I. Ngài Quan-Thế-Âm Bồ-Tát

Trước khi trình bày về ý-nghĩa của Ngài Quan-Thế-Âm Bồ-Tát, tôi xin nói về từ “Quan” và “Quán.” Theo nghĩa kinh-điển nhà Phật, hai chữ này có đồng nghĩa là xem xét điều lầm-lỗi quấy bậy để trừ bỏ đi. Chính vì thế mà người ta có thể nói là “Quan-Thế-Âm” hay “Quán-Thế-Âm” cũng được.

Theo các sách Phật học, người ta thường nói: Quan-Âm Bồ-Tát có nghĩa là Đức Bồ-Tát Quan-Âm, một vị Đại Bồ-Tát trong Phật-Giáo Đại-Thừa. Bồ-Tát Quan-Âm còn được gọi là Quan Thế-Âm Bồ-Tát, Quan-Âm, Quan-Tự-Đại, Từ-Tâm Bất-Sát. Đây là những danh-hiệu của các vị Bồ-Tát thường cứu khổ chúng-sinh.

“Bồ-Tát” có nghĩa là người tu-hành gần đến bậc Phật và thuờng cứu-độ cho khắp cả mọi người. Tiếng “Bồ-Tát” là do tiếng Phạn “Bồ-Đề Tát-Đóa (Bodhi Sattva). “Bồ-Đề” có nghĩa là “chánh-giác,” “Tát-Đóa” có nghĩa là “chúng sinh.”

“Quan-Thế-Âm” có nghĩa là nghe xét các âm-thanh của các chúng-sanh trong Pháp-Giới hầu có sức thần-thông mà cứu vớt họ.

Ngài “Bồ-Tát Quan-Âm” hay “Quan-Thế-Âm Bồ-Tát” thường được người Đạo Phật ở Viễn-Đông tôn trọng ngài theo hình một bà. Người Đạo Phật ở Tây-Tạng lại tôn-trọng ngài theo hình một ông. Ngài Quan-Thế-Âm Bồ-Tát có mười một cái mặt, ngàn tay, ngàn mắt, và 108 hồng-danh (“hồng-danh” là danh-tiếng to lớn, tên tuổi oai-hùng mà mọi người đều kính-trọng. Đây là danh-hiệu của Phật đồng-nghĩa với Phật- danh hay Phật-hiệu). Ngài Quan-Thế-Aâm Bồ-Tát ngự tại đền Potala tại Lhassa ở Tây-Tạng ( Tibet ). Đã có tác-phẩm như Kinh Diệu-Pháp Liên-Hoa xưng tụng công-đức và lòng từ-bi cứu thế của ngài. Chính vì thế mà hễ ai thờ ngài, cầu nguyện, và niệm tưởng ngài thì được ngài ban phước đức, chở che, và cứu-trợ trong lúc bị tai nạn hay nguy-hiểm. Khi người nào chiêm-ngưỡng lễ bái ngài Quan-Thế-Aâm Bồ-Tát thì thế nào cũng được thỏa-nguyện.

II. Nam-Tông và Bắc-Tông

Đạo Phật Thiền-Tông và Đạo Phật trên thế giới phân chia ra hai tông: Nam-Tông và Bắc-Tông.

1. Nam-Tông

Nam-Tông có nghĩa là Tông Miền Nam hay giáo-phái miền Nam đối với Bắc-Tông.

Nam-Tông là giáo-phái do Lục-Tổ Huệ-Năng lãnh-đạo và được lan-truyền về Miền Nam nước Trung-Hoa. Nam-Tông còn được kêu là Tổ-Sư Thiền có sở-trường về phép Đốn-Giáo (Phép Đốn-Giáo có nghĩa là dạy cho thành-tựu tức-khắc, dạy cho bằng giáo-pháp vắn-tắt đại-thừa).

Nam-Tông cũng được kêu là Tiểu-Thừa lan truyền trong các xứ miền Nam như: Tích-Lan, Miến-Điện, Cao-Miên, Xiêm, và Lào (Lèo). Kinh Phật trong Nam-Tông viết bằng chữ Ba-Lỵ. Chữ “Ba-Lỵ” (Pali) là loại chữ của kinh phương Nam , nhất là miền Tích-Lan (Ceylan). Những kinh Phật Tiểu-Thừa miền Nam thì được chép và đọc bằng chữ Ba-Lỵ và tiếng Ba-Lỵ.

Nam-Tông có sở-trường dạy Phật-Tử tu học cho đắc quả La-Hán. “La-Hán” còn được gọi là “A-La-Hán” có nghĩa là bậc tu-hành đắc-đạo trong Đạo Phật vì đã xuất-gia và dứt tuyệt các phiền-não ở trong lòng. Vậy cho nên “Quả La-Hán” có nghĩa là dẹp được phiền-não; dứt sạch các lỗi-lầm; đạt tới sức mạnh huyền-vi, tư-tưởng tự-do, tâm-trí tự-tại, hiểu-biết tất-cả sự việc một cách hoàn-mỹ, làm chủ tư-tưởng của mình, và có đủ phép thần-thông.

2. Bắc-Tông

Bắc-Tông là Tông Miền-Bắc hay giáo-phái Miền Bắc do Thần-Tú Đại-Sư lãnh-đạo rất thịnh-hóa ở miền Bắc. Bắc-Tông còn được gọi là Như-Lai Thiền và sở-trường về phép Tiệm-Giáo. “Tiệm-Giáo” có nghĩa là Pháp môn dạy lần-lần, tức là chậm-rãi hay từ-từ.

Bắc-Tông cũng được kêu là Đại-Thừa và được phổ biến ở các nước miền Bắc như: Tàu, Nhật (Nhựt), Tây-Tạng, Mông-Cổ, Cao-Ly, Việt-Nam, v.v. để cho mọi nhà sư tu học theo kinh chánh bằng ngôn-ngữ cổ của nước Ấn-Độ gọi là Bắc-Phạn (Sanscrit/ Sanskrit).

Bắc-Tông chuyên dạy người tu học để đạt được Quả Bồ-Tát và Quả Phật. Quả Bồ-Tát và Quả Phật có nghĩa là sự thành-tựu của Đấng Bồ-Tát và Đức Phật. Khi người ta lo tu-hành để tự-giác giác-tha, cứu-độ chúng-sinh, truyền đạo và thuyết-pháp giúp đời, và bố-thí giúp chúng-sinh thì về sau được kết “Quả Bồ-Tát.” Nhưng người lo tu-hành về bố-thí, trì-giới, nhẫn-nhục, tinh-tấn, thiền-định, và trí-huệ thì đạt được quả cao hơn hết là “Quả Phật.”

QUÁN ÂM DIỆU PHÁP

Thích Giác Nhàn biên soạn

Một niệm Quán Âm dứt niệm sầu,
Ngân vang Bồ Tát hết khổ đau.
Tâm hồn thanh tịnh không còn vọng,
Tu niệm Quán Âm thật nhiệm màu.

NAM MÔ QUÁN THẾ ÂM BỒ TÁT.

Trong mỗi năm nhiều chùa thường làm lễ kỷ niệm Đức Đại Bi Quán Thế Âm Bồ Tát. Nhằm ba ngày âm lịch.

1-Ngày 19 – 2
2-Ngày 19 – 6
3-Ngày 19 – 9

Vậy giờ đây xin lần lược trình bày về ý nghĩa danh hiệu, sự tích, hạnh nguyện, ảnh hưởng lý do cảm ứng và lợi ích xưng niệm hồng danh của Ngài để hiểu rõ thêm về đức tánh Đại Bi và công đức thù thắng của Bồ Tát Quán Thế Âm mà chư Phật tử thường thành kính xưng niệm.

I. Ý NGHĨA DANH HIỆU

Cũng như phần nhiều danh hiệu của chư Bồ Tát khác. Danh hiệu Đại Bi Quán Thế Âm là danh hiệu của Bồ Tát hằng cứu khổ, danh hiệu này do nghiệp nhân tu hành và hạnh nguyện độ sanh mà thành tựu.

1. ĐẠI BI.

Là lòng thương cứu khổ không bờ bến, thương người như thương mình, cứu người như cứu mình một cách bình đẳng, vô tư sáng suốt không bị thời gian chi phối, không bị không gian ngăn cách, không phân biệt giống nòi, người hay vật, không phân biệt giàu sang hay nghèo hèn, không phân biệt trí tuệ hay ngu si và không phân biệt người ân hay kẻ oán.

2. QUÁN.

Nghĩa là quán sát, xem xét

3. THẾ.

Nghĩa là tiếng tăm trong thế gian

4. BỒ TÁT.

Nói cho đủ là Bồ Đế Tát đỏa tức là giác hữu tình, nghĩa là bậc hữu tình đã giác ngộ và trở lại giác ngộ các loài hữu tình khác.

Vậy Đại Bi Quán Thế Âm Bồ Tát là vị Đại Bồ Tát có lòng thương rộng lớn, thường quán sát tiếng kêu cầu đau khổ của chúng sanh trong thế gian mà thị hiện cứu độ.

Bồ Tát Quán Thế Âm không giong ruổi theo âm thanh động tịnh bên ngoài như phàm phu. Trái lại Ngài dùng trí huệ thanh tịnh quán sát cái tự tánh bên trong mà chứng được bản thể vũ trụ. Do đó Ngài chúng được “ Nhĩ căn viên thông” mà khắp trong hoàn vũ không có âm thanh nào mà ngài không nghe, không có tâm niệm nào mà Ngài không thông và không có tiếng tăm nào mà Ngài không hiểu.

Kinh “Ngũ Bách Danh” cho biết Đức Quán Thế Âm Bồ Tát có tất cả 500 danh hiệu đều là hoá thân của Ngài. Vì chứng được lục căn hỗ dụng (nghĩa là sáu căn có thể thay thế lẫn nhau, như mắt có thể nghe, tai có thể thấy và lưỡi có thể ngửi.vv)

Phổ Đà Lạc già thường nhập định,
Tuỳ duyên phó cảm mị bất châu.
Tầm thinh cứu khổ độ quần mê,
Thị tắt danh vi Quán Tự Tại

Tạm dịch.

Trên núi Phổ Đà Thường nhập định,
Tuỳ duyên ứng hiện khắp gần xa.
Tầm thinh cứu khổ độ quần mê,
Vậy nên gọi là Quán Tự Tại.

II. SỰ TÍCH

Về sự tích của Bồ Tát Quán Thế Âm thì nhiều kinh sách tường thuật tiền thân của Ngài như sau.

Nguyên Ngài là một vị Cổ Phật vì nguyện lực Đại Bi mà thị hiện làm Bồ Tát trải qua vô lượng vô số kiếp để cứu độ chúng sanh đâu thương trong biển khổ trầm luân.

Trong kinh Lăng Nghiêm chính Ngài cũng nói: “Tôi nhớ về vô số kiếp như các sông hằng về trước, có đức Phật ra đời hiệu là Quán Thế Âm Như Lai. Lúc bấy giờ tôi phát Bồ Đế tâm trước đại hội, Như Lai liền dạy tôi nên từ tam học “Văn, Tư, Tu” mà chứng nhập “chánh định” Sau cùng đức QuánThế Âm Như lai khen ngợi tôi khéo chứng được pháp môn”Viên Thông” và thụ ký cho tôi tên là Quán Thế Âm, vì tôi nghe tiếng trong mười phương được thông suốt.

Kinh “ Thiên thủ thiên nhãn vô ngại đại bi tâm” ghi rằng: “Thuở đời quá khứ, từ vô lượng kiếp nhẫn lại đay, Quán Thế Â m Bồ Tát đã thành Phật hiệu là Chánh Pháp Minh Như Lai, nhưng vì nguyện lực đại bi nên hiện thân Bồ Tát tu tập không biết bao nhiêu pháp môn Đà La Ni để tiêu tai giải ách và tăng trưởng phúc huệ cho chúng sanh. Lúc đức Thiên Quang Vương Tịnh Trụ Như Lai ra đời có thuyết chú Đại Bi, Đức Quán Thế Âm nhờ nghe thần chú mà đương ở bậc sơ địa Bồ Tát, vượt chứng lên Bát địa Bồ Tát, thân tâm hoan hỷ,phát nguyện rộng lớn thọ trì thần chú, độ thoát chúng sanh, nhơn từ đó tự thân sanh ra ngàn tay ngàn mắt. Vì thế chú Đại Bi mà chúng ta hằng ngày trì tụng có tên là “Thiên Thủ Thiên Nhãn Quán Thế Âm Bồ Tát Quảng Đại Viên Mãn Vô Ngại Đại Bi Tâm Đà La Ni”

Kinh Bi Hoa thuật rằng: Hằng hà sa số kiếp về trước. Ngài là Thái Tử Bất Thuấn ( có nơi nói là Bất Huyến) con Vua Vô Tránh Niệm. Thời ấy có Đức Bảo Tạng Như Lai tại thế, vua và Thái Tử nghe Phật thuyết pháp am hiểu giáo lý cao siêu hoan hỷ phát nguyện tu hành. Sau vua Vô Tránh Niệm thành Phật A Di Đà và Thái Tử Thành Bồ Tát Quán Thế Âm ở cõi Cực Lạc.

Theo kinh Quán Thế Âm Bồ Tát thụ ký, thì vô lượng kiếp sau khi Phật A Di Đà nhập diệt, cõi Cực Lạc sẽ đổi tên là “Nhất Thiết Chân Bửu Sở Thành Tựu” càng thêm tốt đẹp hơn trước. Và Quán Thế Âm Bồ Tát sẽ thành Phật hiệu là “Biết Xuất Thế Quang Minh Công Đức Sơn Vương Như Lai”

Lại nữa, trong kinh Quán Âm tam muội Đức Phật Thích Ca Mâu Ni dạy rằng: Bồ Tát Quán Thế Âm là một vị Cổ Phật và xưa kia chính Đức Thế Tôn đã từng làm đệ tử của vị Cổ Phật ấy.

Vài đoạn lịch sử trên chi là một phần nhỏ trong kinh sách. Ngoài ra còn nhiều truyền thuyết đã nói về sự tích của Ngài được chuyền bá phổ cập trong nhân gian, như truyện:

Quán Âm Thị Kính
Quán Âm Diệu Thiện. vv.



III- HẠNH NGUYỆN

Đức Quán Thế Âm Bồ Tát là một vị Phật bổ xứ. Ngài se thay thế đức Phật A Di Đà ở thế giới Cực Lạc. Cũng như Bồ Tát Di Lặc sẽ thay thế Đức Phật Thích Ca giáo hoá chúng sanh trong cõi Ta Bà về tương lai.

Bồ Tát Quán Thế Âm tượng trưnh cho đức tánh Đại Bi , cũng như:

* Bồ Tát Di Lặc tượng trưng cho đức tánh Đại Từ.

* Bồ Tát Văn Thù tượng trưng cho đức tánh Đại Trí,

* Bồ Tát Phổ Hiền tượng trưng cho đức tánh Đại Hạnh,

* Bồ Tát Thế Chí tượng trương cho đức tánh Đại Hùng.

Tất cả hạnh nguyện của Đức Quán Thế Âm đều xuất phát ở lòng Đại Bi là một thể có hai dụng:

1-Độ thoát chúng sanh khổ não

2-Phát sanh trí giác Bồ Đề.

Ngài là một pháp thân đại sĩ đã nhập thể Đại Bi, Ngài là hiện thân của Đại Bi, Ngài là vị Đại Bi giáo chủ, phát nguyên rộng lớn phước tướng trang nghiêm như bốn câu kệ sau đã tán duơng.

Khể thủ Quán Âm Đại Bi chú
Nguyện lực hồng thâm tướng hoả thâm
Thiên tý trang nghiêm phổ hộ trì
Thiên nhãn Quang Minh biến quán chiếu

Tạm dịch:

Kính lạy Đức Đại Bi Quán Âm
Nguyện lực hồng thâm tướng hảo thân
Ngàn tay trang nghiêm khắp hộ trì
Ngàn mắt sáng ngời khắp soi xét

Do nhân tu pháp “Nhĩ Căn Viên thông” Đức Quán Thế Âm nhập thể Chân Như chứng được chân tâm thanh tịnh sáng suốt viên mãn khắp mười phương thế giới, nên được hai món công đức thù thắng:

1. Trên hiệp với đức từ độ sanh của chư Phật,

2. Dưới hiệp với lòng bi ngưỡng mộ của chúng sanh trong sáu đường

Nhờ chứng được đồng thể với chư phật, Ngài hiện ra 32 ứng hoá thân để tuỳ thuận theo chúng sanh mà hoá độ.

Nhờ chứng được đồng thể với chứng sanh, mà Ngài ban cho muôn loài 14 món vô uý (tức là 14 món không sợ hãi).

Ngoài ra đứcQuán Thế Âm Bồ Tát còn được 4 món bất tư nghì vô tát diệu lực (tức là bốn đức màu vô tát diệu lực không thể nghĩ bàn)

1- Hiện nhiều đầu, nhiều tay và nhiều mắt để cứu độ chúng sanh, khiến cho đặng tự tại.

2- Hiện hình nói thần chú để bố thí không sợ.

3- Khiến chúng sanh bỏ tâm tham lam mà bố thí cúng dường

4- Khiến chúng sanh cầu chi được nấy(vợ con, trường thọ, chánh định, Niết Bàn).

Nguyên Ngài là một vị Cổ Phật hiệu Chánh Pháp Minh Như Lai, nhưng vì thương sót chúng sanh chìm đấm trong bể khổ, nên Ngài dùng phương tiện hiện thân thành Bồ Tát, thệ nguyện rộng lớn độ tận chúng sanh khắp mười phương thế giới, từ địa ngục lên cung trời, từ Ta Bà sang Cực lạc, từ Cực Lạc sang thế giới Tịnh Lưu Ly. Đâu đâu cũng có hoá thân của Ngài dưới mọi hình tướng cứu độ muôn loài.

Phổ môn thị hiện khắp,
Cứu khổ tầm thinh độ thế gian.
Một niệm từ bi năng thuyết pháp,
Vớt người thoát khỏi chốn mê tân.
Tuỳ cơ cảm ứng thân hình hoá,
Tứ hải chúng sanh đặng độ an.
Ách nạn khổ nguy thường cứu giải,
Đời đời chẳn vướng tám tai nàn.

Hình tượng của Ngài thường thờ hoá thân phụ nữ. Biểu hiện lòng từ bi quảng đại của Ngài đối với chúng sanh mẹ hiền thương con vậy. Khi thấy Ngài một tay cầm nhành dương liễu, một tay bưng bình cam lồ, đó là hình ảnh tượng trưng Bồ Tát luôn luôn tế độ quần sanh rẩy nước cam lồ dặp tắt lửa hiền não, đem lại an lạc cho muôn loài.

Pháp Bồ Tát cao siêu huyền diệu
Quán Thế Âm diệu lực hoá thân
Nhành dương quét sạch phược trần
Tịnh bình cam lộ giải tan não phiền.

Khi chiêm ngưỡng hình ảnh đức Quán Thế Âm Bồ Tát ngồi nhập định nơi pháp toà tại rừng trúc núi Phổ Đà, hình ảnh ấy cho biết rằng tuy tuỳ duyên thuyết pháp để hoá độ chúng sanh nhưng Ngài vẫn không rời Pháp toà chánh định.

Lại có thấy Bồ Tát đi trên hoa sen giữa biển cả ba đào, hình tượng ấy biểu hiện biển đời đau khổ đầy sống gió, nhưng Ngài vẫn tự tại luôn luôn và hoan hỷ cứu vớt muôn loài, không bao giờ từ bỏ một chúng sanh nào trong hiểm nghèo.

Trí tuệ rộng sâu đại biện tài
Ngự toà sen báu tuyệt trần ai
Hào quang chiếu phá muôn ngàn bệnh
Cam lồ tiêu trừ vạn kiếp tai

Bi tâm của Ngài rộng lớn vô cùng, phương tiện của Ngài thiện sảo vô tận. Đức Phật Thích Ca Mâu Ni không ngớt tán thán hạnh nguyện của Bồ Tát Quán Thế Âm trong phẩm phổ môn của Kinh Diệu Pháp Liên Hoa một bộ kinh đại thừa cao siêu bật nhất nói về Nhất thừa thật tướng lý nghĩa nhiệm màu, khai quyền hiển thật, thể dụng viên dung, tánh tướng dung nhiếp.

IV- ẢNH HƯỞNG.

Hạnh nguyện của Bồ Tát Quán Thế Âm cao cả vô cùng, bi tâm của đấng từ mẫu cứu khổ rộng lớn vô tận, cho nên hầu hết các nước Phật Giáo điều tôn thờ hình tượng tranh ảnh của Ngài và tán dương công đức thù tắng của Ngài.

Riêng tại Việt Nam, một nước mà tư tưỏng đã thắm nhuần Phật giáo trên 2000 năm nay, triết lý nhà Phật đã in sâu vào trí não, đã ăn đậm vào tâm hồn tổ tiên chúng ta qua biết bao nhiêu thế hệ cho nên ngày nay, mặt dầu sanh vào thời mạt pháp nhưng chúng ta cũng gặp được chánh pháp đó là một phần lớn nhờ hồng ân Tam Bảo, nhưng cũng một phần nào thừa hưởng quí bấu của tổ tiên trong huyết quản.

Thâ1m nhuần tư tưởng nhà Phật tức thấm nhuần tư tưỏng từ bi mà Bồ Tát Quán Thế Âm, là tượng trưng hùng hồn cho đức tánh cao đẹp ấy.

Chúng ta chiêm ngưõng hình tượng của Ngài thì cảm thấy

1.Bầu không khí ấm áp an lành

2.Ánh sáng Đại Bi toả chiếu khắp thân hình

3.Tâm hồn hiền lành êm dịu, lòng càng thương người mến vật.

4.Niềm an ủi vỗ về như trẻ thơ bên cạnh mẹ hiền

5.Tánh tình bạo dạn hơn, lòng trở nên vững chắc thêm, không sợ tà ma ác quỷ, không sợ tai nạn nguy biến.

6.Ý chí cương quyết, tinh tấn tu niệm, lòng càng tin tưởng vào Phật pháp màu nhiệm đem lại an lạc cho muôn loài.

Ngoài ra ảnh hưởng của Quán Thế Âm Bồ Tát không phải là ít.

Nhìn qua nền văn hoá dân tộc Việt Nam không biết bao nhiêu truyện tích, thi ca, nhạc kịch, phim ảnh, hội hoạ.vv… đều nhất tề ca ngợi hạnh nguyện hồng thâm và tán dương oai lực thần thông quảng đại của Ngài.

Các tác phẩm ấy tuy không diễn đạt hoàn toàn đầy đủ tinh thần đại bi nhưng cũng biểu lộ một phần nào lòng ngưỡng mộ đức mẹ hiền cứu khổ.

V. LÝ DO CẢM ỨNG.

Tại sao có lòng ngưỡng mộ đặt biệt như thế? Chẳng qua ngoài uy đức lẫy lừng của Quán Thế Âm Bồ Tát và lý do cảm ứng hiển nhiên không thể trối cải được.

Bi tâm của Bồ Tát luôn luôn hưởng ứng với khổ tâm của chúng sanh đang kêu cầu, vì có cảm tất có ứng theo luật”đồng thanh tương ứng, đồng khí tương cầu” nghĩa là những vật cùng một thứ tiếng thì ứng nhau (cũng như một con gà gáy thì cả bày gà đều gáy theo) những vật cùng một khí thì tìm nhau ( như nam châm hút sắt.vv.)

Vậy mỗi khi chúng sanh lâm nạn mà niệm danh hiệu của Ngài cầu cứu thì Bồ Tát liền hiện thân cứu độ.

Sự hiện thân của Ngài chỉ là một công dụng của Đại Bi.

Vậy cho nên khi người nào chuyên tâm niệm danh hiệu của Ngài tức là người ấy đã chuyên chú niệm đức tánh từ bi của họ. Đồng thời tin tưởng của họ cũng đã nhập vào đức tánh từ bi của Ngài giao cảm với đức tánh từ bi của người ấy.

Ví như hai luồng ánh sáng tương tiếp giao hoà với nhau thì ánh sáng toả khắp rộng ra giữa không gian.

Nói cách khác khi tâm tánh của chúng ta đã thanh tịnh một phút nào đó tức thì lúc đó chúng ta cảm nhận được ánh sáng từ quang của Ngài chiếu vào tâm tánh của chúng ta vậy. Như biển lặng sống ngừng thì in rõ nền trời xanh vào lòng biển cả, nước hồ thu trong thì ánh trăng thanh chiếu rọi vào.

Trăng kia vẫn bình yên và thản nhiên chiếu, nhưng nước đục thì không thấy trăng, chứ không phải trăng không soi đến hồ nước đục. Trời xanh vẫn hiển hiện vào lòng biển cả, nhưng biển cả sống dồi thì sao thấy được trời xanh quang đãng ấy.

Lòng từ bi Ngài không bỏ một ai, nhưng vì ai đó sống lòng còn giao động, tâm tánh còn thiên tà không tin tưởng Tam Bảo, không xưng niệm đấng từ bi, Người ấy không thấy đức từ bi, không thoát được khổ luỵ, bị tham, sân, si, mạn, nghi, ác kiến nhận chìm xuống biển khổ.

Để làm sáng tỏ thêm lý do cảm ứng xin dẫn ra một thí dụ nữa. Những làn sóng trên không gian thường chuyển đưa tin tức do các đài phát thanh phát ra giữa vũ trụ, những ai có máy thu thanh tốt và đài phát thanh mạnh thì bất cứ ở đâu cũng nhận được tin tức. Máy thu thanh là nhân, đài phát thanh là duyên, đầy đủ nhân duyên thì tin tức phát hiện.

Ở đây lòng khẩn xưng niệm danh hiệu Quán Thế Âm Bồ Tát là nhân, Bi nguyện độ sanh của Ngài là duyên. Nhân duyên gặp gỡ tức thì cảm ứng đạo giao khó nghĩ bàn, hoặc mộng thấy Ngài hiện thân chỉ bảo, hoặc thấy hào quang Ngài chiếu sáng, hoặc thấy các điềm lành khác như chuyển hoạ thành phước, tật bệnh tiêu trừ, tai nạn qua khỏi.vv… Chỉ có người chí tâm thành kính, xưng niệm danh hiệu mới cảm thấy rõ sự cảm ứng ấy, cũng như chỉ những máy thu thanh tốt mới bắt được tin tức rõ ràng. Hơn nữa người nào thường làm việc phước thiện không tham lam mà bố thí, không giận giữ mà nhẫn nhục, không ghen ghét mà tuỳ hỷ, không hẹp hoài mà bao dung hay thương sót kẻ đau khổ, cứu giáp kẻ lâm nạn người đó là hình ảnh của từ bi, của Bồ Tát, của Phật Đà, người đó thường hưởng được phước lạc và cầu nguyện gì cũng được mãn nguyện. Trái lại người nào tư tưởng tà vậy, ngôn ngữ bất chánh, cử chỉ hung tợn, có tật chấp nê, có tánh đố kỵ, hay nghét kẻ hơn mình, thường khinh rẻ kẻ bần cùng, hất hủi kẻ tàn tật, người đó là hình ảnh của tàn bạo của Dạ Xoa, của La Sát, người ấy thường chịu quả báo đau khổ, và lúc lâm nạn không gặp ai cứu vớt.

Vậy muốn thoát khổ được vui thiết tưởng đừng gây nghiệp ác, mà tạo nghiệp lành, phải bỏ lối sống vị kỷ, nếp sống hẹp hòi, nẻo sống thiển cận mà tập sống vị tha, sống rộng, sống sâu, sống với bác ái, sống với từ bi và sống theo gương đức Quán Thế Âm Bồ Tát.

VI- LỢI ÍCH XƯNG NIỆM.

Bồ Tát Quán Thế Âm xưa kia là một vị Cổ Phật đã tu vô lượng kiếp để tế độ quần sanh. Vì muốn cứu vớt muôn loài trằm luân trong biển khổ, Ngài không ngại hoà quang đồng trần, hạ mình torng tam đồ lục đạo.

Ngài hoan hỷ thị hiện Bồ Tát thực hành đại nguyện, đại bi tầm thanh cứu khổ, độ thoát chúng sanh khắp trong hoàn vũ, nơi nào có người đau khổ, nơi đó có Ngài hiện thân cứu độ. Ai thành tâm xưng niệm danh hiệu Quán Thế Âm Bồ Tát thì.

1- Thoát khỏi tam tai bát nạn.

2- Xa lìa tam độc (tham, sân, si)

3- Các điều nguyện cầu điều được mãn nguyện.

Xưng niệm danh hiệu của Ngài là un đúc hạt giống từ vào tâm địa chúng ta và cũng là một phương pháp khai thát những năng lực tìm tàng trong thân tâm của chúng ta ra cứu khổ trừ mê, diệt tai nạn và ban vui cho muôn loài. Nghĩa là giờ phút nào hướng về từ bi, tức là giờ phúc ấy dẹp tan ma quân tàn ác làm hại chúng ta. Nên trọn đời cứ nhất tâm cuơng quyết xưng niệm danh hiệu”Nam Mô QuánThế Âm Bồ Tát” thì trọn đời diệt sạch đau khổ sẽ được an vui hoàn toàn.

Vì vậy xưng niệm danh hiệu Ngài có nhiều lơiï ích thực tế. Cũng như hạt giống từ bi một khi đã được gieo và tâm địa, danh hiệu của Ngài đã lọt vào tai thì kiếp kiếp nó thành giống Bồ đề, hiện tại nó là một năng lực tiêu trừ nghiệp chướng phúc đức càng cao như thuỷ triều dâng lên vô tận, tội lỗi tiêu trừ như sương mai tan rã dưới ánh bình minh.

Phẩm Phổ Môn dạy rằng: “Người thọ trì danh hiệu Quán Thế Âm Bồ Tát cho đến lễ bái cúng dường Ngài một thời được phúc đức bằng kẻ thọ trì danh hiệu 62 ức hằng hà sa Bồ Tát và trọn đời cúng dường các thức ăn uống, áo quần, gường ghế, thuốc thang, phước đức ấy trãi qua trăm ngàn vạn ức kiếp không bao giờ cùng tận.

Vì thọ trì danh hiệu Ngài được vô lượng vô biên phước đức lợi ích như trên, nên đức Phật Thích Ca khuyên chúng ta thường xuyên niệm danh hiệu “ Nam Mô Quán Thế Âm Bồ Tát”, xưng niệm danh hiệu Ngài tức tưởng nhớ đức tánh từ bi, hỷ cả, vô ngã, vị tha, tán dương hạnh nguyện cứu khổ và thần phúc oai linh thâm diệu của đức Quán Thế Âm Bồ tát.

Công đức của Ngài vô lượng, thần thông của Ngài vô cùng, trí tuệ của Ngài vô biên, thì công đức phước báu của người xưng niệm danh hiệu Ngài cũng vô tận.

Hơn nữa, Khi xưng niệm danh hiệu của Bồ Tát Quán Thế Âm có được 10 điều lợi ích như sau.

1.Ngày đêm thường được các vị đại lực thần tướng của các cõi trời ẩn mình ủng hộ

2.Thường được Đức Quán Thế Âm Bồ Tát và các vị Bồ Tát khác hộ trì.

3. Đức Quán Thế Âm Bồ Tát thưòng phóng ánh quang minh mà nhiếp thọ người niệm danh hiệu Ngài.

4. Hết thẩy các loài ác quỉ, rắn độc, thuốc độc, không thể hại đuợc người nhất tâm xưng niệm danh hiệu Ngài.

5. Không mắc phải các nạn nước, lửa, đao, binh, hoạch tử, lao ngục.

6. Những tôi lỗi đã làm từ trước được tiêu trừ.

7. Đêm nằm chiêm bao không thấy các điều dữ, thường thấy Phật và Bồ Tát, hào quang hoa sen.

8.Tâm thường được vui mừng và làm việt gì cũng đuợc kiết lợi.

9.Thường được mọi người thương mến và cung kính cúng dường.

10. Lúc gần thác lòng không sợ hãi, chánh niệm hiện tiền, tự mình thấy phật và Bồ Tát phóng quang tiếp dẫn vãng sanh Tây Phương Cực Lạc.

VII- KẾT LUẬN

Qua những sơ lược trình bày ở đoạn trên người Phật tử phải làm gì để ghi ơn đức Quán Thế Âm Bồ Tát.

Ngoài việc dâng hương hoa ngào ngạt lẫn với hương lòng thành kính, tụng kinh phẩm phổ môn, trì chú đại bi và nhất là thành khẩn niệm danh hiệu “ Nam Mô Quán Thế Âm Bồ Tát” để ôn lại ý nghĩa hồng danh lừng lẫy, sự tích vẻ vang và hạnh nguyện cao đẹp của “Đại Sĩ Thí Vô Uý” đồng thời biểu lộ lòng tri ân vô tận đối với đấng từ mẫu cứu khổ.

Sự biết ơn ấy sẽ giúp chúng ta noi gương theo Ngài để phát lòng Đại Bi, gieo rắc tình thương khắp trong quần sanh. Sự biết ơn ấy sẽ đưa chúng ta đến gần Ngài hơn, hầu mong được Bồ Tát từ bi gia hộ cho chúng ta trên bước đường tu tập đầy trong gai chướng ngại. Sự biết ơn ấy là chìa khoá mở rộng tâm hồn giúp chúng ta khai thác những công năng trong thân tâm đem ra ứng dụng để cứu độ nhân thế.

Vậy hãy nên thành tâm khẩn cầu Ngài rưới nước cam lộ, rửa sạch mọi oán thù, chiếu hào quang rọi sáng mọi tâm hồn, ngõ hầu đưa thế giới đến hoà bình, chúng sanh đế an lạc

Quán Âm Đại Sĩ, phổ hiệu viên thông.
Thập nhị đại nguyện thệ hoàng thâm.
Khổ hải phiếm từ phong
Phổ tế tâm dung, sát sát hiện vô cùng.

Tạm dịch:

Kính lạy Đại Sĩ Quán Thế Âm
Viên thông lừng lẫy, tiếng tăm xa gần
Mười hai nguyện lớn vô ngần
Mênh mông biển khổ thổi cơn gió lành
Một lòng độ khắp quần sanh
Nơi nơi ứng hiện cảm linh khôn cùng..!

Quan Thế Âm Bồ Tát

HT Thích Trí Quảng

Quán Thế Âm Bồ Tát, một vị Đại sĩ vạn năng, thân thương của loài người ở Ta Bà mà bất cứ đệ tử nào của đức Phật cũng đều hướng tâm kính lễ, cầu nguyện Ngài, tại sao Bồ Tát Quan Âm đạt được quả đức như vậy?

Đức Phật nhắc đến công đức của Quan Âm rất nhiều, nhưng có thể nói ba bộ Kinh: Bát Nhã, Đại Bi và Pháp Hoa gồm đủ nhân, hạnh, quả, đức của Quan Âm. Kinh Bát Nhã nói về nhân địa tu hành, Kinh Đại Bi nói về sự cứu độ và Kinh Pháp Hoa chỉ rõ năng lực bất tư nghì của Ngài.

Từ thuở nhỏ, tôi có niềm tin mãnh liệt với Bồ Tát Quan Âm. Khi xuất gia được phước duyên hậu cần cố HòaThượng Thiện Hoa. Tôi thấy sáng nào Ngài cũng tụng Đại Bi, Phổ Môn và kết thúc Bát Nhã.

Hòa Thượng dạy tôi rằng tụng như vậy nhằm tin nhân hạnh của Quan Âm, để lập hạnh tu nhân theo Ngài. Nhờ lời dạy đó, tôi suy nghĩ và thực hành pháp tu giống vậy, và đạt được nhiều kết quả mầu nhiệm, không thể nghĩ bàn.

Nhưng nếu tu sai chúng ta chỉ cung kính, van xin, nhưng tâm niệm, hành động ác độc, chắc chắn không được Ngài che chở, còn chuốc lấy quả báo cũng không lường được. Tu nhân giống Quan Âm, có hạnh đồng với Ngài, dù không cầu, Ngài cũng gia bị. Điều này dễ hiểu, như thực tế. Tôi tu Pháp Hoa,người nào phát tâm tu Pháp Hoa, có tâm nguyện, ý chí hành đạo như tôi, tôi sẵn lòng giúp đỡ ngay, không đợi họ cầu xin.

Nhân địa tu hành của Quan Thế Âm thể hiện rõ nét qua kinh Bát Nhã, thu gọn lại là Bát Nhã tâm kinh. Kinh dạy rằng: Bồ Tát Quan Âm quán chiếu ngũ uẩn giai không, tức phá ý thức chấp hữu của ngũ uẩn, không cố chấp, nhưng tùy duyên hóa độ, không phải phá bỏ tất cả. Có người tu thường ưa lý luận ngũ uẩn giai không, đến khi có vấn đề là họ sân si không ai bằng. "Không" của họ chỉ là không trên đầu môi chót lưỡi, tâm còn đầy rẫy phiền não. Tu như vậy Quan Âm không cứu được. Quan Âm chỉ đến với ta tong lúc vô tâm, thí dụ như khi tâm của Đường Huyền Trang hoàn toàn lắng yên, đồng với đức Quan Âm, thì Ngài xuất hiện, trao cho tích trượng và y Như Lai, để vững tiến và thoát được tai ách trên đường thỉnh kinh. Vô tâm mới được Phật, Bồ Tát giúp đỡ, còn tham cầu chỉ tương ứng với ma quỷ, bị chúng nhiếp trì, lạc vào đường tà, tội lỗi.

Từ quán chiếu ngũ uẩn giai không, độ nhất thiết khổ ách, đó là khởi đầu và cũng là chung cuộc của Bát Nhã, thấy ngũ uẩn không, rời chấp trước, tâm lắng yên, trí tuệ phát sanh là Bát Nhã. Như vậy, Quan Âm khởi tu Tâm kinh và chứng Bát Nhã đó là nhân hạnh của Ngài. Ngày nay, chúng ta muốn tu nhân hạnh của Quan Âm, tất yếu phải thực hiện pháp đó trước tiên. Chúng ta dùng vô số phương tiện như tụng kinh, lễ sám, niệm Phật, trì chú, nghe pháp, tham thiền... để trụ tâm. Tâm đứng yên thì huệ phát sanh, dùng trí tuệ ấy quán sát trần thế, thấy rõ khổ vui của từng người, thấy được ngũ uẩn luôn biến động, không thực.

Từ đó, dưới mắt người tu, cuộc đời không khác gì cái sân khấu lớn, ta là diễn viên đang đóng từng vai khác nhau trong mỗi kiếp, nhưng chơn tâm vẫn một màu thanh tịnh. Đạt đến đỉnh cao ấy, chứng đắc đại Bát Nhã, thấy được con người thực từ chân lý xuất hiện trên cuộc đời và từ cuộc đời trở về Tịch Quang chơn cảnh. Đó là dấu vết đi về của Bồ Tát Quan Âm, chúng ta lần theo đó sẽ gặp Ngài, nói khác, chúng ta nhập đạo qua cửa Bát Nhã, tâm định tĩnh, trí tuệ phát sanh. Tùy theo trí tuệ lớn hay nhỏ, mà từng bước, ta thấy được Quan Âm khác nhau, không đạt được kết quả này, công phu tu tập chỉ là dã tràng xe cát.

Từ Bát Nhã Tâm kinh, chúng ta tiến tu, gặp Bồ Tát Quan Âm tỏa sáng tâm đại bi.Ngài có lòng thương người bao la, nhất là người đau khổ, hoạn nạn, hễ khóc than, kêu cứu là Ngài đến liền, nghĩa là tấm chân tình của chúng ta đạt đến cao độ, truyền đến tâm từ của Ngài. Bồ Tát nhận được tín hiệu khổ đau ấy, tức khắc xuất hiện giúp đỡ, từ đó, chúng ta có thêm hạnh đức của Quan Âm trong kinh Đại Bi. Lẽ sống của Bồ Tát Quan Âm được kết hợp bằng trí tuệ và từ bi. Mà không có mãnh đất nào tốt để Ngài gieo trồng hạnh đức bi trí cho bằng cõi Ta bà, nơi phức tạp nhất, phiền lu?hất, khổ đau nhất, với đầy đủ loại hình chúng sanh, chúng sanh nghiệp, chúng sanh phiền não. Trên tinh thần ấy, một trong 12 lời nguyện của Quan Âm là trụ Ta Bà u minh giới, tầm thinh cứu khổ nguyện. Vì tâm đại bi, Quan Âm đến Ta Bà, tìm người khổ đau cứu vớt và ta cũng cứu người, nên đồng hạnh với Ngài, chúng ta sẽ gặp Ngài ngay. Ta cứu người, Quan Âm cứu ta.

Khi hạnh nguyện phần nào giống Quan Âm, chúng ta được sống gần Ngài, đồng hành với Ngài, chúng ta quan sát xem Ngài làm gì để tập làm theo. Năng lực bất tư nghì của Quan Âm. được Phật dạy rõ trong phẩm Phổ Môn, kinh Pháp Hoa.

Trọn Phổ Môn thị hiện, nổi bật tinh thần vị tha vô ngã của Bồ Tát Quan Âm. Nơi nào cần cứu, Ngài xuất hiện giúp đỡ, không vì quyền lợi riêng, nhưng vì quyền lợi số đông. Học hạnh Phổ Môn của Quan Âm chúng ta chỉ đến đáp ứng yêu cầu cho người không đến nhờ vả.

Trên tinh thần vô ngã, Bồ Tát Quan Âm thị hiện tùy lúc tùy chỗ, tùy yêu cầu dưới nhiều dạng hình khác nhau, thiên xứ hữu cầu thiên xứ ứng, kinh ghi là 33 ứng hiện thân. Về điểm này, nhiều người thường lầm tưởng rằng Quan Âm từ trong hư không hiện ra ở một chỗ nào đó để cứu chúng ta và rủ nhau đến đó cầu nguyện, cúng dường. Điều đó không đúng với chánh pháp. Chúng ta không cần tìm chỗ có Quan Âm hiện, vì chúng ta biết rõ Ngài hiện được tất cả mọi nơi. Tuy nhiên, người có niềm tin, lòng thành, mới thấy Ngài. Giáo sư Suzuki cụ thể hóa bằng ví dụ đài truyền hình tải âm thanh và hình ảnh khắp nơi, nhưng chỗ nào có máy tivi, mới bắt được hình ảnh, âm thanh, và nhiều khi máy còn bị nhiễu sóng, phải có antenne, hình mới rõ.

Niềm tin, lòng thành ví như máy truyền hình là điều kiện để Quan Âm hiện. Chúng ta thấy rõ Ngài hay không, còn tuỳ ở sự chi phối của nghiệp lực, ví như máy bị nhiểu sóng nhiều, ít. Vì vậy, có người thấy Phật, Bồ Tát lờ mờ hay có lúc thấy, lúc không. Trên bước đường tu, hạn chế nhiễu sóng, tức hạn chế nghiệp của chúng ta, tâm lắng yên, phiền não ít, mới có thể diện kiến Phật, Bồ Tát . Người nhiều tham vọng, lắm phiền muộn, khó bước vào thế giới thánh thiện. Hạn chế tính toán phiền não, để tâm hồn thanh thản và thân thể khoẻ mạnh, cầu nguyện nhất định kết quả. Khi cơ thể khoẻ âm hồn trong sáng, giống như máy tốt, có thể tiếp nhận lực Quan Âm. Lực Ngài truyền vô thân người nào , người đó biến thành Quan Âm.

Nếu là người nữ có tánh hiền hậu, hay giúp đỡ kẻ hoạn nạn, người đó được coi là hiện thân của Quan Âm. Trên thực tế có Ỷ Lan thứ phi hết lòng chăm sóc, thương yêu dân nên được dân Việt Nam tôn sùng là Phật Bà Quan Âm. Nếu người đó là vị tu hành, có tình thương rộng lớn, che chở giáo dưỡng người như cố HòaThượng Khánh Hòa, Hòa Thượng Trí Thủ... người ta nghĩ các vị này là Bồ Tát Quan Âm hiện thân Tỳ kheo. Nói chung, năng lực bất tư nghì của Bồ Tát Quan Âm được cụ thể hóa thành 32 ứng hiện thân (cộng thêm một thân chính của Ngài là 33), từ hiện thân Phật cho đến thân bình thường nhất trên cuộc đời, như thân trẻ con. Một ông Vua nhân từ, một thầy thuốc cứu người, một bà phi giỏi, dịu hiền, một nông dân chất phác, một ông quan thanh liêm, một dũng sĩ can thiệp những chuyện bất công, một anh công nhân hiền lành tốt bụng, một người giàu có hay làm việc nghĩa... đều là Quan Âm. Tất cả nhữn hình ảnh tốt lành, đạo đức, tài giỏi đều gợi cho người nghĩ đến hạnh Quan Âm. Ta không tìm Ngài trong hư không, nhưng tìm trong hạnh của những người tu.

Người có tâm niệm từ bi, việc làm giúp đời như Quan Âm thì Quan Âm hiện hữu nơi họ. Hội đủ điều kiện để tiếp nhận gia trì lực của Ngài không đơn giản và giữ cho lực Quan Âm tồn tại trong ta lâu dài lạ càng khó hơn. Vì vậy, đánh mất lực gia bị của Quan Âm thì lại rất dễ, chỉ một niệm tâm vọng tưởng điên đảo khởi lên, tất cả những gì siêu tuyệt của ta tức thì tan thành mây khói, chẳng khác gì cúp điện, hình chẳng thể có được.

Tóm lại, kỹ niệm ngày vía Bồ Tát Quan Âm, chúng ta cung kính đảnh lễ Ngài, lưu giữ hình ảnh thánh thiện Ngài trong tâm ta, thể hiện thành lời nói vui đẹp lòng người và việc làm mang an lạc, giải thoát cho người.

(TịnhNgọc) SỰ TÍCH QUAN THẾ ÂM


Hôm nay tôi cống hiến quí độc giả tìm hiểu về sự tích, lịch sử Bồ Tát Quan Thế Âm mà mọi người dân Việt, nhất là trong giới Phật tử thường mỗi khi gặp nạn thì hay niệm danh hiệu của ngài "Quan Thê Âm Bồ Tát cứu khổ cứu nạn", nhưng thực tế ít ai hiểu rõ về chân lý, sự tích, xuất xứ từ đâu, nguồn gốc của Quan Thế Âm như thế nào. Do đó, tôi mới cố gắng đi sưu tầm, tham khảo các kinh sách để cụ thể hoá ra bài này hầu góp phần trong nền văn hoá Phật Giáo và phổ biến đến quí độc giả bốn phương am tường. (Nếu có gì thiếu sót, kính xin quí chư Tăng, Ni cao minh, quí thiện trí thức niệm tình thứ lỗi và xin cung cấp thêm tư liệu cho được phong phú hơn).

*******

Quan Thế Âm tiếng Phạn là “Avalokitesvara” dịch sang tiếng Hán là Quan Thế Âm hay Quán Tự Tại …Danh hiệu Quan Thế Âm, nghĩa là quan sát tiếng kêu than của chúng sanh trong thế gian để độ cho họ thoát khổ. Theo Kinh Bi Hoa thì ở vào đời quá khứ có đức Phật ra đời hiệu là Bảo Tạng Như Lai. thời đó có vua Chuyển Luân Thanh Vương là Vô Chánh Niệm. Vua có quan đại thần là Bảo Hải, phụ thân của đức Bảo Tạng khi chưa xuất gia đối trước Đức Phật Bảo Tạng phát ra 48 đại nguyện. Do đó, Đức Bảo Tạng thụ ký cho Vua (khi đó đã là Pháp Tạng Tỳ Kheo) sau này thành Phật hiệu là A Di Đà ở vào thế giới cực lạc.

Vua Chuyển Luân có nhiều con. Con cả là Thái Tử Bất Tuấn cũng do ngài Bảo Hải khuyến tiến. Thái Tử cũng đi xuất gia theo cha và đối trước Đức Bảo Tạng Như Lai phát ra bảo nguyện đại bi thương xót, cứu độ tất cả các loài chúng sanh bị khổ não. vì vậy Đức Bảo Tạng thụ ký cho Thái Tử thành Bồ Tát hiệu là Quan Thế Âm, còn Bảo Haỉ là tiền thân của Đức Thích Ca Mầu Ni. Đức Bảo Tạng thụ ký cho Thái Tử rằng: "Vì lòng đại bi Ông muốn quán niệm cho tất cả chúng sanh được cùng về cõi an lạc (cực lạc). Vậy từ nay đặt tên cho Ông là Quan Thê Âm….

Bồ Tát Quan Thế Âm là hiện thân của Từ Bi, Ngài phát đại nguyện thực hiện từ bi cùng tận trong đời vị lai, nếu chúng sinh còn đau khổ. Vì chỉ có từ bi mới giải trừ đau khổ, cũng như chỉ có trí tuệ mới diệt được ngu si. Do đó, Bồ Tát Quan Thế Âm thiết lập tâm đại từ, đại bi mà thực hiện đại thệ nguyện độ sanh của Ngài.

TỪ là đem niềm vui đến cho kẻ khác. Chữ Từ như người ta thường nói: Từ thiện, từ ái, từ mẫu, từ tâm. Từ tâm đối với ác tâm, sân tâm, ích kỷ tâm….BI là phương châm, là cách thức hành động để cứu khổ. Từ là lòng yêu thương, Bi là ra tay giải quyết và dấn thân nỗ lực làm việc để cứu giúp thực tế. Tóm lại Tu Bi: Thương yêu chúng sinh, mang lại cho họ niềm an lạc vui sướng gọi là Từ (maritrya, maitri). Đồng cảm nỗi khổ và thương xót chúng sinh, trừ bỏ nỗi khổ cho họ gọi là Bi.

Quán Thế Âm xưa kia Ngài đã thành Phật hiệu là "Chánh Pháp Minh Như Lai". Ngài thị hiện làm Bồ Tát vì muốn đảm đương công tác cứu khổ ban vui cho chúng sanh. Đức Bồ Tát quán thấy Phật và chúng sanh đồng chung một bản thể, đồng chung một giác tánh duy nhất, nhưng Phật đã giác ngộ mà chúng sanh thì còn mê.

Do đó, Đức Quan Thế Âm tức là một vị Phật tương lai sẽ bổ vào ngôi của Đức Phật A Di Đà, thì ngài cùng với ngài Đại Thế Chí (kiếp xưa là em ngài, con thứ vua Chuyển Luân cũng cùng Ngài đồng thời được Đức Bảo Tạng thụ ký) giúp việc giáo hoá độ sanh cho Đức Phật A Di Đà và 2 Ngài cũng ứng thân xuống sa bà trợ giáo cho Đức Thích Ca Mâu Ni.

Theo Kinh Thủ Lăng Nghiêm có chép lời Ngài bạch với Đức Thếâ Tôn rằng:

"Con nhớ cách đây vô số hằng hà sa kiếp về trước có Đức Phật ra đời hiệu là Quan Thế Âm, từ Đức Phật kia dạy con, do nghe, nghĩ và tu mà vào Tam Ma Đề" Do đó nên biết: Ngài đã phát tâm Bồ Đề từ đời Đức Phật Quan Thế Âm trong vô số hằng hà sa kiếp về trước do nghe Phật truyền pháp, Ngài đã nhận định pháp tu viên thông về nhĩ căn là hơn tất cả, do ngài khó chứng viên thông ở nhĩ căn nên được Đức Phật thụ ký cho ngài danh hiệu Quán Thế Âm, một danh hiệu mà chúng sanh ở mười phương cung kính chấp trì, nhất là trong những lúc nguy hiểm, đau khổ.

Ngoài ra, Kinh Quán Âm Tam Muội nói: "Xưa kia Ngài Quán Thế Âm đã thành Phật hiệu là "Chính Pháp Minh Như Lai". Tiền thân Đức Thích Ca hồi ấy đã từng ở dưới pháp toà, sung vào trong số đệ tử khổ hạnh để gần gũi". Ngày nay Đức Thích Ca thành Phật, thời Ngài trở lại làm đệ tử để gần gũi lại:" Một Đức Phật ra đời thì hàng ngàn Đức Phật phù trì".

Trong Kinh Đại Bi Tâm Đà Na Ni thì chép lời Ngài bạch Phật rằng: "Bạch Đức Thế Tôn ! con nhớ vô lượng ức kiêp trước có Đức Phật ra đời hiệu là Thiên Quan Vương tĩnh trụ Như Lai" Đức Phật ấy vì thương đến con và tất cả chúng sanh nên nói ra môn Đại Bi Tâm Đà La Ni. Ngài lại dùng cánh tay sắc vàng xoa đầu con mà bảo:"Thiện Nam Tử ! Ông nên trụ trì tâm chú này và vì khắp tất cả chúng sanh trong cõi trược ở đời vị lai mà làm cho họ được sự lợi ích yên vui lớn." Lúc đó con mới ở ngôi Sơ Địa, vừa nghe xong thần chú này liền vượt lên chứng đại Bát Địa".

Mật tông thì theo trong Kinh Đại Bản Như Ý nói có 8 vị đại Quan Âm là:

1) Viên Mãn Ý, Nguyệt Minh Vương Bồ Tát.

2) Bạch Y Tự Tại.

3) Cát La Sát Nữ.

4) Tứ Diện Quán Âm.

5) Mã Đầu La Sát.

6) Tỳ Cầu Chi.

7) Đại Thế Chí.

8) Đà La Quan Âm (Quán Âm Chuẩn Đề).

Ngài có đức uy thần công đức và lòng từ bi rất lớn. Ngài vốn không phải là nữ tướng, nhưng vì ngài thường cứu khổ cứu nạn cho chúng sinh (mà phụ nữ thường nhiều khổ nạn hơn so với nam giới) cho nên giới phụ nữ đặc biệt tín ngưỡng về Ngài. Nên chúng sanh mới tưởng tượng ra Ngài là nữ tướng để tiện hoá độ cho phụ nữ. Theo Kinh A-Di-Đà nói: Người sanh về cõi cực lạc tuy chưa chứng quả Thánh, vẫn không có tướng nam, tướng nữ. Kinh A Hàm nói người nữ có 5 chướng không thể thành Phật…..Thế mà Bồ Tát Quan Thế Âm lại hiện thân người Nư ư?

Bồ Tát Quan Thế Âm hiện thân của Đức Từ Bi, muốn nói lên tình Mẹ thương con, Mẹ đối với con là tình thương chân thành, tha thiết nhất không có tình thương nào sánh bằng. Cho nên, Đức Quan Thế Âm hiện thân là một người mẹ hiền của nhân loại, hay của tất cả chúng sinh.

Căn cứ theo hình tướng đã thể hiện và đức tính Quan Thế Âm đã cứu khổ cứu nạn cho chúng sinh, nhân loại được thoát khổ đau ở sa bà này to lớn biết chừng nào !

Chân như đạo Phật rất mầu
Tâm trung chữ hiếu niệm đầu chữ nhân
Hiếu là độ được song thân
Nhân là cứu vớt trầm luân muôn loài
Tinh thông nghìn mắt nghìn tay
Cũng trong một điểm linh đài hóa ra
Xem trong biển nước nam ta
Phổ môn có Đức Phật Bà Quan Âm.

Cho nên, Phật Tử chúng ta dù tu theo pháp môn nào: Mật Tông, Tịnh Độ hay Thiền Tông cũng phải thường xuyên niệm hồng danh của Ngài. Ngài gia hộ, độ trì cho mới thoát khỏi tai nạn, khổ ách mỗi khi đến với mọi người chúng ta đều phải niệm "Nam Mô Đại Từ Đại Bi Cứu Khổ Cứu Nạn Quan Thế Âm Bồ Tát" thì được giải thoát, tai qua nạn khỏi và sự nghiệp tu hành mới mau chóng thành tựu theo sở cầu như nguyện.

Tuệ Minh Đạo