Ông bà ta giỏi thật!

(ANTĐ) - Tôi chưa được ở lâu những vùng nông thôn hay miền núi, mà chỉ ghé qua vài ngày nên không biết rõ phong tục các vùng miền khác. Nhưng chỉ ở Thủ đô và ngay trong gia đình, tôi đã thấy bố mẹ, ông bà mình có một nếp sống thật là bình dị song cũng thật tuyệt vời. Và tôi chắc chắn, nền nếp ấy của Hà Nội xưa cũng là của dân ta ở khắp trong Nam ngoài Bắc, chỉ có điều là hình như nay đã dần mất đi rồi..


Nét trang nhã trong cách ăn mặc của người Hà Nội xưa



Dạo mẹ tôi còn mệt, chưa ra đi, mấy chị em tôi thường tập trung ở nhà cậu em trai vào buổi chiều, vì mẹ tôi ở với cậu đã lâu, lúc đến tuổi 90 không chịu đi đâu nữa, chỉ ngồi im nhai trầu chẳng nói năng gì. Cô em dâu cũng đã vào tuổi vừa nghỉ hưu, thở dài:

Hôm qua em lại phải nhổ một cái răng. Bây giờ muốn trồng cái mới để nhai được như răng thật, họ bảo phải mất 15 triệu đồng. Kinh quá!

Bà chị cả của tôi xấp xỉ 70 liếc nhìn mẹ đang bỏm bẻm nhai trầu, cười:

Cô nhìn bà kìa, răng vẫn đen nhức và vẫn nhai trầu. Từ bé đến giờ chị chưa thấy bà phải nhổ cái răng nào.

Tôi đế thêm:

Em cũng chưa thấy bà kêu sâu răng, nhức răng bao giờ.

Mẹ tôi đã lâu không nói gì, nhưng hình như bà hơi mỉm cười, đôi môi đỏ thắm quết trầu trông vẫn rất tươi. Chúng tôi thường nói đùa với nhau: Bà luôn ăn đứt cả con gái lẫn con dâu.

Lúc còn trẻ, bố tôi mất sớm, bà tay năm tay mười vừa trông hai đứa cháu nội sinh cùng năm (con của hai cậu con trai), vừa trông nom cửa hàng bán tương cà mắm muối mà vẫn cứ tươi tắn, thoăn thoắt gọn gàng. Bây giờ cao tuổi rồi, răng bà vẫn đen, tóc vẫn dài và chưa bao giờ phải nhuộm. Bà vẫn ăn mía, nhai trầu, xơi lạc rang trong khi các cô con gái bà đành chịu vì đã nhổ răng gần hết.

Tóc bà vẫn còn đen. Các cụ ta ngày xưa giỏi thế. Không có thuốc đánh răng thì ăn trầu và nhuộm răng đen. Chất vôi làm cho răng chắc khoẻ. Một chút thuốc lào giữ cho răng không bị sâu. Màu đỏ thắm của vỏ, chất chát của lá trầu, vị ngọt của cau nhuộm cho môi cắn chỉ thật tươi, thật đậm. Rồi yếm đào, khăn mỏ quạ, váy xắn quai, tóc đuôi gà chao ôi là đẹp. Để bây giờ, 90 tuổi rồi vẫn còn duyên!

Đó là các bà. Còn các cụ ông thì sao? Bố tôi mất đã hơn 40 năm, nhưng thói quen uống trà của ông, tôi vẫn còn giữ cho đến hôm nay. Có khi là trà xanh, khi là trà mạn Thái Nguyên. Ôi cái vị thơm chát ngan ngát với làn khói mơ màng mới quyễn rũ làm sao. Đã bao nhiêu bài báo viết về cái lợi của trà xanh, tôi không biết hết. Nhưng chắc chắn nhờ uống trà mà tôi có được sức khoẻ đến hôm nay.

Tôi chưa thấy mình khi nào bị đau dạ dày, rất ít khi sôi bụng và ăn uống đủ thứ đều thấy ngon lành chẳng phải kiêng kỵ gì. A, còn cái khăn xếp của các cụ ông nữa chứ. Bây giờ mà Chính phủ quy định các quan chức phải mặc quốc phục đi làm và tiếp khách (như nhà văn Hoàng Quốc Hải đã nhiều lần đề nghị), thì tôi đoán chắc có nhiều vị sẽ rất hoan nghênh.

Ngồi chuyện phiếm với mấy bác mấy anh ở hội chơi tennis của CLB Ba Đình (Hà Nội), tôi nghe nhiều người phàn nàn:

Có một dạo, vào những năm 60-70 của thế kỷ trước, chẳng ai để ý đến chuyện đặt tên cho con phải giữ cái gốc của từ đệm, ví như tôi là Nguyễn Minh A, thì con trai, cháu trai cứ Nguyễn Minh mà đặt tiếp B, C, D, H... tha hồ. Cái gốc ấy bị quên, mình đặt tên con là Nguyễn Bình P, thằng P đẻ con lại đặt là Nguyễn Đỗ H (Đỗ là họ của vợ nó). Thành ra bây giờ mất gốc, vào Nam gặp họ hàng bị mắng cho tơi tả.

Một ông khác tiếp lời:

Các cụ ta ngày xưa đã có quy định rõ ràng về cách đặt tên, tôi nhớ ít nhất là từ thời Vua Minh Mạng. Vua sai Đông các đại học sĩ Đinh Nguyễn Phiên soạn 11 bài thơ về cách đặt tên trong hoàng tộc. Một bài về đế hệ, tức là lần lượt các dòng vua kế thừa ngôi báu như sau:

“Miên - Hường - Ưng - Bửu - Vĩnh

Bảo - Quý - Định - Long - Trường

Hiền - Năng - Khâm - Kế - Truật

Thế - Thoại - Quốc - Gia - Xương”.

Như vậy tất cả các con trai của Minh Mạng đều mang tên có chữ đệm là Miên, ví như Miên Tông (sau là vua Thiệu Trị ), Miên Thẩm (Tùng Thiện Vương). Đến đời Thiệu Trị, các con trai của ông đều có chữ đệm là Hường (Hồng) như Hường Nhậm sau là Vua Tự Đức. Đến đời Tự Đức, dẫu không có con trai thì con nuôi đều có tên đệm là chữ Ưng... Cứ như vậy cho đến Bảo Đại ông vua cuối cùng, tức là đã được 7 đời kể từ Vua Minh Mạng. Như vậy chỉ cần nghe tên đệm là biết quan hệ dòng tộc tự bao đời. Giỏi không?

Thế còn 10 bài thơ nữa thì sao? Một người hỏi.

à, 10 bài đó đều là phiên hệ, tức là người có cùng dòng tộc với nhà vua, dẫu người đó họ xa hay họ gần, đều được dùng chữ Tôn Thất. Cho đến nay ta vẫn biết Giáo sư Tôn Thất Tùng hoặc bà Tôn Nữ Thị Ninh thuộc hoàng tộc là vì thế.

Các cụ ta giỏi thật! Tất cả chúng tôi đồng thanh thốt lên.

Còn tôi, tôi nhớ dạo cậu em trai thứ ba sinh cháu trai, vợ nó bàn đặt tên đệm cho con là Phan Vũ (họ của cô ấy) hoặc Phan Minh, Phan Quốc, nhưng cậu cứ nhất định đệm cho con là Phan Hữu theo lời dặn của bố tôi. May thế chứ. Bây giờ cháu đang đi học xa, ví dụ ở đất nước Mặt trời mọc ấy mà gặp được một người cũng mang họ Phan, chỉ cần đệm Hữu là cháu biết ngay người đó dù xa hay gần cũng là cùng một ông tổ với mình.

Ôi! Hồn Việt chính là từ cái ăn, cái mặc, cái tên gọi rất bình thường mà chúng ta đã và đang đánh mất!

Phan Thị Thanh Nhàn