Nguyên văn bởi
gioidinhtue
Xin chia sẻ với bác vài lời:Thứ nhất , tôi không dám nói đạo thờ Mẫu là mị dân. Đó là tín ngưỡng lâu đời của người dân Việt, thể hiện sự tôn sùng các hiện tượng của tự nhiên ( tỷ dụ như hệ thống Tứ pháp được thờ trong các chùa miền Bắc : Vân, Vũ, Lôi, Điện…), ảnh hưởng rất nhiều nghi lễ của Đạo giáo Trung Hoa. Tôi chỉ phê phán hiện tượng đồng cốt bây giờ phần nhiều chỉ là trò buôn Thần bán Thánh, không còn giữ được ý nghĩa nguyên thủy của nó là để chữa bệnh nữa. Câu định nghĩa về hầu đồng được tôi trích dẫn trong một tài liệu về đạo Mẫu. Nếu bác có định nghĩa nào hay hơn về hầu đồng thì tôi xin được bác chỉ giáo.Thứ hai, câu hỏi thứ 2 của bác tôi chỉ nói sơ lược thôi, bởi tôi đâu dám “múa rìu qua mắt thợ”!. Tín ngưỡng Tam phủ vạn linh và Tứ phủ công đồng ở VN tôn Thánh Mẫu là vị thần tối cao chủ quản vũ trụ. Theo đó vũ trụ được chia làm 3 miền(Tam Phủ) : +Thiên phủ (miền trời): có mẫu đệ nhất (mẫu Thượng Thiên) cai quản bầu trời, làm chủ các quyền năng mây mưa, gió bão, sấm chớp. +Địa phủ (miền đất): mẫu đệ tứ (mẫu Địa Phủ) quản lí vùng đất đai, là nguồn gốc cho mọi sự sống.+Thuỷ phủ (miền sông nước): mẫu đệ tam (mẫu Thoải) trị vì các miền sông nước, giúp ích cho nghề trồng lúa nước và ngư nghiệp. Hay 4 miền(Tứ Phủ)(Tam Phủ cộng thêm Nhạc phủ):+Nhạc phủ (miền rừng núi): có mẫu đệ nhị (mẫu Thượng Ngàn) trông coi miền rừng núi, ban phát của cải cho chúng sinh. Tuy nhiên, tùy theo từng vùng miền mà có sự khác biệt. Có tài liệu cho rằng hệ thống Tứ Phủ được xây dựng từ tam phủ cộng thêm Thánh Mẫu Liễu Hạnh; Còn tại điện Hòn Chén ở Huế, Thánh Mẫu Thiên Ya Na, nguyên là một nữ thần của người Chăm, được nhập vào hệ thống tứ phủ và thờ làm Mẫu Thiên . Trong khi đó, nhiều tài liệu cho rằng ở miền Bắc, Mẫu Thiên lại là Liễu Hạnh Công chúa……Và hiện nay, tín ngưỡng ấy vẫn còn tồn tại (Đặc biệt rất nhiều ở miền Bắc nước ta).Thứ ba, tôi xin phép không trả lời câu hỏi 1 và 3. Phạm trù này bác biết rõ mà. Bởi việc quyết định là có căn mạng hay không, vào thời gian nào, hoặc đổi tháng hoán ngày được hay không được đều thuộc hoạt động lên đồng mê tín. Bác có thể giải thích cụ thể về hoạt động sinh hoạt tín ngưỡng này một cách “ khoa học ” hơn không? Tôi thì chỉ biết giải thích như vậy.Thứ tư, tôi sẽ trả lời câu hỏi cuối cùng. Việc đưa ra một câu thần chú (trích trong kinh Dược Sư) để so sánh như bác tôi cho rằng bác chưa hiểu cái cốt lõi bên trong của kinh chú nhà Phật. Bác chỉ mới dừng lại ở phần vỏ bên ngoài thôi (nhưng cũng chưa thấu đáo nữa). Thần chú (hay Mantra) , người Trung Hoa dịch là Tổng Trì, một con đường tắt mà chư Phật và các vị Bồ Tát phương tiện để chỉ bày giúp chúng sanh tu học, đạt quả vị giải thoát rốt ráo. Thần chú là sự kết hợp kì diệu của các âm thanh cơ bản của vũ trụ, là Mật ấn của chư Phật, khi được trì tụng sẽ tạo ra một năng lượng tâm linh tích cực, tạo ra sự cân bằng giữa thân và tâm, không phải là lời cầu nguyện mà chính là bản chất sâu kín trong nội tại tâm thức của hành giả. Đó là chìa khóa, là công cụ để tiếp cận những kênh năng lượng từ các chiều tâm thức ở các cảnh giới cao hơn.Nếu diễn đạt dưới góc độ tâm linh thì thần chú là phương tiện giao tiếp, kết nối của vị Bản Tôn, của chư Phật, chư vị Bồ Tát với chúng sanh để có thể đem lại sự tịnh hóa nghiệp chướng cho loài hữu tình.Việc niệm danh hiệu Phật, trì chú hay tụng kinh cũng tương tự như việc Thiền định. Chỉ có khác ở chỗ một bên vào Định trong yên lặng, một bên thì vào Định qua việc chí tâm trì tụng. Kết quả đạt được là như nhau : vào Định, sau đó an trú trong Định. Nhiều người nói Mật tông là mê tín, là trò phù phép của bọn tà sư ngụy giáo. Nhưng khi nghiên cứu sâu vào mới thấy rõ bản chất của nó. Ấn, chú không để làm trò ếm đối, quở phạt ai. Đó chỉ là phương tiện chỉ bày tu học.Cụ thể, tôi cũng sẽ lấy ví dụ về câu thần chú Dược Sư. Ta phải hiểu phần gốc của vấn đề chứ đâu chỉ chú trọng phần ngọn. “Y pháp bất y ngữ” mà. Chúng sanh có cả thân bệnh và tâm bệnh. Dược Sư Phật là vị thầy thuốc giỏi, chữa được cả hai loại bệnh này. Trì tụng thần chú Dược Sư này chỉ đơn thuần với tín tâm thì chỉ có một phần diệu dụng. Ta phải hiểu rõ bản chất để phát huy hết năng lực vốn có của thần chú. Sự cầu nguyện phải mang tính vô ngã, vị tha, phải hợp với bản nguyện của chư Phật, chư Bồ Tát ( ở đây xin đọc thêm về 12 đại nguyện của Phật Dược Sư). Theo kinh Dược Sư , Phật Dược Sư luôn hướng đến những bệnh nhân nghèo , mắc chứng nan y (điều nguyện thứ 7 ) , lo cho chúng sanh có đủ cơm ăn, áo mặc, vật dụng (điều nguyện 3 , 11 và 12 ), không để chúng sanh rơi vào tà đạo, ngoại đạo hoặc bị bùa chú ếm đối làm hại (điều nguyện 4 ,9 ), thương xót chúng sanh bị giam nhốt khổ sở trong ngục tù (điều nguyện thứ 10 ). Hiểu được Bản nguyện của Phật Dược Sư thì hiểu rằng những trường hợp nào chúng ta cầu nguyện chắc chắn thành tựu. Cho nên không phải cứ tụng chú 108 biến rồi gia trì vào đồ ăn, thức uống cho bệnh nhân thì mọi bệnh tật liền được hóa giải,tiêu trừ đâu. Việc làm như vậy là trái với nhơn quả bởi không gieo nhân lành thì làm sao gặt được quả lành, không phóng sanh, lại chuyên giết hại chúng sanh thì làm sao hết bệnh, tăng phước thọ; không bố thí cúng dường, hay bỏn sẻn, keo kiệt thì làm gì có quả giàu có, khỏe mạnh,an lạc, cát tường như ý…..Thật ra, các Đức Phật đều hướng về chúng sanh. Không phải mình ỷ lại, nhưng nếu nhờ Phật lực ủng hộ, thì mục đích tốt đẹp của mình mau được thành tựu. Là tự lực kết hợp với tha lực. Đây là phương pháp trị bệnh hợp với Chánh Pháp, không phải thứ “tàn hương, nước thải” của ngoại đạo.Đôi lời thảo luận, xin chỉ giáo!!!!!!!
Bookmarks