết gắn bó với nhiều huyền thoại, phép thần, với văn hóa dân gian. Nhưng với sư Pháp Loa tổ thứ hai Trúc Lâm, chùa Quỳnh Lâm được dựng thành quốc tự và trở thành một trung tâm quan trọng của Phật giáo với lễ hội, với tu viện, với phương pháp thuyết giảng qui động cả thân tâm, giác quan trí tuệ và nghệ thuật. Nhưng với hội thơ Trần Quang Triều, văn học tuy còn đượm màu thiền nhưng đã ra khỏi phần nào thế giới tăng sư và đã đi vào quần chúng mặc dù đây chỉ là quần chúng thượng lưu đài các quân vương (20).

Văn học có đến với đại chúng không ? Nhiều nhận xét đã viết ra của lịch sử Phật giáo cho thấy đạo Phật đã được chuộng như là một quốc giáo dưới triều Lý, đã thu hút nhiều quần chúng, đã có nhiều cơ sở trang trại chùa chiền lớn dưới hai triều Lý Trần, thì ta có thể tin là giáo lý Phật đã đến với quần chúng dù với dạng thức văn chương thượng lưu trí thức hay là văn chương bình dân.

Quách Thanh Tâm
Còn Tiếp