kết quả từ 1 tới 10 trên 10

Ðề tài: Hòa Thượng Tuyên Hóa giảng về Kinh Dược Sư.

Threaded View

Previous Post Previous Post   Next Post Next Post
  1. #1

    Mặc định Hòa Thượng Tuyên Hóa giảng về Kinh Dược Sư.

    Dược Sư Lưu Ly Quang Như Lai
    Bổn Nguyện Công Đức Kinh.
    Kinh Công Đức Các Bổn Nguyện
    của Dược Sư Lưu Ly Quang Như Lai Lược Giảng


    Đường Tam Tạng Pháp Sư Huyền Trang phụng chiếu dịch
    Tuyên Hóa Thượng Nhân giảng tại Kim Luân Thánh Tự,
    Los Angeles, California, Hoa Kỳ năm 1983.


    Vì vấn đề sanh tử của chúng sanh chúng ta mà đức Phật Thích Ca xuất hiện
    tại cõi Ta-bà này. Ngài được sanh ra trong một gia đình vương giả, nhưng Ngài đã
    từ bỏ sự giàu sang của cả một vương quốc để ra đi lo việc tu hành và chứng thành
    Phật quả dưới gốc cây Bồ-đề. Sau khi chứng quả Phật, Ngài quán sát các chúng
    sanh trong thế giới Ta-bà và nhận thấy rằng các chúng sanh tại đây có một nhân
    duyên sâu đậm với hai vị Phật, đó là đức Dược Sư Lưu Ly Quang Như Lai ở
    phương Đông và đức A-Di Đà Như Lai ở phương Tây.
    Đức Dược Sư Lưu Ly Quang Như Lai ở thế giới Lưu Ly nơi phương Đông
    có thể giúp chúng ta tăng phước tăng thọ, tiêu trừ tai nạn; còn đức A Di Đà Như
    Lai ở phương Tây thì có thể tiếp dẫn chúng ta mang theo nghiệp mà sanh về thế
    giới Cực lạc, “hoa nở liền trông thấy Phật, ngộ được pháp Vô sanh nhẫn.”
    Trong bài Nhị Phật Chú có câu:
    “Nhị Phật diễn hóa tại Ta-bà
    Đông A-súc, Tây Di-đà”
    2

    Hai câu này nghĩa là Phật A-súc, tức Phật Dược Sư và Phật Di-đà đều giáo
    hóa chúng sanh tại thế giới Ta-bà. Hai vị Phật, một vị ở phương Đông, một vị ở
    phương Tây, nhưng cả hai đều có nhân duyên rất sâu đậm với chúng ta nơi cõi Ta-
    bà, do đó Tiêu Tai Diên Thọ Dược Sư Phật chính là Dược Sư Lưu Ly Quang Như
    Lai, còn Vô Lượng Thọ Phật, Vô Lượng Quang Phật chính là A-di-đà Như Lai.
    Nếu có ai niệm danh hiệu của Đức Phật Tiêu Tai Diên Thọ Dược Sư thì
    người đó được giải trừ tai nạn, bệnh tật tiêu tan, tội diệt, phước sanh, tâm ý mãn
    nguyện. Vậy, vị Phật giúp các chúng sanh kéo dài mạng sống chính là Tiêu Tai
    Diên Thọ Dược Sư.
    Còn đức Phật A-di-đà thì sao? Ở đây là vấn đề vãng sanh. Như có ai muốn
    về thế giới Cực Lạc, thì phải niệm danh hiệu của đức Phật A-di đà. Nếu quý vị
    muốn sanh về cõi Lưu Ly, tức là thế giới của Dược Sư Lưu Ly Quang Như Lai thì
    hãy niệm danh hiệu của Ngài Dược Sư.
    Khi còn sống, người ta muốn tiêu trừ tai nạn, kéo dài tuổi thọ; còn khi lâm
    chung người ta mong về nơi thế giới Cực Lạc. Bởi vậy, trong Phật giáo chúng ta
    thấy có cái bài vị mầu đỏ gọi là bài vị diên thọ, ngụ ý rằng Đức Phật Tiêu Tai Diên
    Thọ Dược Sư phóng hào quang chiếu sáng ngôi sao bổn mạng. Còn khi vãng sanh,
    nếu không muốn tái sanh nơi thế giới Lưu Ly mà muốn về cõi Cực Lạc thì người ta
    niệm “Nam Mô A Di Đà Phật”. Nhân duyên của chúng ta đối với hai vị Phật nói
    trên quả là rất mật thiết.
    Tuy nhiên, chúng ta vốn chưa biết về hai vị Phật này, ngay đến cả danh hiệu
    của các Ngài chúng ta cũng không biết, do đó đức Phật Thích Ca mới giới thiệu
    cho chúng ta về danh hiệu, bổn nguyện, cùng công đức nguyện lực của các Ngài.
    3

    Bởi vậy mới có bộ Kinh này, gọi là “Kinh Công Đức Các Bổn Nguyện Của
    Dược Sư Lưu Ly Quang Như Lai”.
    “Dược Sư Lưu Ly Quang” là tên gọi của đức Phật này; “Như Lai” là một
    trong mười tôn hiệu của mỗi vị Phật; “Bổn Nguyện” là các lời phát nguyện của
    Ngài khi Ngài phát tâm Bồ-đề, thời gian trước khi thành Phật quả. Lời nguyện phát
    ra trước khi thành Phật gọi là bổn nguyện.
    “Công Đức” gồm có chữ “công”, chỉ những gì được tạo lập ở bên ngoài;
    chữ “đức” chỉ những gì được tích lũy ở bên trong. Thí dụ, quý vị dựng chùa lập
    miếu, tu sửa cầu đường, mưu cầu hạnh phúc và lợi ích cho mọi người, như vậy gọi
    là tạo lập công. Còn đức là nói về sự tình ở trong tâm, ví dụ như quý vị làm một
    điều gì mà khi trông lên thì không thẹn với trời, trông xuống không hổ với người,
    ngoài không dối người, trong không dối mình. Những hành động như vậy ở bên
    ngoài thì lập nên công, ở bên trong tạo thành đức hạnh, đó gọi là công đức.
    Về đức hạnh chúng ta có câu: “Thiện dục nhân kiến bất thị chân thiện”,
    nghĩa là phàm điều thiện mà lại muốn mọi người trông thấy, thì chẳng phải là chân
    thiện. Quý vị làm một điều thiện, quý vị không cần người ta biết đến, cũng không
    cần phải quảng cáo với ai, chẳng hạn quý vị không cần phải tuyên bố rằng: “Tôi đã
    làm việc thiện này, việc thiện kia” hay nói: “Tôi đã thọ Năm giới, thọ Tám giới, rất
    nhiều giới, tôi đã thọ Bồ-tát giới!” Những điều đó quý vị đã làm nhưng quý vị
    không khoa trương. Đức hạnh thì không ai hay biết, đó mới là đức hạnh. Như
    muốn mọi người hay biết, thì không phải rồi! Cho nên mới có câu:
    Làm thiện muốn người thấy,
    Đó chưa là thật thiện.
    4

    Làm ác sợ người biết,
    Đó mới là đại ác.
    (Thiện dục nhân kiến,
    Bất thị chân thiện.
    Ác khủng nhân tri,
    Tiện thị đại ác.)
    Làm việc thiện mà muốn mọi người hay biết tức không phải là đức hạnh.
    Điều ác mà sợ có người biết thì đó là một tội lỗi lớn. Do đó, đã là người học Phật,
    chúng ta không thể giống như vậy, không nên tranh hơn tranh kém, chẳng hạn như
    nói những câu: “Tôi đã làm nên những chuyện này, chuyện kia! Tôi như vậy đó!
    Tôi bố thí như thế này! Tôi hộ pháp như thế kia!” Có những tư tưởng, hành vi khoa
    trương tự mãn, thì đó không phải là tư cách của người hộ pháp.
    Bởi vậy, nay quý vị học Phật Pháp, nghe giảng kinh, quý vị hãy dụng công ở
    tại điểm này, chớ không phải là để hư trương danh tiếng, mượn dịp này để quảng
    cáo cho mình. Điều ta chú trọng là công phu thực sự, còn cái hư danh thì ta không
    cần biết. Chúng ta là người học Phật thì chính chúng ta phải làm gương, khiến cho
    mọi người phải kính nể phẩm hạnh của tín đồ Phật giáo! Công đức là ở chỗ đó!
    “Kinh” ở đây có nghĩa là kinh thường. Pháp kinh thường nghĩa là pháp
    không biến đổi. Kinh chính là lời của thánh nhân, lời giảng dạy do bậc thánh nói
    ra, một chữ cũng không thể bớt, một chữ cũng không thể thêm vào, ý tứ phong
    phú. Nói tóm lược thì ý nghĩa của chữ Kinh không ngoài bốn nghĩa: quán, nhiếp,
    thường và pháp.
    5

    - Quán tức là xâu qua, xuyên qua, ngụ ý rằng ý nghĩa và đạo lý trong lời
    Phật dạy giống như một cái xâu, nối nhau, thông suốt từ đầu đến cuối.
    - Nhiếp nghĩa là bắt lấy, thâu nhiếp, thích ứng với mọi căn cơ của chúng
    sanh.
    - Thường có nghĩa là không thay đổi, từ cổ chí kim luôn luôn như vậy, có
    tính vượt thời gian.
    - Pháp nghĩa là phép tắc. Chư Phật trong ba đời, quá khứ, hiện tại, vị lai,
    cũng như ba đời các chúng sanh, tất cả đều tuân theo khuôn phép đó. Bởi vậy có
    câu: “Tam thế đồng tuân danh viết pháp”, nghĩa là ba đời cùng tuân theo gọi là
    pháp. Tất cả chúng ta cũng phải tuân thủ phép tắc đó.
    “Kinh” còn được ví như dây mực của người thợ mộc, có khi mang ý nghĩa
    như một dòng suối tuôn. Thật ra chữ kinh còn chứa đựng nhiều ý nghĩa lắm, có
    điều quý vị chỉ cần nhớ lấy mấy ý chính. Kinh là gì? Kinh là kinh thường, là pháp
    không đổi thay, không cải biến, vĩnh viễn nó như vậy. Nay Phật giảng như thế này,
    trong tương lai Phật cũng giảng như thế, quá khứ Phật cũng đã giảng như vậy. Như
    trong câu: “Cổ kim chẳng đổi gọi là thường, ba đời đều tuân theo gọi là pháp”. Vậy
    kinh này, tức “Kinh Công Đức Các Bổn Nguyện Của Dược Sư Lưu Ly Quang Như
    Lai”, nếu giải thích một cách đơn giản thì là thế.
    Nay giảng các chữ trong đề kinh. “Dược” nghĩa là thuốc; “Sư” là thầy. Vị
    Phật đây là một thầy thuốc lớn, có thể trị tất cả mọi bệnh tật của người trong thế
    gian. Bất kể quý vị bị chứng bệnh nan y gì, nếu được Ngài cứu chữa thì chắc chắn
    bệnh sẽ hết. Bệnh gì cũng chữa lành, ở cửa tử mà được hồi sanh, bệnh đáng chết
    mà được cứu sống. Bởi vậy Ngài mới có tên gọi là “Dược Sư”.
    6

    “Lưu Ly” là một chất trong suốt, ở trong có thể nhìn thấu ra ngoài, ở ngoài
    có thể nhìn thấu vào trong. Lưu Ly là tên của quốc độ quả báo (báo độ) của Đức
    Dược Sư, gọi là thế giới Lưu Ly và Ngài là vị giáo chủ. Thân thể của Ngài cũng là
    chất lưu ly, nội ngoại đều sáng trong, tinh khiết. Ngài thông hiểu hết các loại thuốc.
    Ở Trung Hoa đời xưa có vua Thần Nông, và có câu nói: “Thần Nông thường bách
    thảo”, nghĩa là vua Thần Nông đã từng nếm hết thảy các thứ thuốc. Thân thể của
    vua Thần Nông cũng là chất lưu ly. Khi nếm thuốc, nuốt vào bụng rồi, vua có thể
    nhận ra tác dụng của vị thuốc, biết được vị thuốc đó đi vào đường kinh lạc nào
    trong cơ thể. Khi nếm đủ các loại thuốc xong, vua phân tích ra từng tánh chất một
    (dược tánh), vị nào chua, ngọt, đắng, cay, mặn, thứ nào là lạnh, nóng, ấm, trung
    bình, thứ nào độc, thứ nào không độc.
    “Quang” là ánh sáng. Thân thể Đức Dược Sư Như Lai không những trong
    suốt, mà còn tỏa sáng, là một đại quang minh tạng.
    “Như Lai” là một trong mười tên hiệu của Phật: Như Lai, Ứng Cúng,
    Chánh Biến Tri, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Điều
    Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật, Thế Tôn. Số là, mỗi vị Phật có mười vạn
    danh hiệu, nhưng kể đủ cả mười vạn danh hiệu ấy thì không ai nhớ được, nên
    người ta rút ngắn lại thành một vạn; tuy nhiên, một vạn kể ra cũng dài, lại rút thêm
    thành một ngàn; sau rút nữa thành một trăm và cuối cùng rút xuống chỉ còn lại
    mười danh hiệu.
    Vị Phật nào cũng có mười danh hiệu đó, chứ chẳng phải vị Phật này có mà
    vị Phật kia thì không. Học Phật Pháp chúng ta phải hiểu điều đó. Tôi nghe những
    kẻ ngoại đạo nói về “Như Lai Phật”. Họ không hiểu Như Lai Phật là vị Phật nào.
    Kỳ thực, vị Phật nào cũng có hiệu là Như Lai. Như Lai nghĩa là “noi theo đạo như
    7

    thực (Chân lý) mà đến và thành Chánh giác” (thừa như thật chi đạo lai thành
    Chánh giác)1.
    “Bổn Nguyện” là nói về các lời phát nguyện trong quá khứ của Ngài. Đây
    không phải là lời phát nguyện trong đời này. Trong kinh điển Phật giáo có các
    danh từ như bổn sự, bổn nguyện, bổn sanh. Bổn sanh là đời hiện tại, bổn nguyện
    lại thuộc đời quá khứ, còn bổn sự cũng là sự việc xẩy ra trong kiếp xưa.
    “Công Đức” và “Kinh”, các danh từ này đã được giảng rồi.
    Dược Sư Lưu Ly Quang Như Lai là vị Phật ở phương Đông. Ngài có một
    tên khác nữa là “Phật A Súc”. Phật Dược Sư thuộc Kim Cang Bộ ở phía Đông, và
    Bộ này chú trọng Pháp Hàng Phục. Pháp này chuyên hàng phục thiên ma, ngoại
    đạo. Khi chúng thấy các vị Kim Cang hộ pháp thuộc Bộ Kim Cang là chúng phải
    quy hàng. Giả tỷ như bất cứ ai niệm Chú Lăng Nghiêm thì sẽ được tám vạn bốn
    ngàn Kim Cang Tạng Bồ Tát gia hộ, che chở. Cố nhiên người đó phải thành tâm
    niệm chú mới được!
    Đại khái lược giảng về ý nghĩa của tên kinh là như vậy.
    Tôi nghe như vầy: Một thời đức Bạc Già Phạm đi hóa độ các nước, đến
    thành Quảng Nghiêm, Ngài dừng lại dưới gốc cây âm nhạc, cùng tám ngàn đại
    Bí-sô, ba vạn sáu ngàn Bồ-tát Ma-ha-tát, các quốc vương đại thần, các bà-la-
    Như Lai: Phạm, Pali: Tathagatha.
    Cũng gọi Như khứ.
    Tiếng Phạm Tathagata có thể được chia làm 2 là: Tatha-gata (Như khứ) và Tatha-agata (Như lai). Nếu theo cách
    thứ nhất thì có nghĩa là noi theo đạo Chân như mà đến quả Phật Niết bàn, cho nên gọi là Như khứ; còn nếu theo cách
    thứ hai thì có nghĩa là từ chân lý mà đến (như thực mà đến) và thành Chánh giác, cho nên gọi Như lai. Vì đức Phật
    theo Chân lý mà đến và từ Chân như mà hiện thân, nên tôn xưng Ngài là Như Lai.
    (Phật Quang Đại Từ Điển)
    1
    8

    môn, các cư sĩ, Trời Rồng và Tám bộ chúng, người và chẳng phải người, đông
    không kể xiết, cả thảy đều cung kính vây quanh nghe Phật thuyết pháp.
    Như thị ngã văn, nhất thời Bạc-Già-Phạm, du hóa chư quốc, chí
    Quảng Nghiêm thành, trú nhạc âm thụ hạ, dữ đại Bí-sô chúng bát thiên
    nhân câu, Bồ tát Ma-ha-tát tam vạn lục thiên, cập quốc vương, đại thần,
    bà-la-môn, cư sĩ, thiên long bát bộ, nhân, phi nhân đẳng, vô lượng đại
    chúng, cung kính vi nhiễu, nhi vi thuyết pháp.
    “Như thị” nghĩa là “như vầy”. Danh từ này ngụ ý rằng “pháp như vầy” thì
    có thể tin theo, học tập và thực hành. Chúng ta phải phát nguyện tu hành pháp đó,
    y theo lời dạy trong đó mà tu tập.
    “Ngã văn” nghĩa là “tôi nghe”. Đây là lời của Tôn giả A-nan. Tôn giả nói
    như sau: “Các pháp nói trong bộ kinh này là do chính tôi, A-nan, được nghe từ kim
    khẩu của đức Phật nói ra, chớ không phải là do người truyền lại. Chính là tôi đã
    được nghe”.
    Sở dĩ có mấy chữ “Như thị ngã văn” - tôi nghe như vầy - là bởi bốn nguyên
    do sau: Đó là bốn điều Tôn giả A-nan hỏi Phật. Số là khi Phật sắp nhập Niết bàn,
    Tôn giả A-nan rất đỗi bi thương, quên hết mọi sự mà chỉ biết than khóc. Ngày ấy,
    ngài A-nan đã chứng Sơ quả song ngài vẫn chưa đoạn được vấn đề tình cảm, cho
    nên khi biết tin Phật sẽ nhập Niết Bàn, ngài không thể nén được xúc động nên mới
    khóc lóc một cách bi thảm, cơ hồ chỉ biết khóc, chẳng biết chuyện gì khác nữa.
    Lúc đó có một vị tôn giả (Tôn giả A-nậu-lâu-đà) nhắc cho ngài thức tỉnh và nói
    9

    rằng: “Ông vốn có bổn phận ghi nhớ lại các lời Phật dạy, nay Phật sắp vào Niết
    Bàn, ông hãy ráng tỉnh táo mà nghĩ cho kỹ! Ngay bây giờ, ông hãy xét coi có điều
    gì trọng yếu thì phải hỏi Phật đi, đặng Phật chỉ dạy cho. Ông chỉ khóc lóc như vậy
    thì trong tương lai chúng ta sẽ ra sao đây?” Nghe lời nhắc nhở đó, Đức A-nan bèn
    tỉnh ngộ, ngài nói: “Đúng vậy! Có vấn đề gì quan trọng thì chúng ta phải mang ra
    hỏi Phật ngay. Có điều tôi khóc quá nên quên cả mọi thứ. Bây giờ chúng ta phải
    hỏi Phật những điều gì đây? Đầu óc tôi rối như tơ vò, chẳng còn nghĩ ra được vấn
    đề gì cả”.
    Vị tôn giả nói trên nói: “Ông cần hỏi Phật rằng trong tương lai khi kết tập
    kinh tạng, ở mỗi bộ kinh phải lấy những chữ gì để bắt đầu. Đó là câu hỏi thứ nhất.
    Điều thứ hai là khi Phật tại thế thì Ngài là thầy của chúng ta; sau khi Phật nhập
    Niết Bàn thì ai sẽ là thầy? Điều này cũng cần phải hỏi Phật. Thứ ba, ông hỏi Phật
    rằng khi Ngài tại thế thì tất cả các Tỳ-kheo chúng ta ở cùng với Ngài. Vậy khi Ngài
    nhập Niết Bàn rồi, chúng ta sẽ ở với ai? Điều thứ bốn là khi Phật tại thế nếu Tỳ-
    kheo nào có ác tính thì Phật điều phục họ. Sau khi Phật nhập Niết Bàn, ai sẽ điều
    phục họ?”
    Tôn giả A-nan đáp: “Bốn vấn đề vừa nói quả là trọng yếu rất mực, tôi sẽ
    phải đi hỏi Phật ngay.”
    Nói rồi, Tôn giả A-nan đi đến trước Phật, chắp tay, quỳ gối và thưa rằng:
    - Bạch Đức Thế Tôn! Nay Ngài sắp nhập Niết Bàn nên chúng con có những
    vấn đề quan trọng muốn thỉnh Phật chỉ dạy cho chúng con.
    Phật nói:
    - Ông muốn hỏi điều gì thì cứ việc hỏi.
    10

    Tôn giả A-nan thưa:
    - Trong thời gian trụ thế, Thế Tôn đã thuyết pháp 49 năm, nói kinh trong
    hơn ba trăm pháp hội, vậy ngày sau, khi kết tập kinh tạng thì phải lấy những chữ gì
    để khởi đầu cho mỗi bộ kinh?
    Phật đáp:
    - Kinh điển của chúng ta khác với kinh điển của ngoại đạo. Kinh của các đạo
    khác nếu họ chẳng nói về “có”, thì nói về “không”. Phần ghi trên đầu các kinh đều
    chẳng đi ra ngoài hai chữ “có” và “không”. Vậy về điểm này, đối với kinh của
    chúng ta, các ông nên ghi mấy chữ “tôi nghe như vầy”, ngụ ý rằng “Tôi, A-nan,
    chính tôi được nghe như vầy, chớ đó không phải là lời tôi nghe người ta truyền
    lại”.
    A-nan thưa:
    - Xin vâng! Trong tương lai chúng con sẽ ghi mấy chữ “tôi nghe như vầy”.
    Điều thứ hai con muốn thỉnh Phật chỉ dạy là khi Phật còn ở tại thế gian, tất cả các
    Tỳ-kheo chúng con đều tôn Phật là thầy. Vậy sau khi Phật vào Niết Bàn rồi, chúng
    con sẽ tôn ai làm thầy?
    Phật đáp:
    - Sau khi Như Lai nhập Niết Bàn, các ông sẽ lấy “giới” làm thầy. Ba-la-đề-
    mộc-xoa chính là thầy của các ông. Các ông giữ được giới thì chẳng khác gì ta còn
    tại thế. Các ông hãy làm các điều lành và tránh xa các điều ác.
    A-nan hỏi:
    11

    - Điều thứ ba con xin thỉnh Phật chỉ dạy là nay Phật trú ở thế gian, chúng
    con trú cùng một nơi với Phật, thường theo học với Phật. Vậy sau khi Phật nhập
    Niết Bàn thì các Tỳ-kheo chúng con sẽ trú cùng với ai?
    Phật đáp:
    - Sau khi ta nhập Niết Bàn, tất cả Tỳ-kheo các ông phải trú vào Tứ Niệm
    Xứ. Tứ Niệm Xứ, hay bốn lãnh vực quán niệm, gồm có thân, thọ, tâm và pháp. Các
    ông phải an trú vào bốn nơi này để quán niệm.
    Thứ nhất là quán thân bất tịnh, nghĩa là mình tự quán sát thân thể của mình,
    thấy thân thể này chẳng có cái gì gọi là sạch sẽ, tinh khiết, nó chỉ là sự tổng hợp
    của bốn đại: đất, nước, gió, lửa mà thành. Thứ hai là quán thọ là khổ, thứ ba quán
    tâm là vô thường, thứ tư quán pháp là vô ngã.
    A-nan hỏi Phật điều thứ tư:
    - Về những Tỳ-kheo có tánh ác, họ đều được Phật điều phục khi Phật còn tại
    thế. Vậy sau khi Phật nhập Niết Bàn, nếu có Tỳ-kheo có tánh ác, chúng con sẽ phải
    đối xử với họ ra sao?
    Phật đáp:
    - Trong tương lai nếu các ông gặp những Tỳ-kheo này thì nên lặng yên và bỏ
    mặc họ (mặc tẩn).
    Điều này có nghĩa là khi gặp những trường hợp này, ta nên giữ im lặng,
    không nói chuyện với những người ấy. Bỏ mặc tức là bỏ đi nơi khác, không lý tới
    họ, không tranh cãi với họ. Như vậy, ít lâu sau họ sẽ tự cảm thấy rằng họ sai và sẽ
    tự sửa chữa. Đối với những người đó, nếu quý vị lại hỏi han, tranh biện với họ thì
    12

    họ sẽ tự cảm thấy họ có giá trị. Còn như quý vị chẳng hỏi han gì, họ sẽ cảm thấy
    họ chẳng hay ho gì. Thế nào gọi là Tỳ-kheo có tính ác? Nên nhớ rằng chẳng phải
    người xuất gia nào cũng cố gắng tu đạo, chẳng phải bất cứ ai ở đây cũng chịu tu
    hành.
    Ngày trước, tại những ngôi chùa lớn ở Trung Hoa, các vị xuất gia rất đông,
    đủ mọi hạng người. Trong số này, có những kẻ đã từng giết người, đốt nhà, trộm
    cướp, hoặc xưa là thổ phỉ nay cải tà quy chánh, hoặc làm thổ phỉ nhưng mượn danh
    nghĩa của người xuất gia để giả trang đối với nhà chức trách, các hạng người như
    vậy đều có cả, nghĩa là rồng với rắn lẫn lộn, không đồng nhất.
    Đó là tình trạng tại Trung Hoa và tôi tin rằng ở đâu cũng như vậy mà thôi.
    Nói về loại chuyên môn ăn cắp ở Trung Hoa, người ta còn mệnh danh họ là “Thiên
    thủ Quán Âm” - nghĩa là đức Quán Âm ngàn tay - bởi họ có muôn ngàn tay thực.
    Ai có đồ vật gì hay là họ lén lấy ngay, lấy xong mang đi bán, được đồng nào thì
    mua rượu hay ma túy. Bởi vậy quý vị đừng có khờ khạo, chớ có nhắm mắt tin rằng
    ai xuất gia cũng là người tốt cả. Tôi xin nói thẳng với quý vị như vậy, kể cả tôi
    cũng có thể ở trong số đó nữa, không phải ai ai cũng tốt đâu. Có điều tôi đã nguyện
    làm điều lành. Trong quá khứ tôi không biết đã từng làm những việc gì xấu, nay thì
    tôi chỉ ước mong làm sao tu hành cho tốt mà thôi.
    Tỳ kheo ác tính thì rất là ác, họ không biết nghe lẽ phải, quý vị càng tranh
    biện với họ, họ càng thấy họ hay, họ càng làm tới, do đó Phật dạy chúng ta hãy giữ
    im lặng và bỏ mặc họ, không lý tới họ nữa.
    Nói về Tứ Niệm Xứ thì thứ nhất là quán thân bất tịnh. Quý vị có thể nghĩ
    rằng: “Mỗi ngày tôi đều tắm rửa tấm thân này sạch sẽ, sau đó tôi còn tô điểm nó
    cho thêm đẹp đẽ”. Quý vị nói đúng! Quý vị trang điểm thân mình với nhiều thứ
    13

    lắm! Tay thì đeo đồng hồ vàng, trên người có giắt cây bút đắt tiền, đầu đội mũ đẹp,
    thân mặc quần áo sang trọng, sự trang điểm tấm thân của quý vị rất là hào nhoáng.
    Nhưng quý vị có biết như vậy là nghĩa gì không? Có khác gì quý vị mang những
    đồ quý giá, mỹ lệ, dùng bảy loại báu vật để trang hoàng cái cầu tiêu. Có trang
    hoàng thế nào đi nữa thì nó vẫn là nhà xí, nó bốc mùi xú uế, nó là bất tịnh.
    Thân thể chúng ta có chín lỗ thường tiết ra những đồ bất tịnh. Ở hai con mắt
    thì có chất ghèn, ở hai tai có ráy tai, ở hai lỗ mũi có nước mũi, ở miệng thì có đờm,
    dãi. Đó là bảy lỗ. Còn hai lỗ kia dùng cho đại và tiểu tiện. Con người của quý vị
    nếu lâu ngày không tắm rửa cũng thành hôi hám. Quý vị ăn hành thì người quý vị
    sẽ tiết ra mùi hành; ai uống sữa bò thì có mùi sữa bò; ăn thịt bò thì có mùi bò; ăn
    thịt dê, thịt heo, thịt chó thì sẽ tiết ra mùi của các thứ ấy. Quý vị ăn tỏi ư? Người
    quý vị sẽ toàn là mùi tỏi!
    Quý vị bảo rằng: “Mùi phát ra ở miệng. Nếu ăn xong súc miệng, đánh răng
    thì chẳng còn mùi nữa”. Kỳ thực chẳng phải vậy. Ăn thứ gì thì chẳng phải chỉ có
    răng miệng có mùi mà toàn thân thể đều có mùi của thứ đó. Nếu quý vị không tin
    thì hãy thí nghiệm một lần cho biết. Quý vị thử uống thật nhiều sữa, tới khi đổ mồ
    hôi thì sẽ thấy mồ hôi có mùi sữa. Xem ra chín lỗ nói trên thường tiết ra chất bất
    tịnh, vậy chúng còn có gì là hay nữa? Quán sát như vậy gọi là quán thân bất tịnh.
    Thứ hai, hãy quán thọ là khổ. Thọ có nghĩa là hưởng thọ, lãnh thọ. Bất cứ
    quý vị nhận thứ gì của ai, lãnh thọ hay hưởng thọ một thứ gì, cái thọ đó là khổ. Cái
    vui sướng, tức là “lạc,” cũng là nguyên nhân của khổ.
    Thứ ba là quán tâm vô thường. Tâm của chúng ta, niệm niệm đổi thay,
    chẳng bao giờ ngưng nghỉ, nó là vô thường.
    14

    Thứ tư, quán pháp vô ngã. Tất cả các pháp đều không có ngã. Không những
    thế, chúng cũng không có ngã sở.
    Như quán thân bất tịnh, các thứ thọ, tâm, pháp cũng đều bất tịnh. Quán thọ
    là khổ, các thứ thân, tâm và pháp cũng đều là khổ; quán tâm vô thường, các thứ
    thân, thọ, pháp cũng đều vô thường; quán pháp vô ngã, các thứ kia cũng là vô ngã.
    Gọi là Tứ Niệm Xứ, bốn lãnh vực để quán niệm, nhưng một là ba, ba là một; một
    thứ tức là bốn thứ và bốn thứ tức là một thứ.
    Thời gian Phật còn tại thế thì các Tỳ-kheo trú cùng một nơi với Phật và sau
    khi Phật nhập Niết Bàn thì phải trú tại Tứ Niệm Xứ. Đó là di ngôn của Phật, lời
    Ngài phó chúc, dạy các Tỳ-kheo chúng ta phải y theo như vậy.
    Sau khi Phật vào Niết Bàn thì tất cả phải lấy giới làm thầy. Giới là nghĩa
    “không làm các điều ác, luôn làm các điều lành”; cũng có nghĩa là “ngưng ác, ngừa
    quấy” (chỉ ác phòng phi), tức là chấm dứt điều ác, tu mọi điều lành, hay làm các
    điều phải, chấm dứt các điều quấy. Đó là giới luật. Kỳ thực nguyên ủy chẳng có gì
    gọi là luật cả. Nguyên do là khi Phật còn tại thế, số đệ tử rất đông, mà càng đông
    thì phát sinh nhiều vấn đề phức tạp. Có người giữ đúng quy củ, nhưng cũng có kẻ
    không theo phép tắc gì cả. Mỗi khi gặp một nguyên do nào đó, Phật mới đưa ra
    một quy lệ, rồi lâu ngày các quy lệ đó gom lại thành giới luật. Tỳ kheo có 250 điều
    giới, Tỳ kheo ni có 348 điều, Bồ tát thì có 10 giới trọng, 48 giới khinh, Sa di có 10
    giới, cư sĩ tại gia thì hoặc 8 giới, hoặc 5 giới.
    Các giới đó không ngoài chủ ý khuyên mọi người giữ quy củ. Cho nên giữ
    được quy củ thì xã hội sẽ có những phần tử tốt, ưu tú, hiền lương, có thể mang lại
    trật tự an lành cho tất cả, không còn điều gì phiền hà trong cuộc sống. Bởi vậy giới
    15

    luật là nền tảng của một thế giới an bình. Đó là lý do mà các Tỳ-kheo phải lấy giới
    làm thầy.
    “Tôi nghe như vầy”. Vào ngày tôn giả A-nan kết tập kinh điển, lúc tôn giả
    vừa ngồi vào cỗ pháp tọa, tức là chỗ thường ngồi của Phật khi thuyết pháp, người
    ta bỗng thấy hiện ra nhiều tướng tốt lành. Đại chúng chứng kiến lấy làm lạ, trong
    lòng nẩy sinh ba điều nghi hoặc. Thứ nhất người ta nghi rằng vị tôn giả đó chẳng
    phải là A-nan thực, mà là đức Phật Thích-ca sống lại, bởi họ thấy rõ vị tôn giả
    xưng là A-nan cũng có ba mươi hai tướng tốt, cùng tám mươi vẻ đẹp nên nghi rằng
    Phật đã hồi sanh.
    Thứ hai, họ nghi rằng đây là một vị Phật ở cõi khác đến thế giới Ta-bà để
    thuyết pháp. Nếu chẳng vậy thì làm gì có được những hiện tướng tốt lành đó.
    Thứ ba, họ nghi tôn giả A-nan đã chứng Phật quả, ngài đã thành Phật.
    Bởi có những điểm nghi ngờ như vậy nên ai nấy đều bàng hoàng, chưa biết
    rõ sự thể ra sao. Tới khi Tôn giả A-nan cất tiếng: “Như thị ngã văn” - tôi nghe như
    vầy - bốn chữ đó có nghĩa như: “Đây! Pháp như vầy là do chính tôi, A-nan, được
    nghe đức Thích-ca Mâu-ni Phật thuyết giảng”, mọi người mới thức tỉnh và mọi
    nghi ngờ mới tiêu tan.
    Ngay đến hàng A-la-hán, khi nghe thấy ngài A-nan kết tập kinh điển cũng
    khởi lên ba mối nghi như vậy. Nói gì chúng ta ngày nay, nghe tới kinh này, tâm
    chúng ta bèn khởi lên, chẳng phải ba mà có thể tới hàng ngàn hàng vạn mối nghi
    nữa, tỷ như có ý nghĩ rằng: “Kinh này có thiệt hay không?”, “có phải do Phật nói
    ra chăng?”, “lấy gì làm bằng chứng?”. . . Cái máy điện toán trong thân thể này,
    không phải là điện não (computer), mà là nhân não (our brain), một khi mở máy thì
    16

    cả ngàn, cả vạn mối nghi xuất hiện. Xem như vậy thì học Phật Pháp chẳng phải là
    dễ. Chúng ta học Phật mà chẳng có thành tựu gì, chính là do cái tâm nghi ngờ đó.
    Có câu rằng: “Tu đạo cần đừng có tâm nghi”, nghĩa là người tu đạo đừng có
    tâm nghi. Nói thế này, thì quý vị không tin; nói thế kia, quý vị cũng không tin; nói
    điều chân thực cũng không tin; song nói điều hư dối thì quý vị lại tin! Đó là điên
    đảo.
    Câu tiếp theo là: “Tâm nghi vừa khởi lạc đường mê”, nghĩa là một khi quý
    vị khởi tâm nghi tức là quý vị đi ngay vào con đường lầm lạc. Bởi vậy người học
    Phật phải theo đúng châm ngôn “sáng như vậy, chiều cũng vậy” (triêu ư tư, tịch ư
    tư), ngày ngày tu học, từng giờ, từng khắc phải tu học, đinh ninh trong dạ, chớ
    không phải làm cho qua chuyện mà được.
    Tại Vạn Phật Thánh Thành này, bất cứ là người xuất gia hay hàng cư sĩ, nếu
    muốn học Phật thì phải ráng đọc tụng cho thuộc bộ Kinh Lăng Nghiêm. Nhớ và
    thuộc lòng bộ kinh này thì công học Phật sẽ không uổng. Thực vậy, trong kinh này
    Phật giảng đến chỗ tột cùng, rất là chính xác, phơi bày hết cái dở của hàng ngoại
    đạo, lột trần bổn tướng của họ. Bởi vậy nếu chúng ta hiểu thấu kinh Lăng nghiêm,
    thì thiên ma ngoại đạo sẽ phải khiếp sợ đến dựng lông tóc. Nay quý vị muốn thực
    lòng hộ trì Tam Bảo, hoằng dương Phật Pháp, thì phải mau mau nghiên cứu kinh
    Lăng Nghiêm, đọc tụng Lăng Nghiêm, giảng giải Lăng Nghiêm, tối thiểu là như
    vậy.
    Việc học kinh Lăng Nghiêm, nghe kinh, tụng kinh, đòi hỏi một sự nhẫn nại,
    không được sanh lòng chán nản. Quý vị phải biết cái cây kia, mỗi ngày một lớn
    lên, rồi hàng ngày quý vị phải lấy nước tưới lên, thì cây mới nở hoa, mới có mầu
    sắc đẹp đẽ như vậy. Các trẻ nhỏ phải ngày ngày dạy dỗ, lớn lên đi học cũng ngày
    17

    ngày đọc sách. Học Phật Pháp thì cũng phải bỏ chút ít thời gian để hàng ngày
    nghiên cứu, học tập Phật Pháp.
    Quý vị học Phật Pháp còn tốt hơn là mang tiền gửi tại ngân hàng nữa. Về
    phương diện huệ mạng và Pháp thân thì việc học Phật lại càng trọng yếu hơn nữa.
    Chớ nên coi tiền tài trên thế gian này là thật. Học Phật Pháp mang lại pháp tài để
    quý vị sử dụng tại thế gian. Nó là công đức pháp tài cho pháp xuất thế gian. Quý vị
    không thể coi nhẹ vấn đề này, không thể làm một cách qua loa cho xong việc! Bận
    rộn cả ngày mà cũng dành được chút thời gian để nghe kinh, nghiên cứu Phật
    Pháp, vậy là tốt lắm!
    Chớ có nghĩ rằng: “Ồ! Giảng kinh thì ngày nào cũng chỉ từng đó! Nghe hoài
    phát chán!” Vậy chớ, công việc của quý vị bận rộn mà quý vị vẫn phải ăn, vẫn phải
    mặc quần áo, vẫn phải ngủ nghỉ thì sao? Như nghe kinh mà ta cũng coi trọng như
    ăn, mặc, ngủ nghỉ thì hay biết bao!
    “Như vầy” (Như thị), ý nói rằng pháp như vầy. Pháp đó có thể tin được,
    pháp đó có thể tu theo, pháp đó có thể tu thành Phật được. Pháp đó phải tu tập,
    chúng ta phải tin theo, chúng ta phải gắng sức tu một cách chân thành. Từ ngữ
    “Như vầy” (Như thị) là chỉ về pháp, biểu tượng cho ý nghĩa thành tựu của bộ kinh
    về chữ “tín”.
    Phàm là kinh thì phải thỏa mãn sáu điều kiện cần thiết, gọi là sáu thành tựu.
    Thứ nhất là thành tựu về tín. Nếu quý vị tin được có nghĩa là niềm tin đã thành tựu,
    mà tín có thành tựu thì mới có lợi ích. Nếu không tin thì chẳng có lợi gì. Lấy thí dụ
    như cơm mà chúng ta ăn. Chúng ta tin rằng ăn cơm vào thì sẽ được no bụng, bằng
    không ăn thì chẳng no được. Pháp cũng vậy, tuy Pháp đó có thể dẫn tới Phật quả,
    nhưng quý vị không tin, không tu, thì Pháp đó chẳng có hiệu quả gì đối với quý vị
    18

    cả. Pháp chẳng phải nói suông, thực hành Pháp mới là đạo. Quý vị phải thực sự tu
    hành, y theo Pháp mà tu tập, có như vậy mới có lợi lạc. Quý vị có tin thì mới có sự
    thành tựu. Có được niềm tin thực ra cũng do nhiều nhân duyên khác hỗ trợ.
    “Tôi nghe”: Từ ngữ này nói lên điều kiện cần thiết thứ hai, đó là sự nghe,
    hay nói cách khác là thành tựu về nghe. “Tôi nghe” thì chữ “tôi” chỉ Tôn giả A-
    nan. Ngài tự xưng mình là “tôi”, nhưng chữ “tôi” ở đây có tính cách vô ngã, không
    hề có sự chấp trước, cái “tôi” viên dung, không bị trở ngại; nó thấu suốt cả vạn sự
    vạn vật mà lại buông bỏ hết; bởi vậy nó mới đích thực là chân ngã của tự tánh. Cái
    “tôi” này không mang ý nghĩa đối ngoại, như nói tôi và người khác. Nó là đối nội,
    đối với chính tâm sở của mình. Đây là cái “tôi” có trí huệ, cái “tôi” không điên
    đảo, cái “tôi” trong sự trạch pháp. Bởi có con mắt trạch pháp nên mới tới được
    trình độ “thâm nhập kinh tạng, trí huệ như biển”. Làm sao có được con mắt trạch
    pháp? Chính là phải có thành tựu về tín và thành tựu về văn (nghe).
    “Một thời”: Nay đã có hai sự thành tựu, có lòng tin, có ý muốn nghe,
    nhưng lại phải có một thời điểm để nghe, tức thời gian nghe bộ kinh Công Đức
    Bổn Nguyện của Đức Phật Dược Sư, mà cũng chỉ cả thời gian Tôn giả A-nan kết
    tập kinh tạng. Từ ngữ “một thời” chính là sự thành tựu về thời gian. Có thể quý vị
    sẵn lòng tin, lại muốn nghe, nhưng thời gian không ăn khớp chẳng hạn, đại khái
    quý vị không có dịp đến Kim Luân Thánh Tự để tham gia pháp hội giảng kinh
    thuyết pháp, mà lại nằm ở nhà, thì dầu có tin và muốn nghe cũng không nghe
    được. Đó là vần đề thành tựu về “thời”, một trong những điều kiện cần thiết để
    nghe kinh.
    “Bạc Già Phạm” (Bhagavan) là một tên khác của đức Phật. Từ ngữ này có
    sáu ý nghĩa. Quý vị muốn tìm hiểu kỹ càng về từ ngữ này thì có thể tra từ điển Phật
    19

    học. Nếu không, thì chỉ cần nhớ rằng đây là tiếng Phạn và tiếng đó chỉ đức Phật.
    Từ ngữ “Bạc Già Phạm” biểu tượng cho sự thành tựu về chủ thể.
    Nay các điều kiện về tín, nghe và thời đã được thỏa mãn, nhưng nếu không
    ai giảng kinh thì quý vị đâu có nghe được gì. Các thành tựu trên đều vô dụng nếu
    không có sự thành tựu về chủ thể, tức là người chủ thuyết pháp.
    Bây giờ tôi hỏi quý vị: Có ai nhớ sáu ý nghĩa của chữ “Bạc-Già-Phạm” này
    không?
    Một đệ tử thưa: Đệ tử chỉ nhớ được bốn ý nghĩa.
    Thượng Nhân: Cứ nói ra cho mọi người nghe đi! Còn hai nghĩa kia để
    người khác nói.
    Đệ tử: Một nghĩa là tự tại, ngụ ý rằng đức Phật ở nơi nào cũng thoải mái,
    không có phiền não.
    Thượng Nhân: Tự tại giống như ông chăng?
    Đệ tử: Hoàn toàn khác.
    Thượng Nhân: A! Ông làm gì mà không tự tại? Ông chạy đi đâu mà không
    “ở đây” (tự tại)?
    Đệ tử: Thường thường là hướng ngoại, truy cầu bên ngoài.
    Thượng Nhân: Okay! Nghĩa thứ hai là gì?
    Đệ tử: Bạc Già Phạm còn nghĩa là danh xưng, ý nói rằng ai ai cũng biết tên
    của đức Phật; công đức, hạnh nguyện và lòng từ bi của Ngài, tất cả mọi người đều
    20

    hay biết. Nghĩa thứ ba là đoan nghiêm, tức là sự đoan chính, không có chút gì gọi
    là tà, không có vọng tưởng, tóm lại là rất trang nghiêm, rất chánh. Nghĩa thứ tư là
    xí thịnh, ý nói rằng công đức của Ngài rất trang nghiêm, thật là viên mãn, có tính
    cách sáng rực như một ngọn lửa phát ra ánh sáng, vô cùng mỹ lệ, rất hay, ai ai
    cũng muốn xem, muốn ngắm nhìn ánh sáng của ngọn lửa.
    Thượng Nhân: Trong số quý vị đây, có ai biết được ông ấy nói đúng hay sai
    chăng? Bốn danh xưng về đức Phật vừa nói có nằm trong sáu ý nghĩa của chữ Bạc
    Già Phạm không? Ai biết ông ấy nói sai? Mau nói thử coi! Ông ấy nói đúng ư?
    Cũng lên tiếng cho biết đi! Chữ đó còn hai ý nghĩa nữa, tôi không cần gọi tên ai
    cả, người nào biết thì hãy mau mau nói ra. Nếu chẳng ai nói cả thì chứng tỏ rằng
    quý vị đã quên, không một người nào ghi nhớ hết.
    Quả Huệ thì sao? Biết không?
    Quả Huệ: Có một nghĩa là cát tường.
    Thượng Nhân: Còn gì nữa? Quả Nhã có biết không?
    Quả Nhã: Có một nghĩa là tôn quý.
    Thượng nhân: Còn bốn ý nghĩa mà vừa rồi người ta đã giảng thì có đúng
    không?
    Quả Nhã: Một ý nghĩa gọi là trang nghiêm, nhưng (huynh ấy) nói thành chữ
    đoan chính.
    “Cát tường”! Người Trung Hoa thích chữ cát tường lắm! Nhất là người
    Quảng Đông, cứ mỗi lần sang năm mới, người ta chỉ nói : “Như ý cát tường! Như
    ý cát tường!” Muốn cát tường mà không chịu niệm Phật! Chỉ đi kiếm nơi đánh
    21

    “mạc chược”, hoặc đến chỗ khiêu vũ! Quý vị muốn được cát tường thì quý vị phải
    niệm Phật, sống trong quy củ theo đúng phép tắc. Đánh mạc chược ư? Cát tường
    làm sao được? Chỉ có thua bạc thôi! Thua tới thua lui, thua đến mất luôn cả cái
    quần này. Quý vị bảo như vậy là cát tường ư?
    “Tôn quý”! Phật là tôn quý nhất! Do đó muốn được tôn quý, chúng ta phải
    theo gương Phật, học tập tấm gương rất tôn quý, rất hoàn chỉnh của Ngài, một tấm
    gương trong, không còn tập khí, không còn vọng tưởng tạp niệm, hoàn toàn vượt
    xa cảnh giới A-la-hán.
    A-la-hán, như trong kinh Pháp Hoa mở đầu như sau:
    “Tôi nghe như vầy: Một thời Phật tại núi Kỳ-Xà-Quật, thuộc thành Vương
    Xá, cùng các vị đại tỳ-kheo, một vạn hai ngàn người, đều là A-la-hán . . .”
    A-la-hán là những vị đó. Họ là những người đã dứt sạch lậu hoặc - chư lậu
    dĩ tận - dứt hết các điều xấu, các tập khí, lìa mọi vọng tưởng, thoát khỏi vòng sanh
    tử. Các ngài đã làm xong mọi việc mà họ phải làm - sở tác dĩ biện - hoàn thành
    mọi thứ, không còn hướng ra ngoài để mong cầu điều gì. Bởi không rong ruổi tìm
    kiếm bên ngoài nữa nên mới dứt sạch các lậu hoặc.
    Lậu là thế nào? Như ham nói chẳng hạn, đó là lậu. Thích nghe thanh âm
    cũng là lậu. Có người bảo: “Tôi không nghe, tôi không nhìn, đâu có thể như vậy
    được? Học Phật Pháp để đi tới chỗ không nghe, không nhìn thì tôi không thể làm
    được”. Bởi không làm được như vậy nên cho đến nay quý vị vẫn chưa thành Phật,
    vẫn còn hướng ra ngoài để tìm kiếm, không biết trở về, không thể hồi quang phản
    chiếu.
    22

    Một khi đã dứt hết các thứ lậu thì lúc đó quý vị chẳng còn tham, chẳng
    tranh, chẳng cầu, chẳng ích kỷ, chẳng tự lợi. Chừng nào quý vị còn tham, là còn
    bệnh; còn tranh, cầu, ích kỷ, tự lợi, là còn bệnh. Tình ái cũng là bệnh và bệnh nặng
    nhất chính là dục niệm. Khi dứt sạch lậu thì hết dục niệm, hết các ý nghĩ dâm dục,
    hết sự khát khao, vọng tưởng, niệm gì cũng không còn.
    Bậc A-la-hán thì không có phiền não - vô phục phiền não - vì phiền não đã
    hết. Bậc A-la-hán đã tìm được lợi lạc cho chính mình - đãi đắc kỷ lợi - đã có trí huệ
    chân chánh, tức coi như đã gặt hái được cái kết quả chân chánh của việc tu học
    Phật. Như tôi đã từng nói với quý vị, Phật chính là một vị đại trí huệ. Ai có trí huệ
    thì người đó sẽ không điên đảo và người đó là Phật. Chừng nào quý vị còn điên
    đảo, tâm còn tham không biết chán, không bao giờ vừa lòng, luôn luôn tranh đua
    với người khác, chỉ biết ích kỷ, tự lợi, thì quý vị không thể nói tới sự lợi ích của
    Phật Pháp được. Chỉ khi nào quý vị dứt hẳn lòng ham muốn ngoại vật, như tiền
    bạc, đồ châu báu, rồi các thứ về sắc, thanh, hương, vị, xúc, tất cả các cảnh giới này
    đều không lay chuyển được mình, lúc đó quý vị mới thật sự hưởng lợi của chính
    mình, đãi đắc kỷ lợi.
    A-la-hán đã thoát hết mọi thứ ràng buộc, tức là “tận chư hữu kết”. Lúc này
    các tập khí đã hết, các thứ dây trói buộc không còn nữa nên hoàn toàn tự do. Trong
    cảnh giới này, tâm mới thực sự tự tại.
    Còn Phật thì sao? Địa vị của Phật còn siêu việt hơn nhiều lắm, bởi vậy Phật
    mới là tôn quý bậc nhất.
    Nếu chúng ta muốn học theo Phật thì bước đầu phải học tính cách không
    tranh, không tham, không cầu, không ích kỷ, không tự lợi. Chẳng phải là cứ nói :
    “Tôi không cái này, tôi không cái kia”, nhưng đồng thời lại muốn lấy những thứ
    23

    của người khác. Đó là quý vị đã dối người, dối mình. Quý vị thực sự không có tâm
    tranh ư? Quý vị sẽ để cho mọi sự diễn tiến một cách tự nhiên. Quý vị không tham
    ư? Quý vị cũng sẽ giữ một thái độ như vậy. Đến tình trạng không cầu thì có câu
    nói: “Đáo vô sở cầu xứ tiện vô ưu”, nghĩa là còn mong cầu thì còn ưu sầu, hết
    mong cầu thì chẳng còn gì phải ưu sầu nữa. Quý vị còn phải dứt bỏ tâm ích kỷ (tự
    tư), tức là không nghĩ riêng cho mình. Chuyện phiền phức trên thế gian này là do
    mọi người có tâm ích kỷ, mà ích kỷ phát sinh là vì dục niệm. Không ích kỷ còn bao
    gồm cả lòng không mong cầu và không còn vướng vào vòng yêu thương nữa.
    Không tự lợi là không tìm cái lợi riêng cho mình, không tìm cái khoái cảm riêng
    cho mình, các thứ đó phải dứt bỏ hết! Nếu loại được hết các lỗi lầm kể trên thì quý
    vị sẽ thành Phật.
    Sáu ý nghĩa của từ Bạc Già Phạm quan trọng như vậy. Chúng ta là người
    học Phật, phải nhớ cho kỹ. Bằng không thì cũng như không nhận biết được Phật.
    Như quý vị quen biết một người nào, quý vị nhận biết diện mạo, hình dáng bên
    ngoài của người đó, còn nhận biết cả giọng nói. Như vậy mới gọi là quen biết thực
    sự. Quý vị chẳng cần phải nhìn thấy tận mặt, chỉ cần nghe giọng nói của người đó
    là đã nhận ra ngay người quen. Nhận biết Phật cũng cùng một ý nghĩa như vậy.
    Nếu quý vị học Phật mà không ghi nhớ hết các nghĩa của danh từ Bạc-Già-Phạm
    thì quý vị quả là kẻ học Phật hồ đồ.
    Bởi vậy quý vị phải nhớ điều này đặng lần sau, khi được hỏi đến thì có thể
    trả lời được. Quý vị xem! Tôi đã mất nhiều hơi sức giảng cho quý vị mà quý vị lại
    quên hết, như gió thoảng qua tai, thật là đáng tiếc biết bao! Bây giờ tôi giảng được
    chừng nào, quý vị phải cố gắng ghi nhớ, lần sau nhất định tôi sẽ hỏi lại, ai không
    trả lời được tức là kẻ đó đã ngồi ngủ gục.
    24

    “Phật đi hóa độ các nước, đến thành Quảng Nghiêm, Ngài dừng lại dưới
    gốc cây âm nhạc”: Phật giáo hóa các chúng sanh không phải chỉ giới hạn trong
    một nước mà tại hết thảy các nước có duyên với Phật Pháp, cũng như những chúng
    sanh ở một nước nào hữu duyên thì Ngài cũng tới đó để giáo hóa. Bởi vậy mới nói
    là “du hóa chư quốc”. Trên đường du hóa, Phật đi tới một thành phố lớn tên gọi là
    Quảng Nghiêm (Vaisali). Ngài dừng lại tại một gốc cây âm nhạc, ngồi xuống trong
    thế kiết già và thuyết pháp cho đại chúng.
    Các từ ngữ “thành Quảng Nghiêm, dưới gốc cây âm nhạc” nói lên ý nghĩa
    của “xứ thành tựu”. Phần trên chúng ta đã thấy những sự thành tựu về tín, văn, thời
    và chủ. Thành tựu về chủ tức là nói về chủ thể của sự giảng kinh. Tuy nhiên, đã có
    người giảng kinh rồi thì lại cần phải có địa điểm giảng nữa. Cũng giống như nay
    giảng Kinh Dược Sư mà không có giảng đường thì giảng làm sao được? Bởi vậy
    phải có yếu tố địa điểm, tức là nói về xứ thành tựu.
    Đoạn sau kinh văn nói đến các Tỳ-kheo và Bồ tát, tức đề cập tới chúng
    thành tựu. Vậy là đã có chủ thể giảng kinh, có địa điểm, nay lại có người nghe
    kinh. Phật thuyết pháp mà nếu chẳng có ai nghe, Phật thuyết cho Phật nghe thì
    chẳng còn ý nghĩa gì. Tất phải có sự hiện diện của chúng sanh thì Phật mới có đối
    tượng thuyết pháp.
    Chúng sanh trong các pháp hội đều là những người có duyên với Phật Pháp.
    Như quý vị tới đây nghe kinh, chính là đã có sẵn nhân duyên rồi. Không có duyên
    thì dầu muốn tới cũng không tới được. Đừng tưởng đây là chuyện bình thường. Kỳ
    thực nó không đơn giản như vậy. Chính quý vị đã từng gieo trồng căn lành từ bao
    nhiêu kiếp trước, nên nay mới có cơ hội mỗi ngày đến đây nghe kinh. Có điều
    chúng ta không nhận biết được điều đó mà thôi. Bởi không hiểu duyên lành này
    nên có lúc quý vị sanh tâm lười biếng, rồi lấy cớ rằng: “A! Sư Phụ chưa tới, ta có
    25

    thể chạy đi tiêu khiển chút xíu”. Rồi thì, từ đó chạy đi xem kịch, coi phim, đi nhảy,
    đi uống rượu, mở “party”, nghĩa là mang sức lực phung phí vào những chuyện vô
    ích.
    Mỗi lần đến đây nghe kinh, một là quý vị được nghe pháp âm, đủ khiến cho
    lòng vơi bớt những phiền não trần lao của thế tục, hai là quý vị được thêm trí huệ
    vì những gì kinh điển nói ra đều là trí huệ, đều là pháp bát-nhã.
    Có người bảo rằng: “Tôi hiểu kinh cũng khá lắm rồi!” Vậy hiểu thêm nữa
    không tốt hay sao? Quý vị sợ quá nhiều ư? Quý vị đến ngân hàng gửi tiền, có khi
    nào quý vị thốt ra câu: “Trương mục của tôi quá nhiều tiền, nhiều quá thôi! Nhiều
    quá thôi!”? Nhiều bao nhiêu đi nữa cũng chẳng ngại, càng nhiều càng tốt mà! Vậy
    có thêm trí huệ, biết thêm Phật Pháp chân chánh mà cũng ngại ư? Chẳng phải như
    vậy là điên đảo hay sao? Chẳng qua quý vị không biết suy tính, nên mới bỏ gốc mà
    tìm ngọn, bỏ cái trước mắt mà tìm cái xa vời, bỏ lỡ việc học hỏi Phật Pháp, để
    uổng phí hết thời gian!
    “Cùng với các đại bí-sô, đủ tám ngàn vị”: Đại bí-sô hay Tỳ-kheo là chỉ
    các bậc xuất gia. Chữ “đại” ngụ ý rằng các vị này đều là bậc trưởng lão, là những
    Tỳ-kheo đã xuất gia từ trên hai mươi tới ba mươi năm. Không gọi bằng chữ “lão”
    là già mà gọi bằng chữ “đại” vì họ là những bậc Tỳ-kheo lớn, đầy đủ đức hạnh, trí
    huệ viên mãn, phẩm cách tuyệt vời.
    “Tỳ kheo” nguyên là tiếng Phạn, bao hàm ba nghĩa. Vị nào hay nghe kinh,
    ắt đã được nghe nhiều lần ý nghĩa này: thứ nhất là nghĩa “khất sĩ”, thứ hai là “bố
    ma”, thứ ba là “phá ác”.
    1. Khất sĩ, chỉ người đi xin ăn. Những người đi đến từng nhà để xin cơm ăn
    còn gọi là kẻ ăn mày, nhưng khất sĩ thì không phải là hạng ăn mày bình thường, đi
    26

    xin với một tâm hồn phân biệt, không bình đẳng—hễ được cho nhiều thì vui thích,
    cho ít thì buồn phiền. Đối với khất sĩ thì khác—cho đồ ngon hay không ngon, họ
    cũng chẳng chú ý, hoặc cho nhiều cho ít, họ cũng không quan tâm, họ chỉ biết
    mang cơ duyên đến để mọi người được gieo phước, ai cho thì người đó gieo nhân
    và gieo nhiều nhân lành thì gặt hái nhiều phước, họ chẳng khởi phiền não, vô
    minh.
    Trên đường đi khất thực, mắt vị Tỳ kheo không nhìn ngang nhìn ngửa hoặc
    quay đầu ngắm nghía, mà luôn giữ thái độ nghiêm chỉnh uy nghi, theo đúng pháp
    túc cung trai. Đã là người xuất gia, mỗi khi đi ra đường cũng không thể ngó ngang
    ngó dọc, luôn luôn giữ cặp mắt nhìn xuống mũi, mũi chiếu xuống miệng, miệng thì
    quán tâm. Phàm thứ gì không đúng với lễ nghi, thì mắt không nhìn, tai không nghe,
    miệng không nói, thân không vọng động.
    Khất sĩ đi khất thực trong sự yên lặng, không nói năng, chớ không giống như
    người ăn mày đến trước cửa nhà người ta thì nói những câu: “Thưa ông! Thưa bà!
    Phát tài, phát phúc!” toàn là những từ ngữ tán dương, khách sáo. Tỳ kheo đi khất
    thực thì không nói gì cả, ai bố thí thứ gì thì mang đi, không bố thí cũng vậy, trong
    tâm không có phiền não.
    2. Bố ma là ý nghĩa thứ hai của chữ “Tỳ-kheo”. Vì Tỳ kheo đoan nghiêm có
    chánh khí nên thiên ma trông thấy thì kinh hãi, các loại tà ma quỷ quái thì phải
    lánh xa. Tại sao vậy? Bởi vì chánh có thể hàng tà.
    3. Phá ác là ý nghĩa thứ ba. Người thường rất khó phá trừ các tập khí xấu,
    không giống như các Tỳ-kheo là những người chuyên trị việc phá trừ tập khí,
    chuyên sửa các lỗi lầm của mình, cải sửa điều ác thành điều thiện, do đó họ được
    gọi là phá ác.
    27

    Số đại Tỳ-kheo này tổng cộng là bao nhiêu? Trong pháp hội có tất cả tám
    ngàn vị.
    “Ba vạn sáu ngàn đại Bồ-tát”: Danh từ “Bồ-tát” cũng là tiếng Phạn và rất
    phổ biến tại Trung Hoa. Hai chữ này ai ai cũng quen thuộc, nhưng hỏi mọi người,
    kể cả trong hàng Phật tử, Bồ tát là gì thì họ chẳng biết nói ra sao.
    Chúng ta phải nhớ rằng hai chữ “Bồ tát” chính là chỉ một vị thánh trong Phật
    giáo Đại thừa. Nói cho đủ thì đó là danh từ “Bồ-đề tát-đỏa”, còn tiếng Anh là
    Bodhisattva, dịch nghĩa ra tức là “giác hữu tình”. Chữ hữu tình là chỉ chúng sanh
    và Bồ tát là một chúng sanh trong chín Pháp giới, là một thánh nhân trong bốn
    Pháp giới thánh.
    Giác hữu tình là ý nghĩa gì? Đó là ngụ ý rằng các vị này sử dụng trí huệ giác
    ngộ của mình để độ thoát các chúng sanh hữu tình. Phàm loại gì có khí huyết thì
    gọi là hữu tình, không có khí huyết thì gọi là vô tình. Như các giống thực vật, tuy
    thuộc loại vô tình, nhưng chúng lại có “tánh” (bổn tánh) và chúng đều sanh ra và
    được nuôi dưỡng trong đại quang minh tạng của Phật.
    Bồ tát gọi là “giác hữu tình” nhưng cũng là một “hữu tình giác”. Tại sao nói
    vậy? Bởi Bồ tát cũng là người như chúng ta, cũng là một chúng sanh, chỉ khác là
    Bồ tát đã giác ngộ. Giác ngộ điều gì? Giác ngộ ý nghĩa “chư ác bất tác, chúng thiện
    phụng hành” (các việc ác không làm, các việc lành thì làm). Một khi đã giác ngộ
    thì dụng công phá trừ tập khí, tu tập trí huệ vô thượng. Như vậy đây là một vị giác
    ngộ trong giới hữu tình. “Giác” là đối nghịch với “mê”, nên Bồ tát là một chúng
    sanh không mê; vì bởi không mê nên trong hành động không còn vô minh nữa.
    Chúng ta bây giờ phàm làm việc gì cũng là hành động trong sự vô minh, bởi
    lý do chúng ta không có trí huệ chân chánh. Gặp việc là chúng ta không biết xử trí
    28

    cách nào cho đúng, tiến chẳng biết tiến, thoái chẳng biết thoái. Chúng ta không
    phải là kẻ đã tự giác, còn hàng Nhị thừa thì đã tự giác rồi, hành động không còn hồ
    đồ nữa, nhưng họ không dùng các pháp môn giác ngộ đó nói cho mọi người biết để
    tất cả đều được giác ngộ. Bồ tát thì không những đã được tự giác, lại còn truyền bá
    trí huệ giác ngộ đó cho hết thảy mọi người, khiến cho những ai thực lòng mong
    ước giác ngộ, đều có thể theo phương pháp đó mà đạt được kết quả. Vậy là Bồ tát
    đã tự giác lại còn đi giác ngộ người khác, tức là tự giác, giác tha. Tuy nhiên sự giác
    ngộ của Bồ tát vẫn chưa tới chỗ viên mãn.
    Phật thì sao? Phật thì tự giác, giác ngộ chúng sanh, sự giác ngộ của Phật lại
    đạt tới độ viên mãn, ba hạnh giác ngộ đều viên mãn, do đó có câu: “tam giác viên,
    vạn đức cụ”, cả vạn đức hạnh đều toàn vẹn, như vậy mới gọi là Phật.
    Chỗ này đương nói về Bồ tát. Vậy nếu Bồ tát vẫn giữ bước tiến tu thì cũng
    sẽ chứng được quả Bồ tát Đẳng giác, chỉ thua Phật một bậc. Hàng Bồ tát cũng có
    nhiều bậc, có Bồ tát Sơ địa, Bồ tát Nhị địa, Tam địa, Tứ địa, cho đến Bồ tát Thập
    địa. Bồ tát Thập địa gọi là Bồ tát Đẳng giác. “Đẳng” là ngang hàng, ý nói ngang
    với độ giác ngộ của Phật, nhưng so địa vị thì không bằng Phật.
    Trong pháp hội của đức Phật Dược Sư có các hàng Bồ tát như trên, gọi là đại
    Bồ tát hay ma-ha-tát. Gọi là “đại” tức chỉ nguyện lực lớn, trí huệ lớn, công phu tu
    hành và đạo nghiệp đều lớn. Số Bồ tát đó trong pháp hội là ba vạn sáu ngàn vị.
    “Các quốc vương, đại thần”: Một số quốc vương cũng có mặt trong Pháp
    hội. Họ là vua một nước, lo việc trị vì để mang lại hạnh phúc cho toàn dân. Bên
    cạnh có các vị đại thần, họ là những người phụ tá của vua để lo việc trị nước.
    “Bà-la-môn”: Bà-la-môn là một giai cấp quý tộc ở Ấn. Nước Ấn độ có bốn
    giai cấp, hai giai cấp tôn quý và hai giai cấp hạ tiện. Bà-la-môn theo pháp tu khổ
    29

    hạnh, ăn chay, nhưng họ cầu sanh về cõi trời, tâm tham hãy còn, tâm sân chưa hết,
    tâm si và vọng tưởng cũng chưa hàng phục được. Họ chỉ là những người tu khổ
    hạnh thanh tịnh, đại loại giống như hàng đạo sĩ ở Trung Hoa, tuy hình tướng chẳng
    giống nhau, nhưng tôn chỉ tu hành chẳng sai khác. Bà-la-môn chính là những
    người tu ngoại đạo tại Ấn độ. Trong hàng Bà-la-môn cũng đã có khá nhiều người
    đạt được công phu đáng kể.
    “Cư sĩ”: Đây là một danh xưng, dùng trong việc xưng hô. Người khác xưng
    hô mình như vậy chớ không phải chính mình tự xưng là “cư sĩ”. Tôi thấy có một số
    người, dĩ nhiên không phải hàng xuất gia, nhận mình là cư sĩ, rồi cho in lên tấm
    danh thiếp tên của mình với danh xưng cư sĩ; nói chuyện với ai cũng tự xưng tôi là
    cư sĩ tên này, cư sĩ tên kia chẳng hạn. Như vậy là kém hiểu biết.
    Lối xưng hô phổ thông tại Trung Hoa là dùng hai chữ “tiên sinh”. Người
    khác có thể dùng hai chữ đó để xưng hô ta, chớ ta không thể tự xưng là tiên sinh
    được. Thí dụ tôi hỏi: “Ông là ai?” Anh trả lời: “Tôi là Triệu tiên sinh, là Lý tiên
    sinh, hoặc Tiền tiên sinh v.v..” Trả lời như vậy tức là chẳng biết tiếng Trung Hoa.
    Chữ “tiên sinh” thường dùng để xưng hô đối với những vị có học vấn, hoặc
    lớn tuổi và có đức hạnh, hoặc những người lịch lãm. Chữ “cư sĩ” là dành cho
    những ai đủ mười loại mỹ đức. Nếu quý vị chẳng được như vậy thì không xứng
    đáng với danh xưng này. Lại nói đến mấy chữ “Pháp sư” nữa, phải để cho người
    khác gọi ta, chớ ta không thể tự xưng mình là Pháp sư được, bởi như vậy có khác
    gì tự mình tán tụng mình, tự mình xưng mình là hoàng đế? Chữ hoàng đế cũng
    phải để người khác tung hô, đại khái như tung hô: “Hoàng đế vạn tuế!” Tự mình
    không thể xưng hô như vậy! Dùng chữ cư sĩ để xưng hô là có ý cung kính, cung
    kính người khác, chớ không phải cung kính chính mình. Anh đối với chính anh,
    trong lòng cung kính, điều này nên lắm, nhưng không cần biểu lộ ra ngoài. Về văn
    30

    hóa Trung Hoa, vấn đề học vấn là vô cùng tận. Sai một ly đi một dặm. Trên đây
    chỉ là những điều thường thức, chẳng có gì là thâm sâu, chúng ta phải lưu ý.
    “Trời, Rồng và Tám bộ chúng (Thiên Long Bát bộ)”: Đạo tràng của chúng
    ta hiện nay đều có các vị thiên long che chở. Chắc mọi người còn nhớ thời gian
    Kim Luân Thánh Tự mới dọn tới và khi bắt đầu tu sửa, ở lưng trời người ta thấy có
    đức Bồ tát Quán Âm hiện ra. Ngài đặt chân trên lưng con rùa và thị hiện ở không
    trung.
    Một chuyện khác là hồi đó, có người cho tôi hay rằng ngay tại góc đường
    phía đông của khu này có một quán rượu. Trong quán có đủ thứ trò quỷ quái, nào
    ma túy, nào rượu, nào thoát y vũ, đi vào đi ra toàn là hạng ăn chơi trụy lạc. Đương
    lúc chúng ta sửa soạn để khai quang cho đạo tràng thì quán rượu này bị cảnh sát ra
    lệnh đóng cửa. Khu này ngày trước uế tạp nay trở thành khang trang sạch sẽ. Đó
    chính là nhờ tám bộ Thiên long ủng hộ cho đạo tràng nên mới có sự cảm ứng như
    vậy.
    Chỗ đạo tràng này nguyên là một Giáo đường (nhà thờ) cũ. Cư dân đến ở đa
    số là hỗn tạp, họ ăn ở thiếu sạch sẽ, khi ăn khi uống tùy tiện xả rác, thành thử loài
    chuột kéo đến rất đông. Chúng ta đến đây để hoằng dương Phật Pháp, nên bổn
    phận của bát bộ thiên long tất phải hộ trì đạo tràng, từ đó họ phải đuổi hết các loài
    chuột đi nơi khác. Thực ra, tôi chẳng có vấn đề gì với loài chuột, nhưng có chuột
    thì thiếu vệ sinh, khiến cho những ai đến đây đều có cảm tưởng chỗ này là dơ bẩn.
    Bởi vậy chúng ta phải cầu sự giúp đỡ của thiên long bát bộ, xin các vị ấy hãy làm
    nhiệm vụ ủng hộ đạo tràng, bằng cách xua đuổi chuột cùng các thành phần bất hảo
    ra khỏi nơi này.
    31

    Bát bộ là chỉ trời, rồng, dạ xoa, càn-thát-bà, a-tu-la, khẩn-na-la, ma-hầu-la-
    già, ca-lâu-la. Các vị này đều hộ trì đạo tràng. Hôm nay, nhân dịp tôi giảng tới chỗ
    này mà nhắc tới các vị thiên long. Vậy xin các vị hãy làm nhiệm vụ của mình, nhất
    định sẽ ra tay hộ trì cho đạo tràng của Phật.
    Các chư Thiên ở trên trời trong quá khứ đã từng phát nguyện ủng hộ đạo
    tràng của Phật.
    Long là rồng, thuộc loài linh vật, cũng là một chúng sanh. Tại sao lại làm
    thân rồng? Trong quá khứ họ đã tu đạo, nhưng tu theo kiểu “thừa cấp giới hoãn”,
    nghĩa là tu các thừa thì gấp gáp, mà trì giới thì trễ nãi. Chữ “thừa” ở đây là chỉ
    Tiểu thừa, Đại thừa. Họ nguyện tu các pháp Đại thừa, nguyện tinh tấn, dũng mãnh,
    nhưng lại muốn đi đường tắt cho mau, muốn được thần thông. Do đó họ đi khắp
    nơi tìm Phật Pháp, kiếm Mật tông và chuyên tu theo tông này. Cách thức họ tu như
    thế nào? Họ không chú trọng giới luật, không giữ giới. Những người giữ giới phải
    luôn luôn theo đúng câu: “Việc ác thì tránh, việc lành thì làm”, trong khi đó, họ ăn
    cắp đầu lâu của xác chết để luyện công, niệm chú. Có khi họ ăn cắp bài vị tổ tiên
    của các nhà rồi biến các vong linh đó làm quỷ để sai khiến. Chữ “thừa cấp” là nói
    về sự tinh tấn, dũng mãnh của họ để luyện công, đặng có thể tiến mau như hỏa tiễn
    vậy. “Giới hoãn” là nói họ không coi trọng giới luật, mặc sức hành động, kể cả các
    loại giới như giết hại, ăn cắp, dâm dục, họ không tuân thủ. Vậy thì còn nói gì nữa!
    Quý vị coi! Họ ăn cắp đầu lâu, ăn cắp bài vị tổ tiên nhà người ta, lấy cả mấy cây
    trồng trên mộ phần để luyện pháp, với tâm tham như vậy để tu pháp, do đó mới có
    câu “thừa cấp, giới hoãn”.
    Vì thế mà phải đọa mang thân rồng, tuy có thần thông, nhưng vẫn là loài súc
    sinh. Tuy nhiên, rồng cũng là loại linh vật, có thể thu nhỏ, có thể hiện lớn, khi ẩn
    khi hiện vô chừng. Có điều chúng rất sợ ánh sáng mặt trời, bởi một khi có ánh sáng
    32

    chiếu tới chúng cảm thấy khổ sở như bị lửa đốt thân, khiến chúng phải đổ mưa
    xuống, giống như người ta tắm gội vậy.
    Dạ xoa còn gọi là “tốc tật quỷ”, nghĩa là con quỷ chạy mau. Có loại chạy
    trên không, gọi là không hành, có loại chạy dưới đất gọi là địa hành, cũng có loại
    đi dưới nước gọi là thủy hành. Chúng chạy nhanh hơn xe hơi, hơn cả máy bay, có
    thể so với hỏa tiễn, nhưng hỏa tiễn cũng không thể thần tốc bằng dạ xoa, chỉ cần
    một niệm là ngàn dặm, vạn dặm cũng tới được.
    Dạ xoa cũng có nhiều chủng loại, kể cả ngàn vạn thứ khác nhau, giống như
    các loại chư thiên và rồng, không thể kể hết được. Loài người chúng ta cũng có
    loài da trắng, da đen, da vàng chẳng hạn, rồi trong số này lại phân chia thành quý
    vị ở bắc, tôi ở nam, người này ở đông, kẻ kia ở tây. Trong số rồng thì có rồng
    xanh, rồng vàng, rồng lửa, rồng trắng, rồng đen v.v.. Mỗi loài chúng sanh đều chia
    thành nhiều hạng. Trên thế giới này có biết bao nhiêu loại chúng sanh, rồi mỗi loại
    lại phân thành ngàn vạn giống có hình tướng khác nhau, đa dạng vô cùng, đó chính
    là điều kỳ diệu của thế gian.
    Không ai hiểu được sự bí mật của tạo hóa. Có người bảo rằng: “Ngày nay
    người ta đã lên tới cung trăng, vậy chuyện gì con người cũng sẽ làm được cả,
    chẳng có gì là không biết được”. Quý vị nên nhớ rằng dẫu từ địa cầu này quý vị có
    thể lên tới các tinh cầu khác, nhưng có biết đâu, chỉ cần một trái bom nguyên tử
    hay bom khinh khí nổ tung, một trận động đất hay núi lửa bộc phát, dù đó là thiên
    tai hay do con người tác động, thì nguy cơ hủy diệt nhân loại vẫn có thể xảy ra
    được. Càng ngày bí mật của thế giới càng được khám phá, các vấn đề lần lượt
    được sáng tỏ, nhưng khi sáng tỏ đến cực điểm thì màn hắc ám lại trở lại. Tôi nói
    một tỷ dụ: buổi ban mai chúng ta thức dậy, trời rạng sáng, rồi tới khi sáng đến cực
    điểm thì dần dần về chiều; trời tối, chúng ta đi ngủ và nhắm mắt đi vào giấc mơ với
    33

    đầu óc mù mờ. Trong thế gian này, chuyện lớn chuyện nhỏ tất cả đều đi theo cái
    vòng tuần hoàn này cả.
    Càn-thát-bà là loại biết âm nhạc, tấu nhạc hay vô cùng. Mỗi khi chúng cử
    nhạc thì tất cả chư thiên thượng giới đều chú ý lắng nghe đến say mê túy lúy như
    người uống rượu, không còn biết đến chuyện gì chung quanh. Tuy nhiên không dễ
    gì bảo chúng đánh nhạc cho chúng ta nghe. Chúng có một nhược điểm là ưa ngửi
    mùi hương. Ở đâu có mùi hương thì dầu xa xôi cả ngàn vạn dặm chúng cũng tới
    ngay được để thưởng thức hương thơm. Vua trời có một thứ hương, chuyên dùng
    để chiêu dụ càn-thát-bà. Có mùi hương thì càn-thát-bà liền tới, rồi ở đấy nhẩy múa,
    ca hát, tấu nhạc, nên càn-thát-bà còn gọi là “khứu hương thần”, nghĩa là thần ngửi
    hương. Ở trên đã nói qua về loài rồng. Vậy trong loài rồng có tám vị long vương
    (vua rồng), loài càn-thát-bà thì có bốn càn-thát-bà vương,
    A-tu-la là loài hay nổi giận. Người nào hay tức giận đều ít nhiều có hạt
    giống a-tu-la. Tại thiên giới, a-tu-la được gọi là loài không có rượu (vô tửu), bởi
    chúng không có rượu để uống. Chúng còn được gọi là loại phi thiên, tức không
    phải là dân thuộc thiên giới. Tại chốn này chúng chỉ là kẻ cư ngụ bất hợp pháp, tuy
    rằng a-tu-la cũng được xếp vào hàng chúng sanh của một cõi lành (thiện đạo) trong
    sáu cõi của dục giới. Tại thiên giới chúng thường giao tranh với các thiên tướng,
    thiên binh, để lật đổ ngôi vua trời đặng có thể trở thành Thích-đề-hoàn-nhân (Đế
    thích).
    A-tu-la cũng có bốn loại. Chúng có thiên phước mà không có thiên quyền,
    nghĩa là chúng ở trên thiên giới và được hưởng phước nơi đây, nhưng lại chẳng có
    quyền hành như chư thiên, đại loại như các cư dân sống bất hợp lệ ở nước Mỹ,
    được hưởng các tiện nghi của nước Mỹ, đó là phước báo của họ, nhưng họ không
    có quyền tham gia vào việc điều hành của quốc gia này.
    34

    Ca-lâu-la là giống chim đại bàng cánh vàng, có thể biến thành lớn, thành
    nhỏ, khi ẩn, khi hiện. Cánh chim trải rộng ra có thể tới ba trăm ba mươi do-tuần.
    Mỗi do-tuần dài chừng 40 miles (dặm), vậy ba trăm ba mươi do-tuần thì quý vị
    tưởng tượng nó xa tới đâu! Mỗi khi chim bằng vỗ cánh, nước biển bị quạt hết thì
    cung điện loài rồng đâu còn nữa! Rồng lớn, rồng nhỏ đều bị nuốt hết. Quý vị bảo:
    “Ghê gớm như vậy ư!”. Cũng chưa ghê gớm lắm đâu!
    Ca-lâu-la thần thông quảng đại, nên loài rồng rất sợ ca-lâu-la. May là chúng
    đã quy y Phật, sống hòa bình không còn tàn sát các giống khác. Ca-lâu-la cũng có
    bốn loại, muốn biết thêm chúng có những tên gì, thì hãy xem trong “Phẩm Tựa”
    của Kinh Diệu Pháp Liên Hoa, ở đấy nói rất rõ ràng.
    Thần thông biến hóa của loại đại bàng cánh vàng này thật là không thể nghĩ
    bàn. Vỗ cánh một cái thì nước biển bị quét sạch, vỗ cánh hai cái là núi bị bạt đi lấp
    bằng đáy biển. Đó là thần thông dời núi lấp biển của ca-lâu-la.
    Khẩn-na-la thì như thế nào? Chúng cũng biết âm nhạc, còn có tên gọi là
    “nghi thần” bởi vì hình dáng giống người, ngoại trừ trên đầu có một cái sừng.
    Chúng chơi âm nhạc rất giỏi.
    Ma-hầu-la-già là một loại trăn lớn.
    Nói chung thiên long tám bộ đều xuất thân từ các hạng yêu ma quỷ quái, rồi
    về sau cải tà quy chánh, theo về Phật, trở thành một giới hộ pháp. Ngẫm lại, người
    bạc ác mà biết hồi đầu, đều biết làm các điều thiện, cho nên có câu nói: “Bể khổ
    không bờ, quay đầu là bến”. Phạm những tội thập ác, ngũ nghịch, nhưng biết sửa
    lỗi lầm thì vẫn có thể trở thành người tốt.
    35

    Tám bộ quỷ thần này tự cảm thấy nhiều lỗi lầm trong quá khứ, bởi đã phá
    hoại pháp Phật, làm tổn thương Phật giáo. Tới khi lương tâm nhận ra điều này,
    chúng đã phát nguyện làm hộ pháp.
    “Nhân phi nhân đẳng”: “Nhân” là chỉ những người phát tâm đến hộ trì
    Phật giáo. “Phi nhân” tức là không phải loài người, chỉ các loài chúng sanh khác
    cũng phát tâm hộ trì Tam Bảo.
    “Vô lượng đại chúng, cung kính vi nhiễu, nhi vi thuyết pháp”: Đông
    không kể xiết, cả thảy đều cung kính vây quanh nghe Phật thuyết pháp.
    Lúc đó đại chúng trong pháp hội rất đông, không thể kể gồm bao nhiêu
    người, tất cả cung kính vây kín xung quanh đức Bạc-già-phạm, và Ngài thuyết
    pháp cho các chúng sanh trong pháp hội cũng như các chúng sanh trong đời vị lai.
    Bấy giờ, con của đấng Pháp Vương là ngài Mạn-Thù-Thất-Lợi, nhờ oai
    thần của Phật, từ chỗ ngồi đứng dậy, hở một vai áo, đầu gối bên hữu quỳ sát
    đất, hướng về Bạc-Già-Phạm, cúi mình chắp tay, bạch rằng: “Thế Tôn! Xin
    Ngài diễn thuyết tướng loại như thế, diễn bày những danh hiệu và những bổn
    nguyện rộng lớn cùng những công đức thù thắng của chư Phật, cho những
    người nghe đều hết nghiệp chướng, vì sự lợi lạc của các hữu tình khi Tượng
    Pháp chuyển”.
    Nhĩ thời Mạn Thù Thất Lợi Pháp vương tử, thừa Phật uy thần, tòng
    tòa nhi khởi, thiên đản nhất kiên, hữu tất trước địa, hướng Bạc Già Phạm,
    36

    cung khúc hợp chưởng, bạch ngôn: “Thế tôn! Duy nguyện diễn thuyết, như
    thị tướng loại chư Phật danh hiệu, cập bổn đại nguyện thù thắng công đức,
    linh chư văn giả, nghiệp chướng tiêu trừ, vi dục lợi lạc, Tượng pháp chuyển
    thời, chư hữu tình cố”.
    Ngài Mạn Thù Thất Lợi hay Văn Thù Sư Lợi, còn được gọi là Pháp Vương
    tử, nghĩa là con của đấng Pháp Vương. Phật là Pháp Vương, các Bồ tát là con của
    Pháp Vương, nhất là Ngài Văn Thù Sư Lợi lại là một vị Bồ tát Đẳng giác, sắp sửa
    thành Phật.
    “Lúc bấy giờ Ngài Văn Thù Sư Lợi, nhờ oai thần của chư Phật mười
    phương, từ chỗ ngồi đứng dậy, để lộ một bên vai”: Bên vai nào? Chính là vai
    bên phải. Để lộ bên vai phải là có ý nghĩa gì? Thứ nhất, theo phong tục của người
    Ấn, khi khí trời nóng nực, họ trật một bên vai áo để hơi nóng ở trong mình thoát ra.
    Thứ hai, hở vai bên phải là cách thức tỏ bày sự cung kính, cung kính bằng cả thân
    và tâm. Một bên là tùy thuận thế tục, một bên là cầu pháp xuất thế nên biểu thị sự
    cung kính. Chân nhưng không ly tục, tục chẳng ly chân, hai thứ chẳng chướng ngại
    nhau.
    Ngài “quỳ xuống”, đầu gối “sát đất, hướng về Bạc Già Phạm” hướng tới
    Phật, rồi cúi mình xuống “chắp tay”, biểu thị thân tâm đều cung kính, ba nghiệp
    thanh tịnh, và “thưa với Phật:”
    “Thế Tôn! Xin Ngài diễn thuyết tướng loại như thế (như thị tướng
    loại)”: ý nói rằng chúng con tất cả chỉ có một nguyện ước, là được nghe Phật nói
    cho biết những tướng như thế, những loại như thế. Tướng loại gì? Chính là “diễn
    bày những danh hiệu và những bổn nguyện rộng lớn cùng những công đức
    37

    thù thắng của chư Phật”. Bổn nguyện là chỉ các nguyện lớn trong đời quá khứ,
    trong thời gian Ngài hành đạo Bồ tát, công đức tích lũy như thế nào mà được thù
    thắng.
    “Cho những người nghe đều hết nghiệp chướng”: nghĩa là khiến cho
    những ai nghe đến nguyện lực, công đức vô lượng đó đều có thể giải trừ nghiệp
    chướng mà được thanh tịnh.
    “Vì sự lợi lạc của các hữu tình khi Tượng Pháp chuyển”: đây lại còn vì
    lợi ích của cả các loài hữu tình vào thời Tượng Pháp trong tương lai. Trong thời
    Tượng Pháp, mọi người chú trọng xây chùa, mà không chú trọng việc tu tập. Chùa
    miếu chẳng qua là một nơi có tượng của Phật, còn người tu chân chính thì rất là ít.
    Nói chúng sanh hữu tình là nói loài có khí, có huyết, còn như không có khí và
    huyết thì gọi là chúng sanh vô tình, tức các loài thảo mộc.
    Bấy giờ Thế Tôn tán thán đồng tử Mạn Thù Thất Lợi rằng: “Hay lắm!
    Hay lắm! Ông Mạn Thù Thất Lợi! Ông lấy lòng đại bi, khuyên mời Ta nói về
    danh hiệu và công đức bổn nguyện của chư Phật, để dẹp cho hết nghiệp
    chướng ràng buộc loài hữu tình, để cho lợi ích an lạc các loài hữu tình khi
    Tượng Pháp chuyển. Các ông hãy nghe kỹ, tư duy cho khéo, nay Ta sẽ nói
    cho các ông nghe”.
    Mạn Thù Thất Lợi bạch rằng: “Xin vâng! Xin Thế Tôn nói, chúng con
    rất thích nghe”.
    38

    Nhĩ thời Thế Tôn tán Mạn Thù Thất Lợi đồng tử ngôn: “Thiện tai!
    Thiện tai! Mạn Thù Thất Lợi! Nhữ dĩ đại bi, khuyến thỉnh ngã thuyết chư
    Phật danh hiệu, bổn nguyện công đức, vi bạt nghiệp chướng sở triền hữu
    tình, lợi ích an lạc, Tượng Pháp chuyển thời, chư hữu tình cố. Nhữ kim đế
    thính, cực thiện tư duy, đương vi nhữ thuyết”.
    Mạn Thù Thất Lợi ngôn: “Duy nhiên! Nguyện thuyết, ngã đẳng nhạo
    văn”.
    “Bấy giờ Thế Tôn tán thán đồng tử Mạn Thù Thất Lợi rằng”: Lúc bấy
    giờ, Phật khen ngợi đồng tử Văn Thù Sư Lợi. Gọi là “đồng tử” là vì Ngài nhập đạo
    lúc còn là trẻ thơ, sau đó tu hành đạo Bồ tát, để rồi thành bậc thượng thủ trong
    hàng Bồ tát. Phật khen như thế nào? “Thiện tai! Thiện tai! Mạn Thù Thất Lợi!”
    Đức Phật khen Ngài rằng: “Hay lắm! Hay lắm! Ông thực là một vị Bồ tát tốt!”
    Vì lẽ gì mà Phật đưa ra những lời khen tụng như vậy?
    Bởi vì “Ông lấy lòng đại bi, khuyên mời Ta nói về danh hiệu và công
    đức bổn nguyện của chư Phật”. Phật nói: “Ông đã vận dụng một tâm lượng đại
    bi rộng lớn, hướng tới hết thảy mọi chúng sanh, dầu họ có duyên hay không có
    duyên với Phật Pháp, và đã thỉnh Ta nói về danh hiệu của chư Phật cùng những
    công đức bổn nguyện của các Ngài”.
    “Để dẹp cho hết nghiệp chướng ràng buộc loài hữu tình, để cho lợi ích
    an lạc các loài hữu tình khi Tượng Pháp chuyển.”, nghĩa là nhằm dẹp bỏ các
    nghiệp chướng đương trói buộc các loài hữu tình, những nghiệp chướng đã đưa họ
    39

    vào ba đường ác, đầy họ vào bể khổ; vì sự lợi ích cứu độ các hữu tình trong thời
    Tượng pháp, mang cho họ sự tự do, an lạc, hết phiền não.
    Các ông hãy nghe kỹ, tư duy cho khéo, nay Ta sẽ nói cho các ông
    nghe”.
    Ngài Văn Thù Sư Lợi nói: “Xin vâng! Chúng con ước mong Phật nói,
    chúng con rất thích nghe”.
    Phật bảo Ngài Mạn Thù Thất Lợi: “Về phía đông kia, cách đây nhiều
    Phật độ bằng mười lần số cát sông Căng-già, có một thế giới tên là Tịnh Lưu
    Ly, đức Phật cõi ấy danh hiệu là Dược Sư Lưu Ly Quang Như Lai, Ứng
    Chánh Đẳng Giác, Minh Hạnh Viên Mãn, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô
    Thượng Sĩ, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật, Bạc Già Phạm.
    Ông Mạn Thù Thất Lợi! Khi đức Thế Tôn Dược Sư Lưu Ly Quang Như
    Lai, còn đương hành đạo Bồ tát, Ngài đã phát ra mười hai nguyện lớn, khiến
    cho hữu tình cầu gì cũng được”.
    Phật cáo Mạn Thù Thất Lợi: “Đông phương khứ thử quá thập Căng
    Già sa đẳng Phật độ, hữu thế giới danh Tịnh Lưu Ly, Phật hiệu Dược Sư
    Lưu Ly Quang Như Lai, Ứng Chánh Đẳng Giác Minh Hạnh Viên Mãn, Thiện
    Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Sư,
    Phật, Bạc Già Phạm.
    40

    Mạn Thù Thất Lợi! Bỉ Thế Tôn Dược Sư Lưu Ly Quang Như Lai, bổn
    hành Bồ tát đạo thời, phát thập nhị đại nguyện, linh chư hữu tình, sở cầu
    giai đắc”.
    Đức Phật nói với Ngài Văn Thù Sư Lợi rằng ở phía đông, cách thế giới Ta-
    bà một số Phật độ bằng mười lần số cát sông Căng Già, có một thế giới gọi là
    Tịnh Lưu Ly. Căng Già (Ganga) tức là Hằng hà, Phật độ tức là Phật quốc, thế giới
    Tịnh Lưu Ly là ngụ ý một thế giới thanh tịnh trong suốt như lưu ly.
    Vị Phật ở nơi này có danh hiệu là Dược Sư Lưu Ly Quang Như Lai.
    Ngoài ra, giống như các đức Phật khác, Ngài cũng có mười danh hiệu, kể ra là:
    Như Lai; Ứng Chánh Đẳng Giác (có nghĩa là Chánh Đẳng Chánh Giác); Minh
    Hạnh Viên Mãn (tức sự tu hành và trí huệ của Ngài đạt tới chỗ viên mãn); Thiện
    Thệ Thế Gian Giải (trí huệ cao vời và hiểu biết hết mọi sự của thế gian); Vô
    Thượng Sĩ; Điều Ngự Trượng Phu; Thiên Nhân Sư (thầy của trời và người);
    Phật; Bạc Già Phạm (hay Thế Tôn).
    Theo lời Phật nói với Ngài Văn Thù Sư Lợi thì trong thời gian chưa thành
    Phật, tức thời kỳ nhân địa, đang tu đạo Bồ tát, đức Thế Tôn Dược Sư Lưu Ly
    Quang Như Lai đã phát ra mười hai lời nguyện lớn. Phàm người tu hành đều
    cần phải phát nguyện, phát những lời nguyện chân chánh, phát xuất từ trong tâm,
    rồi theo đó mà thực hành.
    Đức Thế Tôn Dược Sư phát nguyện là để tất cả “các loài hữu tình cầu gì
    cũng được”. Ngày nay chúng ta tu hành tương đối dễ dàng hơn so với đức Thích
    Ca, vì Ngài đã phải trải qua ba kiếp lớn a-tăng-kỳ, nghĩa là một số vô lượng kiếp,
    tu hành mới thành được quả Phật. Đức Thế Tôn Dược Sư Lưu Ly Quang Như Lai
    41

    cũng vậy. Còn như chúng ta hiện nay chỉ cần nương nhờ vào nguyện lực của các
    Ngài và di sản của các Ngài để lại cho chúng ta, ý nói đó là Phật Pháp chứa đựng
    trong Ba tạng mười hai phần kinh.
    Liệu chúng ta có thể nhận di sản này để thừa hưởng chăng? Điều đó còn
    phải hỏi lại, xét xem chúng ta có phải là Phật tử chân chánh hay không? Giả tỷ
    công đức của chúng ta chưa đủ, chúng ta chưa thực tâm muốn thành Phật tử chân
    chánh thì chẳng thể nào thừa hưởng được di sản của Phật, loại Pháp bảo vô thượng
    này.
    Nay Phật Lưu Ly Quang đã phát mười hai điều nguyện lớn, nên hết thảy mọi
    chúng sanh hữu tình có thể cầu thứ gì được thứ ấy. Quý vị căn cứ vào câu kinh “sở
    cầu giai đắc” (cầu gì cũng được), thì sẽ thấy bất luận điều gì mà quý vị mong cầu,
    quý vị sẽ được toại lòng xứng ý, quý vị sẽ chóng thành Phật. Các vị Phật trong quá
    khứ đã từng phát nguyện như vậy và, nhờ vào nguyện lực đó, chúng ta dụng công
    ít mà thành tựu nhiều, chúng ta đạt quả vị cao mà công sức không nhiều lắm. Do
    đó gặp được pháp này, chúng ta phải hết sức tinh tấn, sanh tâm hoan hỷ lớn và đạt
    được niềm pháp hỷ sung mãn.
    Nguyện lớn thứ nhất: Nguyện đời sau này, khi ta đắc đạo A-nậu-đa-la
    tam-miệu tam-bồ-đề thì tự thân ta sáng trưng rực rỡ, chiếu soi tất cả vô lượng
    vô số vô biên thế giới, có đủ ba mươi hai tướng đại trượng phu, tám mươi vẻ
    tùy hình, trang nghiêm thân ta, khiến cho các loài hữu tình đều được như ta
    không khác.
    42

    Đệ nhất đại nguyện: Nguyện ngã lai thế, đắc A-nậu-đa-la tam-miệu
    tam-bồ-đề thời, tự thân quang minh, xí nhiên chiếu diệu, vô lượng vô số vô
    biên thế giới, dĩ tam thập nhị đại trượng phu tướng, bát thập tùy hình,
    trang nghiêm kỳ thân, linh nhất thiết hữu tình, như ngã vô dị.
    Chư Phật và chư Bồ tát trong quá khứ đã từng lập vô lượng vô biên nguyện
    lớn để lợi ích cho chúng sanh, tới khi các ngài thành Phật thì các nguyện lực đó
    đều thành hiện thực, do đó hết thảy chúng sanh trong mười phương đều được thâu
    nhiếp. Nguyện lực có thể ví như cục đá nam châm, còn chúng sanh ví như chất sắt.
    Nguyện lực lớn thì sức hút mạnh, khiến cho bao nhiêu chúng sanh trong khắp
    mười phương, dầu nghiệp chướng nặng nề đến chừng nào, cũng đều bị nguyện lực
    thâu hút.
    Do nguyện ý của Ngài là muốn giúp đỡ các chúng sanh, nên giữa hai đàng
    có nhân duyên đặc biệt với nhau. Bởi vậy, tuy chúng sanh bị vô minh che lấp,
    nhưng linh tri và linh giác của họ có thể cảm nhận được nhân duyên này.
    Lúc xưa, Dược Vương Bồ tát đã từng tự thiêu để cúng dường Phật, hy sinh
    thân mình như vậy, còn chúng ta ngày nay, đừng nói tự thiêu toàn thân, ngay đến
    thiêu một ngón tay cũng chưa dám thực hiện.
    “Nguyện lớn thứ nhất”: Dược sư Lưu Ly Quang có lời nguyện đầu tiên
    như thế nào?
    “Nguyện đời sau này, khi ta đắc đạo A-nậu-đa-la tam-miệu tam-bồ-đề
    thì...”. Ngài nói Ngài hy vọng rằng trong đời tương lai, khi Ngài chứng được Vô
    thượng Chánh đẳng Chánh giác, tức là thành quả vị Phật, lúc đó:
    43

    “Tự thân ta sáng trưng rực rỡ, chiếu soi tất cả vô lượng vô số vô biên
    thế giới”, thân Ngài sẽ sáng chói, rực rỡ, chiếu soi tới tận vô lượng, vô số, vô biên
    thế giới,
    “Có đủ ba mươi hai tướng đại trượng phu, tám mươi vẻ tùy hình, trang
    nghiêm thân ta”, có đủ cả ba mươi hai tướng đại trượng phu, tám mươi vẻ đẹp,
    trang nghiêm trên thân Ngài,
    “Khiến cho các loài hữu tình đều được như ta không khác” khiến cho
    hết thảy các loài hữu tình cũng được như ta, không khác, tức là thân hình cũng đủ
    các tướng trang nghiêm như ta và cũng sáng trưng chiếu khắp vô lượng, vô số, vô
    biên thế giới. Nguyện lực của ta là như vậy đó, ta không muốn chỉ riêng mình
    thành Phật, riêng mình sáng trưng, mà muốn rằng các chúng sanh được ta chiếu soi
    tới cũng sẽ có được thân thể giống như ta.
    Nhân vì Đức Phật Dược Sư Lưu Ly Quang đã có lời phát nguyện đó, cho
    nên ngày nay khi nghe tới công đức bản nguyện này, chúng ta thấy được cơ hội có
    thể được một tấm thân sáng trưng như Ngài. Chúng ta không nên tự coi thường
    mình. Quý vị bảo rằng quý vị chẳng cần có thân thể sáng chói, sáng hay không
    sáng cũng chẳng có ích lợi gì. Vậy chớ thân hình không sáng thì có ích lợi hay
    sao?
    Nguyện lớn thứ hai: Nguyện đời sau này khi ta đắc đạo Bồ-đề, thân ta
    như ngọc lưu ly, trong ngoài sáng suốt, sạch không vết nhơ, sáng sủa rộng lớn,
    công đức cao vời, thân khéo an trú, lưới sáng trang nghiêm, sáng hơn cả mặt
    trời và mặt trăng. Chúng sanh ở nơi tối tăm, đều được sáng bừng, đâu cũng
    làm được, mọi sự như ý.
    44

    Đệ nhị đại nguyện: Nguyện ngã lai thế, đắc Bồ-đề thời, thân như lưu
    ly, nội ngoại minh triệt, tịnh vô hà uế, quang minh quảng đại, công đức
    nguy nguy, thân thiện an trú, diệm võng trang nghiêm, quá ư nhật nguyệt,
    u minh chúng sanh, tất mông khai hiểu, tùy ý sở thú, tác chư sự nghiệp.
    “Nguyện lớn thứ hai: guyện đời sau này khi ta đắc đạo Bồ-đề, thân ta
    như ngọc lưu ly” Nguyện lớn thứ hai là khi ta thành Phật, thân ta sẽ giống như lưu
    ly. “trong ngoài sáng suốt”, nghĩa là trong suốt từ trong ra ngoài; “sạch không
    vết nhơ”, bên trong không có vết, không có chỗ nhơ, bên ngoài cũng vậy, hoàn
    toàn trong sạch; “sáng sủa rộng lớn”, không thể nói là sáng rực tới độ nào, chỉ
    biết là sáng sủa rộng lớn; “công đức cao vời”, công đức thì cao vời; “thân khéo
    an trú (thân thiện an trú)”, thân thể của ta an ổn, không một bệnh tật gì; “lưới
    sáng trang nghiêm”, trang nghiêm bằng một thứ lưới sáng rực; “sáng hơn cả mặt
    trời và mặt trăng”, sáng hơn cả mặt trời, mặt trăng. “Chúng sanh ở nơi tối
    tăm”, các chúng sanh ở nơi tối tăm; “đều được sáng bừng”, đều được sáng rực
    như vậy; “đâu cũng làm được”, tùy ý muốn đến chỗ nào thì được chỗ ấy; “mọi sự
    như ý”, việc gì cũng thành tựu, mọi sự như ý nguyện.
    Chúng ta thấy quả là Phật hết sức thông cảm cho các chúng sanh, dầu một
    chi tiết nhỏ có thể lợi ích cho chúng sanh Phật cũng không bỏ sót. Không ai quan
    tâm và thân thiết với chúng ta bằng Phật.
    45

    Nguyện lớn thứ ba: Nguyện đời sau này, khi ta đắc đạo Bồ-đề, ta dùng
    vô lượng vô biên phương tiện trí tuệ, khiến cho chư hữu tình đều được mọi
    vật thọ dụng vô cùng, chẳng để chúng sanh có chỗ thiếu sót.
    Đệ tam đại nguyện: Nguyện ngã lai thế, đắc Bồ-đề thời, dĩ vô lượng
    vô biên trí huệ phương tiện, linh chư hữu tình, giai đắc vô tận sở thọ dụng
    vật, mạc linh chúng sanh hữu sở phạp thiểu.
    “Nguyện lớn thứ ba”: Đức Dược Sư phát lời nguyện lớn này khi Ngài còn
    là một Tỳ-kheo trong đời quá khứ. Thuở ấy, Ngài cũng giống như quý vị, như tôi
    hay các chúng sanh khác, chỉ không giống là ở chỗ Ngài tự phát ra lời nguyện lớn,
    nên chi Ngài đã sớm thành Phật. Còn như chúng ta, thì quả là ích kỷ, tự lợi, tham
    lam, truy cầu, tranh chấp nhau, không muốn lập nguyện lớn. Bởi vậy, cho đến nay
    chúng ta chưa thành Phật được.
    Ngài nói: “Nguyện đời sau này, khi ta đắc đạo Bồ-đề, ta dùng vô lượng
    vô biên phương tiện trí tuệ”: Ta nguyện đời sau, khi ta thành Phật, ta sẽ lấy
    những phương tiện trí huệ, vô số kể và vô bờ bến - đây là phương tiện trí huệ,
    chẳng phải là phương tiện ngu si. Phương tiện trí tuệ là thế nào? Là những pháp có
    lợi ích cho người, pháp đó chẳng nhất thiết lợi ích cho ta, cứ loại nào có lợi ích cho
    người thì mang ra để giáo hóa. Còn phương tiện ngu si thì sao? Đó là những loại
    không hợp với thiện pháp, trái với thiện pháp, mà hợp với ác pháp, tương ưng với
    ác pháp.
    46

    Tương ưng với ác pháp là như thế này: ta lấy thí dụ khi bị muỗi cắn, ta vô ý
    đập chết con muỗi, rồi tự bào chữa rằng đó là “phương tiện”, không đáng kể,
    không phạm sát giới, không phải là phá giới. Cũng như trường hợp mỗi khi thấy ai
    có thứ gì hay, động lòng tham, đến khi người ta không chú ý bèn lấy cắp mang đi,
    rồi lại tự bảo rằng: “Đây không phải là ăn cắp, phương tiện mà! Người khác dùng
    cũng như ta dùng, có gì đâu mà phân biệt?” Kỳ thực, lấy trộm của người là không
    hợp pháp, tương ưng với ác pháp, vậy mà còn bảo là “phương tiện”, không có gì là
    quan trọng!
    Về tà dâm chẳng hạn, ai cũng biết vợ chồng một khi đã kết hôn chính thức
    với nhau thì sự tư tình của chồng sẽ làm cho vợ không vui. Khi đã phạm điều tà
    dâm rồi lại còn cho rằng chuyện đó chẳng can hệ gì, chỉ là “phương tiện” thôi! Biết
    rõ thế nào là tà dâm nhưng vẫn cố bao che, viện hết lý lẽ để bênh vực mình, cứ một
    mực nghĩ rằng: “Có gì là can hệ lắm đâu? Ai mà biết được!”
    Quý vị thử nghĩ coi! Nói dối, uống rượu cũng lý luận tương tự như vậy đó!
    - “Ồ! Uống chút xíu rượu, uống chơi cho vui thôi! Có gì là quan trọng đâu,
    tôi đâu có say!”
    - “Nói dối như vậy thì có gì đâu mà sợ! Có chết ai đâu mà nghiêm trọng quá
    vậy!”
    Đây chỉ là cách tự giành lẽ phải cho mình, đó gọi là những phương tiện ác,
    phương tiện ngu si. Trở về kinh văn, Dược Sư Lưu Ly Quang Như Lai nói Ngài
    dùng phương tiện trí huệ.
    “Khiến cho chư hữu tình đều được mọi vật thọ dụng vô cùng,”, nghĩa là
    khiến cho hết thảy các loài hữu tình đều được mọi vật thọ dụng, bất cứ thứ gì, cần
    47

    gì được nấy. Chúng ta thấy Phật có tâm bố thí rất mực rộng lớn, Ngài dùng nguyện
    lực này để thỏa mãn các ước ao của chúng sanh, những gì chúng sanh mong cầu,
    khiến cho “chẳng để chúng sanh có chỗ thiếu sót”, không để cho chúng sanh
    thiếu thốn một thứ gì, cái gì cũng đầy đủ hết, khiến ai nấy đều xứng ý thỏa lòng,
    mọi sự tốt đẹp.
    Nếu quý vị muốn mọi mong cầu của mình được thành tựu thì hãy mau mau
    niệm danh hiệu của Ngài hay tụng Kinh Công Đức Bổn Nguyện Của Dược Sư Lưu
    Ly Quang Như Lai, quý vị sẽ được toại nguyện.
    Có người nói rằng: “Tôi biết rồi! Tôi niệm danh hiệu Dược Sư Lưu Ly
    Quang Như Lai rồi tôi đến sòng bạc tại Reno. Tôi mà ăn được một triệu đồng thì
    về sau tôi không đánh bạc nữa. Tôi cầu như vậy”. Nếu quý vị thực lòng thì rất có
    thể quý vị sẽ được toại nguyện. Nhưng nếu quý vị nửa tin, nửa ngờ, thì quý vị sẽ
    không thể dối gạt được Dược Sư Lưu Ly Quang Như Lai.
    Nguyện lớn thứ tư: Nguyện đời sau này, khi ta đắc đạo Bồ-đề, nếu có
    những hữu tình tu hành tà đạo thì ta sẽ khiến họ an trú trong đạo Bồ-đề, còn
    nếu tu hành hạnh Thanh văn, Độc giác thì đều an lập nơi pháp Đại thừa.
    Đệ tứ đại nguyện: Nguyện ngã lai thế, đắc Bồ-đề thời, nhược chư
    hữu tình, hành tà đạo giả, tất linh an trú Bồ-đề đạo trung, nhược hành
    Thanh văn, Độc giác thừa giả, giai dĩ Đại thừa nhi an lập chi.
    48

    “Nguyện lớn thứ tư”: Trong điều nguyện thứ tư này, Ngài nguyện cho hết
    thảy các loài hữu tình đều bỏ tà quy chánh, bỏ mê về giác, lìa khổ hưởng vui;
    nguyện cho ai tu Tiểu thừa đều hướng về Đại thừa, phát tâm Bồ-đề chân chánh, để
    tương lai thành tựu quả Phật.
    Ngài nguyện rằng: “Nguyện đời sau này, khi ta đắc đạo Bồ-đề”, tức là khi
    phát nguyện thì Ngài chưa thành Phật; Ngài nói về đời sau này, khi Ngài chứng
    quả vị Chánh Đẳng Chánh Giác. “Nếu có những hữu tình” đây là bao quát hết
    thảy các chúng sanh. Nói chung, trong số các chúng sanh, kẻ có chánh tri chánh
    kiến thì rất ít, mà kẻ có tà tri tà kiến thì lại rất nhiều: nói đến chánh pháp, ít người
    thông hiểu, chịu tiếp thu và thực hành. Ngược lại, nói tới tà pháp, loại bàng môn tả
    đạo, hoặc thứ gì có vẻ huyền bí, có vẻ dễ dàng thì tức khắc người ta đổ xô tới để
    theo. Bởi vậy mới nói: “tu hành tà đạo”, tức ám chỉ người tu pháp ngoại đạo,
    không cầu chánh pháp. Nói đến các loại như bùa ếm, đầu độc, cầu cơ, đồng bóng
    v.v.. thì người ta tin ngay, còn giảng kinh, nói pháp thì họ chẳng thấy hay ho gì.
    Nếu bảo họ rằng: “Anh sẽ gặp tai nạn như thế này. Muốn tránh được, anh phải làm
    việc này, việc kia”, nói vậy là họ tin ngay, còn giảng cho họ Phật Pháp thì chẳng ai
    muốn nghe.
    “Thì ta sẽ khiến họ an trú trong đạo Bồ-đề”. Tuy họ tu theo tà đạo, nhưng
    Dược Sư Lưu Ly Quang Như Lai cũng cố gắng dùng các pháp phương tiện, khiến
    họ bỏ đường mê để quay về lối giác, bỏ tà quy chánh, dứt đường sanh tử, phát tâm
    Bồ-đề rộng lớn, an trú trong đạo Bồ-đề. An trú ở đây có nghĩa là bỏ tà quy chánh,
    không còn trở lại đường tà để an ổn trú nơi đường giác. Đường giác là đường trí
    huệ. Quý vị có trí huệ, quý vị sẽ đi con đường chánh pháp; quý vị không có trí huệ
    - ngu si - quý vị sẽ đi vào con đường nhỏ, con đường của loại bàng môn, ngoại
    đạo. Nay, kẻ bàng môn ngoại đạo được Phật Dược Sư Lưu Ly Quang dùng phương
    tiện để quay về đường chân chánh của Phật giáo.
    49

    “Còn nếu tu hành hạnh Thanh văn, Độc giác”. Thanh văn là những pháp
    Tứ đế, gồm các món Khổ, Tập, Diệt, Đạo. Còn Độc giác là chỉ về pháp tu Thập nhị
    nhân duyên; pháp đó tóm tắt như sau: vô minh duyên hành, hành duyên thức, thức
    duyên danh sắc, danh sắc duyên lục nhập, lục nhập duyên xúc, xúc duyên thọ, thọ
    duyên ái, ái duyên thủ, thủ duyên hữu, hữu duyên sinh, sinh duyên lão tử. Hết thẩy
    các chúng sanh đều do mười hai nhân duyên này mà sanh, do mười hai nhân duyên
    này mà diệt; như trong câu: “các hành là vô thường, đó là pháp sanh diệt; sanh diệt
    diệt rồi, tịch diệt là vui” (chư hành vô thường, thị sanh diệt pháp; sanh diệt diệt dĩ,
    tịch diệt vi lạc). Nếu chứng ngộ được pháp tu Mười hai nhân duyên, tức bỏ mê
    quay về giác, rồi sau đó bỏ tiểu mà hướng tới đại. Bỏ tiểu hướng tới đại chính là tu
    pháp môn Lục độ.
    Thập nhị nhân duyên:
    Do vô minh mà chúng ta sanh ra đời, tức là từ cái chỗ mê mờ mà sanh ra. Vô
    minh là gốc của phiền não, gốc của sanh tử, cũng là gốc của mọi sự phiền hà, hết
    thảy mọi vấn đề rắc rối. Tu là tu cái gì? Tu chính là phá vô minh. Vô minh làm cho
    quý vị mờ tối, không hiểu rõ việc mình làm. Hành động trong sự hồ đồ; hành động
    mà không hiểu, không hiểu mà vẫn hành động, đó gọi là vô minh. Vô minh chi
    phối hành động của quý vị, khiến quý vị thành điên đảo, mơ hồ, sống trong mơ,
    chết trong mộng, tham đắm các thứ như tiền của, sắc dục, danh vọng, ăn uống và
    ngủ nghỉ (tài, sắc, danh, thực, thùy).
    Khi đã có vô minh thì nó thể hiện bằng hành vi. Hành vi gì? Tức là làm cái
    điều mà không hiểu rõ, chỉ hiểu một chút mà không hiểu tất cả ngành ngọn. Đã có
    hành vi thì sẽ có dấu vết, sẽ có hình tướng lưu lại. Có hành động, tức có sự tướng,
    có sự tướng tất có cái tên.
    50

    Khi đương hành động thì tâm chưa khởi lên sự phân biệt. Hành động xong
    rồi, mới có thức, tức là tâm phân biệt, gọi là cái biết, cái tri thức. Đã biết phân biệt
    rồi thì sẽ có ngay bốn thứ tướng: nhân tướng, ngã tướng, chúng sanh tướng, thọ giả
    tướng. Thức này là ý thức và tác dụng của nó mang lại danh và sắc, tức là nói tới
    vật thể. Vật thể thành hình hài gồm có lục nhập (mắt, tai, mũi, lưỡi, thân và ý).
    Bằng lục nhập, hình hài tiếp xúc với ngoại giới; lúc đó xúc sẽ mang lại thọ
    (sự cảm thọ); nhờ có tâm phân biệt mà xúc đưa tới cảm thọ dễ chịu hay khó chịu,
    khoái cảm hay không khoái cảm, từ đó tâm ái, cái tham ái xuất hiện. Bởi vậy mới
    nói là: “xúc duyên thọ, thọ duyên ái”, một tiến trình đi theo thứ tự đó.
    Khi đã có ái, tức có ngay hữu, ý muốn chấp hữu, hướng về tự kỷ, cái ta, do
    đó mà dẫn tới đời sau (sinh); rồi, theo trình tự, tiến tới già và chết (lão tử).
    Mười hai nhân duyên nói trên đã kể ra đủ hết tiến trình của hết thảy mọi
    chúng sanh trong sự luân hồi sanh tử.
    Độc giác là những người ngộ lý nhân duyên này. Họ thấy các nhân duyên
    nối kết với nhau thành một vòng, không có đầu mối, không có chỗ đứt đoạn, do đó
    họ tu để ra khỏi vòng sanh tử, thoát cảnh luân hồi.
    Thanh Văn và Duyên giác, tức Độc giác là hai thừa trong Phật giáo, gọi
    chung là Nhị thừa.
    Hai thừa này thực ra chưa phải là chỗ cùng tột (cứu cánh). Ai tu và chứng
    được hàng nhị thừa thì giải quyết xong vấn đề “phân đoạn sanh tử”, nhưng vẫn
    chưa dứt được “biến dịch sanh tử”. Bởi vậy trong kinh, đức Như Lai Dược Sư Lưu
    Ly Quang đã từng phát nguyện câu “thì đều an lập nơi pháp Đại thừa”, nghĩa là
    ( còn tiếp )
    Last edited by chi2730; 07-08-2012 at 10:30 PM.
    Cầu sanh Tây Phương!.

Thread Information

Users Browsing this Thread

There are currently 1 users browsing this thread. (0 members and 1 guests)

Similar Threads

  1. Vài lời bàn luận về bộ kinh DƯỢC SƯ
    By silicon11 in forum Đạo Phật
    Trả lời: 26
    Bài mới gởi: 31-08-2012, 09:55 PM
  2. Trả lời: 4
    Bài mới gởi: 11-06-2012, 02:39 PM
  3. Tìm Hiểu Về Kinh Dược Sư
    By ngoc ha 63 in forum Đạo Phật
    Trả lời: 4
    Bài mới gởi: 10-05-2012, 12:48 PM
  4. ĐỀ THI TU HÀNH CỦA LÃO HÒA THƯỢNG QUẢNG KHÂM
    By bachliencu in forum Tịnh Độ Tông
    Trả lời: 5
    Bài mới gởi: 13-10-2011, 08:07 AM
  5. Xin các bác tu Mật chỉ giáo?
    By bienvasong in forum Mật Tông
    Trả lời: 13
    Bài mới gởi: 23-12-2010, 11:06 AM

Bookmarks

Quyền Hạn Của Bạn

  • You may not post new threads
  • You may not post replies
  • You may not post attachments
  • You may not edit your posts
  •