kết quả từ 1 tới 6 trên 6

Ðề tài: PHƯƠNG TU THỜI TAM KỲ PHỔ ĐỘ

Threaded View

Previous Post Previous Post   Next Post Next Post
  1. #1
    Tam Đẳng Avatar của kinhvotu
    Gia nhập
    Mar 2012
    Nơi cư ngụ
    Cai quản cỏi A Tỳ
    Bài gởi
    3,182

    Mặc định PHƯƠNG TU THỜI TAM KỲ PHỔ ĐỘ

    Tôi vừa sưu tầm được 01 cuốn sách hay xin post lên đây để chư hiền hữu cùng xem và góp ý. Xin cảm tạ mọi ý kiến đóng góp chân thành và xây dựng. Những ý kiến có tính chất phá hoại, "chém gió" xin vui lòng đừng mang vào đây vì nơi đây là chổ trao đổi học tập nghiêm túc của kẻ tu hành.

    ĐẠI ĐẠO TAM KỲ PHỔ ĐỘ
    Năm Đạo thứ 87

    ĐỒNG TIẾN 7


    PHƯƠNG TU THỜI TAM KỲ PHỔ ĐỘ


    ĐẠT TƯỜNG

    Cảo bản (11- 2012)


    MỤC LỤC

    GIAO CẢM tr 03
    BẢY BƯỚC TRÊN ĐƯỜNG TU TIẾN tr 05
    MÔN TU CĂN BẢN CỦA ĐẠI ĐẠO CAO ĐÀI tr 17
    TÂN PHÁP TAM CÔNG tr 27
    CHÌA KHÓA VẠN NĂNG: “Đạo Gốc bởi Lòng thành, tín, hiệp” tr 95
    NGŨ NGUYỆN tr 145
    TỔNG KẾT PHƯƠNG TU KỲ BA tr 212
     

    GIAO CẢM

    Từ khi Đức Chí Tôn Lập Đại Đạo Tam Kỳ Phố Độ cho đến nay đã gần chín mươi năm, Thánh Ngôn Thánh giáo được các Đấng Thiêng Liêng ban cho qua các Hội Thánh Cao Đài rất nhiều, đến mức Ơn trên gọi là “kho tàng kinh điển”. Trong khối tư tưởng rộng lớn của kho tàng ấy, phương pháp tu hành của người tín hữu Cao Đài là gì? Các Đấng đã giáng dạy từ tổng quát đến chi tiết và đi từ đơn giản cho đến thâm sâu.
    Với tinh thần Đại Đạo, không phân biệt bởi hình tướng tôn giáo là các Hội Thánh mà Đức Chí Tôn đã lập ra thích ứng với mọi hoàn cảnh để tận độ chúng sanh. Người tín hữu Cao Đài học và bắt chước theo tình Tạo Hóa, dung nạp tất cả các Thánh giáo không phân biệt nguồn gốc miễn là nội dung chỉ dạy điều hay lẽ phải nên làm. Theo tinh thần đó, chúng tôi sử dụng Thánh giáo của tất cả các Hội Thánh, trong điều kiện có thể của sức học và khả năng sưu tầm tiếp cận, rồi cố gắng sắp xếp lại cho có hệ thống lý luận hầu chuyển các Thánh Ngôn – Thánh giáo thành một pho giáo lý mang tính Đại Đồng hầu đáp ứng cho cả ba trình độ căn trí: hạ, trung và thượng.
    Trong tập sách này, chúng tôi sắp xếp lần lượt các đề tài, khởi đầu với bài Thánh giáo của Đức Quán Thế Âm nêu lên sơ đồ tổng quát với “Bảy bước trên đường tu tiến” với bước đầu nhập môn cầu đạo rồi lần lượt qua các bước tiếp theo và đích đến sau cùng là giải thoát. Kế đến bài thứ hai, “Môn tu căn bản của Đại Đạo Cao Đài” gồm hai bài Thánh giáo: một của Đức Đông Phương Chưởng Quản Vô Vi Hiệp Thiên Đài và một của Đức Nhị Trấn Oai Nghiêm Quán Thế Âm. Từ đây, chúng ta bước vào tìm học pháp môn căn bản trong Tam Kỳ Phổ Độ, pháp môn “Tam Công”, hầu như các tín hữu Cao Đài đều biết nhưng đa số lại chưa nắm được những mấu chốt mà Thiêng Liêng đã ban trao!
    Qua học hỏi thiên kinh vạn quyển, chúng ta sẻ có được cái nhìn tổng quát, tất cả các tôn giáo đều không ngoài chữ Tâm. Cũng như thế, chìa khóa để mở cửa tâm hồn của mỗi tín hữu chúng ta đồng thời mở cửa Thiên đàng chính là câu kinh khởi đầu cho mỗi thời cầu nguyện: “Đạo gốc bởi Lòng thành, tín, hiệp”. Chủ đề được dùng để khép lại “Phương Tu thời Tam Kỳ Phổ Độ” là ý nghĩa của bài “Kinh Ngũ Nguyện” mà qua đó chúng ta sẻ thấy bóng dáng của Tam Công.
    Năm đề tài lần lượt, dẫn dắt người tín hữu Cao Đài chúng ta đi trọn con đường Sứ Mạng làm Người trong thời Đại ân xá hầu đạt đến đích điểm sau cùng trở về quê xưa.
    "Trước xây đắp Cao Đài Thánh đức,
    Dụng Nam bang làm mức phóng khai;
    Dân Nam sứ mạng Cao Đài,
    Năm châu bốn bể hòa hài từ đây.”
    Ước mong tập sách nhỏ này sẻ mang lại được hữu ích thật sự cho tất cả anh chị em đồng đạo.
    Kỷ niệm Rằm tháng 10 Nhâm Thìn 2012
     

    BẢY BƯỚC TRÊN ĐƯỜNG TU TIẾN



    Thường thường, người vào đạo có quan niệm là ăn chay, niệm Phật, tụng kinh, sám hối, hành thiện để nhờ phước huệ Trời ban. Nhưng có mấy ai chịu khó phân tách những giai đoạn tiến triển trong khoảng đời lập thân hành đạo và cũng có mấy ai chịu khó kiểm điểm xem sự tu học mình đã đến trình độ nào.
    Do đó nên sự tiến thối, thăng đọa từng ngày một đã xảy ra không biết bao lần mà không hay không biết.
    Hôm nay, Bần Đạo phân tách những nét chính của những giai đoạn của đời người tu học để chư hiền đệ muội xem kỹ rồi tự trắc nghiệm bản thân mình, sau đó sẻ thấy rõ công nghiệp đức hạnh trong đời tu của mình đã đến mức nào rồi.
    Những giai đoạn đó có thể tạm chia như sau:
    1. Là Nhập Môn, nhập đạo hay quy y cũng thế
    2. Là giữ đạo
    3. Là học đạo
    4. Là hiểu đạo
    5. Là tu thân lập hạnh
    6. Là hành đạo
    7. Là Thánh Thiện hay Thánh Tâm hay giải thoát cũng thế
    Đây Bần Đạo sẻ diễn tả từng điểm một:
    - Một là NHẬP MÔN: (nhập Đạo hay Quy Y)
    Vì muốn xa lánh những điêu ngoa tội lỗi, xảo trá sa đọa của nhân thế thường tình nên chọn một con đường để đời mình lấy đó làm lẽ sống, thích hợp với tâm linh thuận Thiên hòa nhân, nên phải đặt mình vào một nếp sống đạo lý. Đó là động lực thúc đẩy mình phải chọn một đoàn thể đạo đức hay một tôn giáo nào để nhập môn qui y.
    Khi nhập môn rồi, đương nhiên tên, họ, lý lịch mình sẻ được ghi vào lịch đạo của tôn giáo đó và chịu theo nếp sinh hoạt của tôn giáo đó từ nội qui đến giáo thuyết, giáo điều. Còn về phần thiêng liêng thì cũng đã được ghi danh tánh vào Thánh tịch hoặc Tiên tịch hay Phật tịch.
    - Hai là GIỮ ĐẠO:
    Giữ Đạo nơi đây có nghĩa là tôn trọng nội qui luật lệ, giáo thuyết, giáo điều của tôn giáo đó không dám làm trái lại. Nếu nhập môn quy y mà không giữ Đạo, chẳng khác chi một bịnh nhơn đến pháp sư xin sợi niệt, lá bùa về treo trên ngạch cửa hoặc đeo vào cổ.
    (Thí dụ: người giữ đạo phải ăn chay, giữ giới cấm, đến chùa thất hàng tháng, không được làm một số nghề như buôn bán ma túy, rượu mạnh, sát sanh hại vật …)
    Đức LÝ GIÁO TÔNG có dạy:
    “Ví như có lần đã dạy: Một quyển sách vần A, B, C… không làm cho học sinh trở nên hàng bác học, nhưng muốn trở nên hàng bác học phải khởi thỉ và trải qua quyển sách vần ấy v.v..
    Từ cái giả đến cái chân, phải chịu khó suy nghĩ biện luận để áp dụng và thực thi nó cho đúng chỗ, đúng lúc. Chư hiền đệ muội vào cửa đạo tuy là khó, nhưng cũng còn dễ hơn là giai đoạn học đạo, hành đạo và đắc đạo.”
    - Ba là HỌC ĐẠO:
    Điều nầy mới bắt đầu hữu ích cho sự mở mang kiến thức. Học đạo từ người nầy truyền pháp cho người khác, hoặc xem kinh điển căn bản về giáo lý để biết được điều nào nên làm, nên nói, nên suy nghĩ và việc nào không nên làm không nên nói, không nên suy nghĩ. Việc nào là thuận Thiên hòa nhân, việc nào là nghịch Thiên phản nhân,v.v…
    Nếu giữ đạo mà không học đạo, chẳng khác chi một người học sửa máy thu thanh chỉ mua cái máy đem về để đó, hằng ngày đi ra đi vào, đi tới đi lui, trông bề ngoài cái máy ấy mà không chịu khó mở ra các bộ phận bên trong để nghiên cứu hoặc học hỏi, hoặc nhờ người chuyên nghiệp chỉ giúp.
    Các Đấng Thiêng Liêng khác cũng dạy:
    ▪ “Tu phải học hiểu qua giáo lý,
    Giáo lý là kim chỉ hướng Nam;
    Cho con nhập Thánh siêu phàm,
    Khỏi vòng luân chuyển con tằm nhộng tơ.”
    (Đức Mẹ Diêu Trì)
    ▪ “Tu không học hỏi tu mù... ...
    Tu mà không học ... như mù đi đêm.”
    (Đức Lý Giáo Tông)
    ▪ "Tu phải học, học để hiểu rõ ngọn nguồn. Hiểu phải hành cho kiên trì nhẫn nại liên tục để phát triển Thánh Tâm, mở mang Thánh Ý, khêu tỏ ngọn đèn từ huệ nội tâm của mỗi người.
    Sự tu học tuy dễ mà khó. Dễ ở chỗ không ai bắt buộc gò bó, đóng khung mình trong một luật lệ nghiêm khắc, chỉ do nơi tự giác tự nguyện của mình mà thôi. Hễ vui thì đi chùa thất hoặc đến giảng đường nghe giảng đạo hàng tuần, lúc buồn hoặc biếng lười thì ở nhà ngủ ráng năm ba kỳ không sao...
    Thế nên người tu học phải tự mình đặt cho mình một kỷ luật riêng tư khắt khe gò bó, vừa với sức mình rồi hằng ngày tuần tự nhi tiến đều đều liên tục.”
    Riêng đối với thành phần đạo hữu trẻ là con em nhà đạo, Ơn trên động viên khuyến khích thanh thiếu niên phải song hành cố gắng học văn hóa, khoa học, kỷ thuật trong đời vừa siêng năng học đạo lý:
    “Học tập là kiến tạo tri thức để phụng sự xã hội. Tu tập là xây dựng ý thức tinh thần để cải tạo xã hội.
    Có học, có tiến, có hành động mới dìu dắt được mình, cộng đồng mình và xã hội vượt qua bóng tối của tầm thường chật hẹp trong đời sống vật chất, trong phạm vi kiến năng. Có tu, có đức, có hiến dâng mới đem đạo vào đời làm rạng danh Thượng Đế. Nhờ đó xã hội trở nên lành mạnh hóa, đi lần đến Thánh đức tại thế gian. ”
    Để đạt được ước vọng đó, trước tiên phải ý thức:
    “Nếu muốn biểu dương giáo lý Cao Đài là qui Tam giáo nó phải đòi hỏi đến sự học thức rộng rải từ văn chương đến pháp đạo. Phải thông rành luật lệ ngọn ngành trong Tam Giáo rồi còn phải đòi hỏi đến sinh ngữ nữa, ví dụ một khi đoàn hướng đạo Cao Đài đi ngoại quốc đến một sắc dân nào cố nhiên phải đòi hỏi sinh ngữ ấy… … Đó các hiền hướng đạo thấy trách nhiệm quan trọng dường bao. Con đường nhứt định phải đến nhưng bao giờ sẻ đến. Vậy thì… sau đây ai là người thiết tha vì chơn lý đạo thì nên tìm học những nhu cầu mà Bần Đạo vừa tạm sơ qua.
    Sự học phải đòi hỏi cấp bách nếu thời kỳ này không thực hiện được, thì Thượng Đế buộc lòng phải đem chánh pháp giao cho một dân tộc khác. Rồi chừng ấy con cái Đức Cao Đài hiện tại sẻ ăn năn nhưng quá muộn.”
    - Bốn là HIỂU ĐẠO:
    Điều nầy đã bắt đầu hơi khó rồi. Nói rằng hiểu đạo ai cũng có thể nói được. Nhưng hiểu cho đúng lại là một việc khác. Thế thường, mỗi người hiểu đạo một cách khác nhau vì hoàn cảnh, nghề nghiệp, tập quán, xu hướng...v.v... Chính điều đó là điều rắc rối.
    Thí dụ: giải nghĩa câu "Vật dưỡng nhơn"
    • Có người nói theo nghĩa là các con vật phải phục vụ cho người nhứt là chúng phải chết để làm miếng ngon, thịt béo nuôi dưỡng con người. Biện luận như vậy để hợp thức hóa các trường hợp sát sanh.
    • Có người lại giải nghĩa câu ấy như vầy: "Vật dưỡng nhơn" là ý Thượng Đế muốn an bài cho vạn vật, vì lòng háo sanh. Vật nơi đây có nghĩa là: hoa quả, thảo mộc, ngũ hành để lấy đó biến chế tất cả vật cần thiết để dùng trong mọi trường hợp. Như nhà ở, áo mặc cơm ăn, nước uống, phương tiện di chuyển như thủy lục không bộ hành.
    Tất cả phương tiện đó xuất phát tự ngũ hành mà ra, trở thành vật dụng do trí khôn ngoan của Thượng Đế sẵn ban cho mỗi người, từ dân quê mùa dốt nát đến hàng bác học siêu nhân.
    • Một thí dụ khác nữa: như con người khôn ngoan, khi bịnh hoạn ốm đau có lương y, bác sĩ, lang ta, lang tây. Hỏi vậy con cá dưới nước, con chim trên rừng, con thú trong hang không có lương y rồi chúng nó tuyệt nòi tuyệt giống hết sao? Chúng vẫn có bản năng tự vệ, bản năng tự tồn mà những bản năng đó cũng từ đức háo sanh Thượng Đế an bài cho chúng thôi. Vật dưỡng nhơn hay vật dưỡng vật phải hiểu nghĩa như vậy. Đừng nên nghĩ khác mà trái với đức háo sanh luật bảo tồn vạn vật của Tạo Hóa.
    Thử đem so sánh hai định nghĩa như trên sẻ thấy ngay rằng hiểu thế nào là đúng thế nào là sai.
    Cũng như hai tiếng "tự do" phải hiểu nghĩa trong sự tự do của mình đừng vì đó mà làm mất tự do kẻ khác. Như vậy mới thực sự là tự do....
    Hiểu đạo nơi đây chẳng những do sự học hỏi từ kinh điển, Thánh Ngôn Thánh Giáo mà lại còn hiểu do nơi tham thiền nhập định phát huệ tâm linh. Đó là hiểu về nội tâm.
    Phải là bực tu hành chí chơn chí chánh, lòng được trống không, diệt trừ tư tâm bản ngả, tham vọng, đương nhiên cái chơn từ từ lố dạng và ứng hiện lên để cõi lòng thơ thới, hoan hỉ tiếp nhận là một môn học quí vô giá.
    Có hiểu đạo mới biết được vị trí của con người đứng chỗ nào trong tam tài và trong vạn linh, và hiểu mình phải làm và bắt buộc, tự nguyện phải làm những gì để gọi là tùng Thiên Lý, phụng sự Thiên Cơ.
    - Năm là TU THÂN - LẬP HẠNH:
    Nếu hiểu đạo mà không tu thân, là người trốn trách nhiệm. Cũng như một đứa bé vừa tập nói chuyện, bảo chúng đọc một trang thơ lục bát. Chúng vẫn đọc lưu loát, nhưng không hiểu nghĩa thế nào.
    Tu thân nơi đây là bước đầu cho sự thanh lọc, dọn mình lập hạnh, khắc kỷ tùng đạo. Có tu thân, con người mới mong tránh sự lỗi lầm do những việc thường nhựt chung đụng với đời sống chung quanh. Có tu thân, con người mới mong hoàn thiện để trở nên hạt giống tốt cho thế hệ hiện tại, cũng như thế hệ ở tương lai. Khi tu thân được hoàn thiện rồi bước ra đường đời không gây điều tổn đức thất nhân tâm, tổn nhân ích kỷ.
    Các Đấng Thiêng Liêng khác cũng dạy:
    ▪ “Chỉ có tu thân thoát ngục tù,
    Ngục tù thế sự quá âm u;
    Tham sân si dục bền vây chặt,
    Gươm huệ không mài nhốt vạn thu.”
    (Đức Lê Đại Tiên)
    ▪ "Về giá trị con người trong hàng tín hữu chức việc hoặc chức sắc, muốn có được phẩm vị cao quí để thể hiện đức độ của người tu, điều cần yếu là phải lập hạnh, vì có hạnh đương nhiên có phẩm, gọi tắt là PHẨM HẠNH.
    Bốn tiếng CÔNG ĐỨC PHẨM HẠNH luôn luôn phải được gắng bó nhau để con người tu thân hành đạo có được tác phong đứng đắn, dễ gây thiện cảm kính nể mến yêu với những người chung quanh mình……
    Trong lãnh vực tu thân lập hạnh hành đạo, Thiêng liêng thường dạy môn đồ phải gia công hành đạo, vì nhờ có công mới có đức, gọi tắt là CÔNG ĐỨC "
    Chúng ta sang giai đoạn thứ sáu
    - Sáu là HÀNH ĐẠO:
    Hành đạo là bước đầu xây dựng nền tảng âm chất vững chắc cho tòa lâu đài thánh thiện. Nhờ hành đạo mà các hàng Thần Thánh Tiên Phật càng ngày càng được phẩm vị cao siêu.
    Tu thân và hành đạo phải gắn liền nhau như gấm thêu hoa. Tu thân và hành đạo cần phải được hỗ tương nhau để tiến hóa. Nếu hành đạo mà không tu thân là thiếu căn bản lương thiện. Nếu tu thân mà thiếu hành đạo thì sự tiến hóa bị chậm trễ không biết ngần nào.
    Cùng loài sâu từ con bướm đẻ trứng, trứng nở thành sâu, nếu con sâu ấy có biết chăm sóc nuôi dưỡng sẻ trở thành tằm kéo tơ phục vụ loài người, công quả đáng kể. Cũng loài sâu, nếu không người, không sự chăm sóc nuôi dưỡng thì sâu cũng là sâu không ngày thành bướm.
    Việc Hành đạo lập công bồi đức cũng được các Đấng Thiêng Liêng dạy:
    ▪ "Sự hành đạo lập công bồi đức là tự cải tiến cho mình trở nên hàng thánh thiện.
    Ví như người trèo cây hoặc leo núi, đi lên thì thấy bao nỗi khó khăn, nhưng đã trỗi được từng bước một là đã được gần tới điểm cao, nếu quày trở xuống thì rất dễ dàng có nhiều sự giúp sức cho trở xuống.
    Thế nên Thánh xưa có nói vài câu đơn giản... "Quân tử ưu đạo bất ưu thực" hoặc "Quân tử ưu đạo bất ưu nhàn" hay "Chí quân tử thực vô cầu bảo, cư bất cầu an". Bởi vì tất cả nhu cầu tạm bợ đã có tạm đủ, không phải bận tâm cho lắm, để có thì giờ thực hành đạo sự là vậy đó."
    ▪ “Vẫn biết rằng các em có thể ở tại nhà giữ đạo, ăn chay tứ thời tụng niệm, lúc nào siêng thì đi chùa thất, lúc nào không siêng thì nằm nhà, lâu lâu gởi giúp ít nhiều tiền bạc để cho danh mình còn dính líu cũng được, không ai có quyền ép buộc. Như vậy cũng khá hơn những chị em khác không làm được vậy, hoặc những chị em khác nữa lại còn bê bối hơn.
    Lời tục thường ví: "Một đám người mù, kẻ chột làm vua". Chị muốn hỏi, các em muốn làm vua chột chăng? Hay là làm một người có đủ nhãn quan hành đạo tế thế an bang nhưng trong phạm vi vô danh, chẳng chức tước, không vị ngôi?
    Các em ơi! Một khúc gỗ to, từ dốc cao lăn xuống gây cho nhiều người chết chóc tàn tật cũng là khúc gỗ. Khúc gỗ khác vùi lấp dưới bùn sình, theo tuổi thời gian rất hiền lành không gây hại ai hết. Nhưng cũng có một hoặc những khúc gỗ khác được đem ra cưa bào đục chạm sơn son phết vàng tạc nên hình bạch mã thờ ở đình Thần hoặc tượng hình hạc qui để nơi các Thánh Đường hay tạc hình ông tà ông tướng để thờ các nơi miểu môn am tự hằng ngày có nhơn sanh sùng bái chiêm ngưỡng làm Thần Thánh. Các em muốn mình sẻ là những khúc gỗ nào hở các em?
    … Sự lễ bái, tụng kinh, ăn chay, niệm Phật là phương tiện để cho thân được an tâm được định, tánh được thuần, nghiệp quả sớm tiêu mòn để không còn nhiều chướng ngại vật khảo đảo thân tâm các em.
    Vì vậy mà chị khuyên các em, ngoài những lãnh vực thường thức hằng ngày ấy, phải thêm công khó giúp đời mới tạo được vốn liếng âm chất ở phần vô vi thiêng liêng vĩnh cửu."
    Kết hợp cả hai giai đoạn Tu Thân Lập Hạnh và Bồi Công Lập Đức, chúng ta hãy đọc tiếp đoạn Thánh giáo sau của Đức Liên Hoa Thánh Mẫu:
    "Thiêng Liêng thường dạy các môn đồ tu thân lập hạnh bồi công lập đức, nhưng người hiểu được chấp hành được, kể ra cũng hiếm có.
    Do đó, trong hàng chức việc chức sắc Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ nói riêng và trong lãnh vực các tôn giáo khác nói chung, thường vấp phải và tự thán rằng tôi đã nhiều tuổi đạo, đã tốn phí lắm của nhiều công, đã hy sinh những thụ hưởng xa hoa phù phiếm để phục vụ đạo lý nhưng sao thường khi lại bị đồng đạo khinh thường gièm pha chỉ trích, đừng nói chi đến kính nể mến yêu.
    Đó là tại chưa hiểu và chấp hành được tác phong đạo đức và công đức phẩm hạnh."
    - Bảy là THÁNH THIỆN, THÁNH TÂM hay GIẢI THOÁT:
    Xuyên qua một đoạn đường dài từ ngày nhập môn, giữ đạo, học đạo, hiểu đạo, tu thân cho đến hành đạo là khoảng thời gian chuẩn bị, để kiện toàn cho ngày phát Thánh Tâm, hiện Thánh Ý hành Thánh Sự để đến giải thoát.
    Giải thoát nói đây không phải lìa bỏ nhục thể hay trốn lánh nợ đời. Giải thoát nói đây có nghĩa là hàng Thánh thiện bực siêu nhân tuy ở tại cõi phàm gian ô trọc, mà lòng chẳng nhiễm bụi trần ô trọc, luôn luôn đem những kiến thức cao siêu giúp đời độ thế trên đường thánh thiện.
    Đó là giai đoạn đắc quả tại trần.
    Trải qua sáu giai đoạn đầu, người đạo hữu đã trải qua biết bao nhiêu sự giũa rèn trui đúc từ nhục thể đến tư tưởng, từ ngoại thể đến nội tâm. Có như vậy mới trở nên hàng thượng đẳng chúng sanh.
    Đừng bao giờ tưởng rằng mình nhập đạo lâu năm, đếm tuổi đạo làm nhiều để đo số lượng công quả. Đó là sai lầm! Nếu không học đạo, hiểu đạo, tu thân hành đạo, dầu có sống ngàn tuổi giữ ngàn năm thì phàm tục vẫn phàm tục. Đó là chưa kể đến những điều tội lỗi đã gây ra trong một thời gian dài đăng đẳng do tham, sân, si, dục.
    Và cũng đừng hiểu lầm câu "tu nhứt kiếp, ngộ nhứt thời", rồi giải đãi không lo tu huệ, tự bào chữa rằng: cứ lo tu phước để nhiều kiếp luân hồi trở lại hưởng cảnh phú quý vinh hoa cho thỏa mãn, rồi một kiếp nào đó tu cũng thành có muộn gì đâu.
    THI
    Ráng lo tu tỉnh tập từng ngày,
    Đừng để buông lung, phải trễ chầy;
    Một kiếp tu hành muôn kiếp hưởng,
    Phải lo công quả, hạnh cho dày.
    (Đức Quan Âm, Minh Lý Thánh hội, 01.9 Kỷ Dậu, 11.10.1969)
     

    MÔN TU CĂN BẢN CỦA ĐẠI ĐẠO CAO ĐÀI
    Học Đạo để biết phương pháp tu hành của tôn giáo mình đang theo là điều hết sức cần thiết. Tầm quan trọng của việc học đạo càng được nâng cao hơn nữa trong Kỳ Ba Phổ độ này là học để có sự hiểu biết áp dụng cho bản thân đồng thời để góp phần vào nhiệm vụ chung của Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ.
    Định hướng tổng quát của pháp môn Cao Đài đã được Đức Đông Phương nhắc nhở:
    1. Nam Thành Thánh thất, 09 tháng 5 nhuần Tân Hợi (01.07.1971)
    “Đông Phương Chưởng Quản, (...)
    Hiền đệ Chí Thuần đến đây nghe Bần Đạo hỏi.
    Hiền đệ! trong môn tu của Đại Đạo Cao Đài, căn bản là môn gì?
    (Đạo Huynh Chí Thuần bạch: phổ độ và tu tánh luyện mạng…)
    Đúng đấy. Trong Tam Kỳ Phổ Độ, Đức Chí Tôn khai Đạo với hai môn tu căn bản đó, nhưng thiết yếu hơn là hai đường hướng này đi song song với nhau.”
      
    Một thời gian sau, phương hướng tổng quát này lại được Đức Quan Âm giảng giải chi tiết hơn.
    2. Vĩnh Nguyên Tự, mùng 3 tháng Giêng Giáp Dần (25.01.1974)
    Quan Âm Bồ Tát, Bần Đạo chào chư Thiên sắc, chư hiền sĩ hiền muội trung đàn. Giờ nay Bần Đạo đem đến trần một ân lành bủa khắp địa phương cho mùa xuân được hưởng trọn vẹn. Bần Đạo miễn lễ, chư Thiên sắc, chư hiền sĩ hiền muội an tọa.
    Hỡi chư hiền sĩ hiền muội! Xuân về với vạn vật giữa thế đạo khuynh nguy, nhơn tâm ly tán, mặc dầu xuân mang đến cho đời muôn hồng ngàn tía được nẩy nở sinh sôi vươn lên cùng Tạo Vật, nhưng nếu là hàng chơn tu thánh thiện vẫn có một mùa xuân vĩnh cửu trong tâm hồn, luôn luôn hòa mình cùng xuân Tạo Vật để phụng Thiên sự dân, để hoàn thành sứ mạng vi nhân trên cõi thế, nên chi ngoại cảnh không làm lay động được tâm xuân.
    Nhìn lại hiện tình thế sự ngày nay rất thảm thương cho vạn linh sanh chúng, đang hưởng một mùa xuân cổ lệ mà tâm nhiều phiền não và ưu tư. Đó là chưa nói đến những người hứng tuyết nằm sương để giữ kiếp sanh tồn hiện tại, thì nào có xuân hạ gì đâu?
    Chư hiền sĩ được yên lành gần gũi Thiêng Liêng tu học, mỗi tiết xuân về được ân phước gia ban. Đó không phải tình riêng tư của Tạo Hóa, mà nhờ sự giác ngộ tìm đường cứu rỗi tự thân. Nhưng cũng không vì sự giác ngộ của chư hiền sĩ hiền muội mà Thượng Đế dành trọn hồng ân. Thượng Đế vẫn bủa khắp ơn lành cho vạn vật, vẫn cứu độ vạn sanh, chỉ chờ đợi vạn sanh biết thừa hưởng hồng ân Thượng Đế, quày chơn trở bước, lánh dục vọng tham tàn, khỏi vướng điều nghiệp quả là thọ hưởng gội nhuần ơn Thượng Đế.
    Đành rằng công nghiệp nhưng tất cả đều làm lành lánh dữ, biết tránh sự sanh sát giết hại lẫn nhau, biết sợ luật điều vay trả, thì cơ bảo tồn được luân động chở che, dù công nghiệp cũng không đến nỗi vào cơ sàng sảy.
    Bần Đạo khuyên chư hiền sĩ hiền muội là những Thiên ân hướng đạo, những thiện nam tín nữ biết hướng thiện tìm sự cứu rỗi ở Thiêng Liêng, hãy vì nghiệp lực của chúng sanh mà chung tay góp ý tạo một con thuyền Bát Nhã bằng tâm linh, bằng đạo đức, để đưa rước gọi kêu, cứu vớt những người đang say mê chìm đắm trong biển dục trầm luân.
    Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ với mục đích tối thượng cứu cánh nhơn sanh, chư hiền sĩ được làm những tế bào trong thánh thể Đức Chí Tôn, hãy cố gắng làm sao cho xứng phận để thánh thể được phát huy mầu nhiệm, tế chúng độ nhơn trong thời hạ nguơn mạt kiếp.
    Chư hiền sĩ hiền muội! trải qua trên bốn mươi năm, Chí Tôn khai đạo tại một đất nước nhỏ bé này, đã từng ban hành kinh điển đạo luật, đã từng cho phát hành Thánh giáo Thánh Ngôn kể ra cũng đủ đầy cho hàng Thiên phong chức sắc nắm đó mà lãnh đạo tinh thần, dìu dắt chúng sanh trên đường tu thân lập hạnh, hành đạo độ đời, và chừng ấy giáo lý cũng đủ cho nhơn sanh làm ngọn đèn soi sáng trên đường tu học.
    Tuy kinh điển Thánh ngôn Thánh giáo có nhiều, nhưng chung qui là dạy cho nhơn sanh có hai đường lối tu thân học đạo:
    Một là hướng ngoại hay là Ngoại Giáo Công Truyền. Phương pháp này dạy cho nhơn sanh chấn chỉnh tác phong đạo hạnh nên người có đức độ nghiêm chỉnh đàng hoàng, cốt cách diện mạo hiền nhân quân tử, biết tránh điều ác, biết làm điều thiện, biết giúp đời để lập công bồi đức. Đó là giai đoạn đầu, như đào móng đóng cừ đổ nền chắc chắn cho công cuộc xây dựng tòa lâu đài đạo đức ở giai đoạn thứ hai. Vì giáo lý Cao Đài không đi xa thực tế với đời sống con người thực tại. Sự hiện diện của nhơn sanh tại cõi thế gian nầy không phải là ngẫu nhiên hay vô cớ, mà nó nằm trong cái định luật, trong đức háo sanh của Thượng Đế.
    Chư hiền có học đạo, đã hiểu luật ấy Sanh và Thành. Sanh Thành xuất phát từ nhất khí hư vô, lưỡng nghi tượng hình cho cơ sanh hóa. Nếu sanh không được nuôi dưỡng giáo hóa thì mọi vật điều tiêu diệt băng hoại. Do đó khi có vạn vật được sanh, tức thì có phương pháp điều kiện để dưỡng dục giáo hóa cho sinh tồn. Trong các chi tiết của luật thành đó, một là mở đạo, giáo dục cho nhơn sanh noi theo đường chánh, lánh nẻo tà để qui thuận lòng trời hầu an định thế gian. Thế nên người hướng đạo phải thể theo lòng Trời mà thuận tùng Thiên lý, lãnh lấy trách nhiệm trước Thượng Đế trước nhơn sanh.
    Biết rằng mỗi một người sanh trưởng tại thế gian nầy đều có mang theo cái duyên nghiệp tốt hoặc xấu đó là lành hoặc dữ trong kiếp quá khứ. Sự mở đạo của Thượng Đế là muốn cho tất cả nhơn sanh đó, dầu trong thời kỳ trả quả cũ, không gây nghiệp mới bằng cách tu thân lập hạnh, bồi công lập đức để mọi người mọi chỗ mọi nơi đều hướng thiện, ăn ở đối xử với nhau cho phải tình phải nghĩa, phải đức phải nhân để trong cõi đời này có một xã hội đại đồng đạo đức, tương thân tương ái tương trợ tương liên với nhau, xem hạnh phúc mọi người như hạnh phúc của mình mà không dám làm gì tổn thương cho tha nhân. Nhìn sự đau khổ thất thoát của người như sự đau khổ thất thoát của mình, mà tìm cách che chở đỡ nâng, giúp an ủi. Nếu toàn thể nhân loại có một xã hội đại đồng đạo đức như vậy thì mọi người hạnh hưởng an lạc thái hòa biết bao!
    Đó là mục đích thứ nhứt mà Thượng Đế muốn cho loài người hiểu tận lý và hành tận sự, chớ giáo lý Cao Đài không nhất thiết chỉ bảo người đời đi tìm hạnh phúc trong cõi hư vô vĩnh cửu, chốn niết bàn cực lạc, trong khi nhơn sanh còn nghèo đói bệnh tật dốt nát kỳ thị chia rẽ, người bóc lột người trong cảnh mạnh được yếu thua, bất công xã hội. Nếu phần thân sanh hiện hữu như thế, chắc gì phần tâm linh được mẫn tuệ siêu thoát đâu.
    Còn giai đoạn thứ hai - Giáo lý Cao Đài dạy cho người phải tu theo phương pháp hướng nội. Hướng nội có nghĩa là phải nhìn vào trong. Nhìn vào nội thân để tìm cái chơn như bổn tánh của mình đã bị phủ mờ chìm sâu vào trong bức màn vô minh bởi tham sân si dục, phiền não hỉ ái ố. Phải tìm cho ra chơn như bổn tánh đó mới mong giải thoát kiếp trần lụy giả tạm nầy hầu phản bổn hoàn nguyên trở về cùng Thượng Đế. Đó là phương pháp thiền định công phu.
    Bần Đạo phân như thế để chư hiền sĩ hiền muội ý thức rõ rệt đường đi nấc bước của mình trong cửa Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ. Vì trải qua bốn mươi tám năm giữ đạo, đã có lắm người chưa hiểu rõ, nên đã bị lâm vấp hoặc sụp đổ công trình xây tạo. Trong số người lâm vấp có thể tạm chia làm ba loại:
    Loại Thứ Nhứt:- Là chỉ biết hướng thiện nhập môn, giữ gìn trai giới, bốn thời cúng lạy ngưỡng mộ sùng kính Thiêng Liêng, đức tin hướng về Phật Tiên Thượng Đế, nhưng chưa rõ giáo lý Cao Đài là gì. Hằng tháng đến ngày Sóc Vọng đi đến Thánh Thất hành hương ghi tên vào sổ kỷ niệm hoặc sổ hành trình rằng mình còn giữ đạo và có đi đến thất đến chùa. Như vậy đã cho rằng đủ, không thường sanh hoạt tập thể đạo đức nên ít dịp gặp bạn tốt dắt dìu, lần hồi ngày lại tháng qua uể oải biếng lười không đi chùa thất. Lẽ cố nhiên không gần bạn đạo thì gần bạn đời, bị lôi cuốn vui đâu chúc đó, không vững lập trường ban đầu còn giữ trường trai, lần hồi thấy hơi trở ngại vì tiệc tùng bên bạn đời mời mọc thường ngày nên giảm xuống còn 10 ngày chay cho tiện. Sau đó thấy 10 ngày chay cũng còn vướng vấp trở ngại nên tụt xuống còn 6 ngày, kế đến 4 ngày và kế đến 2 ngày, và sau nữa không có ngày nào, nhưng lòng cũng hơi sợ, cho nên mỗi tháng đến ngày chay, vào bữa dùng ba miếng cơm lạt. Mấy lúc ngồi vào hàng quán ăn phở hoặc bánh bao mặn trúng vào ngày chay, bất chợt gặp bạn đạo ngồi chung bàn, tuy nhiên cũng còn biết sợ, thấy bạn đâm ra hoảng hốt, lính quýnh xô dĩa xô chén qua một nơi, lấy ly rót nước kêu bánh ngọt liền, v.v… Vì cơm thiếu canh tu hành thiếu bạn, cũng như thiếu môi trường hành đạo nên mới xảy ra trường hợp đó. Thế nên loại một nầy nên tìm cho mình một hoàn cảnh thuận tiện để khỏi sa ngã, đó là hãy thường đến chùa, đi thất nghe giảng đạo thuyết kinh, để có môi trường buộc ràng chằng chịt mình với tập thể đạo.
    Loại thứ hai:- Là loại cực đoan về ngoại giáo công truyền, hằng ngày hàng tháng hàng năm đều siêng năng hành đạo chuyên cần nhưng chỉ biết lo về hành chánh đạo và thỉnh thoảng nói một vài điều đạo lý để tỏ ra mình rành Tân Luật Pháp Chánh cho đàn em út nó nể nó kiên. Kể ra thì loại hai nầy thì khá hơn loại một. Nhờ đó mà khi Chí Tôn mới khai đạo, đã có hàng trăm ngàn người nhập môn tùng đạo trong thời gian ngắn và khoảng thời gian từ 1946 đến 1952, chiến tranh bộc phát toàn cõi Việt Nam, nhóm phe tranh chấp bắt bớ giết hại. Lúc bấy giờ hàng vạn người sợ chết, muốn yên thân nên vào ẩn nơi bóng Đạo Cao Đài, để một là trong nhà có Thiên bàn, tây đen tây trắng mỗi khi bố ráp không làm khó dễ. Hai là giữ được cái giấy chứng nhận rằng mình là tín hữu Cao Đài, không nghịch bên này, không chống bên kia, chỉ biết lo thuần túy về chay lạt lễ bái, nhờ đó được yên thân. Cho nên lúc bấy giờ có người kêu ngạo cho lớp người ấy là đạo giấy. Tuy nhiên, cũng nhờ công quả của loại hai này đã thâu nhận một số khá đông tín đồ nhập môn và cứu tử hoàn sanh khá đông cho lớp người bị các bên bắt bớ.
    Loại thứ ba:- Là yếm thế, độc thiện kỳ nhân để thành Tiên đắc Phật. Đó cũng là cực đoan. Đã từng có những vị tu hành an ổn nhờ tiền căn dày công đức. Tuy nhiên cũng có lắm người lận đận lao đao hoặc nửa chừng đổ vỡ hoặc điên loạn, bởi vì thiếu công quả công trình cho móng nền vững chắc. Vì đó là công phu xây tòa lâu đài bị chinh nghiêng hoặc sụp đổ.
    Chư hiền sĩ hiền muội! Xuyên qua mấy lời Bần Đạo vừa phân chư hiền ý thức chữ Tam Công trong Đại Đạo là có lý. Thế nên Chí Tôn Thượng Phụ và chư Phật chư Tiên hằng dạy khuyên chư hiền sĩ hiền muội lập cho mình một chương trình hành đạo gồm đủ Tam Công: Công Quả, Công Trình và Công Phu Thiền Định. Tuy nói rằng ba giai đoạn, chớ thật ra có thể song hành cùng một lúc tùy khả năng duyên nghiệp và căn trí của mỗi người, đừng quan trọng hóa mỗi vấn đề trọng đại rồi làm không được. Bần Đạo nêu một vài ví dụ trong Tam Công đó.
    Như Công Quả: Đừng nghĩ rằng phải có tiền ngàn bạc muôn đem ra bố thí hoặc xây thất cất chùa lên cốt Phật hoặc in kinh gọi đó là công quả. Khi thấy một thế nhân bị cảm gió nhức đầu, chịu khó nhín ra mười phút cạo gió bóp gừng, không gọi là công quả sao? Thấy kẻ bất hạnh đói rách khổ đau, mà bỏ ra một viên thuốc một chiếc áo thừa, hoặc miếng bánh mì nguội dư, không thể gọi là công quả sao?…
    Tùy khả năng sở hữu tới đâu làm tới đó, nhưng phải làm với tất cả tấm lòng vị tha bác ái, không gọi công không gọi danh.
    Còn về Công Trình - đó là đào luyện trui rèn ý chí phàm tánh bản năng sanh tồn. Đừng nói rằng mình ít oi đạo học về giáo lý làm sao đi thuyết minh truyền giáo giảng dạy đó đây cho đời hướng thiện. Vậy chớ một cử chỉ nhỏ như tha thứ lỗi người, dằn cơn nóng giận để cảm hóa lòng người không gọi là công trình được sao? Gần đến giờ cúng thời hoặc ngày đi chùa thất, nghiệp trần dấy lên nêu đủ lý sự, nào mắc việc này việc kia, tại bần thần uể oải, hãy cố gắng kiên quyết diệt những tư tưởng chủ bại đó, dứt khoát làm liền ý định sẻ được việc ngay. Đó không gọi là công trình được sao? Ngày chay lạt nghe hơi tàu hủ mì căn kho xào phát ớn, nhưng lòng đang thắt thẻo cuộn cào sanh ra thèm bậy, dằn lòng không được rồi đi ăn lén thử cơm, quyết tưởng rằng sẻ có người bắt gặp, ít nữa hai bên vai giác hoặc trên đầu mình cũng có chư Thiên dòm ngó, rồi không dám làm. Lúc đó trong trạng thái tâm hồn có sự giằng co mãnh liệt, nhưng giữ được lập trường chay lạt không sa ngã, đó là thắng được nội tâm xúi quấy. Như vậy không thể gọi là công trình được sao?
    Còn về Công Phu đừng nghĩ rằng phải chờ đến bực Thiên phong chức sắc có nhà tịnh đủ tiện nghi hoặc chờ Thiêng Liêng điểm danh cho nhập khóa. Vậy chớ Phật xưa ngồi nơi gốc cây, tấm thân tròi trọi, địa vị bần dân, vẫn giữ được công phu thiền định, còn chư hiền phải làm sao? Một hiền muội mắt hơi làn, xỏ kim không kiếng nhắm vào một chỗ để luồn sợi chỉ cho qua, có khi mất cả mười phút. Trong mười phút đó chắc chắn rằng tâm thanh tịnh không tưởng việc nào khác hơn là luồn sợi chỉ qua kim. Như vậy không gọi là công phu được sao? Nhưng đó là thiền định vô ý thức. Thay vì chăm chú vào mối chỉ lỗ kim, hãy chăm chú vào ngọn nhang, ánh đèn Thái Cực hoặc nhìn chăm chú vào Thiên Nhãn, đừng tưởng việc chi khác hơn, đó cũng là khởi đầu cho động tác công phu thiền định rồi vậy.
    Bần đạo muốn tóm lược: làm thế nào để giữ vững tinh thần vào việc đạo. Chư hiền đói biết kiếm thức ăn, khát biết kiếm thức uống, mệt mỏi biết tìm chỗ ngủ ngơi, nực hầm biết tìm ra hơi gió, thở biết tìm không khí trong lành đó là nguồn sống của xác thân. Tại sao không tìm nguồn sống cho linh hồn hầu cung phụng nhu cầu cho nó?
    Chư hiền thử tưởng tượng trong thời chiến, nghe có việc đạo lúc vui thì sẵn sàng chấp nhận làm theo, lúc buồn lười biếng thì nêu lý do tại vầy tại nọ. Thử đang lúc nói tại bị đó, bất thần có một trái đạn pháo nổ bên hè, vội vàng chui liền ẩn núp, nếu cần có thể ôm gói đi cả năm bảy chục dặm đường chớ không còn nói tại nọ tại kia ở yên một chỗ. Cười…! Cười…!
    Tóm lại, Ơn trên chỉ dạy cho các tín hữu Cao Đài hãy nương theo nguyên lý “âm dương – tâm vật bình hành” mà song hành Ngoại giáo công truyền và Nội giáo tâm truyền, bằng cách mỗi người hãy lập cho mình một chương trình hành đạo có đủ Tam Công.
    Làm được như thế thì tương lai sẻ ngời sáng.
     

    TÂN PHÁP TAM CÔNG

    I. KHÁI NIỆM
    II. XÂY ĐẮP HẠ TẦNG KIẾN TRÚC
    1. CÔNG QUẢ
    1.1. Định Nghĩa
    1.2. Các hình thức Công quả
    1.3. Loại hình Công Quả có giá trị cao: PHỔ ĐỘ
    1.4. Giá trị của Công Quả
    2. CÔNG TRÌNH
    2.1. Định Nghĩa
    2.2. Các hình thức Công trình
    2.3. Giá trị của Công trình
    III. TÔ ĐIỂM THƯỢNG TẦNG KIẾN TRÚC
    1. Định nghĩa CÔNG PHU
    2. Các hình thức Công phu
    2.1. Công phu ngoại
    2.1.1. Cúng tứ thời
    2.1.2.“Biến mọi tình thức vọng niệm thành chơn thiện mỹ”
    2.1.3. Tĩnh tâm
    2.2. Công phu nội: Tâm pháp Đại Thừa
    2.2.1. Thiền (Chánh niệm)
    A. Tham thiền và Tịnh tọa:
    B. Thể dục Công phu
    2.2.2. Tu Luyện (Vô niệm)
    A. Điều kiện căn bản: Trường trai tuyệt dục
    B. Hình thức thực hành:
    C. Không khinh thường Đạo pháp
    3. Lợi ích của Công phu
    3.1. Giúp tăng trưởng trí huệ
    3.2. Là hình thức Công đức to lớn
    3.3. Công phu chỉ được thuận lợi và phát huy được tính hữu hiệu khi đã có nền tảng vững chắc
    3.4. Giúp phục hồi Tiên Thiên khí, ảnh hưởng đến thời gian đắc vị vô vi
    IV. BÍ QUYẾT TU HÀNH CỦA KỲ BA ĐẠI ÂN XÁ
    1. Lộ trình thực hành Tam công
    2.1. Nền tảng là Công quả
    2.2. Công trình xây dựng bộ khung
    2.3. Công phu xây cất lâu đài và tô điểm
    2. Song Hành Tam Công
    3. Thước đo giá trị trong Tam Công
    3.1. Thước đo giá trị của Công Quả
    3.2. Thước đo giá trị của Công trình
    3.3. Thước đo giá trị của Công phu
    V. TỔNG KẾT TAM CÔNG


    Đọc kỹ Thánh Ngôn Hiệp Tuyển, mặc dầu chúng ta không tìm thấy một từ Tam Công nào trong những lời giáo huấn của Đức Chí Tôn khi mới lập Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ, nhưng nội dung về Công quả, Công trình, Công phu luôn hiện diện.
    Đức Hộ Pháp Phạm Công Tắc thường nói về Tam Lập: lập công, lập ngôn và lập đức. Những nội dung của Tam Công chính là nội dung của phần Lập Công.
    Trong Thánh Giáo của hầu hết các chi phái Cao Đài Giáo, chúng ta lại thấy danh từ “Tam Công” hiện diện mọi nơi. Đến mức ngày nay hễ nói đến phương pháp tu hành của người tín hữu Cao Đài, hầu như mọi người không phân biệt phái chi đều nói đến Tân pháp Tam Công.
    Vậy hỏi rằng danh từ Tam Công qua cơ bút Cao Đài đã xuất hiện từ khi nào? Câu trả lời chính xác của việc này xin dành riêng cho các nhà nghiên cứu về văn hóa sử.
    Có thể ba nội dung của Tam Công đã bắt đầu có từ năm 1947 trong một lần giáng đàn dạy đạo của Đức Lý Giáo Tông tại một Thánh Thất ở miền Trung.
    “Các hiền đem hết khả năng khuyên nhắc từ người, từ đứa, không luận trẻ thơ, người già nua hoặc nam hay nữ, bảo sao những đạo hữu kia cùng đi theo nguyên tắc của Thầy, lập cho được kỳ công là Công phu, Công quả, Công trình.
    1. Công phu: là tu dưỡng thân tâm cho trong sạch, nhẹ nhàng. Không mến hồng trần, không xiển ngộ chướng ngại. Đó là nơi giao cảm với Thiên Đình.
    2. Công quả: là lo lập công bồi đức, bố thí, cúng dường. Đó là bửu tràng phang đưa về nơi Thiên đài cực lạc.
    3. Công trình: là xả thân hành đạo, thù tạc vãng lai gây mối cảm tình, nấu sôi lòng đạo. Đó là Công quả lớn, phẩm vị của mình.
    Vậy ba điều ấy, mỗi đạo hữu nên cầu xin gấp cùng Thầy mà mau rèn luyện cho thành tâm linh như ý pháp.”
    Vấn đề chánh yếu là mỗi tín hữu Cao Đài hãy tìm hiểu, nắm vững những mấu chốt ý nghĩa của mỗi loại Công và cố gắng thực hành cho rốt ráo Pháp Môn Tam Công, tùy theo mức độ hiểu biết của mỗi người hầu đạt kết quả tốt nhất trên đường bồi công lập đức và đóng góp vào sứ mạng chung của Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ.
    Đức Quan Thế Âm có dạy:
    “Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ, chư hiền đệ muội không có cái pháp Ba La Mật, nhưng thay vào đó cái pháp Tam Công cũng đầy đủ lắm rồi.
    Thực hành được Tam Công là chứng được Đạo quả mà Phật cho là Bồ Tát Hạnh.”

    I. KHÁI NIỆM
    - Là pháp môn tu hành của Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ, Tam Công gồm: Công quả, Công trình, Công phu.
    Điểm chung của cả ba là chữ CÔNG.
    - Chữ Công bao gồm 2 ý nghĩa chánh: một là “công sức”, hai là “chung”.
    “Thượng Đế đã đặt để cho con cái thân yêu của Ngài một con đường bằng phẳng yên vui, đó là hành đạo phục vụ nhân sanh, đó là đem lại sự yên vui cho đời. Đã lo cho nhơn sanh là lo cho mình rồi đó.
    Phương pháp tu Tam Công trong Đại Đạo có, chư hiền tìm đâu xa xôi cho rắc rối cõi lòng. Công phu, công quả, công trình, công nào cũng đứng đầu bằng chữ công. Phải tự lực cánh sinh, tự tu tự tiến. Thiên nan vạn nan mới đắc thành quả vị...”
    Cho dù thực hành loại Công nào đi nữa cũng đều phải hướng về đối tượng chung là “chúng sanh” và gắng sức “gia công” thực hiện.
    “Thế Tôn hôm nay cũng mừng thấy chư thiện nam tín nữ trong Đại Đạo so sánh lại với những đệ tử của Thế Tôn khi xưa trong hàng Thinh Văn, Duyên Giác cùng Bồ Tát thì chư thiện tín ngày nay đáng đứng vào hàng Bồ Tát, vì vừa tu thân vừa lo cứu độ nhơn sanh. Còn hàng Thinh Văn Duyên Giác chỉ tự tu tự độ lấy thân thôi. Chỉ có hàng Bồ Tát mới là dắt dìu nhơn sanh đồng tu học trên đường đạo hạnh.
    Thế Tôn so sánh lại giáo hội của Thế Tôn khi xưa với Hội Thánh của Đại Đạo thời nay, Thế Tôn rất khen chư thiện nam tín nữ đáng liệt vào hạng hàng Bồ Tát là lo cứu độ dẫn dắt nhơn sanh đó.”
    - Trong Tam Công có thể nào chúng ta chỉ cần thực hiện một hoặc hai Công mà thôi chăng? Ơn Trên có dạy:
    “Vậy Tôn Sư thí dụ qua cho môn đồ tường. Nếu chư môn đồ đạt thành đạo cả thời bản thân phải đứng vững, thể phách linh hồn vững vàng thì linh hồn kia mới nương dựa vào, hầu bước lên nấc thang cao thượng.
    Muốn cho tinh thần được kiện toàn, chư môn đồ hằng ngày phải công phu luyện tập, công quả điểm tô, công trình phổ hóa. Tam Công song hành thời kết quả chư môn đồ đạt đặng rất dễ dàng.
    Vậy buổi hạ kỳ Tôn Sư thọ sắc hạ trần, hướng dẫn chư môn đồ trên bước đường luyện tập minh triết hầu đạt thành ngôi vị.”
    - Tuy cần phải song hành cả ba Công, nhưng với đại đa số tín hữu Cao Đài tu theo đường hướng “phổ độ” thì phương án thực hành phải theo qui luật “tiệm tiến” đi từng bước từ thấp dần dần lên cao. Vậy loại hình Công nào là nền tảng, cần phải chú ý bồi đắp trước tiên?
    II. XÂY ĐẮP HẠ TẦNG KIẾN TRÚC
    Chúng ta tham khảo đoạn Thánh giáo sau của một vị tiền bối ở Thiên Trước – Ô môn Cần Thơ:
    “Tệ Huynh tự xét mình: Công phu chẳng có là bao! Nhờ có Công quả thỉ chung và Công trình gắn bó tu hành với tấm lòng bất thối chuyển, một dạ chí thành, cho nên mới được hưởng đặc ân đó!... Chư Huynh Tỷ Đệ Muội ráng làm Công quả để có nền tảng vững chắc mà giải trừ nghiệp lực tiền khiên, hầu không làm trở ngại bước đường tu tiến. Tệ Huynh đã có Tam Công như vậy đó…”
    Như vậy, phải chăng Công Quả và Công Trình là hai thành phần nền tảng của pháp môn Tam Công? Đức Đông Phương Chưởng Quản dạy:
    “Người tu thân hành đạo, ngoài phần công quả công trình để xây dựng nền tảng âm chất cho vững chãi, còn cần phải có thì giờ rèn luyện công phu. Chính phương diện này mới tạo được lâu đài. Đó là ngôi vị Tiên Phật hay phản bổn huờn nguyên cũng thế.”
    1. CÔNG QUẢ:
    1.1. Định Nghĩa:
    Công quả là làm bất cứ điều gì miễn mang lại hữu ích cho chúng sanh, hoặc ở mặt đời sống (vật chất, tinh thần) hay ở mặt tâm linh.
    Đức Quan Âm dạy:
    “Công Quả nơi đây đừng quan niệm chỉ gò bó trong phạm vi chùa thất, Hội Thánh Tòa Thánh mà gọi là công quả cho Thiêng Liêng để đổi phần cứu rỗi.
    Công Quả nơi đây phải quan niệm về nhân sinh Thế đạo, đem mọi hành động cử chỉ đạo lý áp dụng vào đời sống thường nhựt giữa con người và con người với nhau. Hãy đối xử với nhau cho phải tình nghĩa hiếu trung liêm sỉ chánh chơn.
    Công quả lo giúp đời trên mọi phương diện trong đời sống thường nhựt. Lo cho người tức là lo cho mình, giúp người đời tức là giúp cho mình.
    Công quả cũng là gây tạo được nhân lành quả tốt về âm chất mà đó là nêu gương sáng đạo đức cho kẻ khác cảm hóa mà làm theo.”
    1.2. Các hình thức công quả:
    “Phải lập công bồi quả. Lập công là phổ truyền Đạo Lý làm gương soi cho đời hướng vào con đường Đạo. Bồi quả là tạo nên hình thức như xây dựng Thánh đường, tạo cơ quan thiện từ dụng chí hy sinh với thời gian tùy tài lực, nhơn lực để tế trợ đồng nhơn. Như thế liệt vị bắt lên nấc thang để ngày mai hậu.”
    Công quả có thể được làm qua nhiều hình thức như:
    - Giúp ích bằng sức lực:
    - Giúp ích Vật Chất:
    “Ái, thủ, hữu” có nghĩa là: ưa thích, nắm giữ và sở hữu.
    Cái mà tuyệt đại đa số mọi người, theo tập quán, đều cố sức có được là sở hữu tài sản. Hễ có một rồi thì lại muốn tăng lên gấp đôi gấp ba. Cho nên “bố thí” là hạnh đầu tiên mà giáo lý nhà Phật khuyên tập thực hành.
    Đức Mẹ có dạy:
    “Các con biết lo cho kẻ khác chính là tự lo cho các con đó. Đồng tiền bát gạo đem để vào chỗ đúng nhân nghĩa không mất đâu con.
    Ngược lại sản nghiệp dầu to lớn đến đâu, nếu nó có bởi việc làm thiếu đạo đức mà ra thì của Thiên rồi cũng hoàn về cho Địa.”
    - Giúp ích bằng Tinh Thần và Tâm Linh:
    “Công việc hành đạo lại đắc giá hơn về phương diện tinh thần, vì mọi hành động của con người đều do nội tâm xuất phát. Nếu đem đạo cải tạo tư tưởng con người thì những thói hư tật xấu, những điều độc ác thất đức bất nhân sẻ bị tiêu diệt ngay từ trong trứng nước ở nội tâm, thì còn đâu mà bộc phát những hành động.
    Hơn một lần, Bần Đạo có nói rằng:
    Bố thí thực phẩm cho người đói lòng là một nghĩa cử từ thiện có phước đức công quả, nhưng bố thí lời đạo đức để giác ngộ người đói kém về mặt tinh thần lại càng phúc đức công quả trọng đại hơn.”
    1.3. Những loại hình Công Quả có giá trị cao:
    Chúng ta hãy tham khảo một trường hợp điển hình của một đạo tỷ hành đạo ở một Thánh tịnh tại Lái Thiêu–Bình Dương.
    “TẢ QUÂN - Lão mừng Thiên mạng liệt vị trung đàn. Giờ chuyển Thần Cơ xuân nhựt, Lão mừng chung trung đàn, tiếp hộ điển Chơn linh nhập đàn. Thiên mạng liệt vị thành tâm tiếp ứng. Lão xuất ngoại hộ cơ. – Thăng -
    THI
    Huỳnh tuyền rời khỏi cảnh trần gian,
    Thị giã đua chơn cõi thế tàn;
    Khác được xá ân hồi cảnh báu,
    Lai trần hội diện trước Tam Ban.
    Huỳnh Thị Khác, tôi mừng Thiên mạng, mừng hiền phu, mừng huynh tỷ đàn tiền an tọa. Cho phép em đôi lời lưu lại.
    Hạnh ngộ thay! Hân hạnh thay! Cảnh vật trần gian, con người chia ra nhiều giai cấp, từ sang hèn - nghèo giàu chen lấn, nhưng khi bỏ xác phàm rồi thì vào cảnh thiên nhiên không còn như thế.
    Như tôi lúc tại trần chỉ có tâm không mà thôi, tiền tài cũng thiếu, sản nghiệp cũng không, học hành dốt nát, chỉ nghe theo tiếng đọc của người mà in vào tâm khảm. Chỉ nhớ Đức Mẫu Từ, đến giờ chung qui tâm còn tưởng niệm. Nhờ thế mà đạt được quả lành. Trong bao nhiêu ngày vắng mặt như tôi đã tường trong cảnh ấy, miễn lòng chí thành của kiếp tu hành thì vị ngôi cao cả không phân biệt như ở trần gian.
    Giờ chung qui trước sự cấp bách của tình đời, lưu lại cho hiền phu một vết đau thương lo lắng.
    Đồng chung nhờ huynh tỷ, đệ muội táng trợ để lấp dấu thi hài. Giờ đây tôi cúi đầu tạ những ân nhân bảo trợ. Đôi lời gọi nhắc. (…)
    Vậy thời giờ rất ít, linh điển chưa thuần, chỉ báo hỷ làm gương để cho huynh tỷ ráng trau giồi, ngày kia mọi người đều được vận chuyển ngọn linh cơ bày tỏ.
    Vậy cúi đầu từ giã Thiên mạng cùng huynh tỷ đệ muội trung đàn, giã từ ngọn bút.- Lui -
    Đúng một năm sau, chơn linh đạo tỷ lại được phép giáng đàn báo tin mừng đã được đắc quả vào hàng Thánh vị.
    HIỀN hậu tu hành đắc quả chơn,
    NHƠN tâm hèn hạ có đâu sờn;
    THÁNH minh chuyển bút nơi đàn nội,
    NỮ Đạo tranh giành quả thiệt hơn.
    HIỀN NHƠN THÁNH NỮ tự Huỳnh Thị Khác - Mừng Thiên mạng chư đạo tâm cố hữu trung đàn an tọa.
    Giờ hội điển, luật đại xá ân triều Nam hạnh hưởng, Tệ Nữ chuyển linh cơ điểm lại báo tin mừng cho chư huynh tỷ trung đàn bạn đạo.
    Trước phàm thế, Tệ Nữ vẫn là một trong phần thấp hèn nghèo kém dốt học, thiếu đức tính, chỉ có con tâm cương quyết lo lập công bồi quả.
    Giờ linh điển xuất nhục thân thọ sắc non Thần tu luyện đạt vị Thánh Nữ, báo tin mừng trung đàn Tam cảnh, hiền huynh tường chăng?
    Vậy mừng thay, ngày xuân hội ngộ. Thiên mạng thành tâm tiếp lịnh. Tệ Nữ xuất cơ. - Thăng -
    Qua câu chuyện trên, chúng ta thấy kết quả của một đời tu không phụ thuộc nhiều bởi tiền tài, vật chất hay trình độ tri thức mà tùy thuộc vào lòng chí thành cũng như lòng tin vào Thầy Mẹ và lý tưởng Đại Đạo. Như thế những loại hình công quả sẻ có giá trị hơn, đó là:
    - Giáo dục tinh thần, nội tâm
    “Cứu người trong cơn bịnh, giúp người qua lúc đói rách, đó là một nghĩa cử bác ái từ thiện, có công đức âm chất. Nhưng nếu đem so sánh với những phương tiện đem cứu người qua cơn bịnh về tinh thần, khỏi cơn đói về tư tưởng thì lại càng có công đức và âm chất nhiều hơn...
    Như vậy, việc đem đạo giúp đời hay cứu đời không phải chỉ có một phiến diện vật chất hoặc sức lực mà phải cần đến phần giáo dục tinh thần ở nội tâm lại càng quý giá vô cùng.” (Đức Vạn Hạnh Thiền Sư)
    Lời nói khuyến thiện hay góp phần giáo dục để mọi người sống lương thiện và biết yêu thương chia xẻ từ vật chất đến tinh thần với người khác là một dạng công quả cao quý giá trị hơn cả vật chất.
    Tất nhiên những hình thức qua ngôn từ, sách vở giúp người giác ngộ để tiến bộ về tâm linh lại càng quý hơn nữa!
    - Công Quả PHỔ ĐỘ CHÚNG SANH là căn bản
    Thánh Ngôn Hiệp tuyển có ghi lại câu chuyện liễu đạo của một vị Tiền Khai Đại Đạo là Ngài Thượng Chưởng Pháp Nguyễn Văn Tương:
    ▪ “Thầy có để lời cho Thái Bạch Kim Tinh cầu rỗi, nhưng Người giận Tương không công quả, dâng Bộ Công Thiên thơ ra trống trải lắm, tại nơi Tòa mới cãi chối nỗi gì. Người nhứt định không dự đến…
    Vậy trong hịch văn sớ tấu, các con phải thượng nơi Tòa Tam Giáo mà cầu rỗi cho nó thiệt hết lòng, rồi Thầy sẻ rỗi cho nó. Các con hiểu.”
    Vậy người tín hữu Cao Đài muốn được trở về phục lệnh dưới chân Thầy cần phải làm gì?
    Tất nhiên, thí dụ trên cho thấy cần phải có Công Quả. Nhưng loại công quả nào mới thật sự góp phần để cho việc trở lại quê xưa thành hiện thực?
    Chúng ta hãy cùng nhau tìm hiểu xem điều căn bản chánh yếu của công quả là gì.
    ▪ “Thầy hằng nói cùng các con rằng: Một trường thi công quả, các con muốn đến đặng nơi Cực Lạc thì phải đi tại cửa này mà thôi.
    Thầy lại khuyên nhủ các con rằng: Thầy đã đến chung cùng với các con, các con duy có tu mà đắc đạo; phải đoái lại bá thiên vạn ức nhơn sanh còn phải trầm luân nơi khổ hải chưa thoát khỏi luân hồi, để lòng từ bi mà độ rỗi.”
    ▪ “Như chư đệ muội đây, khi nhập đạo đến giờ, từ người chức sắc đến tín đồ kẻ thì độ được năm bảy vị, người cũng độ được một đôi chục vị, có vị cũng chẳng độ được một ai.
    Chớ lúc còn cơ phổ độ thì những anh lớn của chư đệ muội trước kia, người độ cả số ngàn số muôn cũng có. Vì lẽ ấy, mà những bậc tiền bối quá vãng, ngày nay cũng đều được đắc quả Thánh Tiên cả thảy.
    Lão nhắc đây để cho chư chức sắc cùng đạo tâm hiểu lẽ trọng yếu ấy mà lo độ nhơn sanh sống trong chung quanh mình. Nghĩa là trong gia đình thân tộc cũng chưa phải là hoàn toàn nhập vào đạo Thầy hết, nên phải ráng lập công phổ độ.”
    Ơn trên dạy “Tu không phải độc thiện kỳ thân” nghĩa là không chỉ tu cho riêng mình. Thời Tam Kỳ này, công quả chánh yếu là phải góp phần “phổ độ chúng sanh” như lời trong bài kinh Ngũ Nguyện “Nhứt nguyện Đại Đạo hoằng khai, Nhì nguyện phổ độ chúng sanh”.
    Trên đường phổ độ, công quả có giá trị nhất là xây dựng và bồi đắp đức tin cho đồng đạo. Ơn Trên luôn nhắc nhở:
    ▪ “Các con liệu phương thế mà nâng đở đức tin của môn đệ cao lên hằng ngày. Ấy là công quả đầu hết.”
    ▪ “Lòng mong độ thêm người chưa biết Đạo phải song song với sự nuôi dưỡng đức tin đối với người bạn Đạo. Nếu vô tình hoặc cố ý để mất đức tin một người bạn Đạo lâu năm còn quan trọng hơn độ thêm năm, mười người khác nữa.”
    - Làm với tinh thần “làm âm chất”
    Đức Quan Thế Âm đã dạy:
    “Đừng nghĩ rằng phải có tiền ngàn, bạc muôn đem bố thí hoặc xây thất cất chùa lên cốt Phật hoặc in kinh mới gọi là công quả. Khi thấy một thế nhân bị cảm gió nhức đầu, chịu khó bỏ ra 10 phút cạo gió bóp gừng không gọi là công quả hay sao? Thấy người bất hạnh đói rách khổ đau, bỏ ra một viên thuốc, một chiếc áo thừa, miếng bánh mì nguội dư không thể gọi là công quả hay sao?
    Tùy khả năng sở hữu tới đâu làm tới đó, nhưng phải làm với tất cả tấm lòng bác ái không gọi công không gọi danh.”
    - Làm với lòng “chí thành”
    “Về phần thi công lập quả, không phải người có vật chất hiến cúng mà đặng công quả, không phải người dày công nhọc sức mà đặng lập vị. Cả hai đều do ở chỗ chí thành tâm linh mới kết quả được. Khi chí thành đã có thì tâm linh phát hiện tự nhiên, Đạo Lý sẻ do nơi ấy mà xuất phát cho người.
    Ví như Lương Võ Đế ngày xưa cất bảy mươi hai cảnh chùa, sao lại còn đài thành ngạ tử thì vật chất có ích chăng?”
    Công quả được Ơn trên ví như việc xây nền đắp móng, còn xây dựng nên khung căn nhà là công trình. Đức Chí Tôn có dạy:
    “Vậy muốn đắc quả thì chỉ có một điều phổ độ chúng sanh mà thôi.
    Như không làm đặng thế nầy thì tìm cách khác mà làm âm chất,
    thì cái công tu luyện chẳng bao nhiêu cũng có thể đạt địa vị tối cao.”
    Làm âm chất là một khía cạnh của công trình.
    Ơn trên cũng dạy: “Công trình, công quả làm nền.”
    Trong Tam Công, công trình là thành phần mà đại đa số tín hữu Cao Đài hiểu chưa đúng hoặc hiểu còn rất hạn chế nhưng nó lại có tầm quan trọng rất lớn ảnh hưởng đến kết quả của một đời tu. Vậy chúng ta hãy chuyển sang để tìm hiểu những khía cạnh cốt lõi của công trình.
    1.4. Giá trị của Công quả:
    - Công quả bằng vật chất có hệ số giá trị thấp nhất!
    Tâm đã có, tâm phụng Đạo Trời,
    Nhưng chưa rốt ráo tánh con người;
    Dụng TIỀN hành đạo là phần phụ,
    TÂM ĐỨC khéo khôn mới độ đời.
    Nói một cách khác, khi chúng ta dùng vật chất làm phương tiện để công quả thì phải sử dụng một số lượng khá lớn mới có thể có được công đức. Điều này có nghĩa là hiệu suất của vật chất không cao. Vì thế Ơn trên thường nhắc tích Lương Võ Đế cất 72 cảnh chùa mà không có công đức chi!
    - Nhưng công quả bằng tinh thần lại có hệ số cao hơn
    “Cứu người trong cơn bịnh, giúp người qua lúc đói rách, đó là một nghĩa cử bác ái từ thiện, có công đức âm chất. Nhưng nếu đem so sánh với những phương tiện đem cứu người qua cơn bịnh về tinh thần, khỏi cơn đói về tư tưởng thì lại càng có công đức và âm chất nhiều hơn… Như vậy, việc đem đạo giúp đời hay cứu đời không phải chỉ có một phiến diện vật chất hoặc sức lực, mà phải cần đến phần giáo dục tinh thần ở nội tâm lại càng quý giá vô cùng.” (Đức Vạn Hạnh TS)
    Lời dạy ở câu cuối giúp chúng ta thấy có thể công quả bằng cách “thành tâm cầu nguyện” mặc dầu không có vật chất, sức lực hay trí tuệ.
    “Chư hiền đệ muội đã có duyên phúc được sinh vào chỗ tương đối an ổn, đã và đang tổ chức cuộc lễ triều kính Thiêng liêng là vì nhờ tâm đạo công đức chi nên cơ duyên hạnh phúc đã an bài cho được an ổn tiện bề tu thân hành đạo, hiến lễ. Vậy chư đệ muội hãy hướng tâm linh vào những nơi xa xôi, những vùng đất bất hạnh để cầu nguyện đưa điển lành trợ duyên cho những nơi ấy.”
    - Mót bòn công quả:
    ▪ “Các con đã từng nghe Thầy dạy rằng: Công quả dầu nhỏ nhoi đến độ nào cũng là công quả, không mất đâu! Các con cố gắng mót bòn dành dụm trong khoảng đời tu học như con kiến tha mồi lâu ngày ắt đầy ổ đó các con.
    Đừng chễnh mãng, đừng lười biếng, đừng chấp nhất giận hờn với bạn đạo rồi bê trễ đường tu tiến của mình.
    Các con cũng đừng ngần ngại trước những công quả dầu là công quả nhỏ mà không làm, cũng đừng sợ sệt trước trở ngại dầu là trở ngại lớn mà không tiến. Chí tâm sẻ chí đạo, con nên đạo là chỗ đó nghe các con.”
    ▪ “Công đức không nhỏ và phẩm vị thiêng liêng cho những ai công quả từng việc nhỏ đến việc thật tầm thường.”
    Mót bòn nói lên đức tính kiên nhẫn, không chê việc nhỏ hay việc tầm thường, không so đo chỉ lựa chọn việc lớn hay việc làm cho mình được nổi danh mới làm. Mót bòn là sự phối hợp giữa công quả và công trình.
    Công quả tùy theo tâm của người làm mà kết quả đạt được hoặc là “phước đức” hoặc là “công đức”.
    . Khi tâm còn vọng tưởng hưởng lợi cho bản thân hay gia quyến thì chỉ có Phước đức.(còn mê)
    . Cũng một công sức như thế nhưng nếu tâm vô cầu kết quả cho mình, gia quyến mình thì sẻ có Công đức.
    Người hữu phước phải luân hồi đầu thai trở lại để được hưởng phước, chỉ trường hợp công đức mới mang lại giá trị siêu thoát tâm linh! Vì thế Thầy có dạy: “Do Công đức mà đắc đạo cùng chăng”
    Việc hành đạo là làm Công quả, còn việc tu thân chính là Công trình. Kết quả của Công quả sẻ là phước đức hay công đức lại liên quan đến Công trình. Như vậy công quả và công trình có luôn gắn kết chặt chẻ với nhau thì mới mang lại kết quả trên đường tiến hóa. Ơn trên dạy:
    “Nếu hành đạo mà không tu thân là thiếu căn bản lương thiện. Nếu tu thân mà thiếu hành đạo thì sự tiến hóa bị chậm trễ không biết ngần nào. Tu thân và hành đạo phải gắn liền nhau như gấm thêu hoa. Tu thân và hành đạo cần phải được hỗ tương nhau để tiến hóa.”
    2.CÔNG TRÌNH
    2.1. Định Nghĩa:
    Công Trình là sự gia công, trì chí.
    Ơn trên thường dạy: “Công trình luyện kỷ”. Đây là sự tu thân. Trong việc tu thân chúng ta phải thực hành các việc: trì giới, nhẫn nại và học hỏi.
    “Kỷ” là mình, là ta. Còn “Luyện” là sự trui rèn, như luyện kim khí tức là phải trải qua quá trình “nung nhiệt” và “đập dũa” liên tục lâu dài! Nói cách khác đây là sự chịu đựng, vượt qua từ khảo nghịch đến khảo thuận, từ bên ngoài đến bên trong: đạo giáo, gia đình, bản thân.
    Đức Quan Âm dạy: “Công trình đó là đào luyện trui rèn ý chí phàm tánh bản năng sinh tồn.
    Đừng nói rằng mình ít oi về đạo đức, giáo lý, giảng dạy đó đây cho đời hướng thiện.
    Vậy chứ một cử chỉ nhỏ như tha thứ lỗi người, dằn cơn nóng giận để cảm hóa lòng người, gần đến giờ cúng thời (hoặc vào thiền công phu) hoặc đến ngày đi chùa thất, nghiệp trần dấy lên nêu đủ lý sự, nào mắc việc này bận việc kia, tại bần thần uể oải…
    Hãy cố gắng cương quyết diệt những tư tưởng chủ bại đó, dứt khoát làm liền ý định đúng lý của mình rồi thì được việc ngay.
    Đó không là công trình đặng sao”
    2.2. Các hình thức Công trình:
    B.1. Tương tợ 3 yếu tố của Lục Độ Ba La Mật:
    Đức Quan Âm cũng đối chiếu Công trình trong Tam Công với Lục Độ Ba La Mật của nhà Phật là: “Trì giới, Nhẫn nại và Tinh tấn”.
    - Giữ gìn giới luật:
    Đức Thích Ca có hướng dẫn:
    “Vậy Hội Thánh (nay) cũng như giáo hội của Thế Tôn khi xưa phải cần nghiêm trì giới luật, vì có thực hành đúng theo giới luật, thì giáo hội hay Hội Thánh mới được vững vàng gương mẫu cho nhơn sanh kính phục.
    Bởi vậy khi Thế Tôn tịch diệt rồi, có một Tỳ Kheo còn si mê trong vòng thất tình lục dục, nên thốt ra câu nầy: Thích Ca còn ở đời hay đem giới luật ra mà bó buộc chúng ta, làm cho mất hết quyền tự do của chúng ta. Nói cái nầy nên làm, cái kia không nên làm, làm cho ta khổ tâm vì giới luật quá. Từ nay trở đi chúng ta sẻ tùy theo ý muốn.
    Bởi câu ấy thấu đến tai Ca Diếp nên mới triệu tập các đệ tử của ta lại mà kết tập Tạng Kinh và Tạng Luật truyền lại cho đến hôm nay đó.
    Thì đây cũng là một gương cho Hội Thánh trong Đại Đạo nên nghiêm trì giới luật.
    Thế Tôn để đôi lời đạo lý giáo hóa khuyến thiện nhơn sanh tinh tấn trên đường tu học.”
    Ơn trên cũng dạy:
    Sửa mình trong sạch ấy là tu,
    Gìn giữ giới qui cũng gọi tu.
    Công quả, công trình cho xứng phận,
    Cởi lần cái lớp của phàm phu.
    - Kiên nhẫn, trì thủ:
    Cụm từ “kiên nhẫn” bao gồm cả hai đặc tính của hai quẻ Kiền và Khôn. “Đức kiên” tương ứng với cụm từ “tự cường bất tức” của quẻ Kiền, còn “đức nhẫn” tương ứng với tính “nhu thuận” của quẻ Khôn.
    Đức Quan Âm dạy tiếp:
    “Vẫn biết rằng trong cửa thiện, người người đã góp công góp ý vào việc thiện, nhưng hãy xét lại mình có được trọn vẹn với hai chữ vô tư chưa? Hay còn hẹp hòi, hay còn chấp nhứt, hay còn vị kỷ, hoặc thiếu tình thương, hoặc làm để được tiếng đời ca tụng rằng mình là bậc hiền nhân quân tử. Xem lại mình có thật tâm bảo vệ và nuôi dưỡng sự hành thiện cho đến nơi đến chốn cùng chăng?(…)
    Hay chỉ làm với mối từ tâm phát hiện nhứt thời, rồi một lúc nào đó vẫn còn đeo đuổi vì thể diện, vì nhân nghĩa, vì tai tiếng, vì cơ sở ràng buộc, tấn thối lưỡng nan, rồi hành sự với miễn cưỡng, được lúc nào hay lúc ấy.
    Nếu khi gặp một vài thử thách nặng nề, rồi buông xuôi cho đại cuộc dở dang, rồi nêu hai tiếng "tại" và "bị" để biện hộ cho danh dự của mình.”
    - Học hỏi:
    Là một khía cạnh để có sự “tinh tấn”:
    Một thí dụ: có một đạo tỷ được Ơn trên điểm danh nhắc nhở phải cố gắng thêm việc “học hành giáo lý” mặc dầu đã làm công quả khá nhiều.
    “Phạm Thị Chua thuở giờ đã có,
    Nhiều Quả công giúp đỡ phòng trù;
    Nhưng con còn thiếu hạnh tu,
    Học hành giáo lý, như mù đi đêm.”
    Một số đạo hữu có hoàn cảnh không thuận tiện cho nên việc học nơi trường lớp bị hạn chế, từ đó có tâm lý e dè trong việc học hỏi giáo lý.
    Chúng ta hãy tham khảo một kinh nghiệm sau:
    “Giờ này Bạch Liên tôi đắc lịnh của Đức Diêu Cung giáng đàn báo tin. Vậy đàn trung an tọa, để Bạch Liên tôi có đôi lời cùng chư hiền muội.
    Nầy chư hiền muội hướng đạo ôi! Bạch Liên tôi rất hân hạnh thấy chư Nhơn Thánh hội hiệp về đây dự lớp đông đủ, có phần thấy mình còn kém, bởi không biết chữ, nên xin nhắc lại. Khi Bạch Liên tôi còn xác thân hành đạo, lập công giữ gìn bản thể thì Bạch Liên tôi bất thành nhứt tự ký danh, mà được Ơn Trên ban phong phẩm Phối Sư và nhiệm vụ Học Viện Trưởng thì Bạch Liên tôi biết làm sao cầm bài giảng giải hay thuyết trình nghĩa lý chi chi.
    Chỉ ngồi nghe gọi là chứng sự, từ lớp này sang lớp khác, chỉ như thế mà Bạch Liên tôi khai thông trí huệ, tinh thần cứng gắng uy tín đủ đầy, nên mới hoàn thành nhiệm vụ hữu hình trong cơ lập giáo độ đời.
    Và khi được “Huờn Chơn” cộng lại hai phần âm dương là Bạch Liên Chơn Tiên.”
    Cụ thể, Đức Lê Đại Tiên dạy cho một đạo tỷ:
    “Bùi Thị Tri là đồng nhi cũ,
    Bận gia đình lam lũ sớm trưa;
    Tuy gìn chay lạt muối dưa,
    Nhưng về đạo lý thì chưa hiểu gì.
    Ráng lo học phú thi Thánh giáo,
    Nghĩa dưỡng nuôi lo báo hiếu ân;
    Bốn thời cúng một dưỡng thần,
    Để nhờ Thượng Đế điển ân hộ trì.”
    Việc bắt đầu học Đạo không bao giờ trễ và cũng không khi nào chấm dứt vì “bể học mênh mông”. Càng học thì trí óc được mở mang, thấy những sai lầm hay khuyết điểm để sửa chữa và thấy những điều cần phải bồi bổ thêm để
    - Thực hiện tình thương:
    Nước sông kia vẫn nhớ về nguồn,
    Tâm đạo con người chẳng dễ buông;
    Cội rễ bao giờ xa vẫn đoái,
    Công trình xây dựng bởi tình thương.
    Nếu như trong phần Công quả, điều quan trọng nhứt là “phổ độ chúng sanh” thì điều này lại càng được nâng cao hơn nữa khi chúng ta hiểu rằng “yêu thương sanh chúng” là hạnh cao quý thể hiện đức bác ái, từ bi.
    “… nhìn vào bổn phận một tín đồ của Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ, một đứa con thương yêu quí mến của Thượng Đế Chí Tôn, lại càng phải nghĩ đến lòng nhân ái trước nhứt.
    Lòng nhân ái có thể làm một phương linh dược chế ngự tất cả những gì muốn bộc phát nơi thân tâm của con người, lòng nhân ái cũng là một bản đồ cho người nhìn theo phương hướng ấy về đến Bạch Ngọc Kinh.
    Phải chăng nhân ái tức là thương yêu. Hễ thương yêu thì mọi việc đều khoan dung tha thứ.”
    - Thực hiện “hòa ái”:
    Một khía cạnh Công trình khác mà người tu phải rèn luyện là “chữ Hòa”.
    Ngay từ khi mới lập đạo, Thầy đã dạy:
    “Chẳng quản đồng tông mới một nhà,
    Cùng nhau một Đạo tức một Cha;
    Nghĩa nhân đành gởi thân trăm tuổi,
    Dạy lẫn cho nhau một chữ hòa.”
    Về mặt nhân sinh Thế Đạo, để góp phần mang lại hòa bình phát triển cho nhân loại, Đại Đạo Tam Kỳ có bổn phận xây dựng “thế nhân hòa” trên các mặt: kinh tế, chính trị, tôn giáo, v.v...
    Còn với ai đã bước sang phần tu luyện thì:
    “Hòa là một món báu linh,
    Là chìa khóa mở Ngọc Kinh bước vào.”
    2.3. Giá trị của Công trình:
    Rèn luyện công trình sẻ giúp cho chúng ta phát triển được cả hai mặt tác phong đạo hạnh và trí tuệ. Nhờ có học và hiểu đạo lý, mỗi người sẻ nâng cao ý thức trên đường tu thân và hành đạo. Khi đó, người tín hữu mỗi khi làm một việc gì sẻ có ý thức rõ: mục đích vì sao mình phải làm việc đó, phương cách nào sẻ mang lại hiệu quả tốt cho cả hai mặt nhân sinh và tâm linh của mình, mang lại uy tín cho tập thể, làm sáng danh Thầy danh Đạo, v.v...
    ▪ Đức Bảo Hòa dạy:
    “Tu học trước nhất là phải dồi trau đức hạnh, rèn luyện thân tâm, lễ nghi đúng phép, cung kính nghiêm trang, nói năng giữ gìn ý tứ, việc trái đạo chớ nên làm, lời vô ích đừng nói, tập ngồi, tập đứng, tập đi, có tôn ti trật tự, nói năng lễ độ, kính mến thương yêu, đừng buông thả như thuở ngoài đời ham bay ham nhảy, ham nói ham ăn. Dầu nơi chật hẹp mà lễ nghi giữ đủ, trật tự nghiêm minh, đứng ngồi đúng chỗ, nói năng đúng phép, đó là Đạo.
    Trái lại, lễ nghi không học, trật tự không hành, nhỏ lớn không tôn, dầu chùa rộng nhà cao, nhìn vào cũng như cánh rừng hoang, cây cối um tùm, nhỏ lớn không phân, chông gai bù bịch, đó là vô Đạo. Trật tự hữu hình là giá trị của người tu, tác phong đạo hạnh là lớp đầu của người Tu sĩ, và cũng là kết quả của cấp lãnh đạo.
    Có tác phong đạo hạnh thì được kẻ kính người mến, kẻ yêu người nể, và người ngoài hâm mộ mà noi theo, có lợi cho mình mà độ được người. Đó là đệ nhứt pháp môn.
    Vậy Thánh Nữ cũng khuyên con phải làm gương cho cháu, cháu phải siêng năng học tập, tập tánh nhẫn nại, kiên tâm, thì tu học mới kết quả.”
    ▪ Đức Ngô Đại Tiên dạy:
    “Người ta đương chìm đắm nơi bể trần, dưới sự xô xát muôn lượn sóng trần, lòng mình có thương xô thuyền ra cứu không được người mà mình cũng bị chìm luôn một thể, vì thuyền ưởi, trống nan sổ chốt.
    Phải lo trét xảm cho kỹ mới đủ điều kiện cứu người, bằng hấp tấp vội vàng mà đem kẻ sống đến chỗ chết nghĩa là mình bị thuyền đắm phải chìm mà còn chìm cả thủy thủ nữa.
    Thuyền ấy là gì? Đức hạnh đó. Đức có đủ, nói người ta mới nghe, mà người có đức là người hay thương xót cứu sống muôn loài. Có hạnh là làm một việc gì, nói một lời gì, nghĩ một điều gì, cũng cân đo cẩn thận.
    Chư… đồ còn kém đức hạnh, phải tu cái đã… Tu nghĩa là quy căn thức vào trong để cho tâm hồn được sáng sủa. Tu nghĩa là bồi bổ cái căn tính bị khuy khuyết chừa bỏ các lỗi lầm trái nghịch. Vậy muốn hành Đạo phải tu.
    Còn về việc… tịnh luyện là một việc khác, nghĩa là người Thiên ân Quyền Pháp hành Đạo là theo sứ mạng, tịnh luyện là tu tiến bản thân.”
    Học và tập “thương yêu”, làm theo tình Tạo Hóa là vì đây là chìa khóa để mở cửa Bạch Ngọc Kinh:
    “Tình thương trên hết, cùng một ý nghĩa với tứ vô lượng tâm: từ, bi, hỉ, xả. Tình thương sẻ cứu chuộc mọi nguồn tội lỗi, sẻ làm liều thuốc thần đơn trị lành mọi bịnh tình nhân loại.
    Tình thương là chìa khóa giải thoát con người ra khỏi bể trần tục lụy, là con đường đưa con người lên nấc thang tiến hóa. Ngôi vị chơn linh Tiên Phật được định giá bởi tình thương. Một tình thương cao thượng thiêng liêng sẻ giải quyết được vạn sự kiện của nhân sinh.”
    Kết quả có được trên đường hành đạo là nhờ vào đức hạnh yêu thương của mỗi người và tập thể. Nhờ lòng nhân ái và tình thương rộng mở, chúng ta mới thực hiện được “dung hòa” với mọi người cho dù khác biệt về màu da, sắc tóc, ngôn ngữ, chánh kiến, tôn giáo, v.v...
    “Chư hiền đừng hướng tầm mắt mình vào một ảo tưởng mông lung về vị ngôi Thần Thánh mà quên mất con người chung quanh mình đang đau khổ vì bệnh họan, vì dốt nát, vì nghèo đói bởi thiếu tình thương mà tình thương là căn bản của tôn giáo đó chư hiền đệ muội".
    Bởi muốn như thế, ngay từ buổi đầu Đức Chí Tôn lập ra Tân Luật để nhắm vào đường hướng ấy.”
    Công trình tu dưỡng mang lại kết quả là tác phong đạo hạnh sẻ gây được cảm tình với người, trí tuệ giúp cho có sự sáng suốt và kinh nghiệm để giải quyết các đạo sự thấu tình đạt lý! Những điều này càng được nâng cao lên nhiều hơn nữa khi chúng ta có thêm phần trí huệ của Công phu.
    “Luyện kỷ tối nan, huờn đơn thậm dị”.
    Công trình luyện kỷ hết sức khó khăn, cho nên khi đã làm được rồi sẻ là bệ phóng cho Công phu ít bị khảo đảo.


      
    (CÒN TIẾP)
    Last edited by kinhvotu; 21-07-2012 at 01:42 AM.
    Tâm vốn bất sinh bất diệt, chỉ tại chúng sinh vọng thức lại tưởng là Tâm nên hóa Tâm mê

Thread Information

Users Browsing this Thread

There are currently 1 users browsing this thread. (0 members and 1 guests)

Similar Threads

  1. NIỆM PHẬT THẬP YẾU
    By vietnamese in forum Đạo Phật
    Trả lời: 15
    Bài mới gởi: 02-08-2016, 04:12 PM
  2. BỬU SƠN KỲ HƯƠNG - TÁC GIẢ VƯƠNG KIM
    By vankhuc in forum Bửu Sơn Kỳ Hương
    Trả lời: 9
    Bài mới gởi: 22-07-2012, 04:47 PM
  3. Trả lời: 0
    Bài mới gởi: 09-09-2011, 11:38 AM
  4. Trả lời: 2
    Bài mới gởi: 07-04-2011, 05:37 PM
  5. Trả lời: 1
    Bài mới gởi: 11-01-2011, 11:36 AM

Bookmarks

Quyền Hạn Của Bạn

  • You may not post new threads
  • You may not post replies
  • You may not post attachments
  • You may not edit your posts
  •