Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ
Tòa Thánh Tây Ninh

KINH
THIÊN-ĐẠO & THẾ-ĐẠO


Hội Thánh Giữ Bản Quyền

Mục Lục

Tựa
Tiểu-Dẫn
Cách Thờ-Phượng và Cúng-Kiếng
Bàn thờ Hộ-Pháp
Cách Lạy
Cúng Đàn
Trai Kỳ
Cách Thiết-Lễ Mỗi Nghi-Tiết
Tẩn-Liệm
Cầu-Siêu
Thành-Phục
Đưa Linh-Cữu
Hạ-Huyệt
Làm Tuần Cửu
Tiểu-Tường
Đại-Tường
Cầu-Hồn và Cầu-Siêu
Cách Nhập-Đàn Hành-Lễ Cúng Phật-Mẫu

Kinh Thiên Đạo
Kinh Cúng Tứ Thời
Niệm Hương
Khai Kinh
Kinh Ngọc-Hoàng Thượng-Đế
Thích Giáo
Tiên Giáo
Nho Giáo
Bài Dâng Hoa
Bài Dâng Rượu
Bài Dâng Trà
Ngũ Nguyện
Phật Mẫu ChơnKinh
Tán Tụng Công Đức Diêu-Trì Kim-Mẫu
Kinh Giải Oan
Kinh Tắm Thánh
Kinh Cầu Hồn Khi Hấp Hối
Kinh Khi Đã Chết Rồi
Kinh Tẩn Liệm
Kinh Cầu Siêu
Kinh Đưa Linh Cữu
Kinh Hạ Huyệt
Vãng Sanh Thần Chú
Kinh Khai Cửu, Đại Tường và Tiểu Tường
Kinh Đệ Nhứt Cửu . . . , Cửu Cửu
Kinh Tiểu-Tường
Kinh Đại Tường
Di - Lặc Chơn Kinh
Kinh Sám Hối
Bài Khen Ngợi Kinh Sám Hối
Bài Xưng Tụng Công Đức, Phật, Tiên, Thánh, Thần
Giới Tâm Kinh

Kinh Thế Đạo
Kinh Thuyết Pháp
Kinh Nhập Hội
Kinh Xuất Hội
Kinh Đi Ra Đường
Kinh Khi Về
Kinh Khi Đi Ngủ
Kinh Khi Thức Dậy
Kinh Vào Học
Kinh Vào Ăn Cơm
Kinh Khi Ăn Cơm Rồi
Kinh Hôn Phối
Kinh Tụng Khi Vua Thăng Hà
Kinh Tụng Khi Thầy Qui Vị
Kinh Cầu Tổ Phụ Đã Qui Liễu
Kinh Cứu Khổ
Kinh Tụng Cha Mẹ Đã Qui Liễu
Kinh Cầu Bà Con Thân Bằng
Kinh Tụng Huynh Đệ Mãn Phần
Kinh Tụng Khi Chồng Qui Vị
Kinh Tụng Khi Vợ Qui Liễu

__________________________________________________ ________
Tựa


Từ khi mở Đạo, Chí-Tôn duy giáng cơ truyền cho Phật-Giáo, Minh-Sư, Minh-Đường, Minh-Lý dạy dâng kinh cho Đại-Đao Tam-Kỳ Phổ-Độ, song kinh Tận-Độ vong linh chưa hề giáng cơ cho nơi nào tất cả.

Đức Quyền Giáo-Tông (khi còn tại thế) và Đức Hộ-Pháp, trót mười năm trường, nghĩa là từ ngày mở Đạo, đã nhiều phen dâng sớ cho Đại Từ-Phụ và các Đấng Thiêng-Liêng đặng xin kinh Tận-Độ, nhưng mà Chí-Tôn cùng chư Thần, Thánh, Tiên, Phật vẫn chưa định ban ân cho toàn sanh chúng.

Mãi đến ngày 23 tháng 7 tới mùng 4 tháng 8 năm Ất-Hợi (DL, 21 đến 31 - 8 - 1935) mới giáng cho Tân-Kinh. Ấy là một giọt nước Cam-Lộ của Đức Từ-Bi rưới chan đặng gội-nhuần cho các đẳng linh-hồn của toàn Thế-Giới.

Chúng ta thầm xét thì đủ hiểu rằng: Đã trải qua mười năm Chí-Tôn mới mở cơ tận độ. Cơ tận độ nhơn sanh duy kể từ ngày ban Tân-Kinh nầy mà thôi.

Thương thay cho những kẻ vô phần chịu phận thiệt thòi qui liễu trước ngày Tân-Kinh chuyển Pháp. Ấy cũng là quả kiếp của nhơn sanh do Thiên-Thơ tiền định. Nếu chúng ta thương tưởng thì duy có một phương độ-rỗi là trì tụng Di-Lặc Chơn-Kinh hầu các đẳng linh-hồn đặng siêu-thăng Tịnh-độ.

Ấy vậy, bổn kinh nầy nguyên của chư Phật, chư Tiên đã giáng-cơ truyền thế trong kỳ Trung-Ngươn Ất-Hợi.

Khi tụng phải thành tâm và phải để nơi tinh khiết.

Hội-Thánh kính cáo

Tiểu-Dẫn

* * * * *


Cách Thờ-Phượng và Cúng-Kiếng

Lập vị Thượng-Đế thì phải lựa nơi nào cho tinh-khiết, tốt hơn hết là giữa nhà, lập tran thờ cho cao và treo màn cho khuất chỗ thờ phượng.


1 - Thánh Tượng Thiên-nhãn
2 - Đèn Thái-Cực
3 - Trái cây
4 - Bông
5 - Nước trà (để bên hữu ấy là Âm)
6 - 7 và 8 - Ba ly rượu
9 - Nước trắng (để bên tả ấy là Dương)
10 - và 12 - Hai cây đèn
11 - Lư hương.


Bông chỉ về Tinh, rượu chỉ về Khí, trà chỉ về Thần.
Tinh, Khí, Thần, là Tam-bửu của các Đấng Thần, Thánh, Tiên, Phật.
Thời Tý, Ngọ cúng rượu.
Thời Mẹo, Dậu cúng nước Âm Dương. Khi cúng Thầy phải đốt cho đủ 5 cây hương cắm hàng trong 3 cây gọi là: Án Tam-Tài, thêm hàng ngoài hai cây nữa gọi là: Tượng Ngũ-Khí.

__________________________________________________ _____________

Bàn thờ Hộ-Pháp

1 - Tượng thờ viết chữ ''Khí''
2 - Trái cây
3 - Bông
4 - Nước trà
5 - 6 và 7 - Ba ly rượu
8 - Nước trắng
9 - Lư hương
10 - và 11 - Hai cây đèn


Bàn thờ Hộ-Pháp duy thờ nơi Thánh-Thất mà thôi. Mỗi khi cúng Tứ Thời thì đốt ba cây hương.