kết quả từ 1 tới 3 trên 3

Ðề tài: LỤC ĐỘ BA LA MẬT

  1. #1
    Nhất Đẳng Avatar của huuthuongsl
    Gia nhập
    Jun 2011
    Nơi cư ngụ
    Vùng biên địa hạ tiện
    Bài gởi
    1,231

    Mặc định LỤC ĐỘ BA LA MẬT

    LỤC ĐỘ BA LA MẬT


    Thích Thông Huệ


    Lục độ Ba-la-mật là pháp tu của hàng Bồ tát, được hiểu một cách khái quát là sáu phương tiện đưa người qua bờ bên kia, tức từ bờ mê qua bờ giác. Tuy nhiên ý nghĩa “qua bờ kia” chưa diễn đạt hết tinh tuý của từ Ba-la-mật, vì Bồ tát không chỉ an vị tại bờ giác, mà mục đích tu hành của Bồ tát thừa là một mặt tự hoàn thiện mình, một mặt cứu độ chúng sanh. Các ngài làm tất cả các Phật sự nhưng không có tâm mong cầu kết quả, không chấp trước vào người làm, vào phương tiện làm và vào chúng sinh là đối tượng của việc làm. Đây là đạo đức vô hành, là tam luân không tịch, là vô sở cầu vô sở đắc.

    Ba-la-mật cũng là mật hạnh, đại hạnh của Bồ tát. Nếu dùng bố thí độ xan tham, trì giới độ phá giới.... thì còn hạn chế trong việc đối trị; ở đây, lục độ với tinh thần Ba-la-mật có sự hài hòa giữa trí tuệ, từ bi và hùng lực. Bằng trí tuệ, Bồ tát thấy tất cả chúng sinh đều có Phật tánh, nhưng do mê muội không nhận ra, nên mãi tạo nghiệp và trầm luân trong sanh tử. Vì thế, Bồ tát phát khởi lòng từ bi, nguyện độ tận chúng sinh trong ba cỏi sáu đường. Có từ bi, các ngài sẽ có đủ hùng lực, thi thiết mọi phương tiện quyền xảo tùy căn cơ giáo hóa chúng sinh, dù bao nghịch cảnh vẫn không thối chí.

    Ba-la-mật còn có nghĩa là cứu cánh, rốt ráo. Mục đích cuối cùng của đời tu, cũng như bản hoài của chư Phật đối với tất cả chúng sanh, là nhận ra và hằng sống với bản tâm thanh tịnh thường nhiên của chính mình. Đó là Phật tánh, chân tâm, bản lai diện mục... Nhận ra tánh giác là chánh nhân thành Phật, hằng sống trọn vẹn với tánh giác là viên mãn Phật quả.

    Lục độ Ba-la-mật gồm 6 phương tiện:

    1- Bố thí Ba-la-mật

    2- Trì giới Ba-la-mật

    3- Nhẫn nhục Ba-la-mật

    4- Tinh tấn Ba-la-mật

    5- Thiền định Ba-la-mật

    6- Trí huệ Ba-la-mật

    1- Bố thí Ba-la-mật

    Hiểu theo sự bố thì là chia sẻ, ban cho, cung cấp; gồm 3 loại: Tài thí, pháp thí và vô úy thí. Tài thí là bố thí tài sản vật chất (ngoại tài) hoặc công lao, thân mạng của chính mình (nội tài). Pháp thí là dùng lời khuyên răn về đạo đức làm người, khiến ngưới bỏ ác hướng thiện, hoặc dùng chánh pháp hướng dẫn người tu hành để được giác ngộ giải thoát. Tài thí giúp người đỡ phần khốn khó về thân trong một thời gian nhất định; trong khi tóm lược một pháp yếu, con người có thể áp dụng suốt đời tu, nên pháp thí có thể mang đến sự bình ổn nội tâm trong thời gian lâu dài. Người bố thí tài chỉ có một khả năng nào đó để đáp ứng một phần nhu cầu của người nhận; còn người giảng được một đoạn kinh hay, thì dù số người nghe đông bao nhiêu cũng đều có phần lợi lạc. Lại nữa, tài thí chỉ có giá trị nhất thời, trong lúc pháp thí giúp vĩnh thoát sinh tử nên giá trị vô hạn. Như vậy, so với tài thí thì pháp thí thù thắng hơn rất nhiều, nhưng người bố thí phải có trình độ về đạo học và biết cách thu phục nhân tâm.

    Vô úy thí là giúp người biết sợ hãi bằng lời nói hay việc làm. Từ những điều sợ hãi nhỏ nhặt như sợ côn trùng, sợ bóng đen... Đến những nổi khiếp đảm đối với thiên tai, chiến tranh, bịnh tật, chết chóc... những lời an ủi động viên hoặc hành động bảo bộc vỗ về sẽ làm con người cảm thấy bình an hơn. Thậm chí lúc sắp lâm chung, nếu được nghe kinh kệ, nghe niệm hồng danh chư Phật hoặc được hướng dẫn về những điều cần làm khi bước qua bên kia cửa tử, người sắp mất có thể yên tâm ra đi với một cận tử nghiệp thiện lành.

    Hiểu theo lý bố thí nghĩa là buông xả. Kinh Kim- Cang, Đức Phật dạy : “Bồ tát đối với pháp không nên có chỗ trụ mà làm việc bố thí... Nếu Bồ tát bố thí chẳng trụ tướng thì phước đức không thể nghĩ bàn”. Khi tiếp xúc với mọi cảnh mọi duyên mà tâm không dính mắc, không khởi niệm phân biệt phê phán, làm tất cả các việc vì người khác mà không trụ tướng, đó là hoàn toàn buông xả phù hợp với ý nghĩa sâu xa của bố thí Ba-la-mật.

    Như thế, bố thí Ba-la-mật vừa làm lợi cho mình vừa có ích cho người. Đối với người, đây là một nghệ thuật sống, giúp người bớt khốn khổ, bớt sợ hãi lo âu, đem đến niềm an ủi, sự ấm áp của tình người. Không chỉ có tài sản mới bố thí được, mà một lời nói hay, một việc làm nhỏ, một nụ cười vui… phát xuất từ tâm chân thành thiết tha đều mang nhiều lợi lạc. Mọi công đức đều xuất phát từ tâm ý, tâm càng thanh tịnh, càng bớt ngã chấp thì kết quả của việc làm càng lớn lao. Đối với mình, càng bố thí ta càng giảm được lòng tham, càng có niềm vui khi việc làm có ích cho cộng đồng. Tiến thêm một bước, thực hiện hạnh buông xả, ta có thể tự tại an nhiên trước mọi thăng trầm vinh nhục của cuộc sống. Hình ảnh các thiền sư “đói đến thì ăn, mệt ngủ khò” và khi hết duyên, ngồi kiết già thị tịch trước các môn đệ, là những hình ảnh sáng ngời của sự tự tại đối với sinh và tử.

    2.- Trì giới Ba-la-mật

    Theo tinh thần Bồ tát Đại Thừa, trì giới có ba trình độ: Nhiếp luật nghi giới, Nhiếp thiện pháp giới và Nhiêu ích hữu tình giới.

    Nhiếp luật nghi giới là nghiêm trì giới luật, gìn giữ oai nghi, thu nhiếp thân tâm thì ngưòi khác dễ sinh lòng quí kính, từ đó dễ cảm hoá thu phục họ. Đây là các Bồ tát thuận hạnh, dùng thân giáo làm lợi ích cho người; nhưng nhờ giữ oai nghi tịnh hạnh mà chính mình cũng dễ thăng tiến trên đường tu.

    Nhiếp thiện pháp giới là vận dụng nhiều phương tiện giúp đỡ người khốn khó nhằm chinh phục tâm người, sau đó giáo hoá người biết tu hành.Việc làm này chủ yếu là tha lợi, đòi hỏi Bồ tát phải có nhiều khả năng và kiến thức trên nhiều phương diện. Ngũ minh là một dòi hỏi đúng đắn để Bồ tát có nhiều cơ hội giúp đời giúp người, nhất là trong thời đại khoa học công nghệ ngày nay: Nội minh là giáo điễn nhà Phật; Ngoại minh là kiến thức thế gian; Y Phương minh là hiểu biết về y khoa để bảo vệ sức khoẻ cho người; Công xảo minh là hiểu biết về các nghề nghiệp từ thủ công đến khoa hoc kỹ thuật; và Thanh minh là ngoại ngữ để dễ giao tiếp với người nước ngoài.

    Đỉnh cao của hạnh Trì giới là Nhiêu ích hữu tình giới, Bồ tát nguyện dùng chánh pháp hoá độ tất cả chúng sinh cùng khắp pháp giới. Bằng trí tuệ, Bồ tát biết rõ mọi hàm linh đều có chủng tử giác ngộ. Đây là hạt giống có sẵn; nếu gặp điều kiện thuận lợi, hạt giống sẽ nảy mầm thành cây, đơm hoa kết quả. Nếu chưa đủ điều kiện, hạt giống ở dạng tiềm ẩn, nhưng chưa bao giờ mất. Đại nguyên của Bồ tát là khơi dậy những hạt giống đang ngủ ngầm và tạo điều kiện để chúng đâm chồi nảy lộc. Kinh thường diễn tả cảnh các vị Bồ tát đến nơi pháp hội của Đức Phật, vị nào cũng có quyến thuộc đi theo. Quyến thuộc ấy là những chúng sinh hữu duyên được Bồ tát giáo hoá từ nhiều kiếp. Bồ tát hành hạnh nhiêu ích càng nhiều, quyến thuộc của Ngài càng đông đảo.

    Để mang đầy đủ ý nghĩa Ba-la-mật, ba hình thức trì giới nói trên phải phù hợp tinh thần tam luân không tịch; Bồ tát làm lợi ích cho người nhưng không chấp ngã và chấp các pháp là thật có, nên không thấy thật có mình là người làm, thật có việc đang làm và thật có chúng sinh là đối tượng của việc làm ấy.

    3- Nhẫn nhục Ba-la-mật

    Theo nghĩa hẹp, nhẫn nhục là nhịn chịu mọi nhục nhã và mọi khó khăn trở ngại, và vượt qua chúng một cách bình ổn. Nhà Phật gọi những chướng duyên làm ngăn trở sự tiến tu là ma chướng, gồm ngoại ma (trở ngại do người khác hoặc hoàn cảnh bên ngoài gây ra) và nội ma (trở ngại từ chính thân tâm mình)

    Theo nghiã rộng, nhẫn nhục là không sanh tâm khởi niệm khi tiếp duyên xúc cảm, mà đỉnh cao là Vô sanh nhẫn hay Vô sanh pháp nhẫn. Trước tất cả pháp, dù thấy nghe hiểu biết mọi sự nhưng tâm Bồ tát không xao động, không chấp trước. Do tâm không nên các pháp đều không, dù là pháp thế gian hay pháp xuất thế. Đây là ý nghĩa của Vô tâm trong nhà Thiền, nhẫn nhục xứng theo tự tánh nên phù hợp với Ba-la-mật.

    Ngày xưa, các vị Tổ Sư thường tạo nhưng nghịch duyên để thử thách một số môn đệ có khả năng đảm đương việc lớn. Ngài Linh Hựu lúc được thầy giao trọng trách về núi Qui để phát huy tông phong, không được Thầy cho một thứ tài sản vật chất gì, chỉ một thân một mình trên núi hoang đầy thú dữ. Hàng ngày Ngài chỉ uống nước suối ăn quả rừng, ròng rã suốt bảy năm, khi cơ duyên đến mới hoằng truyền chánh pháp, để sau này dưới pháp hội của ngài là cả ngàn môn đệ. Đây là ý nghĩa thâm trầm cùa sự tu hành không ngại khó khổ, nhẫn nhục trước mọi sóng gió gian lao.Cho nên, trong nhà Thiền thường có chủ trương hơi kì lạ: không sợ thất bại mà lại sợ thành công dễ dàng. Cây mọc nơi đất khô cằn, nếu lớn lên được thì có lõi rất cứng chắc. Cây mọc nơi đất đai phì nhiêu được vun bón tưới tẩm thường xuyên lại dễ đỗ ngã khi có giông bão.Cũng vậy, một người trải qua nhiều gian khổ thử thách mà vươn lên là người đáng tin cậy, có thể giao trọng trách ; còn người nào muốn nương nhờ thầy thường ỷ lại, đến khi gặp một trở ngại nhỏ cũng có thể thối tâm Bồ Đề. Vả lại, khi có nhiều thuận duyên, người tu dễ có ảo tưởng là đường tu rất suông sẻ, tu là để thụ hưởng, cuộc đời tu luôn luôn an vui đầy đủ, điều này có hại hơn có lợi cho công phu hành trì.

    4- Tinh tấn Ba la mật

    Tinh là chuyên ròng, không xen tạp; Tấn là siêng năng tiến tới. Việc học và hành đạo của Bồ tát phải tinh chuyên và cần mẫn, đó là tinh tấn. Nhưng tinh tấn thế nào mới đúng với tinh thần Ba la mật ?

    Thiền sư Huyền Giác trong Chứnng Đạo Ca có câu: “sá gì tinh tấn hướng ngoài khoe” như là lời nhắc nhở. Chúng ta tu trước tiên là cho bản thân, nhưng có tính cách âm thầm chứ không phải khoe khoang cho người khác thấy. Nếu nơi chỗ đông đảo ta làm vẻ tinh tấn tu hành, oai nghi phép tắc; khi không có ai lại chểnh mảng trong công phu, đó là chấp tướng, giả trang và đầy bản ngã, như thế, chưa phải thật sự là tinh tấn.

    Các bậc Thanh văn, Duyên Giác cũng tinh tấn công phu, nhưng đến quả vị ấy là xem như đạt mục đích. Thật sự, các vị chỉ mới ở Hóa thành chứ chưa phải là Bảo sở. Có thể nói, tinh tấn Ba-la-mật là ý nghĩa tu hành của một Bồ tát đang đi trên đường thành tựu quả vị cao tột, tức là Phật quả.

    Tinh tấn được ví như nhiên liệu của xe. Thân năm uẩn là chiếc xe, người tu dùng nó để đi đến đích. Nếu xe tốt, người lái giỏi mà không có nhiên liệu thì xe cũng không chạy được. Tinh tấn là điều kiện cần thiết hỗ trợ cho việc tu hành. Trong suốt cuộc đời, chúng ta gặp biết bao nhiêu lần thất bại cũng như biết mấy lúc thành công? Nhưng nếu thành công ta không sanh tâm kêu mạn, lúc thất bại ta không thối chí ngã lòng, thì dù nhanh hay chậm, ta đã có tiến bộ. Đọc lịch sử Đức Phật Thích Ca,Chúng ta thấy rõ rằng, nhờ tinh tấn tu hành mà ngài thành Phật cách đây hơn hai ngàn năm trăm măm; trong khi đức Di Lặc tu đồng thời với Ngài, không tinh cần bằng Ngài nên bây giờ vẫn là Bồ Tát ở cung trời Đâu Suất.

    Mặt khác, tinh tấn phải thường xuyên. Nước mềm đá cứng, nhưng nước chảy thường xuyên sẽ làm đá mòn; giọt nước tinh tấn thường xuyên nhỏ trên tản đá vô minh sẽ soi thủng được đá. Muốn có lửa phải cọ sát hai khúc cây liên tục, cây nóng dần lên mới phát tia lửa. Một Thiền sư có bài kệ:

    Trong cây vốn có lửa

    Tia lửa lại sáng lòa

    Nếu bảo cây không lửa

    Cọ sát sao lại ra?

    Trong chúng ta vốn có lửa trí tuệ, phải tinh tấn cọ sát liên tục, lửa trí huệ ấy mới phát sinh. Nếu có lúc quá ư siêng năng, nhưng có khi lại bê trễ, thì sự tu hành khó đạt kết quả mong muốn. Chúng ta không cần phải có hình thức sinh hoạt gì đặc biệt hoặc tỏ vẻ khác đời, chỉ cần sống và tu một cách bình thường, không biếng nhác lười mỏi trong công phu, đều đặn ngày này qua ngày khác, như thế là hợp lẽ đạo.

    Tinh tấn còn có nghĩa là năng lực của nội tâm và dùng năng lực ấy để phục vụ cho người khác. Thế nào là năng lực của nội tâm? Khác với người thế gian cần cù làm ăn học hành nhưng có xu hướng theo ngoại dục và chú trọng đến nhu cầu vật chất; người tu, một mặt phải giữ gìn sức khỏe thể chất, nhưng quan trọng hơn là phải giữ sức khoẻ tinh thần, nghĩa là làm sao để tâm không bị quay cuồng theo ngũ dục, ngày càng có sự an lạc và tăng trưởng trí tuệ. Được như thế, người tu mới có thể giúp đỡ mọi người một cách tích cực và có hiệu quả. Ý nghĩa của việc tu hành Bồ tát đạo là vừa làm lợi ích cho người, đồng thời cũng được lợi ích cho mình. Giữa Bồ tát và chúng sanh có sự liên hệ chặt chẽ và hai chiều : Nhờ Bồ tát mà chúng sanh bớt khổ, biết đường hướng tu hành; nhờ chúng sanh mà Bồ tát tự hoàn thiện mình khi làm việc phụng sự và giáo hóa.

    Tinh tấn thường xuyên liên tục cần có sự hỗ trợ của ý chí và nghị lực mạnh mẽ. Trên đường tu, không phải lúc nào mọi người cũng cư xử tốt đẹp, mọi việc cũng êm xuôi như ý. “Phật cao một thước, ma cao một trượng”. Khi mới sơ phát tâm, nội lực còn kém thì ít bị ma chướng. Chúng ta tu càng tiến thì ngũ dục lục trần càng công phá mãnh liệt, nghịch duyên càng kéo đến liên miên. Nếu không có ý chí kim cương và nghị lực vững mạnh, người tu khó có thể vượt qua những chướng ngại trùng điệp ấy. Đối với Bồ tát, chướng duyên là thắng duyên, vì chúng củng cố và phát triển nghị lực, hùng lực cho các Ngài, giúp các Ngài tiến nhanh hơn trên đường đạo. Đề-Bà-Đạt-Đa được Đức Phật gọi là Thiện hữu tri thức bậc nhất của Ngài, cũng chính vì lý do này.

    5- Thiền định Ba-la-mật

    Trong 49 ngày đêm ngồi dưới cội cây Tất- bát-la nên dòng sông Ni-liên-thuyền, đức Phật nhờ thiền định mà dứt sạch mối manh sinh tử, chứng quả vô thượng Bồ Đề. Những vị đệ tử của Ngài cũng nhờ thiền định thành A-la-hán, không còn luân hồi trong ba cõi. Bồ tát thệ nguyện vĩnh kiếp ở trong trần lao giáo hóa chúng sanh, cũng phải nhờ thiền định để không bị nhiễm nhơ trần tục. Điều này cho thấy, thiền định là cốt lõi, là sức sống của Đạo Phật, là căn bản của công phu hành trì trong mọi tông phái.

    Nội dung của thiền định là sự bình ổn nội tâm, không quay cuồng theo trần cảnh. Lục Tổ Huệ Năng trong kinh Pháp Bảo Đàn định nghĩa về thiền định như sau: “Ngoại ly tướng vi thiền, nội bất loại vi định”. Thiền là bên ngoài không dính mắc vào các pháp, định là nội tâm không còn vọng tưởng lăng xăng. Thiền định không chỉ ở trong tư thế ngồi, mà ở bất cứ mọi nơi mọi lúc, nên là một thực tại bất ly thế gian. Trong thời đại văn minh khoa học mà tiện nghi vật chất được xem như nhu cầu thiết yếu, cuộc sống hối hả tranh đua làm con người ngày càng bị căng thẳng thần kinh, càng mất đi sự bình an cần thiết cho sức khỏe tinh thần. Bệnh tật của tinh thần kéo theo bệnh tật về thể chất, và thiền định chính là phương thuốc hữu hiệu có thể điều trị những bệnh về thân và tâm ấy.

    Thiền định giữ tâm ngươi tu bình thản an nhiên trước phong ba bão táp của cuộc đời. Đặc biệt đối với bát phong [ Tám tình huống thường xảy ra trong cuộc sống, ví như tám ngọn gió: lợi (thu được tài sản), suy (hao tài tốn của), hủy ( bị phỉ bán), dự (được ca tụng), xưng (được khen tặng), cơ (bị chê bai), khổ và lạc (khổ và vui).] được xem như là thước đo định lực của người tu, nếu có thể bất động như gió thổi qua màn lưới thì mới là người đạt đạo. Cũng nhờ thiền định mà Bồ tát hững hờ với mọi cám dỗ lạc thú thế gian, nên làm tất cả phật sự mà không vướng vào danh lợi tài sắc. Từ đó, Bồ tát hít thở được không khí tự do đích thực phát xuất từ tâm thanh tịnh của chính mình.

    Tiến thêm một bước, thiền định là phương tiện cho trí tuệ vô thượng phát sinh. Có những lúc toạ thiền, tâm hoàn toàn rỗng rang vắng lặng, người tu nhận ra từ trong cõi miền sâu xa của tâm thức, có một năng lực vận hành. Đây là cái BIẾT một cách trực tiếp và thấu thể về tất cả các pháp, biết không qua ý thức phân biệt nhị nguyên, khởi đầu của TRÍ VÔ SƯ, đỉnh cao của cuộc đời tu hành. Tất cả giáo pháp của ĐỨC PHẬT đều lưu xuất từ trí tuệ này, nên khi Bồ tát có một trình độ tâm linh khả dĩ, thì sự giáo hóa của các Ngài sẽ đem lại lợi ích lớn cho quần sanh. Nhưng thiền định như thế nào mới khế hợp với tinh thần Ba-la- mật?

    Thiền định Ba-la-mật là Bồ tát không chấp vào cảnh giới chứng ngộ. Nhà Thiền có câu “Gặp Phật giết Phật, gặp ma giết ma” để nhắc nhở người tu không được chấp trước, trú trước và nhiễm trước vào những cảnh giới sở chứng, vì đó chỉ là do tâm biến hiện. Bồ tát luôn học và tu theo tinh thần vô sở cầu vô sở đắc, nên không có niệm ưa thích Niết Bàn hay chán ghét địa ngục, nhờ vậy mới hoàn thành hạnh nguyện độ sanh.

    6- Trí huệ Ba-la-mật

    Đạo Phật là đạo giác ngộ, Đức Phật là bậc giác ngộ vô thượng, nên tất cả những người con Phật đều xem giác ngộ là sự nghiệp chung thân. Dù đang công phu theo pháp môn nào, người tu cũng đặt trí tuệ lên hàng đầu. Bồ tát tu theo Lục Độ thì chi phần thứ sáu tức Trí huệ Ba-la-mật cũng là chổ y cứ của năm chi phần trên.

    Trí huệ Ba-la-mật, còn gọi là Bát nhã Ba-la-mật, là trí huệ của một bậc Bồ tát đã quán triệt chân tướng của vạn pháp. Nhờ trí huệ cứu cánh cùng tột này, Bồ tát thiết lập nhiều phương tiện, tuỳ căn cơ trình độ và sở thích của chúng sanh để giáo hóa họ một cách hiệu quả.

    Có ba cấp độ Bát nhã:

    1- Văn tự Bát nhã: Đây là giai đoạn đầu dành cho người sơ cơ, nhưng rất cần thiết và được xem là bước căn bản. Chúng ta học trên kinh sách, hiểu lời Phật dạy, sau đó suy gẫm và đối chiếu từ bản thân ta đến các pháp bên ngoài. Trí huệ phát sinh từ đọc và nghe giảng (văn huệ) sau đó phân tích suy luận để hiểu thấu vấn đề (tư huệ) là vốn liếng đầu tiên của một Bồ tát trên bước đường hoằng hóa lợi sanh sau này. Do vậy, trong Tứ hoằng thệ nguyện có câu “Pháp môn vô lượng thệ nguyện học” là ý nghĩa thu gom kiến thức, để tự hoàn thiện mình và để tự có khả năng giúp đỡ giáo dục cho người.

    2- Quán chiếu Bát nhã: Bồ tát quán tự tại khi hành sâu Bát nhã Ba-la-mật, Ngài soi thấy năm uẩn đều không, liền qua hết thảy khổ nạn. Chúng ta tu theo Ngài, gia công quán chiếu để thấy rõ thân tâm này do các duyên hợp lại. Đủ duyên thì thành, hết duyên lại trả về hư không, nên nó không có thực thể. Như vậy, tự tánh của thân tâm ta là không, nhờ duyên hợp lại nên tạm có. Thân ta như vậy, thân người khác cũng như vậy; cho đến tất cả cáp pháp thế gian và xuất thế, tự tánh đều là KHÔNG. Vào giai đoạn này, vẫn còn phân biệt tâm năng quán và cảnh sở quán, nên chưa phải là rốt ráo.

    3- Thực tướng bát nhã: Bồ tát quán triệt tự tánh Không của tất cả pháp không phải bằng ý thức tư duy suy luận, mà do trí tuệ bát nhã thấu rõ đương thể tức không. Ở đây không còn phân biệt Ta-Người năng sở, mà cả hai đều hòa nhập, viên dung trong trạng thái nhất như. Bồ tát thâm nhập chân lý tuyệt đối, không phải ở một thế giới nào đó xa xôi, ở một thời khắc nào đó của tương tai không với tới, mà ngay thế giới trần tục. Ngay mảnh đất thực tại nhận chân được thực tướng của vũ trụ vạn pháp. Đây chính là trí huệ Ba-la-mật.

    Kinh Pháp Hoa có bài kệ:

    Chư Pháp tùng bổn lai

    Thường tự tịch diệt tướng

    Phật tử hành đạo dĩ

    Lai thế đắc tác Phật

    Tạm dịch:

    Các Pháp xưa đến nay

    Tướng thường tự vắng lặng

    Phật tử hành đạo rồi

    Đời sau được làm Phật

    Bằng trí huệ thực chứng Pháp thân, Bồ tát thấy rõ tất cả các Pháp xưa nay, tướng của chúng thường tự vắng lặng. Tướng ở đây là thực tướng vô tướng, vì khi tiếp duyên xúc cảnh, Bồ tát không khởi niệm phân biệt chia chẻ, chủ thể và đối tượng nhận thức không hai. Mọi cảnh vẫn sống động vẫn lưu chuyển, nhưng tâm hoàn toàn thanh tịnh nên tất cả pháp đều là Phật pháp. Bằng trí giác, Bồ tát nhận ra thực tại nhiệm mầu nghìn đời cũng chỉ trong một sát na, tại đây và bây giờ. Lìa sóng không thể có nước, lìa bỏ trần tục không thể thấy được Niết Bàn. Tư tưởng vút cao của Bồ tát Đại thừa là tinh thần bất nhị, đem đến sinh khí cho cuộc đời vì Bồ tát không hề xa lánh cỏi trần để tìm cầu giải thoát. Bồ tát nguyện vĩnh kiếp hòa quang đồng trần để tự thanh lọc mình và để cứu độ chúng sanh. Vẫn biết có lúc Bồ tát phải ở yên một nơi vắng vẻ, nhưng đó là thời gian củng cố và phát triển đạo lực, trang bị những khả năng cần thiết cho công việc giáo hóa sau này. Khi đã đủ nhân duyên, Bồ tát vận dụng trí huệ Ba-la-mật làm mọi Phật sự, trí huệ Ba-la-mật soi rọi bản thân để hoàn thành sự nghiệp tự lợi- lợi tha, cuối cùng viên mãn Phật quả.

    ***

    Lục độ Ba-la-mật vừa là pháp tu vừa làm nên tinh thể của một vị Bồ tát. Trên đường tu Bồ tát hạnh- hành Bồ tát đạo, vị ấy phải có đủ đại trí, đại bi, đại từ, đại nguyện: Trên cầu Phật đạo, đạt giác ngộ tối thượng; dưới hóa độ tất cả chúng sanh trong ba cõi sáu đường. Nhờ trì giới, tinh tấn và thiền định, Bồ tát phát khởi trí huệ, thấu triệt bình đẳng tánh nơi muôn sự muôn vật, thấy mình và mọi loài chúng sanh không hai không khác. Bằng trí huệ, Bồ tát có khả năng xuất chúng về mọi phương diện, đồng thời phát khởi lòng từ bi, do vậy có thể nhẫn nhục để hành hạnh bố thí. Do làm tất cả hạnh nguyện với tinh thần Ba-la-mật, nên viên dung giữa mình và người, không có tâm mong cầu sở hữu. Vì nhân vô vi nên đạt quả cứu cánh, phương pháp tu của các Ngài vừa làm lợi ích cho mình, vừa giúp được cho người một cách trọn vẹn. Kính ngưỡng nhân cách vĩ đại của Bồ tát, chúng ta cũng nguyện noi gương các Ngài, vượt qua mọi khó khăn gian khổ để tiếp bước trên con đường Đức Phật đã đi và đã đến đích./.

    http://www.buddhismtoday.com/viet/ph...cdobalamat.htm
    điện thoại thông minh

    sắp giầu rùi

  2. #2

    Mặc định

    G. –TỪ LÀ CỘI GỐC (168-177)
    Những kẻ có căn lành, lòng từ là cội gốc.
    Kinh Niết Bàn

    Từ tâm tức là nhơn duyên của tất cả sự an vui. Rời từ bi thời chẳng còn có pháp lành.
    Kinh Ưu Bà Tắc Giới

    Bồ tát là nhà đại thí chủ, có bao nhiêu của cải bình đẳng thí cho chúng sanh mà không hối tiếc. chẳng mong quả báo, chẳng cầu danh vong, chẳng cầu sanh về chỗ hơn, chẳng cầu lợi dưỡng. Mà Bồ tát chỉ muốn cứu độ tất cả chúng sanh, muốn thu lấy lợi ích cho chúng sanh, muốn học theo bổn hạnh của các Đức Phật , muốn hiển hiện bổn hạnh của các Đức Phật, và muốn khiến tất cả chúng sanh lìa tất cả khổ, được vui rốt ráo.
    Kinh Hoa Nghiêm

    Người trí tu hạnh bố thí chẳng vì mong trả ơn, chẳng vì cầu được việc, chẳng vì hộ kẻ xan tham, chẳng vì sanh các cõi trời hưởng vui, chẳng vì tiếng tốt lưu bố ra ngoài, chẳng vì sợ hãi nỗi khỗ ba ác đạo, chẳng vì cầu việc chi hết, chẳng vì hơn người , chẳng vì mất của, chẳng vì có nhiều, chẳng vì chẳng dùng, chẳng vì tục lệ của gia truyền, chẳng vì đề gần gũi.
    Người trí tu bố thí: Vì lòng thương xót, vì muống khiến kẻ kia được an vui, vì muốn họ cũng sanh lòng bố thí, vì muốn cùng các bậc thánh nhơn mà tu đạo, vì muốn phá hoại phiền não và vì muốn vào cõi Niết bàn đoạn hữu vậy.
    Người không của tự nói không có của là không thiệt. Tại sao? Là người ai lại không có được một chén nước, một cọng cỏ? Những kẻ nghèo xơ, sau một bữa ăn, đem nước rửa chén mà bố thí cũng vẩn được phước; hay là đem một hạt cơm thí cho con kiến cũng vẫn được phước báo vô lượng; dầu cho những người cực nghèo trong thiên hạ ai lại không có một hạt cơm, hay một miếng bánh bằng bột? Những người cực nghèo tuy không có áo mặc, nhưng đâu phải họ thiệt ở truồng, nếu họ biết đem một sợi chỉ nơi áo quần bố thí cho người bị thương băng bó vết thương.
    Nầy Thiện nam tử! Dầu cho những kẻ bần cùng trong thiên hạ đi nữa, đâu phải họ không có cái thân, nếu họ không có vật chỉ bố thí, thì mỗi khi thấy có kẻ khác tu bố thí, họ đem thân đến mà hiệp lực giúp đỡ với kẻ kia.
    Nếu người không có Tâm bố thí thì dầu cho làm đến vị Quốc vương, cũng chưa chắc bố thí cho ai được chút gi!
    Kinh Ưu Bà Tắc Gìới.

    Đời lắm kẻ ngu, giữ chặt lòng bủn xỉn, chẳng bố thí, chứa vàng của vạn ức, cho là vật sở hữu của ta. Đến khi chết, mắt thấy ác quỷ, đao-phong cắt thân, tuyệt hơi thở. Bây giờ tùy theo lòng tham nặng nhẹ, lãnh lấy quả báo đau khổ. Đến chỗ chịu khổ mới biết ăn năn, đâu còn kịp nữa!
    Kinh Bồ-Tát Xử Thai

    Nếu có người bần cùng, không của bố thí, khi thấy kẻ khác bố thí nên sanh tâm tùy hỉ; phước báu tùy hỉ, ngang với kẻ tu bố thí không khác. Ấy là việc rất dễ tu, ai tu chẳng đặng vậy.
    Kinh Nhơn Quả

    Nếu Bồ-tát tu thí, chỉ có lòng thương xót cũng được đầy đủ, huống là còn cho tài vật nữa. Nghĩa là Bồ-tát đem lòng từ bi nghĩ việc bố thí, tuy không có tài vật, khi thấy người đến xin chẳng nỡ nói: “Không có”, thương mà sa nước mắt. Bồ-tát có 3 trường hợp rơi nước mắt:
    1) Khi thấy người tu công đức mà rơi lệ, vì lòng kính mên
    2) Khi thấy chúng sanh đau khổ bởi không công đức mà rơi lệ vì lòng thương xót.
    3) Khi tự tu đại bố thí thương, vui nhảy nhót mà rơi lệ

    Bồ-tát tu bố thí xong chúng sanh no đủ liền vào núi, tu thiền định giúp trừ ba độc.
    Kinh Luận-Đại-Trượng-Phu

    Bảo với người xin rằng: “Ngươi nay thật làm nhơn công đức cho ta, vì khiến ta lìa lòng xan tham, đều nhớ nhơn duyên ngươi đến xin.”
    Kinh Ưu bà tắc giới

    Nếu thấy có người đến xin mà mặt mày nhăn nhó, thời phải biết người ấy họ đang mở cửa ngạ quỹ.
    Kinh Bồ-Tát Bổn Hạnh

    Xưa có người muốn sắp mở hội mời số khách đông để cúng dường sữa bò. Rồi tự nghĩ: “Nếu từ nay, cứ mỗi ngày nặng lấy sữa thì sữa sẽ nhiều không đồ chứa; mà chứa để lâu ngày sợ e sữa hư; chi bằng chứa luôn trong bụng bò, đến ngày khách đến sẽ nặng lấy một lần cho tiện. Thể rồi liền dắt bò con đem cột riêng xa bò mẹ. Qua thời gian một tháng, mới mời khách đến, đem bò ra nặng sữa, sữa đã khô mất hết, nặng không ra một giọt!
    Người muốn đợi cho giàu to mới tu đại bố thí, chớ thường ngày chẳng chịu bố thí. Đến khi muốn thí thời của cải đã bị nước, lửa, giặc cướp đoạt mất hết chẳng còn một đồng mà thí! cũng như chứa sữa trong bụng bò.
    Kinh Bách Dụ

    Đức Thế Tôn bảo các Tỳ-kheo rằng: Thí cho mhằm thì có 5 việc :
    1) Thí cho kẻ từ xa đi đến
    2) Thí cho kẻ sắp đi xa
    3) Thí cho người bịnh
    4) Thí cho lúc đói kém
    5) Mới được dưa, quả mới chín, hoặc cơm mới, phải trước cúng cho vị tinh tấn, trì giới, nhiên hậu mình mới dùng.

    Đức Thế Tôn lại bảo các Tỳ-kheo có 5 món thí được phước báu lớn:
    1) Tạo lập vườn tược
    2) Trồng cây bên đường
    3) Tạo tác cầu cống
    4) Đóng thuyền to
    5) Vì người sẽ đến, xây cất nhà cửa chổ ở
    Kinh Tăng nhứt A-Hàm

    Lòng thương thí một người, công đức lớn bằng đất; vì mình thí tất cả, được báo bằng hột cải. Cứu một người nguy nạn, hơn bố thí tất cả, các sao tuy có sáng, chẳng bằng sáng mặt trăng.
    Luận Đại-Trượng-Phu

    Thí kẻ bần cùng, sanh lòng thương xót; thí đấng phước điền, sanh lòng vui mến; thí bậc thân hữu sanh lòng tinh tấn.
    Kinh Ưu bà tắc giới

    Tu bố thí được phước; tu từ tâm không oán; làm điều thiện hết ác; bỏ dục không phiền não.
    Kinh Trường A Hàm

    Đức Phật đến trước cửa một nhà để khất thực, người vợ chủ nhà đem cơm để vào bình bát ngài, rồi làm lễ cúng.
    Đức Phật dạy: Đem giống trồng một sanh mười, trồng mười sanh trăm, trồng trăm sanh ngàn, trồng ngàn sanh vạn, và trồng vạn sanh ức; được thấy đạo lý chắc chắn.
    Người chồng không tin bảo: Cúng một bát cơm có đâu được phước nhiều như thế?
    Đức Phật liền chỉ: Người có thấy cái Đại Thọ Ni Câu Đà kia không ? Nó cao lớn thịnh mậu đến 45 dặm. Cứ mỗi năm trái nó sinh ra chừng vài vạn hộc, hột nó nhỏ như hột cải, mà đất nó có biết đâu được sức kết quả nhiều như thế? Nhưng là đất, chớ người là thuộc loại hữu tình; do tâm vui mừng đem một bát cơm dâng lên Phật, được phước rất lớn, không thể kể xiết.

    Bấy giờ tâm ý đôi vợ chồng được tỏ ngộ liền chứng đạo quả Tu-đà-hoàn.
    Kinh Tạp Thí Dụ

    Thường vui tu trí huệ, mà chẳng tu bố thí, đời sau được thông minh, nghèo túng không của cải; chỉ vui tu bố thí, mà chẳng tu trí huệ, đời sau được giàu to, ngu ám chẳng biết gì; thí, huệ đều song tu, đời sau giàu, trí đủ; hai món đều chẳng tu, nhiều kiếp bị nghèo, ngu !
    Kinh Phân Biệt Nghiệp-Báo

    Nếu người lòng tham nhiều lắm, đối với đất bùn xem nặng hơn vàng ngọc; trái lại kẻ nhiều bi tâm, tuy bố thí vàng ngọc, coi nhẹ hơn cỏ cây. Nếu người lòng bủn xỉn làm nhiều, rủi mất của cải, lòng rất sầu khổ. Nếu kẻ bố thí khiến người lãnh thọ vui mừng, tự mình cũng mừng. Phỏng có đồ ăn ngon, nếu chẳng đem bố thí mà để tự ăn, thời cũng chẳng cho là đồ ăn ngon; hay có đồ ăn dỡ mà đem bố thí rồi mới chịu ăn, trong lòng vui sướng cho là đồ rất ngon. Hoặc bố thí rồi còn dư tự ăn, ấy là bậc đại trượng-phu, tâm sanh vui mừng như chứng được Niết Bàn. Những kẻ không có lòng tin, họ đâu tin nổi những lời nói trên.

    Người không có lòng tin, dàu có đồ ăn dỡ mà có kẻ đói đang đứng xin trước mặt, họ vẫn chẳng thí, huống là những vật tốt đẹp khác dâu dễ cho ai.

    Như có hai người: Một giàu to, một nghèo cùng. Nay có người hành khất đến xin, cả hai người đều ôm lòng buồn lo: kẻ giàu, lo sợ nó xin của; người nghèo lo tự bảo: Ta làm sao có được ít của vật gì cho họ. Hai người như vậy, tậm trạng lo khổ tuy đồng, mà được quả báo khác nhau, người nghèo vì lòng thương lo nghĩ, được sanh về cõi trời, hưởng sự giàu vui vô tận; còn kẻ xan tham đọa vào ngạ-quỉ, chịu khổ cũng khó hết.
    Luận Đại-Trượng-Phu

    Nếu bức bách gia tộc lấy của làm bố thí, người ấy chẳng được quả báo lớn. Trước chẳng hay cúng dường cha mẹ, mà lại làm khổ não vợ con, giả danh làm bố thí, thì chẳng được gọi là nghĩa khí. Tu bố thí như vậy, vì thiếu lòng thương xót nên gọi là: Chẳng biết trả ơn.
    Kinh Ưu Bà Tắc Giới

    Nếu vì muốn sanh Thiên mà tu thí, hoặc cầu tiếng khen; hoặc mong trả báo, hoặc vì sợ hãi mà tu bố thí thì được quả báo chẳng được thanh tịnh.
    Kinh Phân Biệt Nghiệp-Báo

    Trước nghĩ muốn cho nhiều, khi cho lại cho ít.
    Lựa những vật xấu đem cho người, vật tốt để lại mình
    Đã cho xong, tâm sanh hối tiếc. Ba việc như vậy là bất-tịnh-thí

    Lại có 8 việc thí xong mà chẳng thành tựu quả báo tốt:
    1) Thí rồi tìm thấy lỗi của kẻ thọ.
    2) Khi thí tâm chẳng bình đẳng
    3) Thí rồi có ý lợi dụng kẻ thọ
    4) Thí rồi vui sướng tự khen ngợi lấy
    5) Chỉ nói suông chứ chẳng cho gì cả
    6) Cho rồi ác khẩu mắng chửi
    7) Cho rồi, cầu trả lại gấp đôi
    8) Cho rồi sanh lòng nghi.
    Kẻ thí chủ như vậy, không thể gần gủi và gặp gỡ các Đức Phật và các bậc Hiền Thánh
    Kinh Ưu Bà Tắc Giới

    Lại có 5 món chẳng nên đem thí cho người.
    1) Phi lý cầu của, chẳng nên thí, vì của bất tịnh
    2) Rượu và vật độc chẳng nên thí, vì loạn chúng sanh
    3) Lưới giăng, cạm bẩy chẳng nên thí, vì hại cs
    4) Dao, cung tên chẳng nên thí, vì giết chúng sanh
    5) Đồ âm nhạc và nữ-sắc chẳng nến thí vì hoại tịnh tâm
    Kinh Bảo-Tích

    Nước Xá-Vệ có cô gái nghèo tên Nan-Đà, thân thế cô độc sanh sống bằng lối đi xin. Bấy giờ cô thấy các vị vua chúa, quan Đại thần, trưởng-giả v.v…cúng dường Phật và chư Tăng, cô tự nghị: ta mắc tội báo gì mà sanh vào nhà bần tiện thế nầy nên không thể cúng dường đấng Phước Điền. Cô tự hối trách lấy mình qua một ngày nọ đi xin chỉ được một đồng tiền liền đến nhà bán dầu để mua. Người bán dầu hỏi: Mua một đồng số dầu rất ít dùng sao được, vì sao mua ít thế? Nàng tỏ bày nỗi niềm và tâm nguyện của mình. Sau khi nghe, người bán dầu thưong tình mà bán cho số dầu gấp bội. Nan-Đà xiết nỗi vui mừng, đem thẳng đến tinh-xá kỳ-viên dâng cúng Đức Thế Tôn. Rồi nàng phát nguyện rằng: “ Nay tôi xin đem một ngọn dèn mọn nầy cúng dường Đức Phật, nguyện nhờ công đức nầy đời sau tôi được trí huệ sáng suốt, và được trừ dút ngu ám cho tất cả chúng sanh.” Phát nguyện xong, lễ Phật và lui về.

    Quá nửa đêm, các ngọn đèn kia đều tự tắt hết, chỉ còn một ngọn đèn nầy không tắt; ngài Mục-Kiền-Liên ba lần tắt mà nó chẳng tắt. Đức Phật thấy bảo: Nầy Mục-Kiền-Liên, ngọn đèn đây do người tín-nữ đem tâm bồ đề mà cúng dường, dầu cho lấy nước bốn biển cả mà đổ lên nó vẫn chẳng tắt.
    Kinh Hiền Ngu


    Nguồn đọc thêm: http://vutruhuyenbi.com/forum/viewto...#ixzz25Nt1dpDL
    Last edited by dienthoai; 03-09-2012 at 01:18 PM.

  3. #3
    Nhất Đẳng Avatar của huuthuongsl
    Gia nhập
    Jun 2011
    Nơi cư ngụ
    Vùng biên địa hạ tiện
    Bài gởi
    1,231

    Mặc định

    Phước đức bố thí thật không thể nghĩ bàn
    nam mô a di đà phật
    điện thoại thông minh

    sắp giầu rùi

Thread Information

Users Browsing this Thread

There are currently 1 users browsing this thread. (0 members and 1 guests)

Similar Threads

  1. PHƯƠNG TU THỜI TAM KỲ PHỔ ĐỘ
    By kinhvotu in forum Đạo Cao Đài
    Trả lời: 5
    Bài mới gởi: 22-07-2012, 12:50 AM
  2. Trả lời: 1
    Bài mới gởi: 31-05-2012, 11:35 PM
  3. Kinh Đại Phương Tiện Phật Báo Ân
    By trango in forum Sách Tôn Giáo
    Trả lời: 11
    Bài mới gởi: 14-03-2012, 01:31 AM
  4. Trả lời: 0
    Bài mới gởi: 05-04-2011, 09:27 PM
  5. KINH ÁNH SÁNG HOÀNG KIM
    By COLONY in forum Mật Tông
    Trả lời: 14
    Bài mới gởi: 21-01-2011, 01:39 PM

Bookmarks

Quyền Hạn Của Bạn

  • You may not post new threads
  • You may not post replies
  • You may not post attachments
  • You may not edit your posts
  •