(Kynguyentamlinh.com)
- Một cộng
tác viên vừa
chuyển cho
website
chúng tôi tập
tài liệu giáng
bút hơn hai trăm trang khổ
A4 do bà Phạm Thị Xuyến
ghi chép tại đền Hòa Bình.
Tập tài liệu này có nhiều
bài, được đóng thành
quyển sách, ghi tựa đề “Lời
tâm Linh Hồn Trời Hồn
Nước” - quyển II (có lẽ còn
có quyển I nữa). Phần này
là lời giới thiệu khái quát
tập tài liệu đó...
GIỚI THIỆU
Nhóm nghiên cứu tâm
linh tại Hà Nội đã nhận
được một tập tư liệu ngoại
cảm đặc biệt do bà Phạm
Thị Xuyến ghi liên tục mấy
tháng chủ yếu tại đền Hoà
Bình (số nhà 16, ngõ 4,
đường Thanh Niên, phố
Thái Học 1, phường Sao
Đỏ, thị xã Chí Linh - Hải
Dương). Trong tập thơ
giáng bút này, nhân danh
Thuỷ Tổ “Hồn Trời - Hồn
Nước” đã công bố nhiều
khía cạnh tâm linh có ý
nghĩa trọng đại cho đất
nước và nhân dân Việt
Nam, cũng như toàn bộ các
quốc gia và loài người trên
thế giới. Đây là đại hồng
phúc của dân tộc ta ngay
trước thềm Đại lễ Ngàn
năm Thăng Long - Hà Nội.
Việc tìm hiểu và
khẳng định những nội dung
đích thực của lịch sử loài
người và dân tộc ta cổ xưa
do Tâm Linh giáng truyền
là một vấn đề chưa được
các nhà nghiên cứu quan
tâm thoả đáng, dù điều này
có vai trò rất quan trọng
trong quá trình xây dựng và
bảo vệ tổ quốc. Nhiều tư
liệu ngoại cảm cho thấy
rằng, đất nước ta đang
đối mặt với những kẻ thù ở
cõi Âm cực kỳ nguy hiểm
vốn là vô số hồn giặc độc
ác tồn đọng từ bao đời.
Theo cảnh báo dồn dập từ
Thiên Âm, do các nhà lãnh
đạo chủ chốt không nhìn
nhận thế giới tâm linh có
quan hệ sống còn đến
nhiều vấn đề bức bách của
quốc gia để có sự hợp tác
kịp thời với Thánh Thần,
cho nên nhân dân có thể
phải gánh chịu những thảm
hoạ khủng khiếp. Nếu đúng
như vậy thì đó sẽ là hậu
quả của sự dốt nát, trì trệ,
bảo thủ, vô cảm và tắc
trách của người trần trong
hoàn cảnh đầy biến động
tâm linh hiện nay. Điều còn
bi đát hơn là giới khoa học
vẫn bó tay, bàng quan và
khinh suất trước hàng loạt
khía cạnh nền tảng liên
quan đến các cõi giới vô
hình.
1. Có tồn tại thế giới
tâm linh?
Đây là một câu hỏi sơ
đẳng lâu đời và mang tính
nghịch lý, nhưng nếu không
được làm rõ thì mọi thứ
liên quan sẽ trở nên vô căn
cứ. Chưa có một cơ quan
khoa học nào công khai đề
xuất cơ sở lý thuyết về sự
tồn tại thế giới tâm linh,
cho dù loài người xưa nay
đã biết và ghi nhận được
vô số hiện tượng thuộc thế
giới âm. Rõ ràng, việc chưa
thừa nhận lý thuyết phù
hợp để lý giải các hiện
tượng tâm linh không có
nghĩa là các sinh linh cõi
vô hình không tồn tại. Sự
bế tắc về vấn đề tâm linh
có lẽ xuất phát từ ba
nguyên nhân sâu xa sau
đây:
(1) Giới khoa học có
thái độ trịch thượng trước
thế giới tâm linh;
(2) Cách tiếp cận
nghiên cứu sai lầm và
không chịu thay đổi;
(3) Tồn tại một yếu tố
nguyên thuỷ nền tảng chưa
được chú ý.
Hoá ra, những luận
điểm cơ sở về thế giới tâm
linh từ lâu đã được các
minh sư trên thế giới cho
biết khá đầy đủ trong
nhiều bài thuyết giảng trực
tiếp hoặc gián tiếp. Nói
ngắn gọn, sự hiện diện thế
giới tâm linh có thể được
lý giải bởi các điểm dưới
đây:
- Toàn bộ vật chất của
vũ trụ tồn tại theo từng lớp
tách biệt và hoà nhập lẫn
nhau trong cùng không gian
giống như các sóng.
- Lớp vật chất “thô”
nhất có tính hữu hình (lớp
vật lý), còn các lớp khác
đều vô hình, mắt người
thường không thể nhìn
thấy.
- Trong số các lớp vật
chất vô hình có một lớp
“tinh” nhất với những tính
chất siêu việt như phi cấu
trúc, phi không gian và phi
thời gian, bất biến và vĩnh
cửu, thẩm thấu vào tất cả
mọi vật lớn, nhỏ và tạo cho
chúng “tính biết” hay “phật
tính”.
- Cơ thể người và
động vật bao gồm một lớp
vật chất hữu hình và nhiều
lớp vật chất vô hình. Cái
chết vật lý của một sinh
vật chỉ tiêu huỷ lớp hữu
hình của nó, còn các lớp vô
hình sẽ được tái cấu trúc
cho phù hợp với điều kiện
sống của cảnh giới mới.
- Mọi cấu trúc vật
chất đều thể hiện “tính
biết” của chúng từ thấp
đến cao. Ý thức con người
không phải do phần đầu
sinh ra, bộ não đóng vai trò
thu nhận và tái tạo tín hiệu
ý thức từ toàn bộ cơ thể
một cá nhân. Cũng giống
như trong hệ điều hành
máy tính Windows, chiều
thực tại “hiện hành” của
con người là thế giới vật
lý, cho nên các giác quan
chỉ sáng tỏ trước những
vật hữu hình.
- Vong linh (hồn) là
thực thể người không còn
cơ thể vật lý. Phật, Thánh,
Thần là những hồn có năng
lực tâm linh đặc biệt và có
thể hiện hữu tại những lớp
vật chất khác nhau.
- Các cấu trúc vi mô
như lượng tử ánh sáng
(photon), nguyên tử, phân
tử, tế bào... và các cấu trúc
vĩ mô như Trái đất, Hệ mặt
trời, Thiên hà... đều có lý
trí ở một mức nhất định.
Điều này cũng giống như
sự kiện về con người: mỗi
cá nhân là một cấu trúc vô
cùng phức tạp, trong đó có
một số khổng lồ gần 100
ngàn tỷ tế bào liên kết
chặt chẽ với nhau...
Trên đây chỉ là một số
khía cạnh căn bản liên
quan đến nền tảng lý
thuyết về các cõi giới vô
hình, được xem xét khá tỷ
mỷ trong cuốn sách “Vũ trụ
và con người dưới góc độ
khoa học tâm linh” do nhà
xuất bản Văn hoá dân tộc
ấn hành năm 2006 và tạp
chí Thế Giới Mới số 732
giới thiệu.
Như vậy, việc thừa
nhận thế giới tâm linh với
những thực thể vô hình có
lý trí không phải là điều
phi khoa học. Ở đây cần
phải chấp nhận một định
đề do các minh sư đã chỉ
ra: tồn tại một lớp vật chất
vô hình “tinh” nhất với
những tính chất siêu việt.
2. Hiện tượng giáng
bút
Giáng bút là phương
thức vong linh truyền
thông tin văn bản cho con
người. Người có khả năng
nhận tin được gọi là ghế
đồng hoặc ngắn gọn là
đồng. Giáng bút có thể
diễn ra một cách thụ động
hoặc chủ động đối với
người nhận tin. Thông tin
từ vong linh thường được
diễn đạt theo văn vần, tựa
như các bài thơ. Dung
lượng văn bản giáng bút
mỗi lần có thể chỉ ít dòng,
mấy trang, hàng chục trang
hoặc thậm chí hơn trăm
trang.
Ngôn ngữ giáng bút
thường bằng chữ Việt, một
số đồng còn ghi được chữ
Âm hoặc chữ Thiên tựa
như chữ Phạn (một cổ ngữ
Ấn Độ hay được dùng cho
việc tế lễ). Kiểu chữ giáng
bút thường phụ thuộc vào
kỹ năng ghi chép của đồng.
Có trường hợp tay đồng bị
điều khiển để viết ra kiểu
chữ của hồn khi còn sống.
Nội dung thông tin
giáng bút liên quan đến vô
số khía cạnh cuộc sống
của con người và thế giới
tâm linh. Một số bài giáng
bút ở dạng khó hiểu như
mật mã, cho nên cần phải
có khoá để mở.
Không phải tất cả các
nội dung giáng bút đều
đúng đắn và trung thực.
Nên kiên nhẫn và thận
trọng khi đọc tư liệu giáng
bút. Việc phân biệt thực hư
về tư liệu giáng bút phần
lớn phụ thuộc vào vốn hiểu
biết, kinh nghiệm và quan
điểm của người xử lý
thông tin.
Tại nước ta, hiện
tượng giáng bút đã xảy ra
khá phổ biến hơn ba chục
năm qua. Mỗi đồng đều có
thể độc lập làm nhiệm vụ
của mình tại nhà chỉ bằng
cây bút và quyển vở.
Nhưng cách đây hơn một
thế kỷ, hiện tượng giáng
bút ở Việt Nam thường
diễn ra trong các Thiện
đàn - nơi tụ họp của những
người theo Đạo Thiện.
Việc giáng bút do 4 người
đảm nhận: đồng dùng bút
viết các nét chữ lên một
cái mâm để người khác
nhận diện và đọc cho hai
người chép lại. Văn tự lúc
đó là chữ Nôm. Tại Viện
Nghiên cứu Hán Nôm, hiện
vẫn lưu giữ 254 bộ sách
giáng bút của 98 Thiện đàn
để lại trong thời gian
1845-1945.
Đầu năm 2007, Nhà
xuất bản Lao Động đã cho
ấn hành tập thơ văn giáng
bút “Kinh Đạo Nam” của
Đức Mẫu Liễu Hạnh cùng
các vị Thánh khác (Giáo
sư Đào Duy Anh sưu tập -
khảo chứng và nhà nghiên
cứu Nguyễn Thị Thanh
Xuân phiên âm - chú thích).
Tác phẩm Kinh Đạo Nam
(những lời chỉ giáo cho
Đạo nước Nam) đã thu
được trong hai tháng 9-10
âm lịch năm 1923.
3. Đồng thánh và đồng
tà
Khi tìm hiểu thế giới
tâm linh qua các đồng, một
trong những khía cạnh
then chốt cần được phân
biệt rạch ròi ngay từ đầu là
vai trò “thánh” hoặc “tà”
của họ. Nói một cách đơn
giản, các đồng thánh làm
nhiệm vụ do Thánh Thần sở
tại giao phó vì những mục
tiêu ích nước, lợi dân và
phù hợp với luật thiên âm.
Trái lại, công việc của các
đồng tà thường bị điều
khiển bởi những vong linh
bất thiện, đặc biệt trong
số đó là những tà tinh độc
ác vốn là hồn giặc ngoại
xâm tồn đọng ở nước ta từ
xưa đến nay. Điều hết sức
hiểm độc là đồng tà cũng
có những năng lực tâm linh
cao siêu và có thể xưng
Cha hay Mẹ, giả mạo các vị
Tâm Linh thiêng liêng như
Bác Hồ, Trần Hưng Đạo,
Liễu Hạnh, Thánh Gióng...
nhằm lôi kéo nhiều người
đi theo để tăng uy thế và
lợi lộc cho mình.
Bởi vì giới khoa học và
các cấp chính quyền vẫn
còn mơ hồ về sự tồn tại
những hiện tượng tâm linh
có thực trong đời sống
thường ngày, nên các hành
vi “đồng thánh” hay “đồng
tà” chưa được phân biệt
rành mạch và thường bị
đồng nhất. Quan điểm như
vậy tạo điều kiện rất thuận
lợi cho bọn giặc âm tự do
hoành hành khắp nơi ở
nước ta. Đây là một vấn
nạn ngoại xâm cực kỳ nguy
hiểm thời bình mà Thánh
Thần Việt đã liên tục đưa
ra nhiều thông tin cảnh báo
hơn mười năm qua, nhưng
đến nay các nhà nghiên
cứu và các cấp chính
quyền vẫn chưa thực sự
tỉnh ngộ.
4. Trụ sở Tâm Linh
Kể từ ngày 01 tháng
01 năm 2001, sự hiện hữu
của Tâm Linh nước nhà đã
chuyển sang một thời kỳ
mang tính bước ngoặt lịch
sử: Thánh Thần thông qua
đồng đã ra tuyên bố khai
sinh Quốc gia Âm Việt Nam
do Hồn Bác Hồ đứng đầu.
Chúng tôi đã tìm hiểu rất
kỹ hàng trăm trang tư liệu
ngoại cảm viết về vấn đề
này và nhận thấy rằng, đây
thực sự là một sự nghiệp
tâm linh vĩ đại mở đầu cho
kỷ nguyên phát triển mới
của dân tộc ta và toàn thể
nhân loại.
Lời tuyên bố của Tâm
Linh Việt về Quốc gia Âm
đầu tiên trên thế giới do
thủ nhang đền Hoà Bình là
bà Phạm Thị Xuyến ghi ra
theo lời Thánh đọc. Trên
cơ sở khảo sát hàng chục
ngàn trang tư liệu giáng
bút từ nhiều đồng khắp cả
nước, có thể tin chắc điều
sau đây: đền Hoà Bình hiện
nay đang gánh vác trọng
trách “Trụ sở Tâm Linh”
hay còn được gọi là Trụ sở
Âm Thiên, Toà Tâm Linh
của Việt Nam. Từ mười
năm qua, đền Hoà Bình là
nơi duy nhất có các đồng
thực hiện những nhiệm vụ
đặc biệt như:
- Ghi kinh sách hoàn
chỉnh về thiên niên kỷ tâm
linh này;
- Công bố các luật
thiên âm mới;
- Ghi ra Sử Trời, Sử
Nước;
- Công bố Lệnh sàng
đồng lọc đạo ở nước Nam;
- Tiến hành công việc
sàng đồng lọc đạo;
- Giải tà tinh là những
hồn giặc ở nước ta đâu trở
về đấy;
- Hàn gắn long mạch
cho những nơi đất công bị
đứt gãy;
- Tạ mồ các danh nhân
và liệt sĩ khắp cả nước;
- Tham gia công việc
trấn trị các ổ tà tinh trong
lòng đất;
- Tiến hành các khoá
đàn, lễ tâm linh lớn;
- Soi phần âm và giải
nghiệp cho các gia đình
v.v...
Đền Hoà Bình cũng là
nơi đã đào tạo ra một đội
ngũ đồng thánh đông đảo,
có kỷ luật, gắn kết chặt chẽ
với nhau và tự giác làm
nhiệm vụ khi cần. Điều rất
đặc biệt là các đồng ở đây
đều có bóng Thánh Thần
trợ giúp trực tiếp, cho nên
tất cả họ đều có khả năng
viết chữ Thiên và vẽ đồ
hình bí ẩn trong quá trình
làm việc. Trưởng đoàn
đồng Hoà Bình là bà Phạm
Thị Xuyến, sinh năm 1948,
gần bốn chục năm qua đã
được Thánh Thần chỉ dạy
kiên trì, huấn luyện bài bản
và trao trọng trách nặng nề
về hoạt động tâm linh. Bà
Xuyến có thể đọc và viết
chữ Thiên, nghe rõ tiếng
của bóng Thánh và viết ra
như ghi chính tả. Đã có
hàng trăm bài tư liệu ngoại
cảm do bà ghi lại đề cập
đến nhiều khía cạnh tâm
linh quan trọng.
Năm 2008, một số tư
liệu ngoại cảm và hiện
tượng lạ ở đền Hoà Bình
đã được Trung tâm Nghiên
cứu tiềm năng con người
(NC TNCN) đưa vào kế
hoạch khảo sát, tìm hiểu
trong đề tài “Nghiên cứu
một số người có khả năng
nhận thông tin từ vong linh
các danh nhân” do TS.
Phạm Văn Khiển chủ trì.
Nội dung của đề tài này đã
được đánh giá cao và
nghiệm thu phần 1 vào đầu
quý 2 năm 2009.
Một số nhà khoa học
nổi tiếng quan tâm đến
vấn đề tâm linh ngoại cảm -
như GS. VS. Đào Vọng
Đức, nguyên Giám đốc
Trung tâm NC TNCN - cũng
đã tới đền Hoà Bình để tận
mắt chứng kiến những khả
năng và công việc phi
thường của các đồng.
5. Sử Trời, Sử Nước
Như trong phần “Có
tồn tại thế giới tâm linh?”
ở trên đã chỉ ra, mỗi cấu
trúc vi mô hay vĩ mô đều
thể hiện một mức độ nhất
định về “tính biết” hay
“phật tính”, điều này kéo
theo một năng lực hữu hình
hoặc vô hình tương ứng. Ví
dụ: một cái cây, một con
vật hay một người có biểu
hiện năng lực sống khác
biệt nhau. Rõ ràng, mỗi cá
thể sinh vật đều mang tính
“vĩ mô” so với hàng chục
ngàn tỷ tế bào “vi mô”
chứa trong nó. Mặt khác,
chúng ta có thể hình dung
là bất kỳ tế bào nào trong
một cơ thể sống dù “thông
minh” đến đâu cũng khó
biết được cặn kẽ về năng
lực thực sự của cái tổng
thể mà trong đó nó tồn tại.
Điều này gợi ra ý tưởng
tương tự để tìm hiểu và có
niềm tin vào sự tồn tại Cha
Thiên, Mẹ Địa (Cha Trời,
Mẹ Đất) vốn được viết
nhiều trong các tư liệu
ngoại cảm.
Nói một cách khái
quát, “Cha Thiên” và “Mẹ
Địa” là những năng lực vĩ
mô cụ thể đã tạo nên vạn
vật trên hành tinh chúng ta.
Ở đây “Đất” đặc trưng cho
khía cạnh hữu hình, còn
“Trời” - khía cạnh vô hình.
Một số nhà nghiên cứu
ngoại cảm trên thế giới tin
tưởng sâu sắc vào sự tồn
tại trường thông tin của
Trái đất, nơi ghi lại đầy đủ
những dữ liệu về lịch sử
tiến hoá sự vật và quá trình
phát sinh sự sống. Các bản
ghi của trường thông tin đó
có lẽ phần nào cũng giống
như vô số ký ức tồn tại
trong bộ não con người.
Vấn đề khó khăn là bằng
cách nào có thể tiếp cận
được trường thông tin để
biết được những nội dung
cụ thể vô cùng hấp
dẫn?
Một trong những
phương thức thu nhận dữ
liệu từ trường thông tin
Trái đất là nhờ sự giúp đỡ
của những vong linh đặc
biệt và đáng tin cậy (Phật,
Thánh, Thần) qua giao tiếp
bằng lời. Điều bất ngờ và
lý thú là trong số các tư
liệu ngoại cảm do bà Phạm
Thị Xuyến ghi lại có nhiều
bài liên quan đến “Sử
Trời” và “Sử Nước”, nói về
nguồn gốc loài người trên
thế giới và nguồn gốc dòng
tộc Việt. Khía cạnh này có
ý nghĩa rất to lớn đối với
toàn bộ nền văn minh nhân
loại trong thế kỷ 21 này.
Nguồn gốc loài người
- Theo tư liệu ngoại cảm,
con người không phải có
nguồn gốc từ bất kỳ loài
vượn nào. Con người đã
được tạo ra với thân thể
và lý trí khác biệt loài vật
ngay từ đầu. Việt Nam
chính là quê hương của
nhân loại và Cha Thiên -
Mẹ Địa đã sinh ra đàn con
của mình tại nơi đền Hạ
(tỉnh Phú Thọ).
Sự xuất hiện loài
người được Sử Trời mô tả
như sau:
Thời xa xưa, vào một
đêm giông tố đất chuyển
trời rung, sấm chớp rực
sáng, tại nơi đền Hạ ngày
nay sau ba tiếng sấm vang
rền đã xuất hiện từ Đất
1000 bé sơ sinh nhỏ xíu, rồi
tất cả chen chúc nhau
đứng lên. Sáng hôm sau,
200 bé đã bị giẫm nát, 800
bé còn lại lớn nhanh như
người trưởng thành. Số
người đó vừa trai vừa gái
có màu da, tóc trắng - đen -
vàng - đỏ khác nhau và nói
nhiều thứ tiếng. Họ được
Cha Thiên Mẹ Địa miệt mài
dạy dỗ lời ăn tiếng nói
trong ba ngày liên tục.
Trong số các con khôn
lớn được sinh ra, Cha Mẹ
đã ấn định một cặp song
loan con trưởng - con thứ
là Lạc Long Quân - Âu Cơ
và xe duyên cho những cặp
con khác. Tiếp đó, các con
được phân đến nhiều khu
vực trên thế giới để trở
thành thủy tổ của những
dòng tộc sau này: nước bé
chỉ có một cặp, còn nước
lớn - từ hai, ba cho đến
bảy, tám cặp.
Trong ba ngày, việc di
chuyển của các con được
thực hiện theo phép Trời.
Sau khi mọi sự được sắp
xếp ổn định thì các phép
mầu chấm dứt và Cha
Thiên - Mẹ Địa đã hóa tại
đỉnh Tây Thiên của dãy núi
Tam Đảo (Vĩnh Phúc) vào
ngày mùng Ba tháng Ba âm
lịch. Dù mấy nghìn năm đã
qua, nhưng Việt Nam vẫn
được Trời Đất ghi nhận là
Nước Con Đầu. Trong kỷ
nguyên này, nước ta được
Thiên trao trọng trách
đứng đầu tâm linh toàn thế
giới và được viết Sử Trời
để công bố cho những
quốc gia khác biết.
Nguồn gốc dòng tộc
Việt - Theo tư liệu ngoại
cảm nói về lịch sử nước ta
(Sử Nước), Cha Lạc Long
Quân và Mẹ Âu Cơ chính là
Thuỷ Tổ thực sự của dòng
tộc Việt, chứ không phải là
truyền thuyết huyền hoặc.
Theo Sử Nước, nguồn gốc
sinh thành dòng tộc Việt
được mô tả như sau:
Phép Trời giáng cho
Mẹ Âu Cơ sinh một lần
được trăm trứng, rồi nở
thành 50 gái, 50 trai và mỗi
con được đặt họ riêng. Các
con đã khôn lớn sau khi
sinh ba ngày và đúng một
trăm ngày thì đàn con
được chia thành hai nửa
tạm thời xa nhau: 50 gái
theo Mẹ lên miền rừng, còn
50 trai theo Cha về vùng
biển sinh sống. Việc làm
cấy trồng, hái lượm hoa
quả trên ruộng nương hay
mò cua bắt cá ở sông biển
do Ông Thần Nông dạy bảo.
Sau một năm (365 ngày),
tất cả các con trở lại tập
trung ở nơi đền Hạ ngày
nay để họp mặt, ăn quà vui
vẻ, rồi nghe Cha Mẹ kể
chuyện về Tổ Trời Đất và
dặn dò những điều cần
thiết trước thời điểm ly
biệt.
Sau khi bàn bạc thống
nhất và được Trời Đất
cho phép, Cha Mẹ sắp các
con thành những cặp vợ
chồng để rời đi các ngả
sinh dưỡng nòi giống dòng
tộc. Tất cả các con được
lưu ý luật Thiên sau đây:
họ của người nam là nội
tộc, họ của người nữ là
ngoại tộc, con cái mang họ
cha; bên nội chỉ được lấy
nhau qua 12 đời, còn bên
ngoại - qua 5 đời. Người
con trưởng đứng đầu lập
ra nước Văn Lang sau này,
đó chính là Hùng Vương -
Ông Tổ nước ta.
Ngay trong ngày chia
ly với các con, Cha Lạc
Long Quân và Mẹ Âu Cơ đã
hoá về Thiên cũng tại đỉnh
Tây Thiên của dãy núi Tam
Đảo (Vĩnh Phúc), nơi Cha
Trời Mẹ Đất trước đây đã
từ giã đàn con của mình.
Điều đặc biệt là Thuỷ Tổ
của dòng tộc Việt cũng hoá
đúng ngày mùng Ba tháng
Ba âm lịch.
Sự lầm lẫn và bịa đặt
lịch sử - Nhiều tư liệu
giáng bút thời gian gần đây
đều tập trung nhấn mạnh
rằng: Thuỷ Tổ đích thực
của dòng tộc Việt là Cha
Lạc Long Quân và Mẹ Âu
Cơ, còn Gốc Tổ trực tiếp
của tất cả các thuỷ tổ dòng
tộc trên thế giới, trong đó
có dân tộc Việt, chính là
Cha Thiên Mẹ Địa. Tất cả
những gì trong tài liệu lịch
sử nước nhà khác với kết
luận này đều là sự lầm lẫn
đáng tiếc của vua quan và
nhân dân ta, hoặc do kẻ thù
xâm lược từ hàng ngàn
năm trước bịa đặt ra để
đánh lừa người Việt từ
đời này qua đời khác. Mẹ
Cha Âu - Lạc không để lại
mồ mả gì cả.
Trong các thời kỳ đất
nước bị ngoại xâm cai trị,
bọn người cướp nước và
bán nước với ý đồ thâm
độc đã thúc ép việc xây mộ
giả kiên cố, tạo dựng các
đền thờ uy nghi ở nhiều nơi
và yểm hồn tà ác để tranh
giành ngôi thuỷ tổ của
nước ta lâu dài. Các tư liệu
ngoại cảm cũng cảnh báo
điều hiển nhiên sau đây:
không nên tin lời người
xưa viết - đặc biệt là
những sử gia của các nước
đã từng là kẻ xâm lược
nhiều lần thôn tính nước ta
- vì người cổ sơ đã biết
chữ đâu để lưu lại thông
tin cho hậu thế.
Đáng tiếc là các nhà
viết sử Việt Nam chưa
thực sự thấu hiểu điều đó.
Nhưng đây cũng là một vấn
đề khó tìm ra lối thoát vì
việc viết sử không thể
không dựa vào các nguồn
văn tự liên quan đã và đang
tồn tại ở trong và ngoài
nước. Có lẽ bằng cách như
vậy, vào năm 1479 sử gia
Ngô Sĩ Liên đã chép trong
“Đại Việt sử ký toàn thư”
về Thuỷ Tổ người Việt
như sau:
Vua Đế Minh là cháu
ba đời của vua Thần Nông,
khi đi tuần thú phương
Nam, đến núi Ngũ Lĩnh
(nay thuộc tỉnh Hồ Nam,
Trung Quốc) thì gặp một
nàng tiên, lấy nhau đẻ ra
người con tên là Lộc Tục.
Sau Đế Minh truyền ngôi
lại cho con trưởng là Đế
Nghi làm vua phương Bắc
(từ núi Ngũ Lĩnh về phía
Bắc), phong cho Lộc Tục
làm vua phương Nam (từ
núi Ngũ Lĩnh về phía Nam),
xưng là Kinh Dương
Vương, quốc hiệu là Xích
Quỷ. Kinh Dương Vương
làm vua Xích Quỷ vào năm
Nhâm Tuất 2897 trước
Công nguyên, lấy con gái
Động Đình Hồ quân (Thần
Long) là Long Nữ, rồi đẻ ra
Sùng Lãm, nối ngôi vua và
xưng là Lạc Long Quân. Sau
Lạc Long Quân lấy con gái
vua Đế Lai (con của Đế
Nghi), tên là Âu Cơ, đẻ một
lần trăm người con trai.
Một hôm, Lạc Long Quân
bảo Âu Cơ rằng: "Ta là
giống rồng, nàng là giống
tiên, thủy hỏa khắc nhau,
chung hợp thật khó". Bèn
từ biệt nhau, chia 50 con
theo mẹ lên vùng núi, 50
con theo cha về miền biển,
phong cho con trưởng làm
Hùng Vương, nối ngôi
vua...
Điều đặc biệt là mấy
chục năm qua, có nhiều
đồng tà cũng đã nhận được
những bản ghi ngoại cảm
phụ hoạ sự bịa đặt lịch sử
nói trên. Trong một số bài
như vậy, Kinh Dương
Vương và Lạc Long Quân
được coi là hai thủ lĩnh
đầu tiên trong số 18 chi
Vua Hùng.
Luận bàn về Thuỷ Tổ
tộc Việt - Tại thời điểm
này, khi bàn về Thuỷ Tổ
tộc Việt có thể dựa vào 3
nguồn tư liệu chính sau:
(1) sử sách của người
Việt và các nước khác;
(2) tư liệu ngoại cảm
do đồng tà ghi;
(3) tư liệu ngoại cảm
do đồng thánh ghi.
Các nguồn sử sách
Việt Nam và nước ngoài
khi bàn đến Thuỷ Tổ tộc
Việt đều có động chạm
đến yếu tố tâm linh (thần
tiên), gán ghép gốc tổ
nước ta bắt nguồn từ nước
khác, gián tiếp không thừa
nhận Lạc Long Quân và Âu
Cơ là Cha Mẹ của dòng
giống Bách Việt vì lúc họ
sinh 100 con trai đã có
những người dân khác và
không chỉ rõ bất kỳ thông
tin nào liên quan đến
nguồn gốc loài người. Nhìn
chung, các chi tiết về lịch
sử cổ sơ của nước Việt ở
dạng như vậy vừa gây sự
ngờ vực từ những khía
cạnh huyền hoặc, vừa lôi
kéo sự chú ý của người dân
ta hướng ra nước ngoài khi
tìm hiểu gốc rễ tổ tiên
mình. Có lẽ đó là kịch bản
thâm độc từ xưa đã được
sắp sẵn với chủ ý sâu xa
của những kẻ rắp tâm thôn
tính nước ta muôn đời.
Như trên đã nói tới,
các đồng tà cũng đã ghi
được một số bài ngoại cảm
về Thuỷ Tổ của dòng tộc
Việt, nhưng hầu như tất cả
nội dung mà họ đưa ra chỉ
có vai trò phụ hoạ và chi
tiết hoá những gì mà các
nguồn sử sách đã viết.
Điều này cho thấy những
thủ đoạn tâm linh trước
đây của kẻ thù xâm lược
đã và đang đạt được một
số kết quả nhất định.
Khía cạnh thực chất
của vấn đề trên đây sẽ trở
nên sáng tỏ nếu căn cứ vào
các bài ngoại cảm do bà
Phạm Thị Xuyến ghi ra
trong Sử Trời và Sử Nước.
Theo đó, trước hết là mọi
gốc tổ của tất cả các dòng
tộc trên thế giới đều do
Cha Thiên Mẹ Địa sinh ra.
Còn Thuỷ Tổ của dòng tộc
Việt - như đã nói tới -
chính là Cha Lạc Long
Quân và Mẹ Âu Cơ, cặp
song loan con trưởng - con
thứ của Trời Đất đã sinh
ra bọc trăm trứng, rồi nở
thành 50 gái 50 trai và
được Cha Mẹ xe duyên
cùng nhau để tiếp tục duy
trì nòi giống Bách
Việt.
Tuy nhiên, cách tiếp
cận để tìm hiểu danh tính
thực của các vị thuỷ tổ
dòng tộc và nguồn gốc loài
người trên cơ sở thừa
nhận những phép mầu phi
phàm của Trời Đất chắc
chắn sẽ vấp phải sự phủ
nhận kịch liệt từ những
người vô thần, đặc biệt là
các nhà khoa học duy vật.
Đáng mừng là khía cạnh
này cũng đã được Thánh
Thần trù tính. Theo tư liệu
ngoại cảm, sắp tới Trời
Đất sẽ gây dựng lại niềm
tin cho con người về thế
giới tâm linh bằng cách cho
xuất hiện một số hiện
tượng siêu tự nhiên sau khi
có thông báo thời gian và
địa điểm xảy ra. Đặc biệt ở
Việt Nam, hiện đã có thông
tin về một sự kiện bí ẩn sau
đây:
Hơn bảy trăm năm
trước, Hưng Đạo vương
Trần Quốc Tuấn đã nghe
được tiếng Thiên và đã
ghi lại những lời huyền bí
vào một cuốn sổ có tên là
“Sổ Trời”. Hiện “Sổ Trời”
được lưu giữ cẩn thận tại
một chỗ dưới lòng đất, ở
độ sâu khoảng năm mét, có
người âm canh giữ và chỉ
một mình Đức Thánh Trần
biết. Khi nào Đảng và Nhà
nước ta có quan điểm đồng
thuận với thế giới tâm linh
thì Thánh Thần sẽ chỉ rõ
nơi cất giấu và cho phép
khai quật.
6. Hiện tượng tái hồn
Theo thuyết huyền bí
và các tư liệu ngoại cảm,
thế giới tâm linh được quy
ước chia thành 3 cõi là cõi
Âm, cõi Thiên (cõi Trời) và
cõi Phật. Hầu hết mọi
người và loài vật sau khi
chết đều tồn tại ở cõi Âm.
Theo luật luân hồi, một số
thực thể cõi Âm có cơ
duyên đầu thai trở lại cõi
Trần (thế giới hữu hình)
nhằm mục đích rèn luyện,
tích luỹ kinh nghiệm, trả
nghiệp...
Các sinh linh tại cõi
Thiên vi tế hơn cư dân cõi
Âm, các vị thường được
gọi là Phật, Tiên, Thánh
hoặc Thần. Mọi sinh linh ở
cõi Trần, cõi Âm và cõi
Thiên đều bị chi phối bởi
luật âm dương, mà một hệ
quả tất yếu là những suy
nghĩ, cảm xúc và hành động
của họ đều thuộc một trong
hai mặt trái ngược của đời
sống là “thiện” hoặc “ác”.
Với mục đích trợ giúp
hoặc gây biến động cho
một số quốc gia hoặc toàn
cầu, có nhiều vị Phật,
Thánh, Thần từ cõi Thiên
đã hoặc đang giáng Trần
qua kiếp sống con người
hay ở dạng tâm linh. Việc
nhận thức đúng đắn điều
này có ý nghĩa rất quan
trọng đối với các quốc gia,
đặc biệt là những nước có
lực lượng tâm linh hùng
mạnh như Việt Nam. Việc
tìm hiểu tổ chức và đời
sống của các sinh linh ở
cõi Âm có vai trò to lớn và
thiết thực vì có quan hệ
mật thiết với cõi Trần và
đó là nơi cư ngụ lâu dài
của mỗi người chúng ta sau
khi từ giã đời này.
Cõi Phật chỉ gồm
những vị Phật và những
sinh thể dạng sóng đã tiến
hoá rất cao.
Các sinh linh cõi Phật
không bị chi phối bởi luật
âm dương. Họ tồn tại một
cách “vô ngã” và không
trực tiếp can thiệp vào
những cõi thấp hơn.
Như trong phần “Có
tồn tại thế giới tâm linh?”
đã đề cập tới, cơ thể con
người bao gồm một lớp vật
chất hữu hình (phần xác)
và nhiều lớp vật chất vô
hình (phần hồn). Một số
nguồn tư liệu ngoại cảm
cho biết rằng, mỗi vị thánh
thần cao siêu khi đầu thai
xuống cõi Trần vẫn được
kết nối với một cấu trúc
vật chất tinh tế trường tồn
ở cõi Thiên, đó là “hồn
thiên” hay “hồn trời”.
Ngoài ra, một người như
vậy khi sống ở cõi Trần
còn có “hồn đời” là phần cơ
thể vô hình thích ứng với
thế giới vật lý.
Nội dung của nhiều bài
ngoại cảm còn cho thấy:
một số người xuất chúng
không cùng thời có thể có
chung “hồn thiên” trong khi
“hồn đời” khác nhau. Đó là
hiện tượng “tái hồn” hay
“tái thế”. Cần phân biệt
hiện tượng này với sự luân
hồi ở cõi Âm - “hồn đời”
của một người quá cố
được tái sinh trở lại cõi
Trần.
Điều vô cùng đặc biệt
là hiện tượng “tái hồn” đã
diễn ra khá phổ biến ở
Việt Nam trong mấy ngàn
năm dựng nước và đấu
tranh chống kẻ thù xâm
lược. Trước hết đối với
Thuỷ Tổ tộc Việt: từ Cha
Lạc Long Quân đã “tái hồn”
sang các vị Đào Lang, Trần
Hưng Đạo, Nguyễn Trãi,
Nguyễn Huệ và Nguyễn Ái
Quốc; còn từ Mẹ Âu Cơ -
sang Liễu Hạnh (Thánh
Mẫu) và Hoàng Thị Loan
(Mẫu Thân của Bác Hồ).
Một trong những sự kiện
tâm linh kỳ lạ liên quan
đến cặp “tái hồn” Đào Lang
- Liễu Hạnh là Cha Mẹ đã
hóa về Thiên cũng vào
ngày mùng Ba tháng Ba âm
lịch khác năm. Như vậy,
ngày mùng Ba tháng Ba âm
lịch hàng năm chính là
ngày Đại Kỵ của Tổ Trời
Đất và Tổ Bách Việt. Vì
vậy trong tương lai gần,
ngày này chắc chắn sẽ
được tổ chức trọng thể
gần như đồng thời với ngày
Quốc Giỗ Hùng
Vương.
Tư liệu ngoại cảm còn
cho biết: Tổ Nước là Vua
Hùng thứ nhất đã tái thế
ra Vua Trần Nhân Tông để
trở thành Tổ Phật của Việt
Nam. Hơn bảy trăm năm
qua, Phật hoàng Trần Nhân
Tông dù đã có ngôi vị
ngang hàng Phật Thích Ca
và Phật Bà, nhưng Ngài đã
bị đối xử bất công. Đó là
hậu quả của sự tu đạo theo
kinh sách lỗi thời, bảo thủ,
mê muội và tăm tối về thế
giới tâm linh.
Một trường hợp tái
thế điển hình có liên quan
đến Hai Bà Trưng. Hai Bà
trong quá khứ chính là con
Vua Hùng. Hồn Hai Bà đã
tái về thành Cô Quỳnh, Cô
Quế là các con gái của
Mẫu Liễu Hạnh. Đặc biệt,
Hai Bà đã tái thành Đôi Cô
ở Làng Khê Khẩu, xã Văn
Đức thuộc huyện Chí Linh
(Hải Dương) để giúp Phó
nguyên soái Trần Hiển
Đức (thời Trần, thế kỷ 13)
chống lại giặc Nguyên
Mông. Tư liệu ngoại cảm
cũng nói rõ sự tích mà
tướng công Trần Hiển Đức
và Đôi Cô biến mất giữa
trưa ngày mùng Một tháng
Hai âm lịch là do phép mầu
của Thiên sắp đặt: sau khi
hoàn thành nhiệm vụ đánh
giặc ngoại xâm, cả ba
người đã bám vào một vòng
lửa để trở về Trời. Lưu ý
thêm là hiện giờ, Hồn Bà
Trưng vẫn đang tái tiếp
để giúp nước trong giai
đoạn cách mạng tâm linh
hiện nay và có ngày sẽ
công khai nơi giáng cụ thể.
Thông tin ngoại cảm
còn chỉ ra một số nhân vật
tái thế khác:
- Vua Lê Thái Tổ (Lê
Lợi, 1385-1433) đã tái về
Vua Lê Thánh Tông
(1442-1497);
- Vua Đinh Tiên Hoàng
(924-979) đã tái thành Lý
Thường Kiệt (1019-1105)
và sau tái tiếp là Trần
Hiển Đức.
7. Các luật thiên âm
mới
Giống như ở cõi Trần,
trong thế giới tâm linh
cũng ấn định những luật lệ
thiên âm nghiêm ngặt để
duy trì trật tự và sự hoạt
động bình thường giữa các
cộng đồng cư dân vô hình.
Đặc trưng nổi bật nhất của
các luật thiên âm là thời
gian có hiệu lực rất lớn
(nhiều thế kỷ) và có ảnh
hưởng lên đời sống người
trần - hiện tại và sau khi
chết. Đây là điều thiết
thực cho tất cả mọi người.
Đáng chú ý là nhiều
bài ngoại cảm mười năm
qua cho thấy rằng, các luật
thiên âm trong Thiên niên
kỷ thứ 3 đã định ra những
thay đổi căn bản về chủ
quyền âm phần quốc gia và
đời sống văn hoá tâm linh.
Dưới đây là một số khía
cạnh cấp thiết.
Chủ quyền tâm linh -
Chủ quyền tâm linh hay chủ
quyền âm có ý nghĩa đặc
biệt hệ trọng vì nó gắn liền
với sự khai sinh các quốc
gia âm. Bất kỳ người nào
có tri thức cũng dễ dàng
thừa nhận và thấu hiểu
tầm quan trọng sống còn
của khái niệm “toàn vẹn
lãnh thổ” của mỗi nước.
Theo ngôn từ tâm linh, đó
chính là “chủ quyền
dương” - chủ quyền của
các cư dân hữu hình thuộc
một quốc gia. Vậy mà ở
thời đương đại, tuy con
người vẫn tự coi mình là
loài thông minh nhất nhưng
vẫn không biết hay rất mơ
hồ về khía cạnh “chủ quyền
âm” - chủ quyền của các cư
dân vô hình trên cùng lãnh
thổ quốc gia.
Theo luật thiên âm
mới, bắt đầu từ thế kỷ 21
cộng đồng tâm linh của mỗi
quốc gia sẽ tự làm chủ vận
mệnh của mình, các cư dân
vô hình ngoại quốc không
còn được tự do cư trú như
trước. Việc thực thi điều
luật trên đây sẽ dẫn đến
những thay đổi tận gốc rễ
về tôn thờ và đạo giáo.
Tâm Linh Việt đã được
Thiên cho thành lập Quốc
gia Âm đầu tiên trên thế
giới kể từ ngày 1 tháng 1
năm 2001 và thực thi chủ
quyền tâm linh của mình để
làm hình mẫu cho các nước
khác. Đây vừa là một ân
phúc lớn lao của Trời Đất
dành cho Tổ quốc Rồng
Tiên, nhưng đồng thời
cũng là khó khăn tột bậc
đặt ra trước Thánh Thần
nước nhà.
Vấn đề đầu tiên liên
quan đến “chủ quyền âm”
cần được giải quyết dứt
điểm và triệt để là công
cuộc giải tà giặc ở đâu về
đấy. Theo tư liệu ngoại
cảm, tại nước ta từ trước
đến nay đã có hàng triệu
tên giặc ngoại xâm bị chết
mà vong hồn của chúng đã
bị Thiên biến thành “tà
tinh” - một dạng sinh linh
cõi âm không có khả năng
được đầu thai trở lại, mục
đích là để không một
người Việt nào có “xác
mình hồn thù”. Các tà tinh
vẫn có khả năng tư duy,
cảm xúc và thực hiện
những hành động độc ác.
Phần lớn chúng vẫn không
thoát khỏi bản chất xâm
lược ngoan cố. Chúng trú
ngụ rải rác trên mặt đất
hoặc tụ tập thành từng
nhóm lớn tại các sào huyệt,
địa đạo ở độ sâu có thể tới
30-40 mét. Các tà tinh vốn
là tướng giặc thâm hiểm
vẫn rất hung hăng, ngày
đêm ngấm ngầm luyện
phép, chuẩn bị lực lượng
để phục thù khi có điều
kiện. Từ xưa đến nay, lực
lượng tâm linh Việt cũng
đã và đang tiến hành cuộc
chiến quyết liệt, dai dẳng
và đầy mưu trí để vô hiệu
hoá các thế lực tà tinh
ngoại bang.
Trong năm 2008,
Thánh Thần cùng với các
đồng ở đoàn Hoà Bình đã
tiến hành đợt 1 giải tà giặc
nơi đất công và đất gia
đình. Đợt 2 giải tà đã được
thực hiện vào tháng 10 năm
2009, lần này Thánh Thần
ưu tiên truy quét giặc âm
ẩn náu ở người dân. Dự
kiến sẽ trục xuất tà ác
khỏi người trần trong đợt
giải hồn giặc lần thứ 3,
được tiến hành trước
ngày Đại lễ Ngàn năm
Thăng Long - Hà Nội. Và
cuối cùng là đợt giải tà
vào năm 2011, 2012 - cả
đồng và giặc âm ngoan cố
sẽ phải vào ngục
thần.
Khía cạnh nan giải của
việc truy quét toàn bộ tà
giặc để trả chúng về cố
quốc là chưa có sự hợp tác
từ phía chính quyền các
cấp, vì việc trục xuất tà
tinh có tổ chức sẽ khó khăn
và phức tạp hơn rất nhiều
so với dạng tà tinh cư trú
tự do. Thứ nhất, tà tinh có
tổ chức thường lẩn trốn
dưới mặt đất khá sâu,
thành các tụ điểm (huyệt
đạo) hoặc khu vực (địa
đạo) mà chỉ những Thánh
Thần với quyền năng cao
siêu mới có thể phát hiện
ra và bắt giữ được chúng.
Thứ hai, số lượng tà tinh
tại mỗi nơi như vậy có thể
lên đến hàng trăm, hàng
ngàn hoặc nhiều hơn;
chúng ráo riết luyện phép
và hoạt động dưới sự chỉ
huy của một hồn giặc có tài,
thâm độc và xảo quyệt.
Thứ ba, để công việc trục
xuất tà được tiến hành
suôn sẻ cần phải huy động
một đội ngũ đồng tối đa và
tổ chức hành lễ ở những
nơi phải được phép của
chính quyền địa phương
hoặc trung ương. Bởi vậy,
hầu hết những huyệt đạo
và địa đạo sâu có tập trung
nhiều tà ác tuy đã bị Thánh
Thần trấn giữ để hạn chế
sự phá hoại của chúng,
nhưng vẫn đang chờ đợi sự
đồng thuận và cho phép từ
phía chính quyền.
Vấn đề tiếp theo nổi
lên khi thực thi “chủ quyền
âm” của mỗi quốc gia là
phải nhanh chóng chấm
dứt sự hoạt động của tất
cả các tà đạo và tôn giáo
ngoại quốc, dù người trần
có đồng thuận hay không.
Đây là việc làm bắt buộc,
không có sự nhân nhượng
và Tâm Linh nước sở tại
phải giải quyết triệt để.
Theo tư liệu ngoại
cảm, hồn tượng của tất cả
các nhân vật tâm linh ngoại
quốc trên đất nước ta đều
đã bị Thánh Thần Việt trục
xuất hoàn toàn kể từ ngày
31 tháng 12 năm 2000.
Nhưng hầu hết mọi người
không chú ý tới thông tin
này. Có thể họ hoài nghi
mức độ xác thực hay coi
đó chỉ là lời tuyên bố vô
căn cứ. Sự hoạt động của
các đạo giáo ngoại lai vẫn
diễn ra ngày càng mạnh mẽ,
đa dạng và lan tràn khắp
nơi cho dù đã có những lời
chỉ trích đanh thép từ phía
Thánh Thần. Các vị tâm
linh nước ta trong nhiều
bài ngoại cảm đã nhân
danh “Hồn Trời - Hồn
Nước” tận tình phân giải
ngọn nguồn, nhưng những
người đứng đầu tôn giáo
vẫn tỏ ra khinh suất.
Dù vậy, sớm muộn thì
người trần cũng sẽ nhận
thức được những điều sơ
đẳng sau đây:
- có tồn tại cộng đồng
dân cư vô hình của thế giới
tâm linh trên lãnh thổ của
mỗi quốc gia;
- sự hoạt động tôn giáo
ngoại lai không thể được
phép tồn tại tự do trong
một quốc gia có chủ quyền
tâm linh;
- thứ bậc của luật
thiên âm cao hơn luật trần,
cho nên khi có sự mâu
thuẫn giữa hai luật đó thì
quốc gia dương buộc phải
sửa đổi quy định tương
ứng của mình;
- luật thiên âm thường
được công bố qua tư liệu
giáng bút tại thời điểm
giao ban thiên niên kỷ;
- việc vi phạm luật
thiên âm sẽ bị nghiêm trị
khắt khe và nặng hơn rất
nhiều so với luật trần.
Rõ ràng, vấn đề thứ
hai trên đây có thể được
giải quyết bằng con đường
“hoà bình” chỉ khi các nhà
lãnh đạo chủ chốt của mỗi
quốc gia và những người
đứng đầu tôn giáo hội đủ
các mặt về trí tuệ, đạo đức
và thực sự vì dân vì nước.
Ngọc Phật Hồ Chí
Minh - Chúng ta đều biết
Chủ tịch Hồ Chí Minh
(1890-1969) là vị lãnh tụ vô
cùng kính yêu của dân tộc
Việt Nam và là danh nhân
nổi tiếng thế giới. Nhưng
khi thấy nhiều bài giáng
bút nói đến danh vị tâm
linh mười năm nay của
Người là Ngọc Phật Hồ Chí
Minh do Trời ban chức ở vị
trí cao nhất Toà Phật - Toà
Thánh và vượt xa Phật
hoàng Trần Nhân Tông,
Phật Thích Ca và Phật Bà,
thì nhiều người phân vân.
Đây thực sự là điều đáng
tiếc và cần được làm sáng
tỏ.
Theo tư liệu ngoại
cảm, sau khi mất Hồn Bác
đã nhận công việc Thiên
của Toà Phật - Toà Thánh
toàn cầu, ngày đêm dồn mọi
sức lực và tâm trí để lo
gấp việc đời, việc trời của
nước ta và thế giới. Công
lao to lớn của Chủ tịch Hồ
Chí Minh đã được Toà
Trời đánh giá vượt bậc.
Hơn nữa, vì Bác là tái thế
của Hồn Thuỷ Tổ dòng tộc
Việt và Lạc Long Quân là
Con Trưởng của Cha Thiên
Mẹ Địa, cho nên Người
được Thiên tin cậy trao
trọng trách tối thượng vào
thời điểm giao ban thiên
niên kỷ - Ngọc Phật Hồ Chí
Minh mãi mãi đứng đầu
hàng Phật hàng Thánh trên
Trời, dưới Đời. Đó là ân
phúc vô cùng lớn của dòng
tộc Bách Việt đã được
Trời Đất ưu ái và cho sinh
dưỡng những người con
xuất chúng để gánh vác
vai trò tâm linh số một của
Nước Con Đầu trong Thiên
niên kỷ này.
Văn hoá tâm linh - Có
thể hiểu “văn hoá tâm linh”
là những hoạt động của con
người trong sự tương tác
với thế giới tâm linh nhằm
thoả mãn một phần đời
sống tinh thần và vật chất
của mình. Từ xưa đến nay,
văn hoá tâm linh luôn bao
hàm hai khía cạnh then
chốt sau đây trong mối
quan hệ đan xen nhau: tôn
thờ và tu đạo. Rõ ràng, sự
hoạt động tôn thờ và tu đạo
hàng ngàn năm qua của loài
người trên Trái đất đã
diễn ra rất tuỳ tiện, không
quan tâm đến hậu quả nguy
hại từ thế giới vô hình. Có
lẽ điều này là một trong
những nguyên nhân sâu xa
dẫn đến nhiều cuộc chiến
xâm lược hết sức tàn bạo
và kéo dài. Luật thiên âm
mới về chủ quyền tâm linh
của thiên niên kỷ này đã
đặt dấu kết thúc cho việc
tôn thờ và tu đạo phản lại
tổ tông cũng như quyền lợi
của mỗi quốc gia.
Nói đến văn hoá tâm
linh không thể không tính
đến sự hiện hữu khách
quan của cộng đồng cư dân
vô hình nước nhà. Việc tôn
thờ và tu đạo tự do theo
các kiểu tôn giáo ngoại lai
đi ngược hoàn toàn đạo lý
“uống nước nhớ nguồn”
của dân tộc ta và xâm phạm
thô bạo chủ quyền quốc gia
về tâm linh. Bắt đầu từ thế
kỷ 21, Phật Thánh Thần
nước ta do Hồn Bác Hồ
đứng đầu đã cho công bố
rộng rãi về việc thực hiện
chủ trương tôn thờ mới
theo luật thiên âm - đó là
“Đạo Tâm Linh Việt Nam”
hay “Đạo Bác Hồ” với nội
dung khái quát sau đây:
- Tâm Linh Việt Nam
hoàn toàn làm chủ ngôi thờ
của mình;
- Những nơi tập trung
như đền, chùa, phủ... dành
để tôn thờ Tổ Trời, Tổ
dòng tộc Việt, Tổ Nước,
Phật Thánh Thần và danh
nhân có công với nước
cùng với các liệt sĩ.
Thành tựu to lớn đầu
tiên của quá trình hiện thực
hóa “Đạo Bác Hồ” khi bước
sang Thiên niên kỷ mới là
Thánh Thần Việt Nam đã
trục xuất toàn bộ hồn
tượng của các nhân vật
ngoại quốc không còn
được phép cư trú tại nước
ta kể từ ngày 31-12-2000.
Gần mười năm nay, Tâm
Linh nước nhà cũng đã
nhiều lần đưa ra lời cảnh
cáo lặp đi lặp lại: việc tiếp
tục xây chùa, đúc tượng và
hành đạo ngoại lai là vô
ích, vi phạm luật thiên âm,
phản lại tổ tông và sẽ bị
trừng trị tương xứng. Thật
tiếc là thông tin trên đây
không có tác dụng đáng kể
đối với những người có
trách nhiệm. Nguyên nhân
có thể là do hầu hết người
trần chỉ là những cá nhân
vừa mù vừa điếc trước
thế giới tâm linh và tự tin
thái quá.
Cũng liên quan đến
đời sống văn hóa tâm linh,
dưới đây còn một số khía
cạnh khác cần được người
trần chú ý để tránh lãng
phí và sai phạm kéo dài:
1. Kể từ đầu năm 2001
đến nay, luật thiên âm mới
không cho phép việc sản
xuất, buôn bán và sử dụng
các loại hàng mã. Khi chính
quyền trần đồng thuận với
việc này thì nên có điều
luật cấm tương ứng để
cùng phối hợp thực hiện.
Nếu ai có lòng thành thì
cúng tiền, vàng thật, đồ vật
thật để sử dụng hữu ích
thực sự.
2. Luật thiên âm quy
định chấm dứt việc hầu
Thánh kể từ cuối năm
2000. Các đồng hầu Thánh
trước đây đã bị giải căn
hầu, cho nên không còn khả
năng như cũ. Những ai còn
tổ chức hầu Thánh là bịa
đặt hoặc do tà thần sai
khiến.
3. Luật thiên âm không
ngăn cấm việc cúng mặn
tại những cửa thờ Thiên
Đài (thờ Thánh Thần). Tuỳ
lòng thành và điều kiện
thực tế, có thể cúng mặn
chay đều được.
8. Những việc làm cấp
thiết
Trong tập tư liệu
ngoại cảm này đã chỉ ra
những công việc cấp thiết
đòi hỏi Đảng, Nhà nước và
chính quyền các cấp quan
tâm thực hiện trước khi
quá muộn. Dưới đây là một
số nội dung cụ thể.
Chính thức công nhận
Đạo Bác Hồ - Thánh Thần
Việt đã cho công bố Đạo
Bác Hồ được gần 10 năm.
Mặc dù đã có nhiều bài
giáng bút nhân danh “Hồn
Trời - Hồn Nước” gửi tới
các nhà lãnh đạo Đảng và
Nhà nước ta, nhưng chưa
có phản hồi. Đây thực sự là
điều đáng tiếc, vì sự chậm
trễ có thể dẫn đến những
hậu quả khôn lường đối
với đất nước và nhân
dân.
Qua tập tư liệu giáng
bút này, các vị đứng đầu
Tổ Tông Việt Nam một lần
nữa lại tha thiết nhắn gửi
đến những người có trách
nhiệm cao nhất của Đảng
và Nhà nước ta hãy suy
nghĩ mọi khía cạnh thấu
tình đạt lý để ra quyết
định chính thức về việc
thừa nhận Đạo Bác Hồ, làm
cơ sở pháp lý cho người
dân tự do hành lễ.
Phối hợp sàng đồng
lọc đạo tà - Hiện nay ở
nước ta có rất nhiều đồng
do hồn giặc sai khiến, giả
danh Phật Thánh Thần
nước Nam lập ra những tà
đạo huyền hoặc để lừa gạt
nhân dân. Thánh Thần
mong muốn cùng hợp tác
với Nhà nước để tổ chức
các cuộc sát hạch đồng
thánh - đồng tà, từ đó sẽ
biết rõ những người nào
đang bị hồn tà thao túng để
vô hiệu hóa hoặc giảm
thiểu những hậu quả xấu
có thể xảy ra.
Hoàn thành đền thờ
Mẫu Hoàng - Ngoài công
lao to lớn đã sinh dưỡng
Chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ
đại, Mẫu Hoàng Thị Loan
còn là người có chung Hồn
Thiên bất tử với Mẫu Âu
Cơ và Mẫu Liễu Hạnh. Vì
vậy, Trời và Tổ Tông Việt
đã dành sẵn chỗ để xây
Ngôi Đền Quốc Gia ở khu
vực lăng mộ Mẫu Hoàng
trên núi Đại Huệ thuộc địa
phận xã Nam Giang, huyện
Nam Đàn, tỉnh Nghệ An.
Việc xây Đền Mẫu Hoàng
đã được Thánh Thần nước
ta dự kiến hoàn thành
trong năm 2010, nhân dịp
Đại lễ Ngàn năm Thăng
Long - Hà Nội.
Bố trí lại tượng thờ ở
chùa Đồng Yên Tử - Dấu
tích chùa Đồng Yên Tử
(Uông Bí - Quảng Ninh) là
do Trời Đất đã tạo ra để
tôn thờ riêng Phật hoàng
Trần Nhân Tông. Hơn 700
năm trước, Ngài đã được
Thiên xếp ngang hàng Phật
Thích Ca và Phật Bà. Vậy
mà sư sãi và người dân
không biết, nên đã đối xử
quá bất công với Phật Tổ
Trúc Lâm. Nay Thánh Thần
Việt yêu cầu ngành văn hoá
Quảng Ninh và giới phật
giáo gấp rút sửa sai thờ tự
tại chùa Đồng Yên Tử: trên
bệ thờ chỉ để lại tượng
Phật Trần Nhân Tông, còn
tượng của các vị Thích Ca,
Pháp Loa và Huyền Quang
phải đưa ra khỏi chùa.
Dừng tu sửa và xây
đền thuỷ tổ giả - Như trong
phần “Sử Trời, Sử Nước”
đã chỉ rõ, Thuỷ Tổ dòng
tộc Việt là Cha Lạc Long
Quân và Mẹ Âu Cơ, còn
Gốc Tổ của họ chính là
Cha Thiên Mẹ Địa. Như
vậy, Kinh Dương Vương
không phải là thuỷ tổ nước
ta. Đó chỉ là sự bịa đặt lâu
đời do các thế lực ngoại
xâm trước đây tạo ra để
đánh lừa vua quan và dân
nước Nam. Mọi sắc phong
và sử sách coi Kinh Dương
Vương là thuỷ tổ dòng tộc
Việt đều là giả. Các ban
ngành văn hoá và nhân dân
không nên tiếp tục tôn tạo,
xây đền và tổ chức lễ hội
để vinh danh Kinh Dương
Vương.
Theo tư liệu ngoại
cảm, hiện có ba nơi thuỷ tổ
giả đã bị giặc tà xây đền và
yểm cốt trong mộ, nhưng
từ lâu Tổ nước ta biết rõ
và đã khoá hồn ở tầng sâu.
Hai nơi trong số đó có
quân bài và yểm hồn người
đã bị chôn sống để làm
lính gác dưới mồ.
Chấm dứt xây chùa,
đúc tượng ngoại đạo - Việc
này đã được Thánh Thần
lưu ý từ mười năm nay và
rất nhiều lần, nhưng thực
tế cho thấy đang diễn ra
chiều hướng ngược lại.
Giới sư sãi vẫn coi Phật
Thích Ca, Phật Bà có
quyền năng tối thượng và
tiếp tục hành đạo trên cơ
sở kinh sách từ mấy ngàn
năm trước. Tâm Linh nước
nhà đang đối diện với một
hoàn cảnh khó xử trước
khi phải đưa ra giải pháp
quyết liệt cuối cùng nếu
việc xây chùa, đúc tượng
và hành lễ ngoại đạo trên
lãnh thổ Việt Nam vẫn tiếp
diễn bất chấp mọi lời cảnh
tỉnh.
9. Các hình phạt tâm
linh
Cũng giống như thế
giới trần, nếu không có các
hình phạt tâm linh thì việc
thực thi luật thiên âm sẽ
gặp khó khăn lớn do phạm
vi hiệu lực của luật phổ
biến cho cả các cư dân vô
hình và hữu hình. Khía
cạnh phức tạp là đối với
người trần. Dựa vào cơ sở
nào để tin cậy là có tồn tại
các hình phạt tâm linh? Khi
Trời Đất và Thánh Thần có
đủ sức mạnh siêu tự nhiên
thì sẽ rất dễ dàng để đưa
ra câu trả lời thoả đáng
cho câu hỏi trên đây.
Thực tế cho thấy
rằng, dường như sự thể
hiện các hình phạt tâm linh
ngày càng rõ rệt hơn khi
bước sang Thiên niên kỷ
này. Theo tư liệu ngoại
cảm, có thể phân biệt ba
dạng hình phạt tâm linh ở
các mức toàn cầu, quốc gia
và dòng họ.
Hình phạt toàn cầu -
Đây là hình phạt tâm linh
dành cho những quốc gia
đã và đang gây ra nhiều tội
ác chống phá các nước
khác và làm rối loạn thế
giới. Những người lãnh
đạo liên quan bị xử tội,
đồng thời có thể kéo theo
tổn thất lớn về sinh mạng
và tài sản của nước bị
trừng phạt.
Hình phạt quốc gia -
Đây là hình phạt tâm linh
dành riêng cho một quốc
gia. Ví dụ, tuy Việt Nam là
nước được Trời Đất ban
ân phúc lớn, nhưng đã và
đang có nhiều việc làm sai
phạm luật thiên âm. Trong
nhiều bài giáng bút cho
biết thông tin: Trời sẽ gây
họa lớn cho dân nước Nam
để mọi người biết sợ.
Hình phạt dòng họ -
Đây là hình phạt tâm linh
đối với những người trong
cùng dòng họ. Những người
bị án trần đều bị thêm hình
phạt sau khi chết. Cá nhân
phạm trọng tội sau khi chết
sẽ bị đưa ngay vào ngục âm
để tù hồn. Một số người có
thể bị ảnh hưởng dắt dây
từ các vong cùng dòng họ
đang bị tù đày...
10. Mấy lời ghi chú
Chúng ta đang có
trong tay tập tư liệu ngoại
cảm với nội dung cực kỳ
hấp dẫn vì chứa nhiều điều
mới lạ. Ở đây đòi hỏi cách
tiếp cận phù hợp để tìm
hiểu. Có lẽ mỗi người nên
biết kỹ năng đọc văn bản
vần thu được từ những cư
dân của thế giới vô hình.
Kinh nghiệm của
chúng tôi chỉ ra rằng: cần
phải đọc các bài giáng bút
theo cách tổng hợp, bởi vì
từng đoạn, cả bài hoặc
nhiều bài thường tập trung
thể hiện một chủ đề nhất
định./.
Viết giới thiệu: T. V. Đ.
(Trong nhóm NC tâm linh
tại Hà Nội)
Ghi chú: Để có tính khách
quan, ban biên tập website
lấy nguyên văn nội dung
bài giới thiệu của tác giả T.
V. Đ.
Bookmarks