kết quả từ 1 tới 6 trên 6

Ðề tài: PHƯƠNG TU THỜI TAM KỲ PHỔ ĐỘ

Hybrid View

Previous Post Previous Post   Next Post Next Post
  1. #1
    Tam Đẳng Avatar của kinhvotu
    Gia nhập
    Mar 2012
    Nơi cư ngụ
    Cai quản cỏi A Tỳ
    Bài gởi
    3,182

    Mặc định PHƯƠNG TU THỜI TAM KỲ PHỔ ĐỘ

    Tôi vừa sưu tầm được 01 cuốn sách hay xin post lên đây để chư hiền hữu cùng xem và góp ý. Xin cảm tạ mọi ý kiến đóng góp chân thành và xây dựng. Những ý kiến có tính chất phá hoại, "chém gió" xin vui lòng đừng mang vào đây vì nơi đây là chổ trao đổi học tập nghiêm túc của kẻ tu hành.

    ĐẠI ĐẠO TAM KỲ PHỔ ĐỘ
    Năm Đạo thứ 87

    ĐỒNG TIẾN 7


    PHƯƠNG TU THỜI TAM KỲ PHỔ ĐỘ


    ĐẠT TƯỜNG

    Cảo bản (11- 2012)


    MỤC LỤC

    GIAO CẢM tr 03
    BẢY BƯỚC TRÊN ĐƯỜNG TU TIẾN tr 05
    MÔN TU CĂN BẢN CỦA ĐẠI ĐẠO CAO ĐÀI tr 17
    TÂN PHÁP TAM CÔNG tr 27
    CHÌA KHÓA VẠN NĂNG: “Đạo Gốc bởi Lòng thành, tín, hiệp” tr 95
    NGŨ NGUYỆN tr 145
    TỔNG KẾT PHƯƠNG TU KỲ BA tr 212
     

    GIAO CẢM

    Từ khi Đức Chí Tôn Lập Đại Đạo Tam Kỳ Phố Độ cho đến nay đã gần chín mươi năm, Thánh Ngôn Thánh giáo được các Đấng Thiêng Liêng ban cho qua các Hội Thánh Cao Đài rất nhiều, đến mức Ơn trên gọi là “kho tàng kinh điển”. Trong khối tư tưởng rộng lớn của kho tàng ấy, phương pháp tu hành của người tín hữu Cao Đài là gì? Các Đấng đã giáng dạy từ tổng quát đến chi tiết và đi từ đơn giản cho đến thâm sâu.
    Với tinh thần Đại Đạo, không phân biệt bởi hình tướng tôn giáo là các Hội Thánh mà Đức Chí Tôn đã lập ra thích ứng với mọi hoàn cảnh để tận độ chúng sanh. Người tín hữu Cao Đài học và bắt chước theo tình Tạo Hóa, dung nạp tất cả các Thánh giáo không phân biệt nguồn gốc miễn là nội dung chỉ dạy điều hay lẽ phải nên làm. Theo tinh thần đó, chúng tôi sử dụng Thánh giáo của tất cả các Hội Thánh, trong điều kiện có thể của sức học và khả năng sưu tầm tiếp cận, rồi cố gắng sắp xếp lại cho có hệ thống lý luận hầu chuyển các Thánh Ngôn – Thánh giáo thành một pho giáo lý mang tính Đại Đồng hầu đáp ứng cho cả ba trình độ căn trí: hạ, trung và thượng.
    Trong tập sách này, chúng tôi sắp xếp lần lượt các đề tài, khởi đầu với bài Thánh giáo của Đức Quán Thế Âm nêu lên sơ đồ tổng quát với “Bảy bước trên đường tu tiến” với bước đầu nhập môn cầu đạo rồi lần lượt qua các bước tiếp theo và đích đến sau cùng là giải thoát. Kế đến bài thứ hai, “Môn tu căn bản của Đại Đạo Cao Đài” gồm hai bài Thánh giáo: một của Đức Đông Phương Chưởng Quản Vô Vi Hiệp Thiên Đài và một của Đức Nhị Trấn Oai Nghiêm Quán Thế Âm. Từ đây, chúng ta bước vào tìm học pháp môn căn bản trong Tam Kỳ Phổ Độ, pháp môn “Tam Công”, hầu như các tín hữu Cao Đài đều biết nhưng đa số lại chưa nắm được những mấu chốt mà Thiêng Liêng đã ban trao!
    Qua học hỏi thiên kinh vạn quyển, chúng ta sẻ có được cái nhìn tổng quát, tất cả các tôn giáo đều không ngoài chữ Tâm. Cũng như thế, chìa khóa để mở cửa tâm hồn của mỗi tín hữu chúng ta đồng thời mở cửa Thiên đàng chính là câu kinh khởi đầu cho mỗi thời cầu nguyện: “Đạo gốc bởi Lòng thành, tín, hiệp”. Chủ đề được dùng để khép lại “Phương Tu thời Tam Kỳ Phổ Độ” là ý nghĩa của bài “Kinh Ngũ Nguyện” mà qua đó chúng ta sẻ thấy bóng dáng của Tam Công.
    Năm đề tài lần lượt, dẫn dắt người tín hữu Cao Đài chúng ta đi trọn con đường Sứ Mạng làm Người trong thời Đại ân xá hầu đạt đến đích điểm sau cùng trở về quê xưa.
    "Trước xây đắp Cao Đài Thánh đức,
    Dụng Nam bang làm mức phóng khai;
    Dân Nam sứ mạng Cao Đài,
    Năm châu bốn bể hòa hài từ đây.”
    Ước mong tập sách nhỏ này sẻ mang lại được hữu ích thật sự cho tất cả anh chị em đồng đạo.
    Kỷ niệm Rằm tháng 10 Nhâm Thìn 2012
     

    BẢY BƯỚC TRÊN ĐƯỜNG TU TIẾN



    Thường thường, người vào đạo có quan niệm là ăn chay, niệm Phật, tụng kinh, sám hối, hành thiện để nhờ phước huệ Trời ban. Nhưng có mấy ai chịu khó phân tách những giai đoạn tiến triển trong khoảng đời lập thân hành đạo và cũng có mấy ai chịu khó kiểm điểm xem sự tu học mình đã đến trình độ nào.
    Do đó nên sự tiến thối, thăng đọa từng ngày một đã xảy ra không biết bao lần mà không hay không biết.
    Hôm nay, Bần Đạo phân tách những nét chính của những giai đoạn của đời người tu học để chư hiền đệ muội xem kỹ rồi tự trắc nghiệm bản thân mình, sau đó sẻ thấy rõ công nghiệp đức hạnh trong đời tu của mình đã đến mức nào rồi.
    Những giai đoạn đó có thể tạm chia như sau:
    1. Là Nhập Môn, nhập đạo hay quy y cũng thế
    2. Là giữ đạo
    3. Là học đạo
    4. Là hiểu đạo
    5. Là tu thân lập hạnh
    6. Là hành đạo
    7. Là Thánh Thiện hay Thánh Tâm hay giải thoát cũng thế
    Đây Bần Đạo sẻ diễn tả từng điểm một:
    - Một là NHẬP MÔN: (nhập Đạo hay Quy Y)
    Vì muốn xa lánh những điêu ngoa tội lỗi, xảo trá sa đọa của nhân thế thường tình nên chọn một con đường để đời mình lấy đó làm lẽ sống, thích hợp với tâm linh thuận Thiên hòa nhân, nên phải đặt mình vào một nếp sống đạo lý. Đó là động lực thúc đẩy mình phải chọn một đoàn thể đạo đức hay một tôn giáo nào để nhập môn qui y.
    Khi nhập môn rồi, đương nhiên tên, họ, lý lịch mình sẻ được ghi vào lịch đạo của tôn giáo đó và chịu theo nếp sinh hoạt của tôn giáo đó từ nội qui đến giáo thuyết, giáo điều. Còn về phần thiêng liêng thì cũng đã được ghi danh tánh vào Thánh tịch hoặc Tiên tịch hay Phật tịch.
    - Hai là GIỮ ĐẠO:
    Giữ Đạo nơi đây có nghĩa là tôn trọng nội qui luật lệ, giáo thuyết, giáo điều của tôn giáo đó không dám làm trái lại. Nếu nhập môn quy y mà không giữ Đạo, chẳng khác chi một bịnh nhơn đến pháp sư xin sợi niệt, lá bùa về treo trên ngạch cửa hoặc đeo vào cổ.
    (Thí dụ: người giữ đạo phải ăn chay, giữ giới cấm, đến chùa thất hàng tháng, không được làm một số nghề như buôn bán ma túy, rượu mạnh, sát sanh hại vật …)
    Đức LÝ GIÁO TÔNG có dạy:
    “Ví như có lần đã dạy: Một quyển sách vần A, B, C… không làm cho học sinh trở nên hàng bác học, nhưng muốn trở nên hàng bác học phải khởi thỉ và trải qua quyển sách vần ấy v.v..
    Từ cái giả đến cái chân, phải chịu khó suy nghĩ biện luận để áp dụng và thực thi nó cho đúng chỗ, đúng lúc. Chư hiền đệ muội vào cửa đạo tuy là khó, nhưng cũng còn dễ hơn là giai đoạn học đạo, hành đạo và đắc đạo.”
    - Ba là HỌC ĐẠO:
    Điều nầy mới bắt đầu hữu ích cho sự mở mang kiến thức. Học đạo từ người nầy truyền pháp cho người khác, hoặc xem kinh điển căn bản về giáo lý để biết được điều nào nên làm, nên nói, nên suy nghĩ và việc nào không nên làm không nên nói, không nên suy nghĩ. Việc nào là thuận Thiên hòa nhân, việc nào là nghịch Thiên phản nhân,v.v…
    Nếu giữ đạo mà không học đạo, chẳng khác chi một người học sửa máy thu thanh chỉ mua cái máy đem về để đó, hằng ngày đi ra đi vào, đi tới đi lui, trông bề ngoài cái máy ấy mà không chịu khó mở ra các bộ phận bên trong để nghiên cứu hoặc học hỏi, hoặc nhờ người chuyên nghiệp chỉ giúp.
    Các Đấng Thiêng Liêng khác cũng dạy:
    ▪ “Tu phải học hiểu qua giáo lý,
    Giáo lý là kim chỉ hướng Nam;
    Cho con nhập Thánh siêu phàm,
    Khỏi vòng luân chuyển con tằm nhộng tơ.”
    (Đức Mẹ Diêu Trì)
    ▪ “Tu không học hỏi tu mù... ...
    Tu mà không học ... như mù đi đêm.”
    (Đức Lý Giáo Tông)
    ▪ "Tu phải học, học để hiểu rõ ngọn nguồn. Hiểu phải hành cho kiên trì nhẫn nại liên tục để phát triển Thánh Tâm, mở mang Thánh Ý, khêu tỏ ngọn đèn từ huệ nội tâm của mỗi người.
    Sự tu học tuy dễ mà khó. Dễ ở chỗ không ai bắt buộc gò bó, đóng khung mình trong một luật lệ nghiêm khắc, chỉ do nơi tự giác tự nguyện của mình mà thôi. Hễ vui thì đi chùa thất hoặc đến giảng đường nghe giảng đạo hàng tuần, lúc buồn hoặc biếng lười thì ở nhà ngủ ráng năm ba kỳ không sao...
    Thế nên người tu học phải tự mình đặt cho mình một kỷ luật riêng tư khắt khe gò bó, vừa với sức mình rồi hằng ngày tuần tự nhi tiến đều đều liên tục.”
    Riêng đối với thành phần đạo hữu trẻ là con em nhà đạo, Ơn trên động viên khuyến khích thanh thiếu niên phải song hành cố gắng học văn hóa, khoa học, kỷ thuật trong đời vừa siêng năng học đạo lý:
    “Học tập là kiến tạo tri thức để phụng sự xã hội. Tu tập là xây dựng ý thức tinh thần để cải tạo xã hội.
    Có học, có tiến, có hành động mới dìu dắt được mình, cộng đồng mình và xã hội vượt qua bóng tối của tầm thường chật hẹp trong đời sống vật chất, trong phạm vi kiến năng. Có tu, có đức, có hiến dâng mới đem đạo vào đời làm rạng danh Thượng Đế. Nhờ đó xã hội trở nên lành mạnh hóa, đi lần đến Thánh đức tại thế gian. ”
    Để đạt được ước vọng đó, trước tiên phải ý thức:
    “Nếu muốn biểu dương giáo lý Cao Đài là qui Tam giáo nó phải đòi hỏi đến sự học thức rộng rải từ văn chương đến pháp đạo. Phải thông rành luật lệ ngọn ngành trong Tam Giáo rồi còn phải đòi hỏi đến sinh ngữ nữa, ví dụ một khi đoàn hướng đạo Cao Đài đi ngoại quốc đến một sắc dân nào cố nhiên phải đòi hỏi sinh ngữ ấy… … Đó các hiền hướng đạo thấy trách nhiệm quan trọng dường bao. Con đường nhứt định phải đến nhưng bao giờ sẻ đến. Vậy thì… sau đây ai là người thiết tha vì chơn lý đạo thì nên tìm học những nhu cầu mà Bần Đạo vừa tạm sơ qua.
    Sự học phải đòi hỏi cấp bách nếu thời kỳ này không thực hiện được, thì Thượng Đế buộc lòng phải đem chánh pháp giao cho một dân tộc khác. Rồi chừng ấy con cái Đức Cao Đài hiện tại sẻ ăn năn nhưng quá muộn.”
    - Bốn là HIỂU ĐẠO:
    Điều nầy đã bắt đầu hơi khó rồi. Nói rằng hiểu đạo ai cũng có thể nói được. Nhưng hiểu cho đúng lại là một việc khác. Thế thường, mỗi người hiểu đạo một cách khác nhau vì hoàn cảnh, nghề nghiệp, tập quán, xu hướng...v.v... Chính điều đó là điều rắc rối.
    Thí dụ: giải nghĩa câu "Vật dưỡng nhơn"
    • Có người nói theo nghĩa là các con vật phải phục vụ cho người nhứt là chúng phải chết để làm miếng ngon, thịt béo nuôi dưỡng con người. Biện luận như vậy để hợp thức hóa các trường hợp sát sanh.
    • Có người lại giải nghĩa câu ấy như vầy: "Vật dưỡng nhơn" là ý Thượng Đế muốn an bài cho vạn vật, vì lòng háo sanh. Vật nơi đây có nghĩa là: hoa quả, thảo mộc, ngũ hành để lấy đó biến chế tất cả vật cần thiết để dùng trong mọi trường hợp. Như nhà ở, áo mặc cơm ăn, nước uống, phương tiện di chuyển như thủy lục không bộ hành.
    Tất cả phương tiện đó xuất phát tự ngũ hành mà ra, trở thành vật dụng do trí khôn ngoan của Thượng Đế sẵn ban cho mỗi người, từ dân quê mùa dốt nát đến hàng bác học siêu nhân.
    • Một thí dụ khác nữa: như con người khôn ngoan, khi bịnh hoạn ốm đau có lương y, bác sĩ, lang ta, lang tây. Hỏi vậy con cá dưới nước, con chim trên rừng, con thú trong hang không có lương y rồi chúng nó tuyệt nòi tuyệt giống hết sao? Chúng vẫn có bản năng tự vệ, bản năng tự tồn mà những bản năng đó cũng từ đức háo sanh Thượng Đế an bài cho chúng thôi. Vật dưỡng nhơn hay vật dưỡng vật phải hiểu nghĩa như vậy. Đừng nên nghĩ khác mà trái với đức háo sanh luật bảo tồn vạn vật của Tạo Hóa.
    Thử đem so sánh hai định nghĩa như trên sẻ thấy ngay rằng hiểu thế nào là đúng thế nào là sai.
    Cũng như hai tiếng "tự do" phải hiểu nghĩa trong sự tự do của mình đừng vì đó mà làm mất tự do kẻ khác. Như vậy mới thực sự là tự do....
    Hiểu đạo nơi đây chẳng những do sự học hỏi từ kinh điển, Thánh Ngôn Thánh Giáo mà lại còn hiểu do nơi tham thiền nhập định phát huệ tâm linh. Đó là hiểu về nội tâm.
    Phải là bực tu hành chí chơn chí chánh, lòng được trống không, diệt trừ tư tâm bản ngả, tham vọng, đương nhiên cái chơn từ từ lố dạng và ứng hiện lên để cõi lòng thơ thới, hoan hỉ tiếp nhận là một môn học quí vô giá.
    Có hiểu đạo mới biết được vị trí của con người đứng chỗ nào trong tam tài và trong vạn linh, và hiểu mình phải làm và bắt buộc, tự nguyện phải làm những gì để gọi là tùng Thiên Lý, phụng sự Thiên Cơ.
    - Năm là TU THÂN - LẬP HẠNH:
    Nếu hiểu đạo mà không tu thân, là người trốn trách nhiệm. Cũng như một đứa bé vừa tập nói chuyện, bảo chúng đọc một trang thơ lục bát. Chúng vẫn đọc lưu loát, nhưng không hiểu nghĩa thế nào.
    Tu thân nơi đây là bước đầu cho sự thanh lọc, dọn mình lập hạnh, khắc kỷ tùng đạo. Có tu thân, con người mới mong tránh sự lỗi lầm do những việc thường nhựt chung đụng với đời sống chung quanh. Có tu thân, con người mới mong hoàn thiện để trở nên hạt giống tốt cho thế hệ hiện tại, cũng như thế hệ ở tương lai. Khi tu thân được hoàn thiện rồi bước ra đường đời không gây điều tổn đức thất nhân tâm, tổn nhân ích kỷ.
    Các Đấng Thiêng Liêng khác cũng dạy:
    ▪ “Chỉ có tu thân thoát ngục tù,
    Ngục tù thế sự quá âm u;
    Tham sân si dục bền vây chặt,
    Gươm huệ không mài nhốt vạn thu.”
    (Đức Lê Đại Tiên)
    ▪ "Về giá trị con người trong hàng tín hữu chức việc hoặc chức sắc, muốn có được phẩm vị cao quí để thể hiện đức độ của người tu, điều cần yếu là phải lập hạnh, vì có hạnh đương nhiên có phẩm, gọi tắt là PHẨM HẠNH.
    Bốn tiếng CÔNG ĐỨC PHẨM HẠNH luôn luôn phải được gắng bó nhau để con người tu thân hành đạo có được tác phong đứng đắn, dễ gây thiện cảm kính nể mến yêu với những người chung quanh mình……
    Trong lãnh vực tu thân lập hạnh hành đạo, Thiêng liêng thường dạy môn đồ phải gia công hành đạo, vì nhờ có công mới có đức, gọi tắt là CÔNG ĐỨC "
    Chúng ta sang giai đoạn thứ sáu
    - Sáu là HÀNH ĐẠO:
    Hành đạo là bước đầu xây dựng nền tảng âm chất vững chắc cho tòa lâu đài thánh thiện. Nhờ hành đạo mà các hàng Thần Thánh Tiên Phật càng ngày càng được phẩm vị cao siêu.
    Tu thân và hành đạo phải gắn liền nhau như gấm thêu hoa. Tu thân và hành đạo cần phải được hỗ tương nhau để tiến hóa. Nếu hành đạo mà không tu thân là thiếu căn bản lương thiện. Nếu tu thân mà thiếu hành đạo thì sự tiến hóa bị chậm trễ không biết ngần nào.
    Cùng loài sâu từ con bướm đẻ trứng, trứng nở thành sâu, nếu con sâu ấy có biết chăm sóc nuôi dưỡng sẻ trở thành tằm kéo tơ phục vụ loài người, công quả đáng kể. Cũng loài sâu, nếu không người, không sự chăm sóc nuôi dưỡng thì sâu cũng là sâu không ngày thành bướm.
    Việc Hành đạo lập công bồi đức cũng được các Đấng Thiêng Liêng dạy:
    ▪ "Sự hành đạo lập công bồi đức là tự cải tiến cho mình trở nên hàng thánh thiện.
    Ví như người trèo cây hoặc leo núi, đi lên thì thấy bao nỗi khó khăn, nhưng đã trỗi được từng bước một là đã được gần tới điểm cao, nếu quày trở xuống thì rất dễ dàng có nhiều sự giúp sức cho trở xuống.
    Thế nên Thánh xưa có nói vài câu đơn giản... "Quân tử ưu đạo bất ưu thực" hoặc "Quân tử ưu đạo bất ưu nhàn" hay "Chí quân tử thực vô cầu bảo, cư bất cầu an". Bởi vì tất cả nhu cầu tạm bợ đã có tạm đủ, không phải bận tâm cho lắm, để có thì giờ thực hành đạo sự là vậy đó."
    ▪ “Vẫn biết rằng các em có thể ở tại nhà giữ đạo, ăn chay tứ thời tụng niệm, lúc nào siêng thì đi chùa thất, lúc nào không siêng thì nằm nhà, lâu lâu gởi giúp ít nhiều tiền bạc để cho danh mình còn dính líu cũng được, không ai có quyền ép buộc. Như vậy cũng khá hơn những chị em khác không làm được vậy, hoặc những chị em khác nữa lại còn bê bối hơn.
    Lời tục thường ví: "Một đám người mù, kẻ chột làm vua". Chị muốn hỏi, các em muốn làm vua chột chăng? Hay là làm một người có đủ nhãn quan hành đạo tế thế an bang nhưng trong phạm vi vô danh, chẳng chức tước, không vị ngôi?
    Các em ơi! Một khúc gỗ to, từ dốc cao lăn xuống gây cho nhiều người chết chóc tàn tật cũng là khúc gỗ. Khúc gỗ khác vùi lấp dưới bùn sình, theo tuổi thời gian rất hiền lành không gây hại ai hết. Nhưng cũng có một hoặc những khúc gỗ khác được đem ra cưa bào đục chạm sơn son phết vàng tạc nên hình bạch mã thờ ở đình Thần hoặc tượng hình hạc qui để nơi các Thánh Đường hay tạc hình ông tà ông tướng để thờ các nơi miểu môn am tự hằng ngày có nhơn sanh sùng bái chiêm ngưỡng làm Thần Thánh. Các em muốn mình sẻ là những khúc gỗ nào hở các em?
    … Sự lễ bái, tụng kinh, ăn chay, niệm Phật là phương tiện để cho thân được an tâm được định, tánh được thuần, nghiệp quả sớm tiêu mòn để không còn nhiều chướng ngại vật khảo đảo thân tâm các em.
    Vì vậy mà chị khuyên các em, ngoài những lãnh vực thường thức hằng ngày ấy, phải thêm công khó giúp đời mới tạo được vốn liếng âm chất ở phần vô vi thiêng liêng vĩnh cửu."
    Kết hợp cả hai giai đoạn Tu Thân Lập Hạnh và Bồi Công Lập Đức, chúng ta hãy đọc tiếp đoạn Thánh giáo sau của Đức Liên Hoa Thánh Mẫu:
    "Thiêng Liêng thường dạy các môn đồ tu thân lập hạnh bồi công lập đức, nhưng người hiểu được chấp hành được, kể ra cũng hiếm có.
    Do đó, trong hàng chức việc chức sắc Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ nói riêng và trong lãnh vực các tôn giáo khác nói chung, thường vấp phải và tự thán rằng tôi đã nhiều tuổi đạo, đã tốn phí lắm của nhiều công, đã hy sinh những thụ hưởng xa hoa phù phiếm để phục vụ đạo lý nhưng sao thường khi lại bị đồng đạo khinh thường gièm pha chỉ trích, đừng nói chi đến kính nể mến yêu.
    Đó là tại chưa hiểu và chấp hành được tác phong đạo đức và công đức phẩm hạnh."
    - Bảy là THÁNH THIỆN, THÁNH TÂM hay GIẢI THOÁT:
    Xuyên qua một đoạn đường dài từ ngày nhập môn, giữ đạo, học đạo, hiểu đạo, tu thân cho đến hành đạo là khoảng thời gian chuẩn bị, để kiện toàn cho ngày phát Thánh Tâm, hiện Thánh Ý hành Thánh Sự để đến giải thoát.
    Giải thoát nói đây không phải lìa bỏ nhục thể hay trốn lánh nợ đời. Giải thoát nói đây có nghĩa là hàng Thánh thiện bực siêu nhân tuy ở tại cõi phàm gian ô trọc, mà lòng chẳng nhiễm bụi trần ô trọc, luôn luôn đem những kiến thức cao siêu giúp đời độ thế trên đường thánh thiện.
    Đó là giai đoạn đắc quả tại trần.
    Trải qua sáu giai đoạn đầu, người đạo hữu đã trải qua biết bao nhiêu sự giũa rèn trui đúc từ nhục thể đến tư tưởng, từ ngoại thể đến nội tâm. Có như vậy mới trở nên hàng thượng đẳng chúng sanh.
    Đừng bao giờ tưởng rằng mình nhập đạo lâu năm, đếm tuổi đạo làm nhiều để đo số lượng công quả. Đó là sai lầm! Nếu không học đạo, hiểu đạo, tu thân hành đạo, dầu có sống ngàn tuổi giữ ngàn năm thì phàm tục vẫn phàm tục. Đó là chưa kể đến những điều tội lỗi đã gây ra trong một thời gian dài đăng đẳng do tham, sân, si, dục.
    Và cũng đừng hiểu lầm câu "tu nhứt kiếp, ngộ nhứt thời", rồi giải đãi không lo tu huệ, tự bào chữa rằng: cứ lo tu phước để nhiều kiếp luân hồi trở lại hưởng cảnh phú quý vinh hoa cho thỏa mãn, rồi một kiếp nào đó tu cũng thành có muộn gì đâu.
    THI
    Ráng lo tu tỉnh tập từng ngày,
    Đừng để buông lung, phải trễ chầy;
    Một kiếp tu hành muôn kiếp hưởng,
    Phải lo công quả, hạnh cho dày.
    (Đức Quan Âm, Minh Lý Thánh hội, 01.9 Kỷ Dậu, 11.10.1969)
     

    MÔN TU CĂN BẢN CỦA ĐẠI ĐẠO CAO ĐÀI
    Học Đạo để biết phương pháp tu hành của tôn giáo mình đang theo là điều hết sức cần thiết. Tầm quan trọng của việc học đạo càng được nâng cao hơn nữa trong Kỳ Ba Phổ độ này là học để có sự hiểu biết áp dụng cho bản thân đồng thời để góp phần vào nhiệm vụ chung của Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ.
    Định hướng tổng quát của pháp môn Cao Đài đã được Đức Đông Phương nhắc nhở:
    1. Nam Thành Thánh thất, 09 tháng 5 nhuần Tân Hợi (01.07.1971)
    “Đông Phương Chưởng Quản, (...)
    Hiền đệ Chí Thuần đến đây nghe Bần Đạo hỏi.
    Hiền đệ! trong môn tu của Đại Đạo Cao Đài, căn bản là môn gì?
    (Đạo Huynh Chí Thuần bạch: phổ độ và tu tánh luyện mạng…)
    Đúng đấy. Trong Tam Kỳ Phổ Độ, Đức Chí Tôn khai Đạo với hai môn tu căn bản đó, nhưng thiết yếu hơn là hai đường hướng này đi song song với nhau.”
      
    Một thời gian sau, phương hướng tổng quát này lại được Đức Quan Âm giảng giải chi tiết hơn.
    2. Vĩnh Nguyên Tự, mùng 3 tháng Giêng Giáp Dần (25.01.1974)
    Quan Âm Bồ Tát, Bần Đạo chào chư Thiên sắc, chư hiền sĩ hiền muội trung đàn. Giờ nay Bần Đạo đem đến trần một ân lành bủa khắp địa phương cho mùa xuân được hưởng trọn vẹn. Bần Đạo miễn lễ, chư Thiên sắc, chư hiền sĩ hiền muội an tọa.
    Hỡi chư hiền sĩ hiền muội! Xuân về với vạn vật giữa thế đạo khuynh nguy, nhơn tâm ly tán, mặc dầu xuân mang đến cho đời muôn hồng ngàn tía được nẩy nở sinh sôi vươn lên cùng Tạo Vật, nhưng nếu là hàng chơn tu thánh thiện vẫn có một mùa xuân vĩnh cửu trong tâm hồn, luôn luôn hòa mình cùng xuân Tạo Vật để phụng Thiên sự dân, để hoàn thành sứ mạng vi nhân trên cõi thế, nên chi ngoại cảnh không làm lay động được tâm xuân.
    Nhìn lại hiện tình thế sự ngày nay rất thảm thương cho vạn linh sanh chúng, đang hưởng một mùa xuân cổ lệ mà tâm nhiều phiền não và ưu tư. Đó là chưa nói đến những người hứng tuyết nằm sương để giữ kiếp sanh tồn hiện tại, thì nào có xuân hạ gì đâu?
    Chư hiền sĩ được yên lành gần gũi Thiêng Liêng tu học, mỗi tiết xuân về được ân phước gia ban. Đó không phải tình riêng tư của Tạo Hóa, mà nhờ sự giác ngộ tìm đường cứu rỗi tự thân. Nhưng cũng không vì sự giác ngộ của chư hiền sĩ hiền muội mà Thượng Đế dành trọn hồng ân. Thượng Đế vẫn bủa khắp ơn lành cho vạn vật, vẫn cứu độ vạn sanh, chỉ chờ đợi vạn sanh biết thừa hưởng hồng ân Thượng Đế, quày chơn trở bước, lánh dục vọng tham tàn, khỏi vướng điều nghiệp quả là thọ hưởng gội nhuần ơn Thượng Đế.
    Đành rằng công nghiệp nhưng tất cả đều làm lành lánh dữ, biết tránh sự sanh sát giết hại lẫn nhau, biết sợ luật điều vay trả, thì cơ bảo tồn được luân động chở che, dù công nghiệp cũng không đến nỗi vào cơ sàng sảy.
    Bần Đạo khuyên chư hiền sĩ hiền muội là những Thiên ân hướng đạo, những thiện nam tín nữ biết hướng thiện tìm sự cứu rỗi ở Thiêng Liêng, hãy vì nghiệp lực của chúng sanh mà chung tay góp ý tạo một con thuyền Bát Nhã bằng tâm linh, bằng đạo đức, để đưa rước gọi kêu, cứu vớt những người đang say mê chìm đắm trong biển dục trầm luân.
    Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ với mục đích tối thượng cứu cánh nhơn sanh, chư hiền sĩ được làm những tế bào trong thánh thể Đức Chí Tôn, hãy cố gắng làm sao cho xứng phận để thánh thể được phát huy mầu nhiệm, tế chúng độ nhơn trong thời hạ nguơn mạt kiếp.
    Chư hiền sĩ hiền muội! trải qua trên bốn mươi năm, Chí Tôn khai đạo tại một đất nước nhỏ bé này, đã từng ban hành kinh điển đạo luật, đã từng cho phát hành Thánh giáo Thánh Ngôn kể ra cũng đủ đầy cho hàng Thiên phong chức sắc nắm đó mà lãnh đạo tinh thần, dìu dắt chúng sanh trên đường tu thân lập hạnh, hành đạo độ đời, và chừng ấy giáo lý cũng đủ cho nhơn sanh làm ngọn đèn soi sáng trên đường tu học.
    Tuy kinh điển Thánh ngôn Thánh giáo có nhiều, nhưng chung qui là dạy cho nhơn sanh có hai đường lối tu thân học đạo:
    Một là hướng ngoại hay là Ngoại Giáo Công Truyền. Phương pháp này dạy cho nhơn sanh chấn chỉnh tác phong đạo hạnh nên người có đức độ nghiêm chỉnh đàng hoàng, cốt cách diện mạo hiền nhân quân tử, biết tránh điều ác, biết làm điều thiện, biết giúp đời để lập công bồi đức. Đó là giai đoạn đầu, như đào móng đóng cừ đổ nền chắc chắn cho công cuộc xây dựng tòa lâu đài đạo đức ở giai đoạn thứ hai. Vì giáo lý Cao Đài không đi xa thực tế với đời sống con người thực tại. Sự hiện diện của nhơn sanh tại cõi thế gian nầy không phải là ngẫu nhiên hay vô cớ, mà nó nằm trong cái định luật, trong đức háo sanh của Thượng Đế.
    Chư hiền có học đạo, đã hiểu luật ấy Sanh và Thành. Sanh Thành xuất phát từ nhất khí hư vô, lưỡng nghi tượng hình cho cơ sanh hóa. Nếu sanh không được nuôi dưỡng giáo hóa thì mọi vật điều tiêu diệt băng hoại. Do đó khi có vạn vật được sanh, tức thì có phương pháp điều kiện để dưỡng dục giáo hóa cho sinh tồn. Trong các chi tiết của luật thành đó, một là mở đạo, giáo dục cho nhơn sanh noi theo đường chánh, lánh nẻo tà để qui thuận lòng trời hầu an định thế gian. Thế nên người hướng đạo phải thể theo lòng Trời mà thuận tùng Thiên lý, lãnh lấy trách nhiệm trước Thượng Đế trước nhơn sanh.
    Biết rằng mỗi một người sanh trưởng tại thế gian nầy đều có mang theo cái duyên nghiệp tốt hoặc xấu đó là lành hoặc dữ trong kiếp quá khứ. Sự mở đạo của Thượng Đế là muốn cho tất cả nhơn sanh đó, dầu trong thời kỳ trả quả cũ, không gây nghiệp mới bằng cách tu thân lập hạnh, bồi công lập đức để mọi người mọi chỗ mọi nơi đều hướng thiện, ăn ở đối xử với nhau cho phải tình phải nghĩa, phải đức phải nhân để trong cõi đời này có một xã hội đại đồng đạo đức, tương thân tương ái tương trợ tương liên với nhau, xem hạnh phúc mọi người như hạnh phúc của mình mà không dám làm gì tổn thương cho tha nhân. Nhìn sự đau khổ thất thoát của người như sự đau khổ thất thoát của mình, mà tìm cách che chở đỡ nâng, giúp an ủi. Nếu toàn thể nhân loại có một xã hội đại đồng đạo đức như vậy thì mọi người hạnh hưởng an lạc thái hòa biết bao!
    Đó là mục đích thứ nhứt mà Thượng Đế muốn cho loài người hiểu tận lý và hành tận sự, chớ giáo lý Cao Đài không nhất thiết chỉ bảo người đời đi tìm hạnh phúc trong cõi hư vô vĩnh cửu, chốn niết bàn cực lạc, trong khi nhơn sanh còn nghèo đói bệnh tật dốt nát kỳ thị chia rẽ, người bóc lột người trong cảnh mạnh được yếu thua, bất công xã hội. Nếu phần thân sanh hiện hữu như thế, chắc gì phần tâm linh được mẫn tuệ siêu thoát đâu.
    Còn giai đoạn thứ hai - Giáo lý Cao Đài dạy cho người phải tu theo phương pháp hướng nội. Hướng nội có nghĩa là phải nhìn vào trong. Nhìn vào nội thân để tìm cái chơn như bổn tánh của mình đã bị phủ mờ chìm sâu vào trong bức màn vô minh bởi tham sân si dục, phiền não hỉ ái ố. Phải tìm cho ra chơn như bổn tánh đó mới mong giải thoát kiếp trần lụy giả tạm nầy hầu phản bổn hoàn nguyên trở về cùng Thượng Đế. Đó là phương pháp thiền định công phu.
    Bần Đạo phân như thế để chư hiền sĩ hiền muội ý thức rõ rệt đường đi nấc bước của mình trong cửa Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ. Vì trải qua bốn mươi tám năm giữ đạo, đã có lắm người chưa hiểu rõ, nên đã bị lâm vấp hoặc sụp đổ công trình xây tạo. Trong số người lâm vấp có thể tạm chia làm ba loại:
    Loại Thứ Nhứt:- Là chỉ biết hướng thiện nhập môn, giữ gìn trai giới, bốn thời cúng lạy ngưỡng mộ sùng kính Thiêng Liêng, đức tin hướng về Phật Tiên Thượng Đế, nhưng chưa rõ giáo lý Cao Đài là gì. Hằng tháng đến ngày Sóc Vọng đi đến Thánh Thất hành hương ghi tên vào sổ kỷ niệm hoặc sổ hành trình rằng mình còn giữ đạo và có đi đến thất đến chùa. Như vậy đã cho rằng đủ, không thường sanh hoạt tập thể đạo đức nên ít dịp gặp bạn tốt dắt dìu, lần hồi ngày lại tháng qua uể oải biếng lười không đi chùa thất. Lẽ cố nhiên không gần bạn đạo thì gần bạn đời, bị lôi cuốn vui đâu chúc đó, không vững lập trường ban đầu còn giữ trường trai, lần hồi thấy hơi trở ngại vì tiệc tùng bên bạn đời mời mọc thường ngày nên giảm xuống còn 10 ngày chay cho tiện. Sau đó thấy 10 ngày chay cũng còn vướng vấp trở ngại nên tụt xuống còn 6 ngày, kế đến 4 ngày và kế đến 2 ngày, và sau nữa không có ngày nào, nhưng lòng cũng hơi sợ, cho nên mỗi tháng đến ngày chay, vào bữa dùng ba miếng cơm lạt. Mấy lúc ngồi vào hàng quán ăn phở hoặc bánh bao mặn trúng vào ngày chay, bất chợt gặp bạn đạo ngồi chung bàn, tuy nhiên cũng còn biết sợ, thấy bạn đâm ra hoảng hốt, lính quýnh xô dĩa xô chén qua một nơi, lấy ly rót nước kêu bánh ngọt liền, v.v… Vì cơm thiếu canh tu hành thiếu bạn, cũng như thiếu môi trường hành đạo nên mới xảy ra trường hợp đó. Thế nên loại một nầy nên tìm cho mình một hoàn cảnh thuận tiện để khỏi sa ngã, đó là hãy thường đến chùa, đi thất nghe giảng đạo thuyết kinh, để có môi trường buộc ràng chằng chịt mình với tập thể đạo.
    Loại thứ hai:- Là loại cực đoan về ngoại giáo công truyền, hằng ngày hàng tháng hàng năm đều siêng năng hành đạo chuyên cần nhưng chỉ biết lo về hành chánh đạo và thỉnh thoảng nói một vài điều đạo lý để tỏ ra mình rành Tân Luật Pháp Chánh cho đàn em út nó nể nó kiên. Kể ra thì loại hai nầy thì khá hơn loại một. Nhờ đó mà khi Chí Tôn mới khai đạo, đã có hàng trăm ngàn người nhập môn tùng đạo trong thời gian ngắn và khoảng thời gian từ 1946 đến 1952, chiến tranh bộc phát toàn cõi Việt Nam, nhóm phe tranh chấp bắt bớ giết hại. Lúc bấy giờ hàng vạn người sợ chết, muốn yên thân nên vào ẩn nơi bóng Đạo Cao Đài, để một là trong nhà có Thiên bàn, tây đen tây trắng mỗi khi bố ráp không làm khó dễ. Hai là giữ được cái giấy chứng nhận rằng mình là tín hữu Cao Đài, không nghịch bên này, không chống bên kia, chỉ biết lo thuần túy về chay lạt lễ bái, nhờ đó được yên thân. Cho nên lúc bấy giờ có người kêu ngạo cho lớp người ấy là đạo giấy. Tuy nhiên, cũng nhờ công quả của loại hai này đã thâu nhận một số khá đông tín đồ nhập môn và cứu tử hoàn sanh khá đông cho lớp người bị các bên bắt bớ.
    Loại thứ ba:- Là yếm thế, độc thiện kỳ nhân để thành Tiên đắc Phật. Đó cũng là cực đoan. Đã từng có những vị tu hành an ổn nhờ tiền căn dày công đức. Tuy nhiên cũng có lắm người lận đận lao đao hoặc nửa chừng đổ vỡ hoặc điên loạn, bởi vì thiếu công quả công trình cho móng nền vững chắc. Vì đó là công phu xây tòa lâu đài bị chinh nghiêng hoặc sụp đổ.
    Chư hiền sĩ hiền muội! Xuyên qua mấy lời Bần Đạo vừa phân chư hiền ý thức chữ Tam Công trong Đại Đạo là có lý. Thế nên Chí Tôn Thượng Phụ và chư Phật chư Tiên hằng dạy khuyên chư hiền sĩ hiền muội lập cho mình một chương trình hành đạo gồm đủ Tam Công: Công Quả, Công Trình và Công Phu Thiền Định. Tuy nói rằng ba giai đoạn, chớ thật ra có thể song hành cùng một lúc tùy khả năng duyên nghiệp và căn trí của mỗi người, đừng quan trọng hóa mỗi vấn đề trọng đại rồi làm không được. Bần Đạo nêu một vài ví dụ trong Tam Công đó.
    Như Công Quả: Đừng nghĩ rằng phải có tiền ngàn bạc muôn đem ra bố thí hoặc xây thất cất chùa lên cốt Phật hoặc in kinh gọi đó là công quả. Khi thấy một thế nhân bị cảm gió nhức đầu, chịu khó nhín ra mười phút cạo gió bóp gừng, không gọi là công quả sao? Thấy kẻ bất hạnh đói rách khổ đau, mà bỏ ra một viên thuốc một chiếc áo thừa, hoặc miếng bánh mì nguội dư, không thể gọi là công quả sao?…
    Tùy khả năng sở hữu tới đâu làm tới đó, nhưng phải làm với tất cả tấm lòng vị tha bác ái, không gọi công không gọi danh.
    Còn về Công Trình - đó là đào luyện trui rèn ý chí phàm tánh bản năng sanh tồn. Đừng nói rằng mình ít oi đạo học về giáo lý làm sao đi thuyết minh truyền giáo giảng dạy đó đây cho đời hướng thiện. Vậy chớ một cử chỉ nhỏ như tha thứ lỗi người, dằn cơn nóng giận để cảm hóa lòng người không gọi là công trình được sao? Gần đến giờ cúng thời hoặc ngày đi chùa thất, nghiệp trần dấy lên nêu đủ lý sự, nào mắc việc này việc kia, tại bần thần uể oải, hãy cố gắng kiên quyết diệt những tư tưởng chủ bại đó, dứt khoát làm liền ý định sẻ được việc ngay. Đó không gọi là công trình được sao? Ngày chay lạt nghe hơi tàu hủ mì căn kho xào phát ớn, nhưng lòng đang thắt thẻo cuộn cào sanh ra thèm bậy, dằn lòng không được rồi đi ăn lén thử cơm, quyết tưởng rằng sẻ có người bắt gặp, ít nữa hai bên vai giác hoặc trên đầu mình cũng có chư Thiên dòm ngó, rồi không dám làm. Lúc đó trong trạng thái tâm hồn có sự giằng co mãnh liệt, nhưng giữ được lập trường chay lạt không sa ngã, đó là thắng được nội tâm xúi quấy. Như vậy không thể gọi là công trình được sao?
    Còn về Công Phu đừng nghĩ rằng phải chờ đến bực Thiên phong chức sắc có nhà tịnh đủ tiện nghi hoặc chờ Thiêng Liêng điểm danh cho nhập khóa. Vậy chớ Phật xưa ngồi nơi gốc cây, tấm thân tròi trọi, địa vị bần dân, vẫn giữ được công phu thiền định, còn chư hiền phải làm sao? Một hiền muội mắt hơi làn, xỏ kim không kiếng nhắm vào một chỗ để luồn sợi chỉ cho qua, có khi mất cả mười phút. Trong mười phút đó chắc chắn rằng tâm thanh tịnh không tưởng việc nào khác hơn là luồn sợi chỉ qua kim. Như vậy không gọi là công phu được sao? Nhưng đó là thiền định vô ý thức. Thay vì chăm chú vào mối chỉ lỗ kim, hãy chăm chú vào ngọn nhang, ánh đèn Thái Cực hoặc nhìn chăm chú vào Thiên Nhãn, đừng tưởng việc chi khác hơn, đó cũng là khởi đầu cho động tác công phu thiền định rồi vậy.
    Bần đạo muốn tóm lược: làm thế nào để giữ vững tinh thần vào việc đạo. Chư hiền đói biết kiếm thức ăn, khát biết kiếm thức uống, mệt mỏi biết tìm chỗ ngủ ngơi, nực hầm biết tìm ra hơi gió, thở biết tìm không khí trong lành đó là nguồn sống của xác thân. Tại sao không tìm nguồn sống cho linh hồn hầu cung phụng nhu cầu cho nó?
    Chư hiền thử tưởng tượng trong thời chiến, nghe có việc đạo lúc vui thì sẵn sàng chấp nhận làm theo, lúc buồn lười biếng thì nêu lý do tại vầy tại nọ. Thử đang lúc nói tại bị đó, bất thần có một trái đạn pháo nổ bên hè, vội vàng chui liền ẩn núp, nếu cần có thể ôm gói đi cả năm bảy chục dặm đường chớ không còn nói tại nọ tại kia ở yên một chỗ. Cười…! Cười…!
    Tóm lại, Ơn trên chỉ dạy cho các tín hữu Cao Đài hãy nương theo nguyên lý “âm dương – tâm vật bình hành” mà song hành Ngoại giáo công truyền và Nội giáo tâm truyền, bằng cách mỗi người hãy lập cho mình một chương trình hành đạo có đủ Tam Công.
    Làm được như thế thì tương lai sẻ ngời sáng.
     

    TÂN PHÁP TAM CÔNG

    I. KHÁI NIỆM
    II. XÂY ĐẮP HẠ TẦNG KIẾN TRÚC
    1. CÔNG QUẢ
    1.1. Định Nghĩa
    1.2. Các hình thức Công quả
    1.3. Loại hình Công Quả có giá trị cao: PHỔ ĐỘ
    1.4. Giá trị của Công Quả
    2. CÔNG TRÌNH
    2.1. Định Nghĩa
    2.2. Các hình thức Công trình
    2.3. Giá trị của Công trình
    III. TÔ ĐIỂM THƯỢNG TẦNG KIẾN TRÚC
    1. Định nghĩa CÔNG PHU
    2. Các hình thức Công phu
    2.1. Công phu ngoại
    2.1.1. Cúng tứ thời
    2.1.2.“Biến mọi tình thức vọng niệm thành chơn thiện mỹ”
    2.1.3. Tĩnh tâm
    2.2. Công phu nội: Tâm pháp Đại Thừa
    2.2.1. Thiền (Chánh niệm)
    A. Tham thiền và Tịnh tọa:
    B. Thể dục Công phu
    2.2.2. Tu Luyện (Vô niệm)
    A. Điều kiện căn bản: Trường trai tuyệt dục
    B. Hình thức thực hành:
    C. Không khinh thường Đạo pháp
    3. Lợi ích của Công phu
    3.1. Giúp tăng trưởng trí huệ
    3.2. Là hình thức Công đức to lớn
    3.3. Công phu chỉ được thuận lợi và phát huy được tính hữu hiệu khi đã có nền tảng vững chắc
    3.4. Giúp phục hồi Tiên Thiên khí, ảnh hưởng đến thời gian đắc vị vô vi
    IV. BÍ QUYẾT TU HÀNH CỦA KỲ BA ĐẠI ÂN XÁ
    1. Lộ trình thực hành Tam công
    2.1. Nền tảng là Công quả
    2.2. Công trình xây dựng bộ khung
    2.3. Công phu xây cất lâu đài và tô điểm
    2. Song Hành Tam Công
    3. Thước đo giá trị trong Tam Công
    3.1. Thước đo giá trị của Công Quả
    3.2. Thước đo giá trị của Công trình
    3.3. Thước đo giá trị của Công phu
    V. TỔNG KẾT TAM CÔNG


    Đọc kỹ Thánh Ngôn Hiệp Tuyển, mặc dầu chúng ta không tìm thấy một từ Tam Công nào trong những lời giáo huấn của Đức Chí Tôn khi mới lập Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ, nhưng nội dung về Công quả, Công trình, Công phu luôn hiện diện.
    Đức Hộ Pháp Phạm Công Tắc thường nói về Tam Lập: lập công, lập ngôn và lập đức. Những nội dung của Tam Công chính là nội dung của phần Lập Công.
    Trong Thánh Giáo của hầu hết các chi phái Cao Đài Giáo, chúng ta lại thấy danh từ “Tam Công” hiện diện mọi nơi. Đến mức ngày nay hễ nói đến phương pháp tu hành của người tín hữu Cao Đài, hầu như mọi người không phân biệt phái chi đều nói đến Tân pháp Tam Công.
    Vậy hỏi rằng danh từ Tam Công qua cơ bút Cao Đài đã xuất hiện từ khi nào? Câu trả lời chính xác của việc này xin dành riêng cho các nhà nghiên cứu về văn hóa sử.
    Có thể ba nội dung của Tam Công đã bắt đầu có từ năm 1947 trong một lần giáng đàn dạy đạo của Đức Lý Giáo Tông tại một Thánh Thất ở miền Trung.
    “Các hiền đem hết khả năng khuyên nhắc từ người, từ đứa, không luận trẻ thơ, người già nua hoặc nam hay nữ, bảo sao những đạo hữu kia cùng đi theo nguyên tắc của Thầy, lập cho được kỳ công là Công phu, Công quả, Công trình.
    1. Công phu: là tu dưỡng thân tâm cho trong sạch, nhẹ nhàng. Không mến hồng trần, không xiển ngộ chướng ngại. Đó là nơi giao cảm với Thiên Đình.
    2. Công quả: là lo lập công bồi đức, bố thí, cúng dường. Đó là bửu tràng phang đưa về nơi Thiên đài cực lạc.
    3. Công trình: là xả thân hành đạo, thù tạc vãng lai gây mối cảm tình, nấu sôi lòng đạo. Đó là Công quả lớn, phẩm vị của mình.
    Vậy ba điều ấy, mỗi đạo hữu nên cầu xin gấp cùng Thầy mà mau rèn luyện cho thành tâm linh như ý pháp.”
    Vấn đề chánh yếu là mỗi tín hữu Cao Đài hãy tìm hiểu, nắm vững những mấu chốt ý nghĩa của mỗi loại Công và cố gắng thực hành cho rốt ráo Pháp Môn Tam Công, tùy theo mức độ hiểu biết của mỗi người hầu đạt kết quả tốt nhất trên đường bồi công lập đức và đóng góp vào sứ mạng chung của Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ.
    Đức Quan Thế Âm có dạy:
    “Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ, chư hiền đệ muội không có cái pháp Ba La Mật, nhưng thay vào đó cái pháp Tam Công cũng đầy đủ lắm rồi.
    Thực hành được Tam Công là chứng được Đạo quả mà Phật cho là Bồ Tát Hạnh.”

    I. KHÁI NIỆM
    - Là pháp môn tu hành của Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ, Tam Công gồm: Công quả, Công trình, Công phu.
    Điểm chung của cả ba là chữ CÔNG.
    - Chữ Công bao gồm 2 ý nghĩa chánh: một là “công sức”, hai là “chung”.
    “Thượng Đế đã đặt để cho con cái thân yêu của Ngài một con đường bằng phẳng yên vui, đó là hành đạo phục vụ nhân sanh, đó là đem lại sự yên vui cho đời. Đã lo cho nhơn sanh là lo cho mình rồi đó.
    Phương pháp tu Tam Công trong Đại Đạo có, chư hiền tìm đâu xa xôi cho rắc rối cõi lòng. Công phu, công quả, công trình, công nào cũng đứng đầu bằng chữ công. Phải tự lực cánh sinh, tự tu tự tiến. Thiên nan vạn nan mới đắc thành quả vị...”
    Cho dù thực hành loại Công nào đi nữa cũng đều phải hướng về đối tượng chung là “chúng sanh” và gắng sức “gia công” thực hiện.
    “Thế Tôn hôm nay cũng mừng thấy chư thiện nam tín nữ trong Đại Đạo so sánh lại với những đệ tử của Thế Tôn khi xưa trong hàng Thinh Văn, Duyên Giác cùng Bồ Tát thì chư thiện tín ngày nay đáng đứng vào hàng Bồ Tát, vì vừa tu thân vừa lo cứu độ nhơn sanh. Còn hàng Thinh Văn Duyên Giác chỉ tự tu tự độ lấy thân thôi. Chỉ có hàng Bồ Tát mới là dắt dìu nhơn sanh đồng tu học trên đường đạo hạnh.
    Thế Tôn so sánh lại giáo hội của Thế Tôn khi xưa với Hội Thánh của Đại Đạo thời nay, Thế Tôn rất khen chư thiện nam tín nữ đáng liệt vào hạng hàng Bồ Tát là lo cứu độ dẫn dắt nhơn sanh đó.”
    - Trong Tam Công có thể nào chúng ta chỉ cần thực hiện một hoặc hai Công mà thôi chăng? Ơn Trên có dạy:
    “Vậy Tôn Sư thí dụ qua cho môn đồ tường. Nếu chư môn đồ đạt thành đạo cả thời bản thân phải đứng vững, thể phách linh hồn vững vàng thì linh hồn kia mới nương dựa vào, hầu bước lên nấc thang cao thượng.
    Muốn cho tinh thần được kiện toàn, chư môn đồ hằng ngày phải công phu luyện tập, công quả điểm tô, công trình phổ hóa. Tam Công song hành thời kết quả chư môn đồ đạt đặng rất dễ dàng.
    Vậy buổi hạ kỳ Tôn Sư thọ sắc hạ trần, hướng dẫn chư môn đồ trên bước đường luyện tập minh triết hầu đạt thành ngôi vị.”
    - Tuy cần phải song hành cả ba Công, nhưng với đại đa số tín hữu Cao Đài tu theo đường hướng “phổ độ” thì phương án thực hành phải theo qui luật “tiệm tiến” đi từng bước từ thấp dần dần lên cao. Vậy loại hình Công nào là nền tảng, cần phải chú ý bồi đắp trước tiên?
    II. XÂY ĐẮP HẠ TẦNG KIẾN TRÚC
    Chúng ta tham khảo đoạn Thánh giáo sau của một vị tiền bối ở Thiên Trước – Ô môn Cần Thơ:
    “Tệ Huynh tự xét mình: Công phu chẳng có là bao! Nhờ có Công quả thỉ chung và Công trình gắn bó tu hành với tấm lòng bất thối chuyển, một dạ chí thành, cho nên mới được hưởng đặc ân đó!... Chư Huynh Tỷ Đệ Muội ráng làm Công quả để có nền tảng vững chắc mà giải trừ nghiệp lực tiền khiên, hầu không làm trở ngại bước đường tu tiến. Tệ Huynh đã có Tam Công như vậy đó…”
    Như vậy, phải chăng Công Quả và Công Trình là hai thành phần nền tảng của pháp môn Tam Công? Đức Đông Phương Chưởng Quản dạy:
    “Người tu thân hành đạo, ngoài phần công quả công trình để xây dựng nền tảng âm chất cho vững chãi, còn cần phải có thì giờ rèn luyện công phu. Chính phương diện này mới tạo được lâu đài. Đó là ngôi vị Tiên Phật hay phản bổn huờn nguyên cũng thế.”
    1. CÔNG QUẢ:
    1.1. Định Nghĩa:
    Công quả là làm bất cứ điều gì miễn mang lại hữu ích cho chúng sanh, hoặc ở mặt đời sống (vật chất, tinh thần) hay ở mặt tâm linh.
    Đức Quan Âm dạy:
    “Công Quả nơi đây đừng quan niệm chỉ gò bó trong phạm vi chùa thất, Hội Thánh Tòa Thánh mà gọi là công quả cho Thiêng Liêng để đổi phần cứu rỗi.
    Công Quả nơi đây phải quan niệm về nhân sinh Thế đạo, đem mọi hành động cử chỉ đạo lý áp dụng vào đời sống thường nhựt giữa con người và con người với nhau. Hãy đối xử với nhau cho phải tình nghĩa hiếu trung liêm sỉ chánh chơn.
    Công quả lo giúp đời trên mọi phương diện trong đời sống thường nhựt. Lo cho người tức là lo cho mình, giúp người đời tức là giúp cho mình.
    Công quả cũng là gây tạo được nhân lành quả tốt về âm chất mà đó là nêu gương sáng đạo đức cho kẻ khác cảm hóa mà làm theo.”
    1.2. Các hình thức công quả:
    “Phải lập công bồi quả. Lập công là phổ truyền Đạo Lý làm gương soi cho đời hướng vào con đường Đạo. Bồi quả là tạo nên hình thức như xây dựng Thánh đường, tạo cơ quan thiện từ dụng chí hy sinh với thời gian tùy tài lực, nhơn lực để tế trợ đồng nhơn. Như thế liệt vị bắt lên nấc thang để ngày mai hậu.”
    Công quả có thể được làm qua nhiều hình thức như:
    - Giúp ích bằng sức lực:
    - Giúp ích Vật Chất:
    “Ái, thủ, hữu” có nghĩa là: ưa thích, nắm giữ và sở hữu.
    Cái mà tuyệt đại đa số mọi người, theo tập quán, đều cố sức có được là sở hữu tài sản. Hễ có một rồi thì lại muốn tăng lên gấp đôi gấp ba. Cho nên “bố thí” là hạnh đầu tiên mà giáo lý nhà Phật khuyên tập thực hành.
    Đức Mẹ có dạy:
    “Các con biết lo cho kẻ khác chính là tự lo cho các con đó. Đồng tiền bát gạo đem để vào chỗ đúng nhân nghĩa không mất đâu con.
    Ngược lại sản nghiệp dầu to lớn đến đâu, nếu nó có bởi việc làm thiếu đạo đức mà ra thì của Thiên rồi cũng hoàn về cho Địa.”
    - Giúp ích bằng Tinh Thần và Tâm Linh:
    “Công việc hành đạo lại đắc giá hơn về phương diện tinh thần, vì mọi hành động của con người đều do nội tâm xuất phát. Nếu đem đạo cải tạo tư tưởng con người thì những thói hư tật xấu, những điều độc ác thất đức bất nhân sẻ bị tiêu diệt ngay từ trong trứng nước ở nội tâm, thì còn đâu mà bộc phát những hành động.
    Hơn một lần, Bần Đạo có nói rằng:
    Bố thí thực phẩm cho người đói lòng là một nghĩa cử từ thiện có phước đức công quả, nhưng bố thí lời đạo đức để giác ngộ người đói kém về mặt tinh thần lại càng phúc đức công quả trọng đại hơn.”
    1.3. Những loại hình Công Quả có giá trị cao:
    Chúng ta hãy tham khảo một trường hợp điển hình của một đạo tỷ hành đạo ở một Thánh tịnh tại Lái Thiêu–Bình Dương.
    “TẢ QUÂN - Lão mừng Thiên mạng liệt vị trung đàn. Giờ chuyển Thần Cơ xuân nhựt, Lão mừng chung trung đàn, tiếp hộ điển Chơn linh nhập đàn. Thiên mạng liệt vị thành tâm tiếp ứng. Lão xuất ngoại hộ cơ. – Thăng -
    THI
    Huỳnh tuyền rời khỏi cảnh trần gian,
    Thị giã đua chơn cõi thế tàn;
    Khác được xá ân hồi cảnh báu,
    Lai trần hội diện trước Tam Ban.
    Huỳnh Thị Khác, tôi mừng Thiên mạng, mừng hiền phu, mừng huynh tỷ đàn tiền an tọa. Cho phép em đôi lời lưu lại.
    Hạnh ngộ thay! Hân hạnh thay! Cảnh vật trần gian, con người chia ra nhiều giai cấp, từ sang hèn - nghèo giàu chen lấn, nhưng khi bỏ xác phàm rồi thì vào cảnh thiên nhiên không còn như thế.
    Như tôi lúc tại trần chỉ có tâm không mà thôi, tiền tài cũng thiếu, sản nghiệp cũng không, học hành dốt nát, chỉ nghe theo tiếng đọc của người mà in vào tâm khảm. Chỉ nhớ Đức Mẫu Từ, đến giờ chung qui tâm còn tưởng niệm. Nhờ thế mà đạt được quả lành. Trong bao nhiêu ngày vắng mặt như tôi đã tường trong cảnh ấy, miễn lòng chí thành của kiếp tu hành thì vị ngôi cao cả không phân biệt như ở trần gian.
    Giờ chung qui trước sự cấp bách của tình đời, lưu lại cho hiền phu một vết đau thương lo lắng.
    Đồng chung nhờ huynh tỷ, đệ muội táng trợ để lấp dấu thi hài. Giờ đây tôi cúi đầu tạ những ân nhân bảo trợ. Đôi lời gọi nhắc. (…)
    Vậy thời giờ rất ít, linh điển chưa thuần, chỉ báo hỷ làm gương để cho huynh tỷ ráng trau giồi, ngày kia mọi người đều được vận chuyển ngọn linh cơ bày tỏ.
    Vậy cúi đầu từ giã Thiên mạng cùng huynh tỷ đệ muội trung đàn, giã từ ngọn bút.- Lui -
    Đúng một năm sau, chơn linh đạo tỷ lại được phép giáng đàn báo tin mừng đã được đắc quả vào hàng Thánh vị.
    HIỀN hậu tu hành đắc quả chơn,
    NHƠN tâm hèn hạ có đâu sờn;
    THÁNH minh chuyển bút nơi đàn nội,
    NỮ Đạo tranh giành quả thiệt hơn.
    HIỀN NHƠN THÁNH NỮ tự Huỳnh Thị Khác - Mừng Thiên mạng chư đạo tâm cố hữu trung đàn an tọa.
    Giờ hội điển, luật đại xá ân triều Nam hạnh hưởng, Tệ Nữ chuyển linh cơ điểm lại báo tin mừng cho chư huynh tỷ trung đàn bạn đạo.
    Trước phàm thế, Tệ Nữ vẫn là một trong phần thấp hèn nghèo kém dốt học, thiếu đức tính, chỉ có con tâm cương quyết lo lập công bồi quả.
    Giờ linh điển xuất nhục thân thọ sắc non Thần tu luyện đạt vị Thánh Nữ, báo tin mừng trung đàn Tam cảnh, hiền huynh tường chăng?
    Vậy mừng thay, ngày xuân hội ngộ. Thiên mạng thành tâm tiếp lịnh. Tệ Nữ xuất cơ. - Thăng -
    Qua câu chuyện trên, chúng ta thấy kết quả của một đời tu không phụ thuộc nhiều bởi tiền tài, vật chất hay trình độ tri thức mà tùy thuộc vào lòng chí thành cũng như lòng tin vào Thầy Mẹ và lý tưởng Đại Đạo. Như thế những loại hình công quả sẻ có giá trị hơn, đó là:
    - Giáo dục tinh thần, nội tâm
    “Cứu người trong cơn bịnh, giúp người qua lúc đói rách, đó là một nghĩa cử bác ái từ thiện, có công đức âm chất. Nhưng nếu đem so sánh với những phương tiện đem cứu người qua cơn bịnh về tinh thần, khỏi cơn đói về tư tưởng thì lại càng có công đức và âm chất nhiều hơn...
    Như vậy, việc đem đạo giúp đời hay cứu đời không phải chỉ có một phiến diện vật chất hoặc sức lực mà phải cần đến phần giáo dục tinh thần ở nội tâm lại càng quý giá vô cùng.” (Đức Vạn Hạnh Thiền Sư)
    Lời nói khuyến thiện hay góp phần giáo dục để mọi người sống lương thiện và biết yêu thương chia xẻ từ vật chất đến tinh thần với người khác là một dạng công quả cao quý giá trị hơn cả vật chất.
    Tất nhiên những hình thức qua ngôn từ, sách vở giúp người giác ngộ để tiến bộ về tâm linh lại càng quý hơn nữa!
    - Công Quả PHỔ ĐỘ CHÚNG SANH là căn bản
    Thánh Ngôn Hiệp tuyển có ghi lại câu chuyện liễu đạo của một vị Tiền Khai Đại Đạo là Ngài Thượng Chưởng Pháp Nguyễn Văn Tương:
    ▪ “Thầy có để lời cho Thái Bạch Kim Tinh cầu rỗi, nhưng Người giận Tương không công quả, dâng Bộ Công Thiên thơ ra trống trải lắm, tại nơi Tòa mới cãi chối nỗi gì. Người nhứt định không dự đến…
    Vậy trong hịch văn sớ tấu, các con phải thượng nơi Tòa Tam Giáo mà cầu rỗi cho nó thiệt hết lòng, rồi Thầy sẻ rỗi cho nó. Các con hiểu.”
    Vậy người tín hữu Cao Đài muốn được trở về phục lệnh dưới chân Thầy cần phải làm gì?
    Tất nhiên, thí dụ trên cho thấy cần phải có Công Quả. Nhưng loại công quả nào mới thật sự góp phần để cho việc trở lại quê xưa thành hiện thực?
    Chúng ta hãy cùng nhau tìm hiểu xem điều căn bản chánh yếu của công quả là gì.
    ▪ “Thầy hằng nói cùng các con rằng: Một trường thi công quả, các con muốn đến đặng nơi Cực Lạc thì phải đi tại cửa này mà thôi.
    Thầy lại khuyên nhủ các con rằng: Thầy đã đến chung cùng với các con, các con duy có tu mà đắc đạo; phải đoái lại bá thiên vạn ức nhơn sanh còn phải trầm luân nơi khổ hải chưa thoát khỏi luân hồi, để lòng từ bi mà độ rỗi.”
    ▪ “Như chư đệ muội đây, khi nhập đạo đến giờ, từ người chức sắc đến tín đồ kẻ thì độ được năm bảy vị, người cũng độ được một đôi chục vị, có vị cũng chẳng độ được một ai.
    Chớ lúc còn cơ phổ độ thì những anh lớn của chư đệ muội trước kia, người độ cả số ngàn số muôn cũng có. Vì lẽ ấy, mà những bậc tiền bối quá vãng, ngày nay cũng đều được đắc quả Thánh Tiên cả thảy.
    Lão nhắc đây để cho chư chức sắc cùng đạo tâm hiểu lẽ trọng yếu ấy mà lo độ nhơn sanh sống trong chung quanh mình. Nghĩa là trong gia đình thân tộc cũng chưa phải là hoàn toàn nhập vào đạo Thầy hết, nên phải ráng lập công phổ độ.”
    Ơn trên dạy “Tu không phải độc thiện kỳ thân” nghĩa là không chỉ tu cho riêng mình. Thời Tam Kỳ này, công quả chánh yếu là phải góp phần “phổ độ chúng sanh” như lời trong bài kinh Ngũ Nguyện “Nhứt nguyện Đại Đạo hoằng khai, Nhì nguyện phổ độ chúng sanh”.
    Trên đường phổ độ, công quả có giá trị nhất là xây dựng và bồi đắp đức tin cho đồng đạo. Ơn Trên luôn nhắc nhở:
    ▪ “Các con liệu phương thế mà nâng đở đức tin của môn đệ cao lên hằng ngày. Ấy là công quả đầu hết.”
    ▪ “Lòng mong độ thêm người chưa biết Đạo phải song song với sự nuôi dưỡng đức tin đối với người bạn Đạo. Nếu vô tình hoặc cố ý để mất đức tin một người bạn Đạo lâu năm còn quan trọng hơn độ thêm năm, mười người khác nữa.”
    - Làm với tinh thần “làm âm chất”
    Đức Quan Thế Âm đã dạy:
    “Đừng nghĩ rằng phải có tiền ngàn, bạc muôn đem bố thí hoặc xây thất cất chùa lên cốt Phật hoặc in kinh mới gọi là công quả. Khi thấy một thế nhân bị cảm gió nhức đầu, chịu khó bỏ ra 10 phút cạo gió bóp gừng không gọi là công quả hay sao? Thấy người bất hạnh đói rách khổ đau, bỏ ra một viên thuốc, một chiếc áo thừa, miếng bánh mì nguội dư không thể gọi là công quả hay sao?
    Tùy khả năng sở hữu tới đâu làm tới đó, nhưng phải làm với tất cả tấm lòng bác ái không gọi công không gọi danh.”
    - Làm với lòng “chí thành”
    “Về phần thi công lập quả, không phải người có vật chất hiến cúng mà đặng công quả, không phải người dày công nhọc sức mà đặng lập vị. Cả hai đều do ở chỗ chí thành tâm linh mới kết quả được. Khi chí thành đã có thì tâm linh phát hiện tự nhiên, Đạo Lý sẻ do nơi ấy mà xuất phát cho người.
    Ví như Lương Võ Đế ngày xưa cất bảy mươi hai cảnh chùa, sao lại còn đài thành ngạ tử thì vật chất có ích chăng?”
    Công quả được Ơn trên ví như việc xây nền đắp móng, còn xây dựng nên khung căn nhà là công trình. Đức Chí Tôn có dạy:
    “Vậy muốn đắc quả thì chỉ có một điều phổ độ chúng sanh mà thôi.
    Như không làm đặng thế nầy thì tìm cách khác mà làm âm chất,
    thì cái công tu luyện chẳng bao nhiêu cũng có thể đạt địa vị tối cao.”
    Làm âm chất là một khía cạnh của công trình.
    Ơn trên cũng dạy: “Công trình, công quả làm nền.”
    Trong Tam Công, công trình là thành phần mà đại đa số tín hữu Cao Đài hiểu chưa đúng hoặc hiểu còn rất hạn chế nhưng nó lại có tầm quan trọng rất lớn ảnh hưởng đến kết quả của một đời tu. Vậy chúng ta hãy chuyển sang để tìm hiểu những khía cạnh cốt lõi của công trình.
    1.4. Giá trị của Công quả:
    - Công quả bằng vật chất có hệ số giá trị thấp nhất!
    Tâm đã có, tâm phụng Đạo Trời,
    Nhưng chưa rốt ráo tánh con người;
    Dụng TIỀN hành đạo là phần phụ,
    TÂM ĐỨC khéo khôn mới độ đời.
    Nói một cách khác, khi chúng ta dùng vật chất làm phương tiện để công quả thì phải sử dụng một số lượng khá lớn mới có thể có được công đức. Điều này có nghĩa là hiệu suất của vật chất không cao. Vì thế Ơn trên thường nhắc tích Lương Võ Đế cất 72 cảnh chùa mà không có công đức chi!
    - Nhưng công quả bằng tinh thần lại có hệ số cao hơn
    “Cứu người trong cơn bịnh, giúp người qua lúc đói rách, đó là một nghĩa cử bác ái từ thiện, có công đức âm chất. Nhưng nếu đem so sánh với những phương tiện đem cứu người qua cơn bịnh về tinh thần, khỏi cơn đói về tư tưởng thì lại càng có công đức và âm chất nhiều hơn… Như vậy, việc đem đạo giúp đời hay cứu đời không phải chỉ có một phiến diện vật chất hoặc sức lực, mà phải cần đến phần giáo dục tinh thần ở nội tâm lại càng quý giá vô cùng.” (Đức Vạn Hạnh TS)
    Lời dạy ở câu cuối giúp chúng ta thấy có thể công quả bằng cách “thành tâm cầu nguyện” mặc dầu không có vật chất, sức lực hay trí tuệ.
    “Chư hiền đệ muội đã có duyên phúc được sinh vào chỗ tương đối an ổn, đã và đang tổ chức cuộc lễ triều kính Thiêng liêng là vì nhờ tâm đạo công đức chi nên cơ duyên hạnh phúc đã an bài cho được an ổn tiện bề tu thân hành đạo, hiến lễ. Vậy chư đệ muội hãy hướng tâm linh vào những nơi xa xôi, những vùng đất bất hạnh để cầu nguyện đưa điển lành trợ duyên cho những nơi ấy.”
    - Mót bòn công quả:
    ▪ “Các con đã từng nghe Thầy dạy rằng: Công quả dầu nhỏ nhoi đến độ nào cũng là công quả, không mất đâu! Các con cố gắng mót bòn dành dụm trong khoảng đời tu học như con kiến tha mồi lâu ngày ắt đầy ổ đó các con.
    Đừng chễnh mãng, đừng lười biếng, đừng chấp nhất giận hờn với bạn đạo rồi bê trễ đường tu tiến của mình.
    Các con cũng đừng ngần ngại trước những công quả dầu là công quả nhỏ mà không làm, cũng đừng sợ sệt trước trở ngại dầu là trở ngại lớn mà không tiến. Chí tâm sẻ chí đạo, con nên đạo là chỗ đó nghe các con.”
    ▪ “Công đức không nhỏ và phẩm vị thiêng liêng cho những ai công quả từng việc nhỏ đến việc thật tầm thường.”
    Mót bòn nói lên đức tính kiên nhẫn, không chê việc nhỏ hay việc tầm thường, không so đo chỉ lựa chọn việc lớn hay việc làm cho mình được nổi danh mới làm. Mót bòn là sự phối hợp giữa công quả và công trình.
    Công quả tùy theo tâm của người làm mà kết quả đạt được hoặc là “phước đức” hoặc là “công đức”.
    . Khi tâm còn vọng tưởng hưởng lợi cho bản thân hay gia quyến thì chỉ có Phước đức.(còn mê)
    . Cũng một công sức như thế nhưng nếu tâm vô cầu kết quả cho mình, gia quyến mình thì sẻ có Công đức.
    Người hữu phước phải luân hồi đầu thai trở lại để được hưởng phước, chỉ trường hợp công đức mới mang lại giá trị siêu thoát tâm linh! Vì thế Thầy có dạy: “Do Công đức mà đắc đạo cùng chăng”
    Việc hành đạo là làm Công quả, còn việc tu thân chính là Công trình. Kết quả của Công quả sẻ là phước đức hay công đức lại liên quan đến Công trình. Như vậy công quả và công trình có luôn gắn kết chặt chẻ với nhau thì mới mang lại kết quả trên đường tiến hóa. Ơn trên dạy:
    “Nếu hành đạo mà không tu thân là thiếu căn bản lương thiện. Nếu tu thân mà thiếu hành đạo thì sự tiến hóa bị chậm trễ không biết ngần nào. Tu thân và hành đạo phải gắn liền nhau như gấm thêu hoa. Tu thân và hành đạo cần phải được hỗ tương nhau để tiến hóa.”
    2.CÔNG TRÌNH
    2.1. Định Nghĩa:
    Công Trình là sự gia công, trì chí.
    Ơn trên thường dạy: “Công trình luyện kỷ”. Đây là sự tu thân. Trong việc tu thân chúng ta phải thực hành các việc: trì giới, nhẫn nại và học hỏi.
    “Kỷ” là mình, là ta. Còn “Luyện” là sự trui rèn, như luyện kim khí tức là phải trải qua quá trình “nung nhiệt” và “đập dũa” liên tục lâu dài! Nói cách khác đây là sự chịu đựng, vượt qua từ khảo nghịch đến khảo thuận, từ bên ngoài đến bên trong: đạo giáo, gia đình, bản thân.
    Đức Quan Âm dạy: “Công trình đó là đào luyện trui rèn ý chí phàm tánh bản năng sinh tồn.
    Đừng nói rằng mình ít oi về đạo đức, giáo lý, giảng dạy đó đây cho đời hướng thiện.
    Vậy chứ một cử chỉ nhỏ như tha thứ lỗi người, dằn cơn nóng giận để cảm hóa lòng người, gần đến giờ cúng thời (hoặc vào thiền công phu) hoặc đến ngày đi chùa thất, nghiệp trần dấy lên nêu đủ lý sự, nào mắc việc này bận việc kia, tại bần thần uể oải…
    Hãy cố gắng cương quyết diệt những tư tưởng chủ bại đó, dứt khoát làm liền ý định đúng lý của mình rồi thì được việc ngay.
    Đó không là công trình đặng sao”
    2.2. Các hình thức Công trình:
    B.1. Tương tợ 3 yếu tố của Lục Độ Ba La Mật:
    Đức Quan Âm cũng đối chiếu Công trình trong Tam Công với Lục Độ Ba La Mật của nhà Phật là: “Trì giới, Nhẫn nại và Tinh tấn”.
    - Giữ gìn giới luật:
    Đức Thích Ca có hướng dẫn:
    “Vậy Hội Thánh (nay) cũng như giáo hội của Thế Tôn khi xưa phải cần nghiêm trì giới luật, vì có thực hành đúng theo giới luật, thì giáo hội hay Hội Thánh mới được vững vàng gương mẫu cho nhơn sanh kính phục.
    Bởi vậy khi Thế Tôn tịch diệt rồi, có một Tỳ Kheo còn si mê trong vòng thất tình lục dục, nên thốt ra câu nầy: Thích Ca còn ở đời hay đem giới luật ra mà bó buộc chúng ta, làm cho mất hết quyền tự do của chúng ta. Nói cái nầy nên làm, cái kia không nên làm, làm cho ta khổ tâm vì giới luật quá. Từ nay trở đi chúng ta sẻ tùy theo ý muốn.
    Bởi câu ấy thấu đến tai Ca Diếp nên mới triệu tập các đệ tử của ta lại mà kết tập Tạng Kinh và Tạng Luật truyền lại cho đến hôm nay đó.
    Thì đây cũng là một gương cho Hội Thánh trong Đại Đạo nên nghiêm trì giới luật.
    Thế Tôn để đôi lời đạo lý giáo hóa khuyến thiện nhơn sanh tinh tấn trên đường tu học.”
    Ơn trên cũng dạy:
    Sửa mình trong sạch ấy là tu,
    Gìn giữ giới qui cũng gọi tu.
    Công quả, công trình cho xứng phận,
    Cởi lần cái lớp của phàm phu.
    - Kiên nhẫn, trì thủ:
    Cụm từ “kiên nhẫn” bao gồm cả hai đặc tính của hai quẻ Kiền và Khôn. “Đức kiên” tương ứng với cụm từ “tự cường bất tức” của quẻ Kiền, còn “đức nhẫn” tương ứng với tính “nhu thuận” của quẻ Khôn.
    Đức Quan Âm dạy tiếp:
    “Vẫn biết rằng trong cửa thiện, người người đã góp công góp ý vào việc thiện, nhưng hãy xét lại mình có được trọn vẹn với hai chữ vô tư chưa? Hay còn hẹp hòi, hay còn chấp nhứt, hay còn vị kỷ, hoặc thiếu tình thương, hoặc làm để được tiếng đời ca tụng rằng mình là bậc hiền nhân quân tử. Xem lại mình có thật tâm bảo vệ và nuôi dưỡng sự hành thiện cho đến nơi đến chốn cùng chăng?(…)
    Hay chỉ làm với mối từ tâm phát hiện nhứt thời, rồi một lúc nào đó vẫn còn đeo đuổi vì thể diện, vì nhân nghĩa, vì tai tiếng, vì cơ sở ràng buộc, tấn thối lưỡng nan, rồi hành sự với miễn cưỡng, được lúc nào hay lúc ấy.
    Nếu khi gặp một vài thử thách nặng nề, rồi buông xuôi cho đại cuộc dở dang, rồi nêu hai tiếng "tại" và "bị" để biện hộ cho danh dự của mình.”
    - Học hỏi:
    Là một khía cạnh để có sự “tinh tấn”:
    Một thí dụ: có một đạo tỷ được Ơn trên điểm danh nhắc nhở phải cố gắng thêm việc “học hành giáo lý” mặc dầu đã làm công quả khá nhiều.
    “Phạm Thị Chua thuở giờ đã có,
    Nhiều Quả công giúp đỡ phòng trù;
    Nhưng con còn thiếu hạnh tu,
    Học hành giáo lý, như mù đi đêm.”
    Một số đạo hữu có hoàn cảnh không thuận tiện cho nên việc học nơi trường lớp bị hạn chế, từ đó có tâm lý e dè trong việc học hỏi giáo lý.
    Chúng ta hãy tham khảo một kinh nghiệm sau:
    “Giờ này Bạch Liên tôi đắc lịnh của Đức Diêu Cung giáng đàn báo tin. Vậy đàn trung an tọa, để Bạch Liên tôi có đôi lời cùng chư hiền muội.
    Nầy chư hiền muội hướng đạo ôi! Bạch Liên tôi rất hân hạnh thấy chư Nhơn Thánh hội hiệp về đây dự lớp đông đủ, có phần thấy mình còn kém, bởi không biết chữ, nên xin nhắc lại. Khi Bạch Liên tôi còn xác thân hành đạo, lập công giữ gìn bản thể thì Bạch Liên tôi bất thành nhứt tự ký danh, mà được Ơn Trên ban phong phẩm Phối Sư và nhiệm vụ Học Viện Trưởng thì Bạch Liên tôi biết làm sao cầm bài giảng giải hay thuyết trình nghĩa lý chi chi.
    Chỉ ngồi nghe gọi là chứng sự, từ lớp này sang lớp khác, chỉ như thế mà Bạch Liên tôi khai thông trí huệ, tinh thần cứng gắng uy tín đủ đầy, nên mới hoàn thành nhiệm vụ hữu hình trong cơ lập giáo độ đời.
    Và khi được “Huờn Chơn” cộng lại hai phần âm dương là Bạch Liên Chơn Tiên.”
    Cụ thể, Đức Lê Đại Tiên dạy cho một đạo tỷ:
    “Bùi Thị Tri là đồng nhi cũ,
    Bận gia đình lam lũ sớm trưa;
    Tuy gìn chay lạt muối dưa,
    Nhưng về đạo lý thì chưa hiểu gì.
    Ráng lo học phú thi Thánh giáo,
    Nghĩa dưỡng nuôi lo báo hiếu ân;
    Bốn thời cúng một dưỡng thần,
    Để nhờ Thượng Đế điển ân hộ trì.”
    Việc bắt đầu học Đạo không bao giờ trễ và cũng không khi nào chấm dứt vì “bể học mênh mông”. Càng học thì trí óc được mở mang, thấy những sai lầm hay khuyết điểm để sửa chữa và thấy những điều cần phải bồi bổ thêm để
    - Thực hiện tình thương:
    Nước sông kia vẫn nhớ về nguồn,
    Tâm đạo con người chẳng dễ buông;
    Cội rễ bao giờ xa vẫn đoái,
    Công trình xây dựng bởi tình thương.
    Nếu như trong phần Công quả, điều quan trọng nhứt là “phổ độ chúng sanh” thì điều này lại càng được nâng cao hơn nữa khi chúng ta hiểu rằng “yêu thương sanh chúng” là hạnh cao quý thể hiện đức bác ái, từ bi.
    “… nhìn vào bổn phận một tín đồ của Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ, một đứa con thương yêu quí mến của Thượng Đế Chí Tôn, lại càng phải nghĩ đến lòng nhân ái trước nhứt.
    Lòng nhân ái có thể làm một phương linh dược chế ngự tất cả những gì muốn bộc phát nơi thân tâm của con người, lòng nhân ái cũng là một bản đồ cho người nhìn theo phương hướng ấy về đến Bạch Ngọc Kinh.
    Phải chăng nhân ái tức là thương yêu. Hễ thương yêu thì mọi việc đều khoan dung tha thứ.”
    - Thực hiện “hòa ái”:
    Một khía cạnh Công trình khác mà người tu phải rèn luyện là “chữ Hòa”.
    Ngay từ khi mới lập đạo, Thầy đã dạy:
    “Chẳng quản đồng tông mới một nhà,
    Cùng nhau một Đạo tức một Cha;
    Nghĩa nhân đành gởi thân trăm tuổi,
    Dạy lẫn cho nhau một chữ hòa.”
    Về mặt nhân sinh Thế Đạo, để góp phần mang lại hòa bình phát triển cho nhân loại, Đại Đạo Tam Kỳ có bổn phận xây dựng “thế nhân hòa” trên các mặt: kinh tế, chính trị, tôn giáo, v.v...
    Còn với ai đã bước sang phần tu luyện thì:
    “Hòa là một món báu linh,
    Là chìa khóa mở Ngọc Kinh bước vào.”
    2.3. Giá trị của Công trình:
    Rèn luyện công trình sẻ giúp cho chúng ta phát triển được cả hai mặt tác phong đạo hạnh và trí tuệ. Nhờ có học và hiểu đạo lý, mỗi người sẻ nâng cao ý thức trên đường tu thân và hành đạo. Khi đó, người tín hữu mỗi khi làm một việc gì sẻ có ý thức rõ: mục đích vì sao mình phải làm việc đó, phương cách nào sẻ mang lại hiệu quả tốt cho cả hai mặt nhân sinh và tâm linh của mình, mang lại uy tín cho tập thể, làm sáng danh Thầy danh Đạo, v.v...
    ▪ Đức Bảo Hòa dạy:
    “Tu học trước nhất là phải dồi trau đức hạnh, rèn luyện thân tâm, lễ nghi đúng phép, cung kính nghiêm trang, nói năng giữ gìn ý tứ, việc trái đạo chớ nên làm, lời vô ích đừng nói, tập ngồi, tập đứng, tập đi, có tôn ti trật tự, nói năng lễ độ, kính mến thương yêu, đừng buông thả như thuở ngoài đời ham bay ham nhảy, ham nói ham ăn. Dầu nơi chật hẹp mà lễ nghi giữ đủ, trật tự nghiêm minh, đứng ngồi đúng chỗ, nói năng đúng phép, đó là Đạo.
    Trái lại, lễ nghi không học, trật tự không hành, nhỏ lớn không tôn, dầu chùa rộng nhà cao, nhìn vào cũng như cánh rừng hoang, cây cối um tùm, nhỏ lớn không phân, chông gai bù bịch, đó là vô Đạo. Trật tự hữu hình là giá trị của người tu, tác phong đạo hạnh là lớp đầu của người Tu sĩ, và cũng là kết quả của cấp lãnh đạo.
    Có tác phong đạo hạnh thì được kẻ kính người mến, kẻ yêu người nể, và người ngoài hâm mộ mà noi theo, có lợi cho mình mà độ được người. Đó là đệ nhứt pháp môn.
    Vậy Thánh Nữ cũng khuyên con phải làm gương cho cháu, cháu phải siêng năng học tập, tập tánh nhẫn nại, kiên tâm, thì tu học mới kết quả.”
    ▪ Đức Ngô Đại Tiên dạy:
    “Người ta đương chìm đắm nơi bể trần, dưới sự xô xát muôn lượn sóng trần, lòng mình có thương xô thuyền ra cứu không được người mà mình cũng bị chìm luôn một thể, vì thuyền ưởi, trống nan sổ chốt.
    Phải lo trét xảm cho kỹ mới đủ điều kiện cứu người, bằng hấp tấp vội vàng mà đem kẻ sống đến chỗ chết nghĩa là mình bị thuyền đắm phải chìm mà còn chìm cả thủy thủ nữa.
    Thuyền ấy là gì? Đức hạnh đó. Đức có đủ, nói người ta mới nghe, mà người có đức là người hay thương xót cứu sống muôn loài. Có hạnh là làm một việc gì, nói một lời gì, nghĩ một điều gì, cũng cân đo cẩn thận.
    Chư… đồ còn kém đức hạnh, phải tu cái đã… Tu nghĩa là quy căn thức vào trong để cho tâm hồn được sáng sủa. Tu nghĩa là bồi bổ cái căn tính bị khuy khuyết chừa bỏ các lỗi lầm trái nghịch. Vậy muốn hành Đạo phải tu.
    Còn về việc… tịnh luyện là một việc khác, nghĩa là người Thiên ân Quyền Pháp hành Đạo là theo sứ mạng, tịnh luyện là tu tiến bản thân.”
    Học và tập “thương yêu”, làm theo tình Tạo Hóa là vì đây là chìa khóa để mở cửa Bạch Ngọc Kinh:
    “Tình thương trên hết, cùng một ý nghĩa với tứ vô lượng tâm: từ, bi, hỉ, xả. Tình thương sẻ cứu chuộc mọi nguồn tội lỗi, sẻ làm liều thuốc thần đơn trị lành mọi bịnh tình nhân loại.
    Tình thương là chìa khóa giải thoát con người ra khỏi bể trần tục lụy, là con đường đưa con người lên nấc thang tiến hóa. Ngôi vị chơn linh Tiên Phật được định giá bởi tình thương. Một tình thương cao thượng thiêng liêng sẻ giải quyết được vạn sự kiện của nhân sinh.”
    Kết quả có được trên đường hành đạo là nhờ vào đức hạnh yêu thương của mỗi người và tập thể. Nhờ lòng nhân ái và tình thương rộng mở, chúng ta mới thực hiện được “dung hòa” với mọi người cho dù khác biệt về màu da, sắc tóc, ngôn ngữ, chánh kiến, tôn giáo, v.v...
    “Chư hiền đừng hướng tầm mắt mình vào một ảo tưởng mông lung về vị ngôi Thần Thánh mà quên mất con người chung quanh mình đang đau khổ vì bệnh họan, vì dốt nát, vì nghèo đói bởi thiếu tình thương mà tình thương là căn bản của tôn giáo đó chư hiền đệ muội".
    Bởi muốn như thế, ngay từ buổi đầu Đức Chí Tôn lập ra Tân Luật để nhắm vào đường hướng ấy.”
    Công trình tu dưỡng mang lại kết quả là tác phong đạo hạnh sẻ gây được cảm tình với người, trí tuệ giúp cho có sự sáng suốt và kinh nghiệm để giải quyết các đạo sự thấu tình đạt lý! Những điều này càng được nâng cao lên nhiều hơn nữa khi chúng ta có thêm phần trí huệ của Công phu.
    “Luyện kỷ tối nan, huờn đơn thậm dị”.
    Công trình luyện kỷ hết sức khó khăn, cho nên khi đã làm được rồi sẻ là bệ phóng cho Công phu ít bị khảo đảo.


      
    (CÒN TIẾP)
    Last edited by kinhvotu; 21-07-2012 at 01:42 AM.
    Tâm vốn bất sinh bất diệt, chỉ tại chúng sinh vọng thức lại tưởng là Tâm nên hóa Tâm mê

  2. #2
    Tam Đẳng Avatar của kinhvotu
    Gia nhập
    Mar 2012
    Nơi cư ngụ
    Cai quản cỏi A Tỳ
    Bài gởi
    3,182

    Mặc định

    III. TÔ ĐIỂM THƯỢNG TẦNG KIẾN TRÚC
    1. Định Nghĩa CÔNG PHU:
    - Gắng sức chuyên trì theo thời gian, làm một việc (Công phu tu hành)
    - Công phu thiền định: Gắng sức kềm tâm, dừng “tâm viên ý mã”, tỉ mỉ kiểm soát để đạt đến sự thanh tịnh.
    “Một hiền muội mắt hơi làn, xỏ kim không kiếng nhắm vào một chỗ để luồn sợi chỉ cho qua, có khi mất cả mười phút. Trong mười phút đó chắc chắn rằng tâm thanh tịnh không tưởng việc nào khác hơn là luồn sợi chỉ qua kim. Như vậy không gọi là công phu được sao? Nhưng đó là thiền định vô ý thức.”
    2. Các hình thức Công phu:
    Nhưng dù tu thuộc cấp nào thì người thực hành Công phu cũng phải cố tập giữ cho tâm được Thanh tịnh. Đức Như Ý Đạo Thoàn Chơn Nhơn có dạy:
    ▪ “Điểm đích trước tiên của người tu luyện Công phu là lấy sự thanh tịnh làm tông... Thanh tịnh là giữ cho tâm đừng xao, ý đừng động để noi theo cái lý vận hành của Trời Đất giáng thăng mà sống,...”
    2.1. Công phu ngoại: (tín hữu ăn chay 6 ngày/tháng)
    Là hình thức Công phu ở bậc sơ khởi, mọi tín hữu đều được Ơn trên khuyến khích tập thực hiện.
    Đầu tiên của công phu ngoại là cúng tứ thời, một việc tưởng chừng đơn giản nhưng thật ra không dễ làm tròn!
    2.1.1. Cúng tứ thời
    ▪ “Công phu vốn nguồn sanh mạch cả,
    Đức, trí, nhân tiếp họa nên hình;
    Tứ thời vẹn giữ cao minh,
    Nuôi hồn theo nhịp câu kinh tiếng lành.
    Giờ phút Thiêng niệm danh Tiên Phật,
    Cảm kích lòng, như khất, như xin;
    Như dâng tất cả chân tình,
    Như nguyền đến cửa Thần Linh thọ truyền.
    Nhờ công phu con siêng học Đạo,
    Nhờ công phu con bảo toàn căn;
    Mới mong sửa đổi tánh hèn,
    Mới thâu vọng tưởng, mới tăng an hòa.”
    ▪ “Sự cúng lạy con nên sốt sắng,
    Trừ nghiệp thân cho đặng tinh anh;
    Kệ kinh miệng đọc lòng thành,
    Để trừ nghiệp khẩu, khỏi sanh não phiền.
    Con ngày đêm tâm thiền cầu nguyện,
    Để diệt trừ vọng niệm ý tà;
    Tứ thời trẻ ráng gần Cha,
    Nhìn ngay Thiên nhãn thì là Thần gom.
    Siêng cúng với sự tập trung cao độ, nương lời kinh để hiểu thấu lý, mắt chú nhìn Thiên nhãn trong lúc lòng thanh tịnh là phương pháp không dễ dàng thực hiện được một sớm một chiều. Trái lại cần phải nổ lực rất nhiều, phải buông bỏ hầu hết việc thế sự mới có điều kiện thời gian để thực hành. Một hình thức công phu ngoại khác đã được Đức Bảo Hòa Thánh Nữ hướng dẫn cho các tịnh viên là:
    2.1.2. Công hạnh “biến mọi tình thức vọng niệm thành chơn thiện mỹ”
    “Nay chư Thiên ân và các con cháu đang trên đường Đại thừa thực hành Thiên đạo thì cần phải tu công hạnh làm trước. Con đường chứng đạo gần nhứt là con người hoàn mỹ trong đời sống xã hội nhơn sanh, sống giác ngộ vui tươi, sống ích nhơn lợi vật trong mọi hoàn cảnh, mọi phạm vi của mình. Đó là chứng đắc hiện tiền.
    Sự chứng đắc này đòi hỏi một Công phu luyện kỷ thuần thành, không phải là chỉ đá hóa vàng, dời non lấp biển, mà chỉ cần biến mọi tình thức vọng niệm thành chơn thiện mỹ để làm tròn bổn phận một đời người, thì “tánh không” do đó mà phát hiện cho đến ngày nhập thế hư vô. Đó là sự chứng đạo của hàng Phật Tiên.”
    Phải chăng đây chính là một trong những hình thức “Tồn Tâm Dưỡng Tánh” của Nho gia Thánh Đạo.
    2.1.3. Tĩnh tâm
    Đức Quan Thế Âm dạy tiếp:
    “Thay vì chăm chú vào mối chỉ lỗ kim, hãy chăm chú vào ngọn nhang ánh đèn Thái Cực, hoặc nhìn chăm chú vào Thiên Nhãn, đừng tưởng việc chi khác hơn. Đó cũng là khởi đầu cho động tác Công phu thiền định rồi vậy.”
    Có một hình thức Công phu khác, ở mức cao hơn.
    2.2. Công phu nội: Tâm pháp Đại Thừa
    Trong hình thức này cũng có nhiều bậc từ thấp đến cao. Nhưng điều kiện căn bản vẫn là: đã nhập môn, ăn chay 10 ngày mỗi tháng ít nhất được 6 tháng.
    “Thiền là Tâm vô niệm, Định là dừng lại tất cả. Chỗ công phu nầy đòi hỏi hành giả phải ngày ngày tu tập...”
    Việc Công phu vừa phải bền bỉ, tỉ mỉ vừa phải siêng năng không ngừng nghỉ, không gián đoạn. Công phu Tâm pháp Đại Thừa Cao Đài là pháp Tiên gia, vì thế có điểm giống với Đại Thừa nhà Phật, là tham thiền và tịnh định. Nhưng cũng có điểm khác biệt là có thêm phần tu luyện, dụng Thần vận Khí luyện đơn của Tiên gia.
    ▪ 2.2.1. Thiền: (Chánh niệm)
    Khởi đầu của Công phu là tập điều thân, điều tâm và điều tức: tập điều chỉnh tư thế ngồi cho ngay thẳng cho yên định ít bị tê chân, tập làm chủ hạn chế việc tâm phóng ngoại, tập điều khiển hơi thở theo nhịp số.
    “Điều cốt yếu của người mới công phu tu luyện là phải đạt được trạng thái thân an trước tiên. Khi ngồi thiền thân có an thì thần mới định để vận khí lưu hành.”
    A. Tham thiền và Tịnh tọa:
    Đây là vấn đề, bấy lâu nay chúng ta đã có sự hiểu còn hạn chế do trình độ học hiểu. Nghiên cứu Đại Thừa Chơn Giáo, chúng ta thấy đây là một yếu tố liên kết Công trình với Công phu. Đức Chí Tôn giải thích rất rõ:
    “Người tu hành cần nhứt là phép tham thiền đặng tầm cái lý đạo cao siêu của Tạo Công đặt bày trên mấy cõi Hư Linh ngõ cho thấu triệt đến cả cội nguồn nguyên thỉ. Không tham thiền định trí thì làm sao đoạt nổi Thiên cơ, hiểu điều mắc mỏ cho được? Thế nên người tu, hay người không tu, mà muốn hoát thông sự vật, tham cứu uyên nguyên thì làm sao cũng phải tham thiền... chẳng gia công nghiên cứu, tham khảo suy tầm cho tận cùng đáo để, thì làm sao trực giác được cái nguyên lý của Đạo? Muốn đạt đến chỗ đó, mà còn phương pháp nào khác hơn "Tham Thiền" nữa đâu?
    Không "tham thiền" thì làm sao mở mang trí hóa để đạt cho thấu cái lẽ hư vô huyền diệu? Nhưng phương pháp tham thiền rất là khó lắm. Trước hết cần phải chú cái tâm vào một tư tưởng nào cho cao thượng, rồi mới lấy cái tư tưởng thanh quang ấy mà nghĩ ngợi cho cùng, xét suy cho tột thì huệ tâm tự phát, trực giác tự khai, chừng ấy chơn lý mới hiện bày ra một cách rõ ràng minh bạch.
    Nhưng hễ muốn tham thiền cho kết quả thì phải lo nhập định cho hẳn hòi. Nhập định là cốt để cho tâm thần an ổn, nghĩ ngợi hầu có sửa mình mà trừ khử các bịnh do trong cốt tủy và diệt xong cả mấy mối loạn của thất tình lục dục khiến xui khuấy rối đêm ngày. Rồi gom các tư tưởng vào nơi khối óc, đừng cho nó tưởng nhớ bá vơ những điều không tốt, lại ráng gắng công tập luyện nó sao cho dần dần trở nên thuần túy tinh anh. Mà phải nuôi cái tư tưởng ấy cho cao thượng trọn lành mãi mãi, đừng để ngoại vật lẫn vào báo hại với tâm hồn xao động…
    Hễ nhập định đặng như vậy thì tham thiền mới thấy kết quả tốt đẹp phi thường.”
    Một khi đã định được và tham thiền thì dòng tư tưởng được tập trung không xa lìa trong bất cứ hoàn cảnh sinh hoạt nào của hành giả. Lúc bấy giờ dù đi, đứng, nằm, ngồi, ăn, nghỉ, v.v... tất cả đều ở trong trạng thái thiền – tâm thanh tịnh tư duy hầu đạt đến chân lý giải đáp công án.
    B. Thể dục Công phu
    b.1. Ngoại Công thể dục:
    Bậc trung của Sơ Thiền là phần động thể dục
    “Này chư đệ! hãy... tịnh tâm nghe Bần Đạo giải về sự công dụng của Pháp Môn tương trợ tương quan giữa động và tịnh. Trước khi giải, Bần Đạo hỏi chư đệ có thuộc qua Pháp Ngoại Công Thể Dục hết chăng?...”
    b.2. Thể dục Nội công:
    Là bậc cao của Sơ thiền. Điều kiện để được lên cấp này là phải trường trai tuyệt dục, không còn có quan hệ luyến ái vợ con.
    ▪ 2.2.2. Tịnh - Luyện: (tu Tánh luyện Mạng)
    Đại Thừa Tâm pháp Tiên gia bên cạnh phần giống với Thiền tông nhà Phật là “tham thiền” để giải quyết “công án” riêng của mỗi hành giả thì cũng có điểm khác biệt, đây là phần tu luyện đơn.
    Trong phép tu Tánh luyện mạng Cao Đài, việc tiếp nhận Thần của Đức Chí Tôn qua Thiên nhãn vẫn là mấu chốt để được đón nhận ơn Trời. Đây là một khía cạnh của Đại ân xá Kỳ Ba.
    “Con tu học đi về pháp lý,
    Nghiệm giác đồ luyện kỷ đắc thông;
    Mắt không để vướng trần hồng,
    Mà đem nhãn tục ứng đồng nhãn chơn.
    Tập xem thấy linh sơn cảnh tượng,
    Luyện nhìn theo chìu hướng sắc Thiên;
    Nguy nga tráng lệ hồn nhiên,
    Của Thầy ban sẵn mối giềng lương sanh.
    Ngày vui nhận điều lành trước mắt,
    Giờ Công phu ngưỡng đặc ân linh;
    Đoạn trừ nhãn dục thường tình,
    Trưởng thành nhãn huệ an ninh đắc truyền.”
    Hiện nay, có hai hình thức tu Tâm pháp:
    . Một là hình thức “Thượng thừa tiệm giáo”, người tín hữu Cao Đài sẽ bước dần lên hướng đến phương tu giải thoát của pháp môn đại ân xá sau khi đã đắp nền Công quả và vượt qua các cấp tu với bước khởi đầu đã ăn chay 10 ngày mỗi tháng, ít nhất đã được sáu tháng, như qui định của Tân Luật.
    . Hai là “Tối thượng thừa đốn giáo”, hình thức này khi bước vào là đã phải trường trai tuyệt dục ngay.
    A. Điều kiện căn bản: Trường trai tuyệt dục
    Khi bước lên cấp tu giải thoát luân hồi của hàng Nhị cơ, việc tuyệt dục, cần được hiểu đúng mức như lời Thánh giáo Ơn trên đã dạy:
    “Nay chư Thiên ân và các con cháu đang trên đường đại thừa thực hành Thiên đạo thì cần phải tu công hạnh làm trước.(...)
    Sự sa đọa hay bị rớt gần nhứt của hành giả là tâm còn luyến ái, tâm còn vọng tưởng, tâm còn cố chấp.
    . Tâm luyến ái thê nhi tôn tử làm mất thể thống người Thiên ân đã xuất gia. Nay sợ trược khí của người khác không dám đến gần mà vì lòng luyến ái lại vào chỗ ô uế sanh dục làm mất ánh Thiên quang của Huyền khiếu,
    . Hay bị quyến rũ bởi tâm vọng tưởng danh vị lợi quyền làm cản ngăn bước tiến trên đường sứ mạng Đại Thừa.
    . Tâm còn mê chấp hay phân biệt, ích kỷ hẹp hòi, làm tổn thương tâm từ huệ của người tu.”
    Như thế “tuyệt dục” cần được hiểu đúng bản chất của nó: không còn có mối quan hệ phu phụ gần gũi hay lòng luyến ái thê nhi chỉ mới là điều kiện cần, còn điều kiện đủ phải được hiểu rộng hơn nữa: là sự vọng tưởng danh vị lợi quyền hay tâm còn mê chấp, ích kỷ hẹp hòi tư hữu.
    Đức Như Ý dạy:
    “Người tu hành phải thật chơn tu, nhắm vào mục đích giải thoát, đừng luyến tiếc sự vật hữu hình mà thoái hóa luân hồi. Đã gọi là vô thường thì có gì là trường cửu.
    Giữ phương tiện cộng đồng thì chẳng hoài công. Ôm chầm tư hữu thì uổng sanh một kiếp...
    Muốn độ đời cần vong kỷ, bố thí, trợ nghèo, giúp khó là phương pháp bảo toàn tự thân.”
    Vậy người tu đúng với tinh thần Đại Thừa, cần hiểu rằng: bên cạnh việc buôn bỏ lợi danh quyền chức trong cả hai môi trường đời và đạo, còn phải vong kỷ bố thí cho tha nhân và hướng tới không còn tư hữu bất cứ thứ gì.
    Tài liệu Đại Đạo Sử Cương của Hiền Tài Trần Văn Rạng thuộc Tòa Thánh Tây Ninh cung cấp cho chúng ta những thông tin xác nhận điều kiện khởi đầu để được đức Hộ Pháp Phạm Công Tắc thâu nhận vào nhập tịnh tu luyện ở Hội Thánh Tây Ninh:
    “Năm 1929, Đức Hộ Pháp lập Khổ Hiền Trang mở Phạm Môn cho những ai đủ cơ duyên vào tu luyện (phải để lại chức sắc áo mão ở ngoài).
    Những ai muốn vào nhập tịnh phải qua khâu xét chọn “cân Thần” của Đức Hộ Pháp.
    Chỉ có những người đạt tiêu chuẩn mới được thâu nhận.”
    Nói theo ngôn ngữ Dịch học, để đạt đến “tuyệt dục” thì phải đạt đến “tâm vô vọng”. Có được như thế thì mới đạt được “Thiên Địa chi tâm” để huyền đồng cùng Trời Đất!
    B. Hình thức thực hành:
    Theo nguyên lý của Đạo là sự biến dịch của âm dương, trong dương có âm và trong âm có dương, nên các pháp thực hành từ thấp đến cao của các cấp Đạo pháp Công phu đều đi đúng theo nguyên lý này.
    Phương pháp thực hành bao giờ cũng song song hai hình thức tịnh và động:
    . hình thức “tịnh” là “tọa thiền hành công”, tuy dáng vẻ hình tướng bên ngoài cho thấy hình thức là ngồi im lặng nhưng bên trong có sự vận công dụng Thần dẫn Khí.
    . hình thức động là “thể dục nội công” sau khi đã tọa thiền. Kết quả chỉ đến khi người thực hành đạt tới sự định tâm, Thần Khí đi đôi.
    Những động tác thể dục nội công giúp cho cơ thể có sự vận động sau một thời gian ngồi yên tọa công để giúp cho máu huyết lưu thông điều hòa, khử trược lưu thanh đồng thời kết quả cũng giúp hành giả tăng cường thể trạng, đề phòng được nhiều loại bệnh về nội tạng nếu hành công có kết quả.
    C. Không khinh thường Đạo pháp
    Trước khi bước vào Sơ thiền Tâm pháp, đạo hữu cần hiểu rõ để xây đắp nền tảng vững vàng:
    “Nay chư đệ muội muốn vào hàng Thiên Đạo, xin vào lớp dự bị để học tu, phải thông qua giới điều qui luật.
    - Trước biết có thân phải báo đáp ơn sanh dưỡng, xử tròn nhiệm vụ làm người.
    - Biết có tâm này phải chí thành giác ngộ, có ý chí kiên trì giải thoát để vào đường Thiên Đạo.
    Đó là điều kiện tối thiểu để bước vào hàng dự bị và tiến lên hàng Thiên Đạo.
    Bần Đạo mở lòng bác ái cho chư hiền đệ hiền muội có thời gian để kiểm điểm thân tâm, cố gắng thực hành lời dạy trên để bước vào hàng Thiên Đạo. Bằng chưa thì hãy tạm dừng chân và cố gắng tiếp tục rèn luyện xem xét thân tâm để làm tròn bổn phận rồi sẽ bước sau.
    Chớ nên vì sở thích, ham muốn riêng tư, dễ duôi mà phạm tội.
    Chư hiền đệ hiền muội! Ơn Thiên bủa khắp, cửa Đạo thênh thang, thuyền pháp sẳn sàng rước đưa người giác ngộ, chớ vội bước sang ngang e rằng lọt vào lòng đáy sâu biển khổ. Bần Đạo dầu mở lòng tận độ, nhưng cũng không thể dùng thần thông quảng đại mà phạm luật Thiên Điều.”
    Người tu ở bậc thượng thừa, siêng năng trì hành đầy đủ thì công đức rất lớn như ý nghĩa chữ “Đại thừa” là cổ xe lớn. Nhưng nếu ngược lại, có sự biếng lười, sẽ bị tội nặng như lời Thánh giáo sau:
    ▪ “Trái lại đã đi vào Đại Thừa Thiên Đạo mà còn chểnh mảng lười biếng xem nặng việc đời mà lãng quên việc đạo, tâm còn tính so đo, tranh luận thị phi, chấp ta chấp người, tiêu cực cầu an, quên đi lòng bác ái vị tha trước nỗi khổ đau của vạn loại. Các tánh xấu đó còn ẩn núp trong tâm của người tu thì dầu có khoát bên ngoài mấy lớp áo đạo nhưng hành động cử chỉ vẫn lộ ra bên ngoài không thể nào che giấu được. Như thế vị… đó vừa lừa dối mình mà dối cả Thần Thánh, dối cả người đời, thì tội phải chịu nặng gấp 3 lần người chưa học đạo.”
    ▪ “Trên đường tánh mạng song tu, nếu là một hành giả có quyết tâm giải thoát thì phải luôn luôn bước tới không ngừng nghỉ, nếu dừng bước là thối bộ.
    Càng tới càng thấy khó khăn hơn, như học trò lên lớp, như thí sinh vào trường. Nếu sơ tâm ắt bị đánh rớt. Nhưng cái rớt của trường đời còn có thể ngồi lại 1 năm để rồi thi lại, còn đối với trường đạo có khác một điều: hễ lên thang Đại Thừa mà rớt thì phải bị xuống.
    - Lần thứ nhứt phải tắm gội ba năm.
    - Lần thứ hai phải nhơn lên ba nữa tức là 9 năm mới phục hồi được.
    - Nếu phải bị lần thứ 3, người hành giả sắp đến đích mà bị rớt thì không được nhơn lên nữa, mà phải đợi đến thất ức niên sau mới có cơ hội phục hoàn chánh vị.
    Đó là nói hàng nguyên nhân có căn trí, có công phu dày dặn.
    Còn hàng hóa nhân mà biết giác ngộ tu công luyện kỷ cũng được ban ơn tiến hóa hoặc vào Thượng Nguơn Thánh Đức để tu thêm, hoặc chứng quả vào hàng Nhơn Tiên, Địa Tiên, Thần Tiên,...”
    Như vậy, người đã bước lên hàng Công phu Đại Thừa phải ý thức không còn để tâm bị vướng bận vào “danh, lợi, quyền” ở ngoài đời cũng như trong tôn giáo. Chỉ xem đây là những phương tiện tạm dùng trên đường lập công bồi đức chứ không phải là mục đích của người tu.
    3. Lợi ích của Công phu:
    3.1. Giúp giữ gìn sức khỏe, tăng tuổi thọ
    Công phu là một hình thức khử trược lưu thanh hữu hiệu cho cơ thể. Đây là hình thức điều hòa trạng thái cân bằng âm dương cho ngũ tạng lục phủ. Đồng thời qua sự định tâm giúp mang lại sự tập trung năng lượng tiềm ẩn của cơ thể tạo nên sức mạnh cao nhất về vật chất và tinh thần vào một thời điểm. Và nhờ thế gia tăng tuổi thọ:
    “Chí Thành, hiền đệ công phu tuy chưa đạt kết quả rốt ráo, nhưng cũng giúp cho hiền đệ thêm tuổi thọ. Bần Đạo rất khen ngợi tinh thần trách nhiệm và công phu của hiền đệ.”
    Khoa học ngày nay qua một số thí nghiệm đã xác nhận một số giá trị to lớn mà sự công phu thiền định mang lại và được áp dụng vào việc phục hồi sức khỏe về trí tuệ cho những nhà nghiên cứu khoa học.
    3.2. Giúp tăng trưởng trí huệ
    Vài đoạn Thánh giáo sau đây giúp cho chúng ta biết thêm một khía cạnh khác về những ích lợi của công phu.
    ▪ “Cười... Hiền đệ hiểu như vầy:
    Phương pháp tham thiền tịnh luyện là phương tiện thiết yếu giúp cho phần nghiên cứu viết lách được dễ dàng thông suốt. Còn trái lại như hiền đệ đã gặp là bởi tham thiền hành pháp chưa đúng mức.”
    ▪ “Hiểu đạo nơi đây chẳng những do sự học hỏi từ kinh điển, Thánh Ngôn Thánh Giáo mà lại còn hiểu do nơi tham thiền nhập định phát huệ tâm linh. Đó là hiểu về nội tâm.”
    3.3. Là hình thức Công đức to lớn
    3.3.1. Công phu mang lại giá trị Công đức cao tột
    Nhờ có khả năng giải kiếp nạn chúng sanh vừa có thể giúp vong linh Cửu Huyền được siêu thăng vào cõi tịnh độ.
    “Muốn chống thiên tai sát kiếp chỉ cần phát tâm công phu thiền định.
    Tọa công ngồi tại đạo tràng mà phóng tinh thần gieo rải thiện duyên kết hợp với huyền linh ân điển xua đầy sát khí. Tư tưởng càng mãnh liệt, hung sát tự khắc thối lui. Thiền định càng thâm càng giải phóng cứu người càng dễ (...)
    Trong lúc tai biến, động loạn xáo trộn trên hoàn cầu là một cơ hội cho đạo hữu phát tâm gieo tư tưởng sự sống tình thương đến những nơi có tai biến, kết quả rất lớn mà tiến đạo rất mau. Tu một lúc cũng bằng tu trọn đời. Dầu tu trọn đời mà không gặp cơ duyên cũng không bằng tu một ngày có cơ hội.”
    Đức Mẹ cũng dạy tương tợ:
    “Giờ phút mà con tịnh định Công phu, chính là giờ phút cứu cánh tinh thần người sống, linh hồn người chết. Giờ phút ấy rất quan trọng đó con.
    Ngày nào con bước chân đến nơi khổ nạn chúng sanh, đưa tay phổ tế, là ngày giờ ấy con đem được tình thương của Mẹ chan rưới cho mọi người và chính Mẹ đã ngự ở lòng các con.”
    ▪ “Bần Đạo mừng chư hiền đệ hiền muội. Hôm nay Bần Đạo dành cho chư hiền đệ một đặc ân hoan hỉ là đưa các đạo hữu về gặp mặt hàn huyên nhắc nhở đạo sự.
    Đó không phải vì tình riêng hay lý tư, mà đó là muốn nung nấu tinh thần tu luyện của chư đệ ngày càng thêm dõng mãnh để tiến đến chỗ đạt đạo.”
    3.3.2. Từ cấp Tham thiền nhập định trở lên, kết quả Công phu góp phần rút ngắn lộ trình tiến hóa tâm linh.
    “Trễ một giờ là mất một năm tiến hóa.”
    3.4. Công phu chỉ được thuận lợi và phát huy được tính hữu hiệu khi có nền tảng vững chắc:
    3.4.1. Của Công quả và Công trình
    Đã có lần Đức Ngô nhắc:
    ▪ “Bạch Lương Ngọc! Hiền đệ công phu kết quả nhưng công quả công đức còn ít, phải cố gắng bồi đắp thêm kẻo trễ.”
    Ngay từ khi mới lập Đạo, Đức Chí Tôn đã nhắc:
    ▪ “Trong các con có nhiều đứa lầm tưởng hễ vào Đạo thì phải phế hết nhơn sự, nên chúng nó ngày đêm mơ tưởng có một điều thấp thỏi là vào một chỗ u nhàn mà ẩn thân luyện Đạo.
    Thầy nói cho các con biết nếu Công quả chưa xong thì không thể nào các con luyện thành đạo đâu mà mong.
    Vậy muốn đắc quả thì chỉ có một điều phổ độ chúng sanh mà thôi.
    Như không làm đặng thế nầy, thì tìm cách khác mà làm âm chất, thì cái công tu luyện chẳng bao nhiêu cũng có thể đạt địa vị tối cao.”
    ▪ Một tiền bối tu học hành đạo ở Ngọc Điện Huỳnh Hà tên Huỳnh Văn Phuông tự tu luyện theo Đại Thừa Chơn Giáo. Khi đau ốm, vị này kiên quyết không uống thuốc đúng như pháp tu của Chiếu Minh, vẫn quỳ cúng Thầy, cơn đau dữ dội khiến ông đỗ gục xuống quy vị. Sau khi đắc Chí Tâm Thánh Vị (Đại Thánh), chơn linh về đàn nhắc nhở gia quyến và bỗn đạo cố gắng làm thêm nhiều công quả chứ đừng như ông mãi lo tu luyện nhưng còn thiếu công quả nên chưa được ngự vào ngôi Tiên!
    3.4.2. Của cuộc sống lành mạnh trước đó phù hợp với phương pháp vệ sinh dinh dưỡng khoa học để có sức khỏe tốt đẹp hầu tạo duyên thuận lợi cho việc công phu sau này!
    Đức Lý Giáo Tông có dạy:
    “Sang đến giai đoạn tu huệ là lên bực từ trung thừa đến thượng thừa và tối thượng thừa, đòi hỏi phải khép mình trong giới luật và các điều kiện cần thiết cho phương diện tịnh luyện.
    Trải qua giai đoạn hai phần tu phước và tu huệ đó, tuy phần hành của mỗi người đều phải làm đúng qui tắc, nhưng cơ thể của mỗi người không đồng đều giống nhau về chỗ hậu thiên hữu chất.
    Sự mạnh yếu khỏe bệnh tất cả đều do một phần khoa học và một phần nghiệp quả của thể xác.
    Thế nên có nhiều người được mạnh khỏe từ giai đoạn này bước qua giai đoạn khác một cách dễ dàng vì nghiệp thân đã ít bị vương mang. Trong lúc đó cũng có người nghiệp thân quá nặng không đủ sức cung phụng cho hành giả bước lên đoạn đường thứ hai.”
    Còn Đức Đông Phương giải thích thêm:
    “Như chư hiền đệ muội đã thấy, hầu hết những người vào trường đạo pháp đều là những người vương mang nhiều bịnh hoạn, bộ máy rất tinh vi đã bị sử dụng rất nhiều trên quãng đường cát bụi trong đời sống nhân sanh, những bộ phận nhỏ bị hư hỏng khuyết mòn. Nhưng trong lúc say sưa tham dục còn ai có thì giờ nghĩ đến nó.
    Con tuấn mã đã chùn chân khi vượt qua cửa sổ, người chợt tỉnh mới trở về đạo pháp. Mọi hoạt động của sở dục được từ từ dừng lại vào lúc công phu tham thiền tịnh định, hành giả mới thấy hối tiếc vì đã tự phá sản, của cải quí báu mà Thượng Đế chia cho đã bị hao hụt mất mát quá nhiều. Muốn tiết kiệm để bồi bổ lại là một việc rất khó, vì giữ của quí báu là việc khó, đánh mất tìm lại dễ gì đâu!
    Nhưng cần, cần người hành giả phải lập chí hăng hái như lúc hăng hái vào đời mới cứu vãn linh hồn còn đang bao bọc bởi lớp vô minh dày đặc khắc khoải đợi chờ.”
    3.5. Giúp phục hồi Tiên Thiên khí, ảnh hưởng đến thời gian đắc vị vô vi nhanh hay chậm
    Có 2 vị liễu đạo với khoản thời gian gần nhau. Đó là Ngài Giáo Sư Thượng Còn Thanh (thuộc Ban Chỉnh, Đầu Họ Thánh thất Bình Hòa – Bình Thạnh - Gia Định) cha đạo trưởng Chí Tín và Ngài Hoàng Ngọc Tạo - Minh Tra đầu tiên của Cơ Quan.
    Câu chuyện về những lời tâm sự của chư vị liên quan đến việc hành đạo công quả và công phu cho chúng ta thêm một kinh nghiệm trên đường lập công bồi đức:
    ▪ Chơn linh Giáo Sư Còn nói:
    “Khi hồn lìa khỏi xác mới biết được những gì hữu ích thiết yếu và những phương tiện nào giúp đỡ cho linh hồn nhiều nhứt. Nhưng khi biết được thì sự đã muộn rồi.
    Tuy vậy Tệ Huynh cũng thấy cần thuật lại nơi đây để chư hiền đệ hiền muội sau nầy khỏi hối tiếc như Tệ Huynh trên bước đường tu thân hành đạo.
    Kể từ ngày thoát xác đến nay, phải còn cần mấy tháng nữa nơi hồng trần, Tệ Huynh mới được ban phong vào hàng Thánh vị. Ước gì trước kia Tệ Huynh được điểm đạo sớm thì hôm nay không còn phải lo tu luyện thêm nữa.
    Mặc dầu Hoàng Ngọc Lão Hữu tuy phẩm vị thấp hơn Tệ Huynh, nhưng đã được ban phong thiệt thọ rồi, là nhờ may mắn được điểm đạo khi còn sanh tiền.”
    ▪ Còn Đức Đô Thống Quản Địa Thần nói:
    “Mặc dầu khi buổi xuân thời chưa có Công quả đạo đức là bao, nhờ lòng chánh trực ngay thẳng với thời gian ngắn sau cùng được giác ngộ vào Cơ Quan hành đạo cùng với tâm nguyện cũng như lòng phát nguyện của hiền nương và các con. Hơn nữa, gặp Tam Kỳ đại xá mà Bổn Thần được chứng vị, chưa phải vội đầu thai trong thời kỳ nầy, để có cơ hội lập thêm công, bồi thêm đức trong buổi Hạ Nguơn cuối cùng nầy.”
    Qua đây chúng ta thấy Ngài Thượng Còn Thanh nhờ công quả hành đạo sâu dày với vai trò chức sắc ở địa phương độ dẫn nhơn sanh nên kết quả được chấm vào phẩm vị Đại Thánh. Nhưng thời điểm Ngài được sắc phong thiệt thọ vẫn phải chậm hơn Ngài Minh Tra Hồng Phước vì Giáo Sư Còn lúc ở thế gian chưa học và hành Tâm pháp nên còn phải cần thêm một thời gian tu luyện ở cõi trên cho đến khi phục hoàn chơn dương mới đắc vị.
    Tóm lại, Công phu cũng theo lý âm dương, trong dương có âm và trong âm có dương. Nên có hình thức Công phu ngoại và hình thức Công phu nội. Động và tịnh hòa lẫn cùng nhau: có định tâm và có suy tư sâu lắng, có ngồi thiền trầm lắng nhưng cũng có thể dục nội công. Thấy bề ngoài tuy ngồi yên lặng nhưng bên trong lại vận khí tu luyện hay thấy bên ngoài tay chân vận động thể dục nhưng tâm phải định được thần thì mới có kết quả.
    “Này chư đệ! hãy đồng an tọa, tịnh tâm nghe Bần Đạo giải về sự công dụng của Pháp Môn tương trợ tương quan giữa động và tịnh. Trước khi giải, Bần Đạo hỏi chư đệ có thuộc qua Pháp Ngoại Công Thể Dục hết chăng? Trước khi (hành pháp Ngoại công) phải thiền định, điều tâm dẫn Khí cho Thần Khí giao hội, đem điển lực vào đôi tay để xoa mặt, xoa đầu. Khi Thần vận chuyển Khí ra đến đôi bàn tay, tức thì lấy chỗ diệu dụng đó mà xoa mặt, xoa đầu, nhưng Thần vẫn không lìa để điều chỉnh các bộ phận ở nơi đầu được yên ổn, cho quang khiếu lưu thông...”
    Tất cả đều phải trong trạng thái thanh tịnh, tập trung chánh niệm rồi tiến tới vô niệm để đạt “tánh không”.
    Nhờ vậy “kết quả rất lớn mà tiến đạo rất mau” nên hành giả Công phu tu luyện có thể đạt đến mức có “Thánh thai” thoát ra khỏi vòng luân hồi sanh tử, tức là đã đạt đến mức “Thiên Địa chi tâm”.
    Vì thế Thiêng liêng nhắc đi nhắc lại:
    “Sớm chiều tịnh định gia công,(Công phu)
    Thiếu nền âm chất khó hòng vị ngôi.(Công trình)
    Chung sức nhau tô bồi Công quả,
    Bước hành trình một dạ sắt đinh;(Công trình)
    Công phu, Công quả, Công trình,
    Ba Công đầy đủ chơn linh phi đằng.”


    IV. BÍ QUYẾT TU HÀNH CỦA KỲ BA ĐẠI ÂN XÁ

    1. Lộ trình thực hành Tam công
    1.1. Nền tảng là Công quả:
    “Thời đại ân xá, ai tu cũng có thể được đắc quả. Một việc làm thiện dầu nhỏ nhen đến mấy đi nữa cũng vẫn là việc thiện và được ghi ở hệ số 3. Trái lại, việc ác dầu choo nhỏ đến thế mấy đi chăng nữa cũng vẫn là việc ác.”
    Nhờ luật đại ân xá trong Tam Kỳ nên người tín hữu Cao Đài mới có cơ may trả được nợ tiền khiên và có phần tích lủy làm nền để xây dựng.
    “Công quả là bước đầu của hành giả khi bước chân vào cửa Đạo, ví như sự đào móng đóng cừ, xây nền đó là bước đầu cho công cuộc xây cất. Thế nên bậc xuất gia tu huệ, có được tinh tiến kiên trì phát triển mau lẹ hay không đều có ảnh hưởng của giai đoạn đầu công quả tu phước đó vậy.”
    Giai đoạn tiếp theo, người tu phải chuyển sang làm công quả công đức. Sự khác biệt giữa phước đức và công đức chỉ ở phần tư tưởng. Chỉ một hành vi nhưng giá trị công quả sẻ thay đổi nâng cao khi tâm yêu thương rộng mở. Để được như vậy phải có sự học hiểu và rèn luyện:
    “Đừng bao giờ tưởng rằng mình nhập đạo lâu năm, đếm tuổi đạo làm nhiều để đo số lượng công quả. Đó là sai lầm! Nếu không học đạo, hiểu đạo, tu thân hành đạo, dầu có sống ngàn tuổi giữ ngàn năm thì phàm tục vẫn phàm tục. Đó là chưa kể đến những điều tội lỗi đã gây ra trong một thời gian dài đăng đẳng do tham, sân, si, dục.”
    1.2. Công trình xây dựng bộ khung:
    - Với những ai còn nặng phần công truyền phổ độ, “Thương yêu” là chìa khóa mở cửa Bạch Ngọc
    ▪ “Thầy... chỉ cậy các con là một lòng yêu thương sanh chúng, gắng công phổ độ.”
    ▪ “Sự thương yêu là chìa khoá mở Tam thập lục Thiên, Cực Lạc thế giới và Bạch Ngọc Kinh... Có câu nầy nữa! “Mọi sự khó khăn Thầy gánh vác, chỉ cậy các con thương yêu gắng công độ rỗi”.”
    - Với người đã bước sang tu luyện, “Hòa” là chìa khóa để mở cửa Bạch Ngọc Kinh.
    “Hòa là một món báu linh,
    Là chìa khóa mở Ngọc Kinh bước vào.”
    1.3. Công phu xây cất lâu đài và tô điểm.
    Chỉ khi nào đã đắp nền công quả và xây dựng bộ khung công trình ở mức độ tương đối chúng ta mới có thể bước sang phần Tâm pháp Công phu nội vững vàng. Luật tự nhiên là mỗi khi lên cấp cao hơn thì sự khảo thí lại càng gia tăng gấp nhiều lần! Vì thế Ơn trên mới nhắc:
    ▪ Công quả là nền tảng vững yên,
    Công trình xây dựng phải cho siêng;
    Công phu mới được tòa dinh thự,
    Nếu thiếu một thì phải ngả nghiêng.
    Công phu chỉ đạt được kết quả khi chúng ta rèn luyện được tâm an định để Thần Khí hiệp một. Tuy nhiên đây lại là việc không dễ dàng chút nào, cần phải có sự kiên trì tập luyện vượt qua các trở ngại.
    ▪ “Công phu không phải là một sự bắt buộc như bẻ sắt nguội để làm binh khí, mà phải trui rèn từ từ theo khuôn mẫu hình thức của một vật hữu dụng đã định làm. Như thế công phu là để tu tập sự tiến hóa của chơn thần, giữ gìn cho tánh mạng. Nên mỗi khi đến giờ Công phu, các hiền đệ muội phải cố tịnh định mười lăm phút để cho chủ nhơn ông phát hiện, chữa trị các tà dục hầu duy trì chánh tín khỏi sa ngã lạc lầm thì chánh đạo mới có thể sang được.”
    Đây lộ trình từng bước thực hiện Tam Công cho người tín hữu đi lần lần từ thấp leo dần lên cao tương ứng với căn cơ của mình. Quá trình thực hành này sẻ được gia tốc, tăng lên gấp nhiều lần nếu chúng ta có những hiểu biết về các hướng, các hình thức làm gia tăng giá trị của mỗi loại hình Công quả, Công trình, Công phu.
    2. Song Hành Tam Công
    Thí dụ vài trường hợp cụ thể:
    “Này Bạch Lương Ngọc! Tường Vân nay đã yên phận rồi, chỉ chờ phán xét ân phong.
    Con hãy thương yêu đùm bọc để chúng nó lo tu công lập quả hầu tiếp nối đạo nghiệp ngày sau, vì cha chúng nó có công tu mà thiếu Công quả Công đức.
    Diệu Hòa các cháu lưu ý điều đó.”
    Một số đạo hữu ở Thánh tịnh Ngọc Minh Đài – quận Tư Sài Gòn, cực đoan kiên trì tu ngoại giáo đã được Đức Lý Giáo Tông điểm danh và nhắc nhở cần ý thức làm thêm trên đường tu tiến:
    “Nhiều đạo hữu nơi này từ thử,
    Đã thâm niên ôm giữ hữu vi;
    Cực đoan Công quả kiên trì,
    Công trình lỏng lẻo, khiếm thì Công phu.
    Hãy tiến bước mà tu tâm pháp,
    Ấy là đường đi tắt về nguyên;
    Tuổi đời bóng xế tây hiên,
    Vẫn còn lặn hụp nơi miền trầm luân.
    Bùi Văn Giai đường trần mỏi gối,
    Phạm thị Chua bóng tối gần tàn;
    Thương thân thì kíp lo thân,
    Con đường tâm pháp chớ chần chờ chi.
    Tống Hòa Long còn đi rất chậm,
    Bước phong sương đã lắm đường trần;
    Mấy mươi năm đã mòn thân,
    Sống, ăn, mặc, ở chỉ ngần ấy thôi.
    Tu nhân đạo mặt đời là tốt,
    Phần quả công bòn mót cũng hay;
    Chỉ còn tâm pháp trễ chày,
    Kíp lo tu luyện cho đầy quả công.
    Chúng ta hãy chú ý đến câu cuối, lời của Đức Lý “Kíp lo tu luyện cho đầy quả công”.
    Đây là những đạo hữu đã có thâm niên tuổi đạo, công quả cũng đã khả dĩ đắp được nền nhưng vì công trình tu học còn xiển bạc cho nên ý thức về công phu chưa có!
    Ngài chỉ cho các đạo hữu thấy với tuổi đạo đã mấy mươi năm nay có bước vào tu luyện thì cũng là cơ hội để làm cho Công quả được tăng nhanh.
    Đức Trần Đoàn Lão Tổ, là một Đạo gia hướng dẫn về phép tu luyện Tiên gia, đã dạy:
    Công trình, Công quả, Công phu,
    Ba công hội đủ đường tu vững vàng,
    Công phu, Công quả bằng ngang,
    CÔNG trình nếu thiếu dở dang nửa chừng.
    Công phu nếu cố không ngừng,
    Mà thiếu Công Quả nửa chừng sụp ngay;
    Công Trình, Công Quả tuy dày,
    Công Phu nếu thiếu nền này bỏ không
    Thế nên hội đủ Tam Công,
    Đó là yếu chỉ pháp môn Cao Đài.
    Vì thế việc song hành Tam công là bí quyết của Kỳ Ba đã được Đức Mẹ nhắn nhủ:
    “... Bí quyết tu hành của kỳ ba đại ân xá.
    [Công trình] Ánh sáng vị tha rọi sáng lòng ích kỷ, ánh sáng bác ái sẻ rọi sáng bóng tối hẹp hòi, ánh sáng tình thương sẻ phá tan màn đêm u tối, ánh sáng từ bi sẻ dẫn lối cứu khổ của cuộc đời. Ánh sáng Công phu sẻ phá tan màn lưới vô minh, ánh sáng Công quả sẻ chan hòa tánh hẹp hòi bon chen ích kỷ, ánh sáng phúc đức sẻ tiêu rỗi nghiệp chướng tiền khiên, ánh sáng nhơn hòa sẻ phá tan phái phe kỳ thị.(...)
    Ráng tập luyện Công trình, Công quả, Công phu, thì chắc chắn một kiếp sẻ được thành công đắc quả.”
    Tuy nhiên, với những người mới vào đạo, căn trí chưa sâu dầy cần phải học để có được sự hiểu biết phương pháp thực hành Tam Công. Lộ trình thực hành pháp môn Tam Công được Đức Chí Tôn, Đức Mẹ và các Đấng Thiêng Liêng hướng dẫn chi tiết từ thấp tiến dần lên cao.
    Thấy con chưa được định tâm,
    Phận còn hành đạo lại tầm pháp môn.
    Con phải ráng bảo tồn Thiên tánh,
    Nhơn đạo tròn mới rảnh nợ trần;
    Đời con chưa vẹn tứ ân,
    Bước vào luyện pháp tụ thần sao yên.
    Tâm vọng niệm tham thiền khó kết,
    Rồi sau e mất hết đức tin;
    Lời Thầy con trẻ đinh ninh,
    Từ từ bước một siêu hình lần lên.
    Giờ con phải tâm bền học hỏi,
    Kinh sách xem mở cõi lòng con;
    Gia công nghiên cứu cho tròn,
    Hiệp nhau để đặng mót bòn quả công.
    3. Thước đo giá trị trong Tam Công
    3.1. Thước đo giá trị của Công quả.
    Không phải các công quả đều có giá trị ngang nhau, tùy theo mức độ góp phần tiến hóa về mặt nhân sinh hay mặt tâm linh mà mỗi việc làm công quả có giá trị khác nhau:
    “Chư hiền đệ muội nên lưu ý ba điều này:
    . Điều thứ nhứt: chia cơm, xẻ áo, an ủi vỗ về người bất hạnh. Đó là một nghĩa cử đạo đức, một hạnh tốt trong vạn hạnh.
    . Điều thứ hai: đem lại đạo đức tùy trường hợp khuyến thiện, cảnh tỉnh giác ngộ người đời cải tà qui chánh. Đó là một nghĩa cử, một hạnh quí hơn nghĩa cử và hạnh ở điều thứ nhứt.
    . Điều thứ ba: tạo điều kiện và truyền bá pháp môn giúp người tu siêu phàm nhập Thánh, thoát kiếp luân hồi. Đó là một nghĩa cử, một hạnh lại càng quí nhất.
    Nhưng đừng vì chỗ khinh chỗ trọng mà làm điều ba bỏ điều một điều hai. Ấy là thiếu sót lắm!”
    Câu kết có ý nhắc chúng ta phải biết mót bòn Công quả, biết tận dụng thời cơ để tích lủy khối gia tài âm chất. Tuy nhiên, nếu chỉ cực đoan Công quả thì không được tốt lắm!
    “Công quả là một việc xây nền đắp móng, tu luyện là tạo một sự nghiệp vĩnh cửu trường tồn.
    Chư hiền đệ muội đừng lầm tưởng tu hành lập công bồi đức sẻ được đăng Tiên đắc Phật.(...) Công đầy quả đủ mà không tu luyện cũng sẻ thành, nhưng thành trong phẩm vị của cấp bậc đó để toại hưởng đến lúc nào đó rồi phải tu luyện trở lại nữa. Thế nên Cửu phẩm Tam thừa để làm nấc thang cho người tu nhìn vào đó mà tiến bước.”
    Vì thế song song với công quả phải có công trình “luyện kỷ”. Giá trị của việc tu luyện đức hạnh này lại tùy thuộc vào việc rèn tâm hạnh của mỗi người.
    3.2. Thước đo giá trị của Công trình.
    Tương tợ như trên, Công Trình rèn luyện đức hạnh có các cấp:
    “Lòng thành”- “làm âm chất”- “Thuần chơn vô ngã”
    ▪ “Một chữ Thành cũng được hồi Nguyên” (Đức Mẹ)
    ▪ “Vậy muốn đắc quả thì chỉ có một điều, phổ độ chúng sanh mà thôi. Như không làm đặng thế nầy thì tìm cách khác mà làm âm chất, thì cái công tu luyện chẳng bao nhiêu cũng có thể đạt địa vị tối cao.”
    Âm chất chính là đức hạnh phát triển đến mức độ cao “không không”. Một khi tâm yêu thương đã mở rộng đạt đến như tình Tạo Hóa, Vô Cực và Thái Cực, thì sẻ góp phần làm cho giá trị của Công quả - công đức gia tăng tột đỉnh. Đây cũng chính là yếu tố liên quan của Công trình và Công phu:
    “Công phu luyện kỷ thuần thành... chỉ cần biến mọi tình thức vọng niệm thành chơn thiện mỹ để làm tròn bổn phận một đời người, thì “tánh không” do đó mà phát hiện cho đến ngày nhập thế hư vô.
    Đó là sự chứng đạo của hàng Phật Tiên.”
    3.3. Thước đo giá trị của Công phu.
    “Thượng Đế dành sẵn một chỗ trong Tam Thập Lục Thiên làm nơi an nghỉ cho hàng Tiên Thánh Thần có tâm học đạo nhưng chưa đủ quả đức để thành tựu đến cõi vô sanh, khi đã hưởng hết hồng ân lại phải do nơi sự tu tiến mà trở xuống trần gian tiếp tục tu luyện.”
    Kết quả của Công quả Công trình tuy có thể dẫn đến đắc quả vị Thần, Thánh hay Tiên nhưng vẫn còn hạn chế vì chưa tiến đến được mức giải thoát ra khỏi vòng luân hồi sanh tử:
    “Chư hiền đệ muội đừng lầm tưởng tu hành lập công bồi đức sẻ được đăng Tiên đắc Phật. Cũng có thể như vậy. Trong tam thiên đại thiên thế giái, thất thập nhị địa, từ cõi này sang đến cõi kia, đọa đọa, siêu siêu, kể sao cho xiết. Cũng Đại Thánh, cũng Chơn Tiên, nhưng đến cõi Đại La Thiên chưa từng có ai đắc quả.
    Người muốn khỏi đọa lạc trở lại trần mê phải tu luyện, phải trở về linh giác bổn nguyên hưởng cảnh thanh thoát an nhàn, không vướng bận mảy may trần cấu.”
    Giá trị này chỉ có thể đạt đến với một số ít vị có căn cơ sâu dày tiến bước trên đường Tâm pháp.
    Như đã tìm hiểu ở phần trên, công phu có hai hình thức.
    Hình thức công phu ngoại mang lại giá trị giao cảm với Thiên nhiên Tạo Hóa theo qui luật tiệm tiến, nghĩa là kết quả tăng dần theo công sức và thời gian thực hành. Theo phương cách này, người tu hành có thể đạt được phẩm vị từ Thần đến Thánh Tiên nhưng chưa thoát ra khỏi vòng luân hồi sanh tử!
    Còn hình thức công phu nội có khả năng dẫn đến kết quả đốn ngộ “Kiến Tánh thành Phật”. Đây là ý nghĩa của câu “Tu nhứt kiếp ngộ nhứt thời”.
    Ngày nay, trong thời Tam Kỳ Phổ Độ nhờ đại ân xá của Đức Chí Tôn, nhơn sanh mới có duyên may được Ơn trên hướng dẫn trực tiếp qua cơ bút hay qua Thánh giáo để nắm bắt lấy bí quyết tu hành với hiệu quả tăng gấp bội phần so với pháp môn cựu giáo. Bởi thế nên mới có câu:
    “Hữu duyên mới hạnh ngộ Cao Đài”

    V. TỔNG KẾT TAM CÔNG

    1. Tổng quát

    Buổi đầu Khai Đạo, Thầy đã dạy:
    “Đại Đạo Tam Kỳ chẳng khác chi một trường thi Công quả.”
    Đức Văn Xương Đế Quân cũng dạy:
    “Dượt thi đặng đem vào Tiên tịch: nhứt là Công quả.
    Chẳng phải ra sức gánh nặng làm nề là Công quả. Công quả là dùng đạo đức mà khuyên chúng cải tà quy chánh, cứu khổn phò nguy, tế nhơn độ vật, thường ngày lo xở tiền khiên oan trái.
    Trong khi rảnh việc, phải xét mình chánh kỷ hoá nhơn.
    Còn việc luyện đơn, nấu thuốc là việc tu cho mình đặng trường sanh, vô bịnh.
    Nếu có ai vừa Công quả vừa luyện đạo một lượt mà trọn cũng tốt.”
    Lời dạy này phù hợp với lúc ban sơ, sự học và hiểu Đạo của nhơn sanh còn nhiều hạn chế nên Ơn trên phải tùy duyên hóa độ nhấn mạnh hai yếu tố Công quả và Công trình hơn Công phu. Mấy mươi năm sau, khi trình độ tín hữu Cao Đài đã phát triển sau một thời gian dài được tiếp thu những lời Thánh giáo chỉ dạy để học và hành, các Đấng Thiêng Liêng mới phát triển phần Tâm pháp nhiều hơn và nhắn nhủ phải song hành Tam Công để đường tu được vững vàng.
    “Như Thiêng Liêng hằng dạy. Người tu có hai phần: phần tu phước và phần tu huệ.
    Tu phước là do công quả giúp đời bố thí, làm nhiều âm chất, kiếp lai sinh sẻ được hưởng gấp mười gấp trăm ngàn lần phần âm chất ấy. Nhưng lâu lắm mãi nhiều kiếp luân hồi chuyển kiếp mới được giải thoát.
    Phần kế là tu huệ. Tu huệ ở đây là chú trọng về phần tinh thần giác ngộ, học hỏi giáo lý, thông suốt đường đi nấc bước từ cõi hữu hình đến cõi vô hình.
    Nói tóm lại: Tu huệ là người đã hoàn toàn giác ngộ sự đời đâu là chơn đâu là giả. Người ấy đã từng sinh hoạt về nội tâm hơn phần ngoại thể. Hiểu được hai phần đó rồi mới có quan niệm rõ ràng. Con người tu hành muốn đắc đạo sớm, cần phải đủ hai điều kiện ấy là tu phước và tu huệ.”
    Song cũng tùy theo trình độ căn trí, có nơi được hướng dẫn pháp Tối thượng thừa. Điều kiện khởi đầu để bước vào là phải trường trai và tuyệt dục ngay như Đức Phạm Hộ Pháp đã từng áp dụng ở Tây Ninh. Nhưng ở nhiều nơi khác Ơn trên lại áp dụng luật đại ân xá như Tân pháp Tam Công với điều kiện mà Tân luật đã định. Đồng thời Ơn trên cũng giải thích cụ thể hơn để cho chúng ta hiểu kết quả giá trị của mỗi loại Công.
    “Khi vào cửa đạo, hãy nhắm vào hai mục tiêu chánh sau đây rồi cố mà làm cho được rồi đi cho đến nơi đến chốn. Đó là tu Công quả và tu Siêu thoát, hay nói một cách khác là tu phước và tu huệ.
    Nếu người tu đạt được hai mục tiêu đó sẻ đắc vị đương nhiên. Nhược bằng chỉ được một trong hai thì phải còn bị chuyển kiếp lại thế gian. Thí dụ như tu Công quả hay tu phước mà thiếu tu siêu thoát hay tu huệ, ngày bỏ xác, linh hồn trở ra trước tòa phán xét Tam Giáo, sẻ được chuyển kiếp lại thế gian hạnh hưởng cảnh giàu sang phú quí vinh hoa. Còn như tu siêu thoát mà thiếu tu Công quả, ngày thoát xác, ra trước tòa phán xét Tam Giáo cũng sẻ được chuyển kiếp lại thế gian, nhưng lãnh trách vụ khác, đó là có sứ mạng lãnh đạo tinh thần một Đạo Giáo hay Tôn Giáo, làm việc giáo dân vi thiện.
    Nói tóm lại, muốn được đắc Đạo, phải đủ hai điều kiện đó, là tu Công quả và tu siêu thoát. Chính những vị tiền bối trong Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ cũng không thoát ra ngoài định luật ấy.”
    Người tu rốt ráo mà còn thiên về Công quả và Công trình tuy vẫn đắc vị Thần, Thánh hay Tiên nhưng vẫn chưa ra khỏi vòng luân hồi nên sau một thời gian được hưởng quả vị thì phải vào trần thế trở lại tiếp tục tu tiến! Còn nếu song hành Tam Công nhưng có điều kiện để chú tâm thực hành Công phu thì có thể đạt kết quả có Thánh thai, đắc vị thoát khỏi luân hồi sanh tử.
    2. Lộ trình thực hành Tam công
    2.1. Nền tảng là Công quả
    Phổ Độ Chúng Sanh là định hướng chánh yếu.
    Đức Lý Giáo Tông nhắc nhở:
    “Từ xưa đến nay chưa có phẩm vị thiêng liêng nào dành cho người thiếu Công quả chỉ lo Công phu, Công trình bao giờ. Công quả là nền tảng của Công phu.
    Công quả và đức hạnh quyết định ngôi vị thiêng liêng trước Đức Chí Tôn và nhơn sanh.”
    2.2. Công trình xây dựng rèn luyện “tâm hạnh đức tài”
    . Chịu đựng, vượt qua từ khảo nghịch đến khảo thuận, từ bên ngoài đến bên trong: tôn giáo, gia đình, bản thân.
    . “Hòa”, “thương yêu” là chìa khóa mở Bạch Ngọc Kinh.
    . Tinh tấn tu học:
    “Tu phải học hiểu qua giáo lý,
    Giáo lý là kim chỉ hướng Nam;
    Cho con nhập Thánh siêu phàm,
    Khỏi vòng luân chuyển, con tằm nhộng tơ.”
    2. Công phu tô điểm xây dựng lâu đài
    Tâm thanh tịnh, vô niệm là điều kiện chánh yếu
    . Công phu ngoại: “Cúng tứ thời” - “biến mọi tình thức vọng niệm thành chơn thiện mỹ.” - “tĩnh tâm”.
    . Công phu nội: “Tham thiền” định và chú tâm tham cầu Đạo Lý - “tịnh định” tọa thiền dụng Thần dẫn Khí.
    Công phu thúc đẩy tiến hóa tâm linh thoát ra khỏi vòng luân hồi sanh tử:
    “Công quả rất cần... Công phu càng cần thiết hơn”
    Công phu được nhìn với góc độ dung hòa Tam Giáo Đạo của Cao Đài cho chúng ta liên kết một số thông tin:
    ▪ Tương ứng với “Tồn tâm dưỡng tánh” của Thánh Đạo là “Biến mọi tình thức vọng niệm thành chơn thiện mỹ”.
    ▪ Tương ứng với việc “Tu tâm luyện tánh” của Tiên Đạo là “Song tu tánh mạng”.
    ▪ Tương ứng với “Minh tâm kiến tánh” của Phật Đạo là “Tham thiền tịnh định”.
    Nhờ Thánh giáo đã giúp chúng ta được mở rộng tầm nhìn, trong hình thức Công phu cũng có hai mặt âm dương động tịnh, trong dương có âm và ngược lại như: tham thiền chánh niệm và tịnh tọa vô niệm; có tiệm tiến và đốn ngộ, có tọa thiền và thể dục nội công. Các thông tin này đều có mối liên quan chặt chẻ trong việc hình thành một hệ thống lý luận Đại Đạo về đề tài Công phu.
    Các Thánh giáo vừa trích dẫn giúp cho chúng ta dè dặt cẩn trọng rà soát lại tâm hạnh đức của mình trước khi quyết định bước thêm bước nữa lên bậc thang cao hơn của đường tu giải thoát hầu tránh mắc lỗi với Ơn trên.
    3. Song hành Tam Công
    - Không cực đoan chỉ tu Ngoại giáo hay Nội giáo! Cần thiết song hành cả hai trong cùng một lúc. Đạo Học Chỉ Nam đúc kết:
    “Pháp cứu cánh nền Đại Đạo nhắm vào hai yếu điểm:
    Tịnh luyện và hành đạo đi đôi.(hay)
    Sự tu tiến lập công mà cũng để lòng cầu chánh tâm diệt dục, đồng nhứt với Thiên Lý.”
    - Để thực hiện việc song hành này, phải dung hòa Tam Công, tùy duyên hóa độ. Đây chính là phương cách hữu hiệu nhất trên đường bồi công lập đức.
    “Lập âm chất là phải làm một cách âm thầm, thế chẳng hay, người cũng chẳng biết chỉ có Thiên Địa tri, Thánh Thần tri mà thôi.[Công trình]
    Còn hai chữ Công phu nghĩa là phải dày công khổ hạnh tu kỷ luyện thần để đào tạo quả lành vị báu.
    Xét cho kỹ người tu hành thời kỳ nầy làm âm chất Công quả là để trả nợ tiền khiên từ vô lịch kiếp vì vô minh che lấp chơn tâm chúng ta đã gây tạo biết bao nhiêu ân oán, vay vay trả trả, nợ trước chưa dứt lại gây thêm nợ mới.
    Ngày nay giác ngộ sám hối ăn năn, muốn sớm dứt nợ tiền khiên oan trái phải lo diệt tội tiền khiên và bồi công lập đức càng nhiều càng tốt, không từ bỏ một việc làm dầu nhỏ nhít không để cho mất cơ hội tốt vì thời gian qua mau không chờ ta được, mới mong sớm giải thoát được nghiệp lực của trần la vây hãm.”
    Thời Tam Kỳ Phổ Độ, người tín hữu Cao Đài nếu muốn chỉ một kiếp được trở lại quê xưa thì phải luôn nhớ đến hai tiếng “phổ độ” để luôn nhắm vào đối tượng chúng sanh hầu phụng sự tha nhân với tấm lòng “chánh tâm diệt dục”. Làm được như thế, khi phụng sự Thượng Đế trong mỗi người anh em của chúng ta, là đã góp phần đem Đạo vào đời làm sáng danh Thầy danh Đạo. Đức Ngô dạy:
    “Ngày nay tuy lòng người còn phân cách công truyền, tâm truyền nhưng đến một lúc nào đó sẽ thấy phải có đủ công truyền tâm truyền mới tạo Tiên tác Phật được.”
    Vậy chúng ta phải:
    ▪ Tham dự “Trường thi Công quả”
    ▪ Rèn Công trình, làm chìa khóa mở cửa Bạch Ngọc
    ▪ Tô điểm “Công phu mới được tòa dinh thự.”
    Khi người tín hữu Cao Đài hiểu được như vậy và có quyết tâm “Thuận tùng Thiên Lý.” là đã nắm được những điểm trọng yếu của pháp môn Đại Đạo. Đức Mẹ nhắc:
    “Ngọn đèn từ huệ, hay ánh sáng tâm đăng cũng thế. Đó là bí quyết tu hành của Kỳ Ba Đại ân xá.(...)
    Ráng tập luyện Công trình, Công quả, Công phu thì chắc chắn một kiếp sẻ được thành công đắc quả.
    Một niệm lành sẻ phá tan muôn nghiệp dữ. Đó là lời dạy chót Mẹ nhắc cho các con tạc dạ ghi lòng để mà tu, mà tiến, mà đắc, mà thành.”
      
    Kết quả dẫn đến giá trị siêu thoát của việc thực hành Tam Công chỉ có khi tâm chúng ta vô tư không vọng động.
    Đức Thái Thượng có dạy:
    “Ngày Quy chỉ đem về Thầy một chữ Tâm và những công nghiệp đã gây thành cho sanh chúng.”
    Những bửu vật được kết quả thành tựu do quá trình công nghiệp thực hiện Tam Công, mà chúng sanh là đối tượng được nhắm đến để chia xẻ, là hành lý mang theo của mỗi người tín hữu Cao Đài khi lên đường trở lại quê xưa diện kiến Đức Chí Tôn.
    Các bửu vật này càng thêm đẹp đẽ như gấm thêu hoa hay lại càng lóng lánh thêm hơn khi tâm hay tấm lòng của người thực hiện đạt đến sự trọn vẹn như câu kinh:
    “Đạo gốc bởi lòng thành, tín, hiệp”.
     

    (CÒN TIẾP)
    Tâm vốn bất sinh bất diệt, chỉ tại chúng sinh vọng thức lại tưởng là Tâm nên hóa Tâm mê

  3. #3

    Mặc định

    Cái này hay ờ nha. Cám ơn huynh nha

  4. #4
    Tam Đẳng Avatar của kinhvotu
    Gia nhập
    Mar 2012
    Nơi cư ngụ
    Cai quản cỏi A Tỳ
    Bài gởi
    3,182

    Mặc định

    Trích dẫn Nguyên văn bởi biettatca Xem Bài Gởi
    Cái này hay ờ nha. Cám ơn huynh nha
    Đa tạ huynh đã xem qua và cho nhận xét, đệ sẽ post tiếp để các huynh tường lãm
    Tâm vốn bất sinh bất diệt, chỉ tại chúng sinh vọng thức lại tưởng là Tâm nên hóa Tâm mê

  5. #5
    Tam Đẳng Avatar của kinhvotu
    Gia nhập
    Mar 2012
    Nơi cư ngụ
    Cai quản cỏi A Tỳ
    Bài gởi
    3,182

    Mặc định

    CHÌA KHÓA VẠN NĂNG
    “ĐẠO GỐC BỞI LÒNG THÀNH, TÍN, HIỆP”

    Người tín hữu Cao Đài chúng ta dù có thuộc chi phái nào đi chăng nữa thì bao giờ cũng bắt đầu thời cúng bằng bài Niệm Hương với câu kinh khởi đầu:
    “ĐẠO GỐC BỞI LÒNG THÀNH TÍN HIỆP”
    Cho dầu là đạo hữu tín đồ chỉ mới biết giữ đạo-tu thân hoặc đã bước sang tập hành đạo hay là người đã xây nền đắp móng vững vàng nay bước lên đường Thiên Đạo cũng đều cần phải học hỏi để hiểu thấu đáo ý nghĩa câu kinh nầy hầu cố gắng áp dụng thực hành trên đường tu học hành đạo, lập công bồi đức.
    Tại trường tịnh Thanh Liên Đàn, thuộc tỉnh Long An, Đức Tả Quân Lê Văn Duyệt Đại Tiên trong một lần giáng đàn có dạy:
    "... Chư Thiên Mạng địa phương đọc bài Niệm Hương câu thứ nhứt, giải.
    Địa phương bạch: “Đạo gốc bởi lòng thành tín hiệp. Đạo tuy rộng lớn nhưng phải cần lòng thành và tín hiệp lại mới được.”
    Cười, cười! Lão cho phép chư Thiên Mạng tam ban tự phát và bổ túc cho Lão nghe.
    Thiên Huyền Minh bạch:
    “Đạo gốc bởi là nguyên do. Mà Đại Đạo Tam Kỳ do lòng thành của chúng sanh, tín đồ Cao Đài. Tín hiệp: đức tin nơi Thiêng liêng đạo pháp, thêm sự hòa hợp.
    Muốn Đạo được hoằng khai, tín đồ phải có đức tin và lòng thành mới có kết quả tốt đẹp.”
    Chư Thiên Mạng thuyết cho Lão nghe vì Lão rất vô phước không được nhập môn trong thời kỳ thứ ba khi Đức Chí Tôn mở Đạo".
    Thêm một ứng dụng khác trên đường hành đạo phổ độ chúng sanh là việc cầu siêu, cũng được Ơn Trên chỉ dẫn theo chiều hướng nầy.
    Với những ai quan tâm đến vấn đề trọng đại của Cao Đài giáo là việc “Thống Nhất Nhà Đạo”, nhất là các bậc chức sắc - chức việc, thì việc tìm hiểu để ứng dụng ý nghĩa của câu kinh đầu tiên nầy cũng đã được Ơn Trên dạy bảo rất chu đáo.
    Sau đây chúng ta hãy cùng nhau tìm hiểu những lời dạy của các Đấng Thiêng Liêng về ý nghĩa của câu kinh nầy hầu áp dụng thực hành qua các lĩnh vực như: Tu Thân Hành Đạo, Đại Thừa Thiên Đạo, Thống Nhất Nhà Đạo, Phổ Thông Giáo Lý, v.v…

    I. TU THÂN HÀNH ĐẠO:
    Trong những ngày đầu lập Đạo, Đức Chí Tôn đã dạy:
    Mừng thay gặp gỡ Đạo Cao Đài,
    Bởi đức ngày xưa có bữa nay;
    Rộng mở cửa răn năng cứu chuộc,
    Gìn lòng tu tánh chớ đơn sai.
    (Thầy)
    Và Đức Mẹ cũng nhắc nhở:
    Tâm đạo thủy chung ráng giữ gìn,
    Quý là trọn vẹn tấm lòng tin;
    Ở đâu cũng thế, tâm là quý,
    Tâm ấy sáng soi chốn Ngọc Đình
    .
    (Đức Mẹ)
    Nền tảng của bước đường tu học và hành đạo là tấm lòng hay là tâm của chúng ta:
    - Trong ĐẠI HỌC của Nho Giáo, Đức Khổng Tử dạy phương pháp tu thân của người quân tử bắt đầu từ: “Cách vật, trí tri, thành ý rồi mới đến chánh tâm, tu thân, tề gia, trị quốc, bình thiên hạ”. Đó là phần Hình Nhi Hạ nhưng là nền tảng của Thiên Đạo.
    Sang đến TRUNG DUNG, thuộc về Hình Nhi Thượng Học của Nho Giáo, về phương pháp để đạt đến sự Phối Thiên (kếp hợp với Thượng Đế), nội dung chính tập trung vào một chữ thành.
    - Chữ “thành” được hiểu với nghĩa đơn giản là trọn lòng, hết lòng. Trên phương diện Thế Đạo nó gắn liền với hai tiếng thành thật và trung thành. Còn trên mặt Thiên Đạo đó là tu chân thành, kỉnh thành và chí thành.
    1. Về phần Nhơn Đạo:
    Chúng ta hãy nghe lại chuyện của Thầy Tăng Tử:
    * Một hôm vợ Thầy đi chợ, con khóc đòi đi theo. Mẹ bảo: con ở nhà, rồi mẹ về làm thịt con heo cho con ăn. Lúc vợ về, Thầy Tăng Tử bắt heo làm thịt.
    Vợ nói: Tôi nói đùa với nó đấy mà.
    Thầy bảo: Nói đùa là thế nào? Đừng khinh trẻ con không biết gì. Cha mẹ làm gì nó bắt chước. Nay mình nói dối với nó chẳng là mình dạy nó không thành thật ư?
    Mẹ Thầy Mạnh Tử cũng thận trọng như vậy.
    * Một hôm, Mạnh Tử thấy nhà hàng xóm làm heo, về hỏi mẹ: người ta làm heo chi vậy mẹ?
    Mẹ nói đùa: Để cho con ăn đấy.
    Nói xong bà ăn năn tự hối: Mình đã nói lở rồi. Con còn thơ ấu mà ta nói dối với nó thì nó sẻ trở nên giả dối, không thành thật. Rồi bà tất tả đi chợ mua thịt heo về nấu cho con ăn.”
    Vậy Đạo làm người phải thành thật đối đãi với nhau có như thế mới tạo được lòng tin nơi người giao tiếp.
    1.1. Thành Thật:
    Giao tiếp trong cuộc sống dù môi trường đời hay tôn giáo, đối đãi thành thật với nhau không mưu mô gian trá vì lợi ích cá nhân là nét căn bản của con người đạo đức. Như Ơn Trên có dạy:
    “Người tu phải thành thật (với) nhau là căn bản, vì Đạo là lẽ thật ... Người tu mà ý không thành thật, còn lừa dối, gian trá đủ điều thì rất uổng công tu.”
    1.2. Trung Thành:
    Đã nhập môn, lập thệ trở thành tín đồ. Chúng ta luôn ghi nhớ lời dạy của Thầy:
    Đã để vào tòa một sắc hoa,
    Từ đây đàn nội tỷ một nhà;
    Trung thành một dạ thờ Cao Sắc,
    Sống có Ta, thác cũng có Ta.
    Và trên đường tu tiến nhất là với những ai đã nhận lãnh sứ mạng với nhân sanh thì lời dạy sau luôn phải ý thức:
    Phải minh triết vững vàng ý chí,
    Phải trung thành Đạo Lý khai minh;
    Dù bao gian khổ gập ghình,
    Chuyển hung thành kiết chí linh đợi chờ.
    2. Về phần Thiên Đạo:
    - Thiên Giáp Hạ trong Kinh Thi có viết: “Quỉ Thần không thường chứng giám cho ai, chỉ chứng giám cho kẻ có lòng thành. Vậy chỉ có kính và thành mới cảm ứng với Trời và Quỉ Thần được"
    (Nho Giáo – Trần Trọng Kim)
    2.1. Thành Kỉnh:
    Người tín đồ đã trọng kỉnh Thiêng Liêng thì không gì quý hơn là phải học và hành theo gương của các đấng. Đó là chăm lo độ dẫn chúng sanh.
    Sao cho thành kỉnh Phật Trời thương,
    Đạo đức chăm lo vững mối đường;
    Công nghiệp phải lo sanh chúng độ,
    Đàng sau để dấu kẻ soi gương.
    2.2. Tu Chân Thành:
    Đã ý thức tu học hành đạo thì chúng ta phải chân thành với con đường đạo đức đã chọn, chân thành từ sâu thẳm của đáy lòng như lời Ơn Trên dạy dỗ.
    “Trong cơn hỗn độn mịt mù,
    Mới tường ai hạng người tu chân thành;
    Quyết tu chẳng chuộng công danh,
    Ráng gieo hột giống tốt lành mai sau.
    Cho mầm nhánh tược trổi cao,
    Lập đời Thánh thiện phong trào thuần lương.”
    ▪ “Các em là thành phần giác ngộ, đã nhận biết cuộc đời là giả tạm nên chen chân vào cửa đạo để tìm cái chân, cái thật trong vĩnh cửu trường tồn an lạc.
    Khi muốn tìm thấy được cái chân trong Lý Đạo, trước hết các em phải chân thành tự đáy lòng. Có chân thành từ bên trong mới cảm nhận cái chân trong Lý Đạo.”
    2.3. Chí Thành:
    Lòng Thành thể hiện cao nhứt là “Chí Thành Tâm Đạo”. Sự thành công hay chưa thành của sự nghiệp lớn là tùy thuộc Thiên Cơ. Nhưng với mỗi cá nhân, trên đường phụng sự Thiên Cơ, lòng chí thành mới là điều Ơn Trên trọng dụng:
    a. “Người Thiên ân tín đồ của Thượng Đế phải hằng tỉnh tâm giác ngộ trên đường tu học. Đừng thấy khó mà sợ thì mới nhận được cái khôn, đừng thấy nhơn tình tráo trở, thế sự đảo điên mà rộn ràng tâm tánh rồi lãng quên công phu, công quả.
    Đã dốc chí tu hành thì đừng câu nệ chỗ đức bạc tài sơ hay căn cơ còn non kém. Đạo gốc là ở lòng chí thành, chí kỉnh, chí chơn.”
    b. “Chí Thành đây có nghĩa là tự bản thân của mỗi người phải xét lại lòng mình 3 điều có đầy đủ chí chơn không. Ấy là:
    1. có thật sự hết lòng vì Thầy vì Đạo chưa?
    2. có thật sự hết lòng vì Hội Thánh vì nhơn sanh chưa?
    3. có thật sự hy sinh vong kỷ vị tha, vô công, vô kỷ, vô danh chưa?”

    c. Vì thế Đức Mẹ mới dạy:
    Thành Đạo do con trọn chí thành,
    Ngăn ngừa tư dục ở tâm sanh;
    Bụi trần chớ để mờ chân tánh,
    Ngôi vị Tiên cung Mẹ sẳn dành.
    - Chư Tiền Khai Đại Đạo có dạy:
    Tôn Giáo ấy cửa vào tìm Đạo,
    Đạo là đường hoài bảo nhơn sanh;
    Người tu ý thức tri hành,
    Hễ vào cửa đạo chí thành mà tu.
    Lòng Thành qua câu truyện tiền kiếp của vua A Dục với Đức Thích Ca
    “Đây Lão nhắc một việc thuở xưa, thời của Đức Thích Ca. Khi Đức Thích Ca cùng A Nan một hôm đến gần thành Xá Vệ, gặp một đám trẻ chơi với nhau cất nhà cất kho, lấy cát làm lúa gạo.
    Đức Thích Ca vừa đến. Một trẻ em thấy, phát tâm tin tưởng Phật nên gọi cát là cơm, đem cúng dường dâng cho ngài một nhúm. Đức Thích Ca mở thần thông thấy trẻ em ấy trọn lòng tin tưởng với căn đức lành nên bảo A Nan rằng: đồ đệ cất nhúm cát nầy, về phòng ta tô lên vách. Rồi sau một trăm năm khi ta tịch diệt thì mỗi hột cát thành ngôi chùa tháp.
    A Nan ngạc nhiên bạch hỏi thì Ngài trả lời rằng: sau nầy sẻ có vì vua ra đời tên A Dục với những quan đình thần trọn lòng tin tưởng ngôi Tam Bảo sẻ cất tám mươi bốn ngàn ngôi chùa thờ cúng tin tưởng xá lợi ta. Vua A Dục đó là kẻ cúng dường cát cho ta đó vậy. Còn trong các đình thần tức là những đứa trẻ chơi chung với em bé đó.
    Chư đệ muội có thấy chăng? Một nhúm cát với thành tâm thật ý tin tưởng của đứa trẻ em mà sự kết quả còn như thế, huống chi đệ muội đã bao năm trên đường đạo, lo bồi nền công quả tài vật giúp vùa mỗi địa phương thì phước đức ấy sau nầy hạnh hưởng ân huệ vô cùng.”
    Và lời Thầy dạy:
    "Sự cúng tế linh đình với Thầy là sự hình thức.
    Tâm của các con Thành kỉnh mới là đáng trọng."
    Chúng ta hãy tham khảo đoạn Thánh Giáo của Đức Quan Âm:
    “Thành Kỉnh là cái lễ ở lòng người trần thiết phẩm vật trai đàn cúng bái, đó là cái lễ giao tế trong xã hội nhân sanh. Tâm có ghi nhận những điểm liên quan trong cõi vô hình mới sắp bày nên cuộc lễ để gọi là kỷ niệm hoặc lễ vía, hoặc kỵ nhựt… ... Tâm và vật là hai trong một, vẫn không tách rời nhau. Đó là Đạo. Đạo không nhứt thiết phải hiện bày trong các cuộc lễ thuộc Tôn Giáo hoặc của người tu hành mà vẫn bàng bạc bao la trong nhứt tỉnh nhứt động của vạn sanh. Thế nên, ngày xưa các bậc Tiên Vương Thánh Nhân đem đạo trị đời, bày các cuộc lễ nghi cúng tế là để ghi ơn Trời Đất tiền nhân, để thành kỉnh noi theo cái lẽ thiên nhiên hóa sanh dưỡng dục của Trời Đất tiền nhân mà an dân định quốc.
    Tuy là hình thức nhưng tâm vật bình hành, Nhơn Thiên cảm ứng mới tạo được ngày Nghiêu tháng Thuấn vỗ bụng ngậm cơm.
    Ngày nay cũng như ngày xưa, cũng Trời Đất, núi non nhân loại, cũng tâm cũng vật mỗi khi lòng người thành kỉnh tưởng niệm đến thân nhân quá vãng, hoặc một thần tượng oai linh, một quyền năng hiển hích thì trước đó đều có liên hệ đến cuộc sống chung và riêng của xã hội nhơn loại.
    Ví như cuộc lễ hôm nay, chư hiền sĩ đã nghĩ đến quá trình được ghi trong sử sách mà tưởng niệm đến Bần Sĩ. Dòng thiện cảm liên hệ bởi câu "Cứu khổ cứu nạn Quan Thế Âm", mà chư hiền sĩ hiền muội tỗ chức thành cuộc lễ trang nghiêm thành kỉnh và lòng thành kỉnh được đáp ứng theo lời xưng tụng...
    Lòng thành kỉnh tạo nên bầu không khí hiền hòa, hiện lên bao khuôn mặt vui tươi thuần hậu. Lòng thành kỉnh cũng chan hòa vào vật ăn thức uống làm no ấm mát mẻ ở lòng người. Đại khái về kết quả của lòng thành kỉnh quan trọng như vậy...
    Tuy vậy, cũng còn có những cuộc cúng tế không kết quả tốt đẹp như Bần Sĩ vừa kể là vì tâm vật mất quân bình, ví như bày ra cuộc lễ cúng tế để cầu tài lợi phước lộc cho gia đình, cho cá nhân, trong khi đó cá nhân gia đình thiếu đạo đức, gây nhiều nghiệp dữ, hoặc vì xã giao nhân sự, hoặc trá hình mưu cuộc lợi danh, hoặc thu của bá tánh thập phương mà không làm đúng đạo đức hoặc mượn cuộc cúng tế để trả nợ miệng, tửu nhục say sưa.
    Các lý do xảy ra đều do tâm. Tâm tạo nên vật. Nếu tâm cảm mất lẽ thiên nhiên háo sanh của Trời Đất thì báo ứng phải theo Thiên luật không sai... Thử nghĩ, suốt một năm sinh hoạt của đời người, mỗi năm chỉ có hai ba lễ cúng tế để gọi là vì hiếu vì trung vì nghĩa vì tình. Ngoài ra tập thể tổ chức Tôn Giáo là khác. Những thời hạn rất ngắn đó mà lòng người không trọn vẹn thành kỉnh trước tâm và vật (hành động) thì suốt một đời người còn biết bao nhiêu điều giả dối sai lệch nữa. Đó là chưa nói đến lòng mê tín dối thế bịp đời.
    Thế nên, thế giới nhơn loại sở dĩ có khỗ nạn điêu linh tàn sát là vì tâm vật mất quân bình, Thiên nhơn không hòa hợp đó thôi. Nay trước tấm lòng thành kỉnh của chư hiền sĩ hiền muội, Bần Sĩ nêu ra đó để thấy những điểm xứng đáng ở lòng thành kỉnh của chư hiền.”
    - Một khía cạnh khác của chữ Thành được Đức Lý Giáo Tông nhắc như sau:
    ▪ “Đây là Bần Đạo nhắc lại trước khi Khai Đạo, Đức Chí Tôn đã dạy rằng:
    Bạch Ngọc từ xưa đã ngự rồi,
    Nào cầu hạ giới vọng cao ngôi;
    Sang hèn trối mặc tâm là quí,
    Tâm ấy tòa sen của Lão ngồi.
    Theo lời dạy của Đức Chí Tôn là: Đức Chí Tôn chỉ ngự trị nơi cõi lòng của chư hiền, mà nếu chư hiền tạo thành một tòa nhà nguy nga đẹp đẽ mà lòng chư hiền thiếu hẳn lòng kính thành thì tòa nhà ấy có quí báu chi đâu. Nay thời kỳ thực hiện hình thể Tam Đài tại thế là để cho chư hiền tiếp tay để tinh thần vào đấy hầu giải tỏa não phiền trong cơn nguyện cầu trước điện tiền Từ Phụ. Ấy là lẽ cố nhiên nhưng Thiên mạng chư hiền nên tùy sức mình để lo lường cho khỏi mệt dấu ngựa phong trần. Đó là Bần Đạo khuyên chư hiền nên lưu tâm hầu phát huy cho khỏi chinh nghiêng sau giờ tái tạo."
    ▪ “Hãy nhìn xem vầng trăng kia, khi tròn lúc khuyết, khi tỏ lúc mờ. Vầng kim ô có lúc cũng bị vùng mây che ám. Nước sông khi lớn khi ròng, việc thế sự làm sao tránh khỏi thăng trầm bỉ thới. Những sự ấy không là quan trọng, mà quan trọng bởi ở tấm lòng mọi người có thật chân thành dang tay chèo chống thuyền đạo để cứu rỗi quần sanh hay chăng?”
    Cũng với ý trên, Đức MẸ đã dạy:
    “Diêu Trì Kim Mẫu Vô Cực Từ Tôn. Mẹ linh hồn mừng chung các con trần thế... Này các con, các con đã hết tâm tạo nên điện thờ Mẹ, nhưng dù cho các con có tạo bao nhiêu Thánh cảnh đi nữa nơi trần cũng không bằng Điện Mẹ nơi Cung Tiên. Mẹ chỉ ngự nơi lòng các con, nếu các con thành tâm cung kính, Mẹ không luận giàu sang phú bần. Nếu các con nghĩ đến Mẹ thời có Mẹ trong lòng các con. Từ bao nhiêu năm Mẹ hạ trần bủa lằn quang điển quyết độ tận các con trong kỳ ba đại ân xá, dùng mọi phương thức, miễn là thích ứng nơi lòng sở thích của các con. Mẹ không màng dù thiên lao vạn khỗ, con nào tường chăng? Giờ lành đôi lời nhắc nhở lòng con, hầu thức tâm lo lập công bồi đức, bởi cảnh hồng trần lắm điều gian khổ.”
    B. LÒNG TIN
    - Chúng ta hãy đọc đoạn Thánh giáo sau trong Thánh Huấn Hiệp Tuyển 2:
    “Chư đệ muội trên mấy mươi năm học Đạo nhớ câu: Đạo gốc bởi lòng thành tín hiệp. Khá tìm hiểu cho rốt ráo chữ thành tín, để hành tròn bổn phận. Tín là tin, con người nếu chẳng có lòng tin, tức nhiên không làm nên một việc gì dù lớn hay nhỏ. Bởi câu: Nhơn vô tín bất lập.
    Vậy hôm nay Bần Đạo để đôi lời triết luận khuyến khích chư đệ muội, rán mà tích cực tu hành, trọn dạ tưởng tin có Thầy Trời cứu thế, không nên lơ đãng tiêu cực nghĩa là tu cầm chừng lấy lệ thì nào được kết quả đầy đủ, hầu ảnh hưởng tròn vẹn trong cảnh đời Thượng Nguơn Thánh Đức.”
    - Vậy phải luôn xem xét lại chính mình. Đức Tin hôm nay có dày hơn hôm qua hay đã mỏng dần theo thời gian thể hiện ở sự nhiệt tâm tu học hành đạo hay uể oải quả công như lời dạy của Đức Quán Thế Âm:
    “Khởi đầu giờ cúng, miệng hằng đọc:“Đạo gốc bởi lòng thành tín hiệp”. Thử hỏi lại xem mình có được tron tin những đàn anh hướng đạo mình chưa? Mình có thực lòng tin yêu quý mến đồng đạo khác chi phái của mình chưa? Mình còn giữ trọn chữ tín với mình chưa? Hay là khi vui khi mến thì nghĩ vầy, nói vầy. Khi buồn, khi hết thương mến lại nghĩ khác.
    Lòng ngưỡng mộ Đạo của mình ngày hôm nay có còn nồng nhiệt thiết tha như ngày mới nhập môn cầu đạo chăng?
    Hay đã thỏn mỏn uể oải và dãi đãi từ lâu rồi. Nếu quả thật vậy, đó là không giữ được chữ Tín và Lòng Tin.”
    C. HIỆP HÒA:
    Chúng ta hãy tiếp tục suy nghiệm lời dạy của Đức Quán Thế Âm:
    Đạo như nước biển rộng bao la,
    Chảy khắp lạch sông khắp hải hà;
    Chỗ sạch nơi dơ đều có nước,
    Mà không mất chất của riêng ta.
    THI BÀI
    Ta đây không phải là ta,
    Cái ta giả tạm trần la buộc ràng.-
    Dễ chi gặp Đạo vàng đến độ,
    Khó chi lìa tật đố nơi thân;
    Trời kia cũng bởi thế nhân,
    Mà đem quyền pháp độ lần giác mê.-
    Người tu học muốn về tiêu chuẩn,
    Phương tiện dùng cung phụng Đạo Cao;
    Tìm phương HOÀ HIỆP với nhau,
    Từ trong tâm thức sắc màu kể chi.....
    Muốn có được Thiên thời Nghiêu Thuấn,
    Thì NHƠN HÒA phải thuận trước đi;
    Sầu bi đổi lấy từ bi,
    Khiêm nhường thay thế khinh khi mạng đời.-
    Đã tự nhủ con Trời tá thế,
    Dụng phép mầu phổ tế quần linh;
    Thì toan tu sửa thân mình,
    Cho nên Thánh thiện nhục vinh chẳng màng.
    Rạng danh một cõi Đạo Vàng.
    Tu không phải "độc thiện kỳ thân" mà "tu hành phải có bạn" để dìu dắt cùng nhau tu học hành đạo. Bởi vì không ai có thể giải quyết tốt đạo sự một mình dù có tài đến đâu chăng nữa ! Vả lại trước sứ mạng to lớn đối với nhơn sanh sự kết đoàn hòa hiệp là một yêu cầu về đức hạnh. Bởi thế Đức Hiển Thế Đạo Nhơn có dạy:
    Lớn anh chị, nhỏ tình em út,
    Dại nương khôn chen chút lẫn nhau;
    Sang hèn hay dở thấp cao,
    Cũng đều con cái Thiên Tào điểm linh.
    Mình suy kỹ phận mình trước hết,
    Đối với người chớ dịch chớ xê;
    Có tài giúp đỡ trọn bề,
    Không tài giúp sức nào hề quản công.
    Thiêng Liêng chứng tấm lòng vì đạo,
    Vẫn thương đồng khuyên bảo cũng đồng;
    Chẳng riêng nam bắc tây đông,
    Phương chi một thất mà không hiệp hòa
    .
    SƠ KẾT:
    Muốn thành Tiên Phật bởi thành lòng,
    Vững chắc móng nền bởi lóng trong;
    Xứng đáng trượng phu cùng thục nữ,
    Dầu nơi cõi tục cũng non bồng.
    Đức Đông Thắng Chơn Như - Chơn Sắc giáng cơ nói:
    “Còn câu kinh thứ nhứt của Đạo Cao Đài, đó là: Đạo gốc bởi lòng thành tín hiệp”.
    Đạo là danh từ, lòng thành tín hiệp là hành động, mỗi mỗi việc làm đều phải có lý của nó. Thí dụ như người bệnh cần thuốc. Bệnh là điểm tựa, là sự vật. Thuốc là cứu cánh. Nếu thuốc không trị được bệnh thì thuốc không có ý nghĩa gì nữa. Như đói lòng nhờ cơm. Nếu cơm thiu, cơm hẩm, không giúp được người đói thì cơm không còn ý nghĩa gì nữa. Hỏi vậy Đạo là gì? Đạo là bản thể vũ trụ, tối cao tối thượng, mà Đạo cũng là nguồn sống của vạn vật chí linh. Do đó những bậc Thánh triết Hiền Nhân Quân Tử mới dám xả thân cầu Đạo, đem sự tín ngưỡng, đem hành động nghĩa nhân đạo đức gây được uy tín trong nhân gian để đem họ hiệp về con đường đạo là nguồn sống.
    Ngược lại, nếu không lòng thành, không hành đạo, làm sao có uy tín với nhân gian. Mà khi mất uy tín với nhân gian thì làm sao ai dám đến hiệp với mình. Mà khi không ai hiệp với mình, làm sao kêu họ về với Đạo để trở lại bổn nguyên. Do đó, hàng hướng đạo phải tâm niệm câu nhựt tụng đó để làm kim chỉ nam cho việc hành đạo, lãnh đạo nhơn sanh.”
    Bởi thế từ tín đồ cho đến hàng hướng đạo, lãnh đạo trên đường hành đạo phải nhớ:
    - LÒNG THÀNH:
    ▪ “Sự TU THÂN của mỗi con là tâm lý chân chánh.... Các con có chí thành, chí kỉnh, trung thành với việc làm nhỏ nhặt thì các con mới hành động được việc to tát. Nếu các con không có một lý tưởng cao siêu, một hành động sáng suốt thì các con làm sao vững đường lối của các con để tiến đến Thiên Cơ Thầy định.”
    ▪ “Chư đệ muội lưu ý, lần lượt sẻ trở về cùng Thượng Đế, tất nhiên phải hoàn thành một sứ mạng mà chính mình đã biết và đã lãnh.
    Hoàn thành không phải căn cứ ở tiếng đời ca ngợi, miệng thế tặng khen, hay hoàn thành trước một đền đài nguy nga tráng lệ, hay hoàn thành trên một ngôi vị cao cả, mà hoàn thành ở chỗ cái tâm chí thành trước khi rũ áo ra đi. Chí thành mới là sứ mạng hoàn thành trước Thượng Đế, trước Tam Giáo Tòa đó chư đệ. ”
    - LÒNG TÍN:
    “Đã trải qua bao nhiêu ngày gian khổ, đã trải qua bao lúc long đong, mà chư đệ muội vẫn không sờn lòng, mãi chặt gìn lèo lái. Đó cũng đủ chứng minh rằng nếu có tâm thành thì dù bao khó khăn gian khổ cũng không ngăn cản được bước tiến đạo đức của con người. Nhất là tông đồ của Đại Đạo Kỳ Ba.”
    - LÒNG HÒA HIỆP:
    “Những đứa mới vào Đạo mà có tâm hòa hiệp cũng sẻ thành, con nào chức sắc cao học đạo lâu năm mà nói một câu nghịch lẫn cũng không thoát khỏi luật Thiên điều trừng trị.
    Thầy luôn luôn ngự ở tâm hòa hiệp của các con.”

    II. ĐẠI THỪA:

    Nếu như đường Thế Đạo-Tu Thân Hành Đạo lấy Tâm làm gốc thì đường Thiên Đạo-Công Phu tu luyện, ý nghĩa của chữ Tâm, giá trị của câu kinh đầu tiên lại càng quan trọng hơn nhiều vì đây là cơ tuyển độ.
    Thờ Thượng Đế Công Phu Tâm Tánh,
    Học Tiên Gia Phải định chí thành;
    Cúng TRỜI lạy dạ tịnh thanh,
    Biến nên cam lộ Cao Xanh kính tường.
    Người bước vào thọ tâm pháp, tuy ở bậc sơ cơ nhưng cần ý thức trong những khóa tịnh bốn mùa hay khóa tịnh tập trung (tùy nhu cầu của địa phương) cần giữ trai giới những ngày nhập tịnh hay trong những ngày tịnh theo cấp tu của mình. Đó là thể hiện sự thành tâm với Đạo Pháp.
    Các Đấng Thiêng Liêng thường xuyên nhắc nhở:
    A. CHÍ THÀNH:
    Dẫu nhiều công đức thế gian,
    Sau này hưởng phước giàu sang với đời;
    Dễ chi nhập đặng cửa Trời,
    Dễ chi thoát khỏi luân hồi tử sanh.
    Tại sao? Tại chẳng chí thành,
    Kim thân chẳng có, cao thanh khó về.
    ▪ Người tu đến bực chí thành,
    Làm cho Thiên Lý lưu hành bốn phương;
    Nhân dục tịnh tận thuần dương,
    Mâu ni then máy mở đường siêu sanh.
    Công phu thượng thừa là bậc cao trên bước đường bồi công lập đức, kết quả công đức rất cao trọng, vì thế những yêu cầu về quyền pháp trật tự thiêng liêng cũng rất chặt chẻ nhưng trước hết hành giả phải luôn ý thức đến sự chí thành của mình một khi đã bước lên con đường Đại Thừa tâm pháp! Bởi thế Ơn trên nhắc nhở:
    ▪ “Thiếu tâm chí thành kiên trì thì nấc thang Đại Thừa khó bước lên, thiếu hạnh chơn tu thì dễ lạc vào bàng môn tả đạo. Tâm hạnh viên dung mới khỏi uổng công tu học.”
    “Đạo gốc bởi chí thành chí kỉnh,
    Có song tu tánh mạng lưỡng toàn;
    Mới mong thoát khỏi thế gian,
    Về nơi Cực Lạc chứng hàng Kim Tiên.
    Đạo pháp chẳng phải riêng ai cả,
    Người gắng công chọn đá thử vàng;
    Muốn làm sao hẳn ân ban,
    Chí công mài sắt dễ dàng nên kim.”
    B. TÍN:
    “Hỡi các con trên đàng học đạo,
    Thành công do biết tạo đường tu;
    Trần gian lắm nẻo mịt mù,
    Niềm tin không vững công phu khó tròn.”
    - Người tín hữu Cao Đài phải hiểu để tin chắc rằng: đâu đâu thì cũng là Tân Pháp Cao Đài Đại Đạo. Sự khác biệt đôi điểm của Pháp môn Đại Thừa thuộc chi này hay chi khác chẳng qua là do căn cơ và cơ duyên của nhơn sanh mà thôi. Cho dù pháp môn tu luyện nào trong Cao Đài giáo cũng đều được tiếp nhận qua cơ bút Tiên gia, về phần bên trong cơ thể tất cả đều dụng Thần Khí để tu tánh luyện mạng, còn phần hổ trợ bên ngoài đều cũng nhờ vào Thần của Thiên nhãn.
    Vì thế không nên đứng núi này trông núi nọ, trái lại một khi đã thọ nhận pháp môn nào thì phải trọn lòng tin để cố gắng siêng năng, kiên trì hành công cho đạt đến kết quả. Chứ không nên nhảy qua nhảy lại!
    Đức Ngô và Đức Đông Phương đã hội ý để thống nhứt pháp môn…
    - “Minh Chiêu Đại Tiên…
    Tu Thượng Thừa là tu Tánh Mạng, không cần hành giả phải tìm kiếm cầu mua. Mà chỉ cần hành giả có tâm hoàn toàn giác ngộ, chí dõng mảnh. Biết được cái chơn thì phải giữ cái chơn ấy. Đừng biết được chơn mà ôm chầm cái giả, đó là mê vọng. Nay chư đệ đã được thọ chơn truyền chánh pháp, tâm chí đã có cái kiện lực kiên trì cầu tu giải thoát, phá mê phá chấp.
    Chỉ còn một yếu điểm nữa là: Đức Tin.
    Tin ai? tin Thầy, tin bạn cũng chưa đủ. Còn phải tin mình. Thầy thì dạy bảo, bạn nương cậy dắt dìu. Mình phải tin mình có nguồn cội, có điểm linh quang Thiên phú. Có như vậy mới đủ thần lực để soi vào phá bóng vô minh còn phảng phất áng che…”
    THI
    Đố ai đắc nhứt ở nơi nào,
    Tìm ở nơi nào chứng quả mau;
    Có phải trên trời hay dưới đất,
    Dặn lòng tự tín thử ra sao?
    Ra sao rồi mới biết làm sao?
    Mặc mặc như như chớ đổi màu;
    Tánh định tâm thành đừng hướng vọng,
    Sẻ tường đạo pháp rất thâm sâu.”
    C. HÒA HIỆP:
    Âm dương hòa hiệp hóa sanh,
    Dựng nền đạo đức lập thành Càn Khôn;
    Bế tử lộ, khai sanh môn,
    Điều hòa mới thể bảo tồn vạn linh.
    Hòa là một món báu linh,
    Là chìa khóa mở Ngọc Kinh bước vào;...
    Hiệp hòa hình thể thiêng liêng,
    Xác hồn hiệp nhất đạo huyền phát minh.

    III. THỐNG NHỨT NHÀ ĐẠO:

    Một điều hết sức quan trọng với những ai “Thương Thầy, Mến Đạo” là vấn đề “Thống Nhứt Nhà Đạo”. Sự thật, đã bao nhiêu lần các bậc đàn anh tiền bối của chúng ta đã bỏ bao tâm sức vận động nhưng kết quả chưa đến. Quả thật đáng buồn ! Nhưng vì đây là vấn đề hết sức to lớn cho nên khó khăn rất nhiều. Ơn Trên đã chỉ dạy, vấn đề còn lại là với sự phác thảo mô hình đã có, chúng ta có thể tạo được khuôn mẫu và đúc ra chiếc chìa khóa hay không?
    “Chư hiền đệ, hiền muội. Việc Bần Đạo muốn nói hôm nay là vấn đề: Thống Nhứt Tư Tưởng, là Lý Tưởng trên đường thế Thiên hành Đạo. Thật ra, nói đến sự hiệp nhứt tư tưởng hiện nay quả là một vấn đề nan giải vô cùng. Bởi vì trăm người trăm bụng, thì thử hỏi "làm sao gom về một khối tư tưởng đồng nhứt được". Ấy vậy mà đứng trên phương diện hành đạo tu thân, mỗi người đạo cần phải thi hành kỳ được và đi ngược lại câu tục ngữ ấy ... ...
    Câu rằng: Đạo gốc lòng thành,
    Cùng là tín hiệp, làm lành làm nhơn;
    Hiện đang trong buổi Hạ Nguơn,
    Ngữa nghiêng Đạo cả phai sờn linh tâm.
    Thiên ân gánh vác cơ thâm,
    Tiếp giao quyền pháp không lầm mới hay;
    Sáng danh một Đức Cao Đài,
    Cũng nhờ đệ muội hằng ngày giồi trau.
    Giồi trau tư tưởng thanh cao,
    Hòa cùng vạn vật "trước,sau" cũng đồng.”
    A. LÒNG THÀNH:
    “Thành thật với mình trước để rồi thành thật với mọi người. Nó là một tiêu chuẩn để các con làm yếu lược đi đến cơ quy nguyên. Hiểu được vậy, các con phải biết đặt vấn đề trọng tâm chuyển hóa.”
    Trên đây là những lời dạy chung cho đạo hữu tín đồ. Còn với hàng lãnh đạo của các Tịnh Thất và Hội Thánh, lời Thầy dạy như sau:
    “Các con có duyên lành, nên mặc dầu trải qua bao cơn bão táp, mấy lúc khảo đảo, các con đã không thối chí ngã lòng, trái lại vẫn thiết tha vì tiền đồ cơ đạo nên khăng khăng đeo đuổi cho đến ngày giờ nầy... Các con chỉ muốn duy nhứt là đạo sớm thành, mà phải thành trên phương diện nào đó hỡi các con?
    Đạo là chi? Rồi khi thành phải ra sao? Vậy thì Thầy giải đáp cho con hiểu: Thượng Đế vị nhơn sanh mà khai đạo pháp để con cái của Thầy học hỏi và hành theo đúng chánh pháp, đến ngày công quả viên mãn sẻ trở về hiệp nhứt cùng Thầy. Lúc bấy giờ các con là Thầy, là Phật, Tiên Thánh Thần... Đó là đường lối tuyệt đích của Đạo.
    Còn trước cơ Đạo ngày nay, các con muốn thành, trước nhứt lòng con phải thành. Thành để hành cho đúng, không cải canh, không thêm bớt, không chia rẽ, dụng đức hy sinh để cảm hóa cho nhau. Các con đừng e ngại không người dắt lối đưa đường, chỉ ngại cho lòng con chưa thành. Khi lòng con đã thành, tri thuyết hành như nhứt thì các con sẻ thấy lý siêu việt đến với các con. Là ngày mà cây... đơm bông kết quả.”
    B. LÒNG TIN:
    Còn Chư vị Tiền Khai khuyến nhủ:
    “Hằng ngày, mỗi khi cúng thời các em mở miệng đọc câu kinh: “Đạo gốc bởi lòng thành tín hiệp”. Các em chịu khó khai triển, học tập phân tích kỹ lưỡng về ý nghĩa của câu kinh ấy để rồi sửa đổi đường lối và phương pháp hành đạo lại như thế nào để cùng nhau thông cảm, đặt trọn niềm tin ở nhau cho trọn chữ tín, để:
    Nghĩa nhân đành gởi thân trăm tuổi,
    Dạy lẫn cho nhau một chữ hòa.
    Có vậy mới đi đến chỗ hiệp tâm, hiệp chí, hiệp lực phổ truyền một giáo lý Cao Đài thuần nhứt... ... Có như vậy mới mong nối nhịp cầu thông cảm xây dựng nền tảng quy nguyên Đạo... ... Chúng Tiên Huynh xin lập lại là nơi lòng mỗi em phải tạo sắn cái móc hòa hiệp. Chúng Tiên Huynh cùng các Đấng Thiêng Liêng sẻ đem những cái móc đó nối chuyền nhau để thành một sợi dây thiêng liêng bền chặt kết gộp bè thân yêu hòa ái. Đừng bao giờ có quan niệm rằng ngồi chờ đợi một ngày nào đó Thiêng Liêng sẻ đến làm cho Đạo thành nếu trong lòng mỗi người chưa sẵn sàng thành.”
    C. LÒNG HÒA HIỆP:
    Đức Hộ Pháp Phạm Công Tắc có dạy khi giáng đàn ở Vĩnh Nguyên Tự vào ngày kỷ niệm lễ giỗ của Đức Đầu Sư Ngọc Lịch Nguyệt:
    “Bần Đạo thấy các em đã có chí thành tâm đạo, nhưng chí thành tâm Đạo không cũng chưa đủ, mà phải biết kinh tùng kinh, quyền tùng quyền và biết phục thiện sửa sai những gì mà đại đa số cho là lỗi thời. Có như thế mới theo kịp đà tiến của nhân loại.
    Vì hướng đạo là cấp tiền phong khai đàng dẫn lối, phải thấy trước cái mọi người chưa thấy, phải biết trước cái mọi người chưa biết, phải làm trước cái mọi người đang làm. Cởi voi phải ngồi trên lưng voi chớ đừng đi vuốt đuôi voi rồi bị phóng uế... ... Các bậc Tiền Khai Đại Đạo cũng đã có lắm người nhờ ý thức đó mà Đạo mới được thịnh hành vượt bực buổi sơ khai.”
    Lời dạy của Đức Hộ Pháp ngầm gợi ý cho hàng ngủ lãnh đạo các Hội Thánh hãy “biết phục thiện sửa sai.” để lại sau lưng quá khứ buồn đau của lịch sử và mạnh dạn hợp tác liên hiệp cùng nhau trong tinh thần thuần chơn vô ngã.
    Đức Quán Thế Âm dạy tiếp:
    “Còn chữ Hiệp: thử hỏi lòng mình có thật sự muốn hiệp tác vô điều kiện trong giáo thuyết, giáo điều để thực thi Tôn Chỉ Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ và sẵn sàng liên hiệp trao đổi kinh nghiệm trên đường hành đạo với người khác chưa? Hay vẫn còn chủ quan và quan trọng hóa đường hướng của mình là tuyệt đối, ngồi một chỗ chờ người khác đến hiệp và chịu điều kiện tiên quyết của mình?Có được vậy mới làm xong câu kinh ấy. Nếu chưa được thì chỉ là lý thuyết suông.”
    Một phần trách nhiệm nầy được đặt lên vai những người Tuổi Trẻ nhưng trước tiên đó là ý thức của bậc lãnh đạo và kế đó là hàng ngũ hướng đạo trong khi đào luyện thế hệ tiếp nối: bằng mọi giá phải gieo cho được “Ý Thức Thống Nhứt Đại Đạo… từ trong tầm sâu tâm não” như lời Đức Cao Triều Phát:
    “Hãy tìm các phương tiện liên kết thanh niên trong một phương châm: Đồng Đạo Đồng Thầy Đồng Trách Nhiệm.
    Để những người tiếp nối sau nầy thấy rằng bất cứ dưới danh hiệu nào chúng cũng có một nhiệm vụ duy nhứt là phá vỡ tàn tích phân hóa, xây dựng một tình hòa hiệp để thống nhất Đại Đạo mai sau đúng với tôn chỉ "Vạn Giáo Nhất Lý".
    Hãy tổ chức những môi trường sống chung, học chung làm việc chung bất cứ ở danh nghĩa nào, ở phương trời nào. Hãy góp nhặt những cánh én để làm mùa xuân vĩnh cửu. Có thiệt hòa ở bản thân, có hiệp nhất ở bản thân thì thế giới nhân loài sẻ hòa hiệp.
    Đại Đồng không còn xa, Long Hoa không còn ngại khó khăn bước tới”.
    Trách nhiệm này trước tiên thuộc về hàng ngũ chức sắc hướng đạo. Cần phải làm gương tốt cho nhơn sanh tín đồ như lời Thầy dạy:
    ▪ “Hỡi các con chức sắc hướng đạo! Các con hãy ghi nhớ điều chót sau đây: Thầy không khi nào đến và chứng với sự chia rẽ do phàm tâm dấy động. Hôm nay Thầy đến đây là chứng với lòng thành kỉnh vì hai chữ hiệp hòa của các con, từ chức sắc hướng đạo lưỡng đài.
    Và Thầy ban ơn lành cho toàn thể các con từ xa xôi hẻo lánh, đường xá hiểm trở, lui tới gay go. Các con không quản sự nguy hiểm cùng cực nhọc đó, quy về dưới máy Thánh đường để thể hiện lòng thương yêu hòa ái.”
    “Cơ Thống Nhứt nêu cao hai chữ,
    Tiền, Hậu, Trung đồng giữ luật điều;
    Trước làm Pháp Chánh mục phiêu,
    Sau ban khắp chốn đồng đều từng nơi.
    Chẳng chia rẻ hẹp hòi bản vị,
    Không phân ranh chơn lý Đạo Trời;
    Muốn cho đi đến tận nơi,
    Trên hòa dưới thuận luật Trời khá noi.
    Đem giáo lý chiếu soi sanh chúng,
    Lấy chân thành cung phụng dân sanh;
    Giúp đời hai chữ: tín thành,
    Đói thì giúp đói, khát hành nước chia.”
    "Đạo cần phải hiệp vầy bè bạn,
    Chớ phân chia rồi tản mác nhau;
    Sanh lòng đố kỵ thấp cao,
    Đây chi đó phái nhiều màu đỏ đen.
    Nhìn thử lại ai khen con trẻ,
    Ngó xem thì mới mẻ gì đâu;
    Cũng thờ Thiên Nhãn làm đầu,
    Mà tranh ta phải, người âu mù mờ.
    Đọc kinh hỡi con thơ có nhớ,
    Đạo gốc do là ở chữ Hòa;
    Hiệp tâm rồi mới chung hòa,
    Miệng rằng thống nhứt bụng mà còn chia.
    Vậy hình thức sắc kia màu nọ,
    Không cần bàn chỉ trỏ làm chi;
    Tinh thần hòa hiệp vậy thì,
    Nhìn nhau tợ thể như y một nhà.
    Đừng phân biệt lượt là bô vải,
    Nên tương thân hà hải bao dung;
    Một thời gian sẻ trùng phùng,
    Xem nhau cứ tưởng là chung con Thầy.
    Hễ gặp việc ở đây anh đến,
    Rồi chỗ kia có lệnh em qua;
    Giúp nhau ý hợp tâm hòa,
    Cứ như thế ấy thử mà ra sao.
    Rồi sẻ hết lao chao nầy nọ,
    Chừng đó thì mới có hiệp nhau;
    Anh không ra vẻ anh cao,
    Em không làm lẽ làm màu mà chi.
    Đến lúc đó hồi quy thống nhứt,
    Giờ đây con một mực liên giao;
    Cửu Trùng vận động trước sau,
    Hiệp Thiên cũng vậy truyền rao lần lần.
    SƠ KẾT:
    Việc Thống Nhất Nhà Đạo đã được Thầy dạy tóm tắt trong những đoạn của thi bài sau:
    “Câu Đạo Gốc đừng quên tín hiệp,
    Chữ lòng thành cần kíp rèn trau;
    Anh em nghi kỵ cho nhau,
    Chia lìa thủ túc, có đau đớn lòng?
    Các con cũng người trong đất Việt,
    Lấy Đại Đồng còn biết bao la;
    Nhỏ nhen nội bộ bất hòa,
    Nói chi ngoại quốc truyền ra xứ người.(…)
    Mặc sức con đeo bồng nầy nọ,
    Tùy ý con rắp ngõ ngăn đường;
    Lòng Thầy chữ HIỆP và THƯƠNG,
    Nghi nhau là bọn Quỉ Vương xúi bày.(…)
    Con quên chữ Tam Kỳ độ tận?
    Mấy mươi năm chưa nhận được sao?
    Trong năm câu nguyện làu làu,
    Nhì Nguyện phổ độ thế nào đó con?
    Ba, câu sau chưa tròn sứ mạng,
    Câu thứ tư sao đặng thái bình?
    Lời Thầy nay đã phân minh,
    Nhớ câu "Đạo gốc lòng thành tín"chi?(…)
    Nếu cậy thế: khôn lanh chết trước,
    Bằng dại khờ lần lượt cũng tiêu;
    Biết lời Thầy dạy bấy nhiêu,
    Biết thời lớn nhỏ hiệp nhau mới còn;
    Việc Thống Nhứt mỗi con đều biết,
    Chữ "Lòng thành tín hiệp" nghe con.
    Chẳng nên chê méo khen tròn,
    Vọng tâm bị quỷ tiêu lòn rẽ chia.”
    Sang năm sau, Đức Chí Tôn nhắc nữa:
    “Hãy phát triển trau tria giáo lý,
    Xem xét rồi theo kỷ luật hành;
    Chớ đừng thêm bớt cải canh,
    Sanh ra nhiều phái phân ranh chia phần.
    Các con khá ân cần hòa hiệp,
    Lối Đại Đồng giao thiệp với nhau;
    Chớ nên chia phái phân màu,
    Cũng đồng chánh tín Phật nào khác Tiên.(…)
    Ngày kỷ niệm Đạo Khai Thầy nhắc,
    Các con tua dè dặt tu hành;
    Dưới trên hòa thuận em anh,
    Ấy là trọng lễ kỉnh thành hiến dâng.
    Thầy dạy con khá tuân thửa lịnh.
    Hiệp cùng nhau chấn chỉnh cơ quan;
    Dù cho gặp phải cơ hàn,
    Con tin Thầy trọn mọi đàng thành công.”

    IV. KẾT LUẬN

    Trong ngày phong Thánh lần đầu cho chư chức sắc hành đạo tại Trung kỳ, Đức Chí Tôn đã ân cần dặn dò:
    “Các con Hướng Đạo tâm thành,
    Hành vi cứu thế mới dành phúc duyên.
    Đem giáo lý tuyên truyền khắp xứ,
    Lấy đức tin gìn giữ Đạo ban;
    Đệ huynh chung nắm cơ quan,
    Hành y Thánh giáo ân ban luật đồng.”
    Hình ảnh ý nghĩa của câu kinh “Đạo gốc bởi…” đã sớm ẩn hiện trong lời dạy năm (1938). Đúng mười năm sau (1948), Thầy lại nhắc lại bóng hình của câu kinh ấy ở Thánh thất Từ Quang:
    Non nước chung vai gánh với đời,
    Cho nên anh dũng đứng trên đời;
    Đời kiên nể Đạo, là chi trẻ?
    Chỉ sự tín, thành, sự tỉnh tươi.”
    Qua phân tích và trích dẫn các Thánh Giáo, chúng ta thấy chỉ một câu kinh đầu tiên mà có thể được hiểu và ứng dụng vào nhiều khía cạnh khác nhau. Chúng ta đúc kết bằng các lời dạy:
    1. Tổng quát chung:
    Đức Mẹ dạy:
    “Đây kết luận ngòi son Mẹ để,
    Lòng chơn thành tại thế con ta;
    Đạo là một gốc chia ba,
    Lòng thành tín hiệp, con đà ghi tâm.”
    2. Lòng thành:
    Thầy dạy: “Phải chân thành, phải chân thật. Không cử động nào qua được mắt Thần minh. Dầu hành đạo, dầu xử thế, đều phải hoàn toàn trong nếp đạo đức.... Đứa nào phải lo bổn phận đứa ấy chớ nên dễ duôi.”
    Đức Đông Phương nói:
    ▪ “Đức Thượng Đế ban đại ân xá kỳ ba, hễ nhứt tâm tu niệm, dầu đạt được đến sở đích của đạo hay chưa đạt đến mà đã chí thành, chí kỉnh, tu thân học đạo vẫn được ân ban thành đạo, tùy theo công đức mà đắc vị!”
    ▪ “Chư đệ muội lưu ý, lần lượt sẻ trở về cùng Thượng Đế, tất nhiên phải hoàn thành một sứ mạng mà chính mình đã biết và đã lãnh. Hoàn thành không phải căn cứ ở tiếng đời ca ngợi, miệng thế tặng khen, hay hoàn thành trước một đền đài nguy nga tráng lệ, hay hoàn thành trên một ngôi vị cao cả, mà hoàn thành ở chỗ cái tâm chí thành trước khi rũ áo ra đi.
    Chí thành mới là sứ mạng hoàn thành trước Thượng Đế, trước Tam Giáo Tòa đó chư đệ.”
    Đức Quan Thánh Đế Quân có dạy:
    "Hỡi chư nhu, chư muội! Các đấng Thiêng Liêng chỉ đến với Tâm Thành của chúng sanh, chớ không đến với cảnh nguy nga đầy lễ vật.”
    Đức Mẹ khẳng định: “Một chữ Thành cũng được hồi nguyên"
    3. Lòng tin:
    Đức Lê Đại Tiên dạy:
    “Nên nhớ rằng Thiêng Liêng lúc nào cũng âm phò mặc trợ tùy theo lòng chí thành của chư hiền đệ muội. Trình độ nào cũng được dìu dẫn, chẳng lựa quý tiện phú bần, không đợi tài hay sức mạnh.
    Lòng chí thành sẻ đem đến cho chư đệ muội toàn năng toàn giác. Nếu chư đệ muội sụt sè hay có những ý tưởng mơ hồ, nhẹ Đức Tin thì dầu việc nhỏ như việc hàng ngày cũng không làm nỗi, lựa là phổ độ nhơn sanh."
    4. Lòng Hòa Hiệp:
    Đức MẸ dạy tiếp:
    “Thượng Đế chủ trương Hòa Hiệp, ma quỷ chủ trương chia rẽ. Đứa nào có ý chia rẽ là đứa đó đã bị ma dắt lối, quỷ đưa đường rồi đó.”
    THI BÀI
    “Con hỡi con! nhớ ghi lời Mẹ,
    Đừng làm cho chia rẽ đệ huynh;
    Hằng ngày tụng niệm kệ kinh,
    Đạo là gốc hiệp cho in lời truyền.
    Chớ mượn chung mà chuyên riêng việc,
    Nữ phái gom để biệt lập chi;
    Âm dương Tạo Hóa đã ghi,
    Đạo đời đều cũng tương tùy y nhau.”
    Đọan Thánh giáo sau của Đức Mẹ tóm gọn lại
    “Mẹ nhìn lại nơi cõi trần nầy, các con lắm phần tin tưởng Mẹ, theo gót chân Thầy để trở lại cảnh thanh nhàn. Nhưng các con muốn trở về Diêu Điện nào khó đó các con! Mẹ phân tách đây những điều dễ làm cho các con hội ý:
    1.- Là đức tin: các con phải vẹn toàn tin Trời khai Đạo, có Mẹ đến tận phàm trần.
    2.- là các con dùng khả năng mình để tế quả trợ đơn tương tiếp lẫn nhau trong chương trình tiến Đạo.
    3.- là điều chân thành, các con nên ấn mạnh vào tâm để giữ gìn tín nghĩa.
    Đó là điều kiện mà các con sẻ trở lại Diêu Cung.”
    Đây là hình ảnh của “Đạo gốc bởi lòng thành tín hiệp” như lời Thầy đã dạy:
    “Câu Đạo gốc vun nền bác ái,
    Chủ lòng thành, tín lại hiệp hòa;
    Mùi hương bay khắp bao la,
    Hiệp lòng Trời Phật Kỳ Ba hạ trần.
    Thầy xuống thế chỉ cần độ thế,
    Đem chơn truyền Thầy để cho con;
    Kinh luân con ráng mót bòn,
    Vun bồi lý chánh lo tròn quả công.”
    Như vậy, câu kinh đầu tiên, mỗi người tín đồ thường đọc, là chìa khóa vàng giải mã cho đường tu tiến của mỗi tín hữu Cao Đài chúng ta. Và con đường Thiên Đạo Đại Thừa của mỗi hành giã cũng không ngoài Lý Đạo của câu kinh: Đạo gốc bởi Lòng Thành, Tín, Hiệp.
    Kết quả công đức của mỗi người đã tích lủy được đủ số lượng sẻ có thể góp phần siêu độ được cho Cửu Huyền Thất Tổ. “Lòng thành, tín hiệp” trên đường tu với ý hướng siêu độ và siêu thăng cho ông bà cha mẹ và con cháu lại là một khía cạnh khác sẻ được trình bày chi tiết trong một chủ đề chuyên biệt về vấn đề siêu độ.
    Cũng như mục đích của Đại Đạo có đạt thành hay không, tùy thuộc vào sự thống nhứt của Cao Đài Giáo mà ý nghĩa của câu kinh nhựt tụng nầy vẫn có giá trị bất biến theo thời gian.
    Các Thánh Giáo đã nêu trên được trích dẫn từ Thánh Ngôn Hiệp Tuyển (Tây Ninh), Thánh Huấn Hiệp Tuyển (Tiên Thiên), Đạo Lý, Thánh Giáo Dạy Đạo (Giáo Hội Cao Đài Thống Nhứt), Đại Thừa Chơn Giáo (Chiếu Minh), Thánh Truyền Trung Hưng (Truyền Giáo) Thánh Giáo Sưu Tập (Cơ Quan PTGL)… cho chúng ta một cách nhìn tổng quát:
    Thánh Giáo dầu có xuất xứ từ đâu đi nữa thì vẫn chú trọng việc giải thích ý nghĩa câu kinh đầu tiên mà mỗi tín đồ thuần thành phải đọc hàng ngày trước Thiên Bàn. Việc giải thích thể hiện ở nhiều khía cạnh khác nhau để rộng đường giáo hóa.
    "Đọc kinh cầu lý", do đó tất cả tín đồ chúng ta phải luôn ôn nhuần nghĩa lý của câu kinh căn bản này và cố gắng thực hành cho đến nơi chốn.
    Nếu được vậy thì lo gì kết quả đường tu của mỗi người không đạt và sự Thống Nhứt Nhà Đạo (ngày Đạo Thành) chẳng thành hiện thực.
    (còn tiếp)
    Tâm vốn bất sinh bất diệt, chỉ tại chúng sinh vọng thức lại tưởng là Tâm nên hóa Tâm mê

  6. #6
    Tam Đẳng Avatar của kinhvotu
    Gia nhập
    Mar 2012
    Nơi cư ngụ
    Cai quản cỏi A Tỳ
    Bài gởi
    3,182

    Mặc định

    NGŨ NGUYỆN
    1. Khảo sát lịch sử hình thành và phát triển của Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ về phương diện Kinh Lễ cho chúng ta thấy:
    1.1. Trước tiên, khi quyển kinh đầu tiên “Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ Kinh” của Ngài Nguyễn Ngọc Thơ phổ biến vào cuối năm 1926 để đáp ứng nhu cầu trong đại lễ Khai Minh Đại Đạo diễn ra ở Gò Kén vẫn chưa thấy có bài Nguyện này.
    1.2. Sang năm 1927, trong quyển “Phụng Thừa Thiên Mạng - Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ” của bà Lâm Hương Thanh phổ biến, khởi đầu quyển kinh ở trang 4 có bài thơ gồm 5 câu nguyện, mỗi câu có sáu chữ được in bằng hai thứ tiếng Hoa và Việt. Nhưng khi đó bài thơ này chưa chính thức được xem là một bài kinh vì hai lý do:
    . Bài thơ không có tên. Qua đó nó gây cho người xem hay đọc quyển kinh cảm nhận đây chỉ là những lời hướng dẫn khấn nguyện khi bắt đầu hành lễ.
    . Ở trang 2 trong hướng dẫn thứ tự các bài kinh “Mỗi Ngày Cúng Bốn Lần”, chúng ta không thấy có nhắc đến bài này.
    1.3. Sang năm Mậu Thìn 1928, Thánh thất Vĩnh Nguyên Tự phát hành quyển “Tứ Thời Nhật Tụng Kinh”. Cùng với sự đồng đứng tên tác giả của hai vị Đầu Sư Thượng Trung Nhựt và Ngọc Lịch Nguyệt, quyển kinh này đã có sự phê duyệt của Hội Thánh Tây Ninh. Trong đó ở trang 40 có in bài kinh “Cầu Năm Lời Nguyện” và sắp sau các bài kinh Dâng Tam Bửu. Đặc biệt, cuối phần “Nghi Lễ Đại Đàn” nơi hàng số 61 ở cuối trang 53 có hàng chữ “Thiên Phong thành tâm cầu Ngũ Nguyện”.
    Như thế Hội Thánh Tây Ninh đã có sự chánh thức định danh cho bài kinh này và sắp xếp nó ở vị trí sau cùng trong thứ tự các bài kinh cho một buổi cúng.
    2. Tạp chí Đại Đồng số 16 ra vào tháng Septembre 1940 có đăng bức thơ của đạo hữu Nguyễn Tú Thà.
    Nội dung lá thơ nêu ý kiến nhận xét rằng bài Ngũ Nguyện là một “điểm trọng yếu” trong kinh Tứ Thời nhưng chưa được quan tâm giải thích. Nay xin được quý vị cao kiến giải đáp cho ba câu hỏi: 1.“Tại sao người tu phải thệ nguyện”, 2. “Chơn giải Ngũ Nguyện” và 3. “Phương pháp thật hành Ngũ Nguyện”.
    Ngài Nguyễn Trung Hậu đã hồi đáp cho “Tân nhơn” ở Sa Đéc ấy như sau:
    “ … Ý nghĩa trong bài này, hại rắc rối hết sức:
    1- Nhứt nguyện Đại Đạo hoằng khai.
    2- Nhì nguyện phổ độ chúng sanh.
    “Đại Đạo hoằng khai” tức là “phổ độ chúng sanh” rồi còn nguyện làm chi nữa.
    3- Tam nguyện xá tội đệ tử.
    Người tu hành không bao giờ ích kỷ. Đại phàm hễ nguyện điều chi là mong mỏi cho chúng sanh, cho người khác, chớ không bao giờ nguyện cho mình được xá tội. Muốn được xá tội cho mình, mình phải tự hối và lập công bồi đức mới được. Có người cãi “xá tội đệ tử” là xá cho hết thảy chư đệ tử, chứ không phải một mình mình. Giải như vậy quyết không ăn với ý nghĩa câu văn.
    4- Tứ nguyện thiên hạ thái bình.
    5- Ngũ nguyện Thánh thất an ninh.
    Thiên hạ mà được thái bình thì Thánh thất tức được an ninh, cần chi phải nguyện?
    Vì cái rắc rối ấy trong bài “Ngũ nguyện” nên mười mấy năm nay tôi kiếm không ra phương pháp thực hành. Nay Nguyễn huynh cật vấn tôi thì tôi phải chịu, chỉ còn chờ các bậc thông minh cao kiến hơn giảng giải.”
    Ngài Nguyễn Trung Hậu là bậc Tiền Khai Đại Đạo đã cho xuất bản nhiều quyển đạo học rất thâm sâu. Nhưng với bài Ngũ Nguyện, Ngài đã tỏ ra dè dặt và thành thật tỏ bày ý kiến rằng mình có nhiều chỗ chưa được thông cảm về nghĩa lý. Một bậc cao minh mà còn mạnh dạn bày tỏ như thế thì với đa số tín hữu Cao Đài chúng ta nếu không có điều kiện và cơ hội để tìm học ý nghĩa bài kinh này từ Thánh giáo thì sự hiểu sai lệch ý nghĩa lời kinh là điều hoàn toàn có khả thể xảy ra! Điển hình nhất là câu kinh thứ năm “Ngũ nguyện Thánh thất an ninh”!
    3. Vì thế, Ngũ Nguyện là một bài kinh ngắn gọn dễ thuộc nhưng lại là một kết luận về đường lối thực hành, một triết lý cứu cánh của Đạo Cao Đài:
    Như Đấng tiền bối Phan Thanh ở Thiên Đạo Học Đường – Liên Hoa Cửu Cung - Thủ Đức khi giáng cơ đã nhắn nhủ:
    “Các em hằng nhớ câu: Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ, Tam Giáo quy nguyên - Ngũ Chi phục nhứt, và những câu nguyện: Đại Đạo hoằng khai, Phổ độ chúng sanh, Thiên hạ thái bình… mà các em hằng nói và nguyện hằng ngày.
    Đó là cả một đường lối, một mục đích, một triết lý, một cứu cánh cho Đạo Cao Đài. Nhưng từ lâu, ít người khai thác và giảng giải tận tường minh bạch trong đại chúng những tiêu ngữ đó” .
    Vậy việc tìm học để hiểu thông ý nghĩa của bài Ngũ Nguyện qua lời dạy của các Đấng Thiêng Liêng và nương theo lý Đạo ấy mà cố gắng thực hành là điều hết sức cần thiết và hữu ích cho mỗi người tín hữu chúng ta.
    Ngày mà phần lớn tín hữu Cao Đài đều hiểu bài kinh này theo cùng một chiều hướng đạo lý và cùng thực hành như nhau thì sứ mạng Kỳ Ba chắc chắn sẻ được triển khai mạnh mẻ, Trời Nghiêu đất Thuấn trở thành hiện thực rực rở huy hoàng.
      

    NHỨT NGUYỆN ĐẠI ĐẠO HOẰNG KHAI
      

    I. THẾ NÀO LÀ ĐẠI ĐẠO HOẰNG KHAI?
    II. THỰC HÀNH LỜI NGUYỆN THỨ NHỨT
    1. Bất cứ ai, không phân biệt chức sắc hay tín đồ nếu có tâm thành vì đạo, có nhận thức đạt lý đạo đều có thể góp phần.
    2. Mở rộng và phát triển từ cơ sở (Thánh Thất, Thánh Tịnh) cho đến giáo lý.
    3. Phải phổ cập (tiếp cận rộng rãi):
    4. Đức, tâm, tài đủ Đạo Thầy hoằng dương
    5. Vượt mọi trở ngại chông gai, quyết tâm nắm cờ Đại Đạo để cắm mọi nơi.
    6. Trên đường Hoằng Khai Đại Đạo, chúng ta phải học và noi theo hành động của Trời (Đạo) mà làm.
    III. KẾT LUẬN





    Mỗi khi kết thúc thời cúng với bài Ngũ Nguyện, bao giờ chúng ta cũng khởi đầu bằng câu “Nhứt nguyện Đại Đạo Hoằng Khai”. Cầu nguyện cho Đại Đạo được hoằng khai, tín hữu Cao Đài chúng ta đã hiểu và thực hành lời cầu nguyện ấy như thế nào? Các đấng Thiêng Liêng đã nhiều lần hướng dẫn, giải thích để giúp cho chúng ta hiểu thấu đáo hầu thực hành ý nguyện.

    I. THẾ NÀO LÀ ĐẠI ĐẠO HOẰNG KHAI?

    Danh từ Đại Đạo nơi đây được hiểu là Đạo Lý của vạn giáo nói chung chứ không phải chỉ đóng khung trong tôn giáo Cao Đài (ĐẠI ĐẠO TAM KỲ PHỔ ĐỘ). Nói cách khác, đây là yếu tố Đại Đồng tôn giáo. Đó là những gì mang các yếu tố Chân Thiện Mỹ.
    Hoằng khai là khai phóng, mở rộng. Câu kinh nguyện thứ nhứt có ý nhắc nhở chúng ta: phải cố gắng phát triển Đạo Lý và mở rộng đưa Đạo Lý đến với mọi người. Đức Ngô Minh Chiêu có dạy:
    “Người Đạo Cao Đài luôn luôn tôn trọng các xu hướng tín ngưỡng, đem tình thương hòa đồng khắp cả mọi giới, đem thiện cảm gieo rắc mọi nơi để người người đều nhìn nhận cái lý duy nhất là cứu thế qua khỏi cơ tận diệt, hầu xây dựng hòa bình hạnh phúc nhân loại…”
    Vậy những ai có thể góp phần thực hiện câu nguyện thứ nhứt nầy?

    II. THỰC HÀNH LỜI NGUYỆN THỨ NHỨT

    1. Bất cứ ai, không phân biệt chức sắc hay tín đồ nếu có tâm thành vì đạo, có nhận thức đạt Lý đạo đều có thể góp phần Hoằng Khai Đại Đạo với bất cứ hình thức nào.Đức Đông Phương dạy:
    “Muốn hoằng khai cho thiên hạ biết được Đạo, phải qua trung gian của thiên hạ tức là con người, là chư Thiên mạng có trọng trách thế Thiên hành Đạo.
    Thế Thiên hành Đạo không phải chỉ ở hàng chức sắc chức vụ phẩm vị cao, mà bất cứ ai có tâm thành vì Đạo, có nhận thức đạt được Lý Đạo, đều có thể hoằng khai với bất cứ hình thức nào.”
    Là tín hữu Cao Đài Việt Nam, đại diện cho dân tộc Việt, hân hạnh được Thầy ban trao sứ mạng Kỳ Ba chúng ta hãy tỏ ra xứng đáng với trọng trách tiền phong:
    “Trên con đường Sứ Mạng Phổ Độ Kỳ Tam của các con mà chư Phật Tiên hằng nói là “một dân tộc được chọn”, phải tiền phong đảm đang lãnh trọng trách hóa hoằng Đạo Thầy. Dĩ nhiên các con phải gánh gồng mọi khó khăn trước thiên hạ, nhơn loại thế giới. Những khó khăn trên đường hành đạo là những bước tu tiến trên lộ trình đến Long Hoa Đại Hội.”
    Đức Quán Thế Âm nói:
    “Là những người cầm ngọn đèn đi trong đêm tối, không vì lý do gì làm cản trở trì trệ bước đi của kẻ cầm đèn rọi đường cho nhơn loại. Là những người tiền phong, cần phải biết trước cái biết của thế nhân, hiểu trước cái hiểu của người đời, phải tốt hơn cái tốt của phàm tục, phải hy sinh trước cái hy sinh của thế nhân.”
    2. Mở rộng và phát triển từ cơ sở (Thánh Thất, Thánh Tịnh) cho đến giáo lý.
    Đức Quán Thế Âm dạy thêm:
    “Thử hỏi hoằng khai là gì? Có phải phát triển khai phóng mở rộng từ cơ sở đến giáo lý cho quãng đại quần chúng hiểu biết và làm theo hay chăng?
    Chớ không có nghĩa là đóng khung trong hình thức nhỏ hẹp như một Hội Thánh, một Thánh Thất hoặc Tịnh Thất để cho một thiểu số người mà dám gọi là Đại Đạo hoằng khai.”
    Ngày nay, vẫn còn tồn tại một thực trạng đáng buồn: có vài chức sắc, chỉ đạo không cho tín hữu trong Hội Thánh của mình được đọc kinh sách của chi phái khác trong Cao Đài giáo! Tuy thực tế không thể kiểm soát được mức độ thi hành nhưng chỉ thị đã gây ra tâm lý e ngại trong tín đồ. Và điều này liệu có phù hợp với ý nghĩa của tên gọi, danh xưng tôn giáo của chúng ta hay không? Về mặt đời, liệu những chỉ thị này có vi phạm quyền tự do luật định theo Tuyên Ngôn Nhân Quyền quốc tế hay không?
    3. Phải phổ cập (tiếp cận rộng rãi):
    . Làm cho giáo lý trở nên đơn giản, dễ hiểu, thực tế (nội dung): giúp cho mọi người nhận thức được và tự giác trở về với lẽ sống tự nhiên của nhân bản.
    . Phát triển cơ sở đạo khắp mọi nơi khi có điều kiện (hình thức).
    Đức Lý Giáo Tông dạy: “Muốn hoằng khai Đại Đạo phải mở rộng cửa. Người tu mà giáo lý còn phức tạp! Cũng như sự hoằng khai phải đặt mình vì Thượng Đế, vì nhân sanh thì Đại Đạo hoằng khai với một sức sống đạo đức chơn chánh. Như thế còn phải phổ cập, phô trương hình thể Đạo là điều trọng yếu.”
    Như thế, trong việc hoằng Đạo chúng ta phải ý thức phát triển nội dung giáo lý song hành cùng với hình thức là các hoạt động tôn giáo.
    4. Khả năng hoằng Đạo
    Để có khả năng hoằng Đạo, Đức Lý Giáo Tông dạy:
    “Tài với đức đổi trao phụng sự,
    Tâm với tài bực thứ không hai;
    Có tâm mà lại có tài,
    Đức, tâm, tài đủ Đạo Thầy hoằng dương.”
    Và Ngài không quên cổ động giới trẻ:
    “Thanh Thiếu Niên ngày ngày ghi nhớ,
    Học tu nhiều dầu dỡ cũng hay;
    Tre tàn cằn cỗi ngày mai,
    Lập đời hoằng giáo nhờ tay các trò.”
    5. Vượt mọi trở ngại chông gai, quyết tâm nắm cờ Đại Đạo để cắm mọi nơi.
    Hoằng khai Đại Đạo là lý tưởng sứ mạng của tín hữu Cao Đài nói chung và của tầng tầng lớp lớp các thế hệ trẻ nói riêng. Vì thế người đi trước phải khai đường mở lối cho lớp trẻ nối bước theo sau, như vậy vấn đề quan tâm chăm sóc đào tạo thế hệ trẻ tiếp nối đạo sự là một trọng điểm thiết yếu mà mỗi Hội Thánh cần phải luôn đề cao.
    Việc hoằng khai Đại Đạo là việc trường kỳ lâu dài. Các thế hệ cứ tiếp nối nhau mà thực hiện sứ mạng. Do đó người đi trước phải ý thức không được quên việc hướng dẫn các thế hệ theo sau nhất là trên phương diện định hướng và khai phóng hoài bão cứu thế độ đời.
    Trở về dự lễ kỷ niệm ngày Khai Tịch Đạo tại Nam Thành Thánh thất, Đức Cao Triều Phát đã lưu ý nhắc nhở:
    “Với đàn anh lãnh đạo thanh niên. Hãy mở rộng lòng hoài bão Đại Đạo và nhân sinh khi tổ chức và đào luyện thanh niên. Có vậy mới thực sự là trang hướng đạo.
    Vì Thượng Đế, vì nhân sinh, hãy khai phóng cho chúng một hoài bão cứu thế độ đời, hãy đặt vào bộ óc tinh anh của chúng một trách nhiệm hoằng hóa đạo pháp để cứu thế độ đời. Có như vậy mới thực sự góp tay vào công cuộc Đại Đạo của sứ mạng Thiên ân.”
    6. Trên đường Hoằng Khai Đại Đạo, chúng ta phải học và noi theo hành động của Trời (Đạo) mà làm. Muốn như vậy tín hữu Cao Đài chúng ta phải cố gắng thực hành những điểm căn bản sau đây để đức hạnh luôn tõa sáng:
    “- Đối với mình, không hủy hoại tinh thần hay thể xác bằng những vật dục sở tế cũng là đúng theo Đạo.
    - Đối với gia đình, xử cho ra vẻ vai trò của mình trong địa vị cũng là đúng theo Đạo.
    - Đối với Xã Hội Nhân Quần, đều lấy lòng Nhân Trung Nghĩa mà xử thế tiếp vật, không gây thù chác oán, chỉ đem tình thương của con người chính danh ban ra cho con người. Đó cũng là tuân theo Đạo.
    - Và hơn nữa là đem Chơn Truyền Pháp Nhiệm của Đấng Cha Lành gieo rãi cho toàn cả sanh linh tiếp nhận hầu trở về lẽ sống tự nhiên của Nhân Bản, của Chơn Như Phật Thể. Ấy cũng là Đạo…
    Đấng Tạo Hóa sanh thành vạn vật bởi cái Đạo bao trùm, nên Ngài dưỡng dục quần sinh rất đầy đủ mà rất tự nhiên, không ai hay biết để tán thưởng ca tụng Ngài. Như mặt trời mặt trăng giúp vạn vật sống còn theo định luật tự nhiên, mà mặt trời có bao giờ nói mình đã làm gì đâu? Có bảo thiên hạ vạn vật khen ngợi mình đâu? Giòng nước biển cả cứ chảy luân lưu vào những sông ngòi suối lạch, chỗ nào trủng thấp không có nước, tức thì nước cứ êm đềm chảy đến đó cho đầy đủ mới thôi. Có bao giờ nước lại ham chảy lên chỗ cao tốt đâu? Tất cả những tác vi điển hình trên đều là hành động của Đạo. Là người tín đồ Đại Đạo của Trời, phải noi theo hành động của Trời mà làm theo. Khi làm được tức thị đã thể hiện, đã Hoằng Khai được Đạo vậy. Và khi đã thực hiện được lẽ Đạo ấy rồi, sự Phổ Độ Chúng Sanh ở câu thứ hai rất dễ dàng.”
    Chúng ta hãy đọc lại những lời nhắn nhủ của chư vị Tiền Khai Đại Đạo:
    “... Nầy chư Thiên ân hướng đạo! Nầy các em! Thượng Đế đến Khai Minh Đại Đạo đã là một hi hữu, mà vấn đề Hoát Khai Đại Đạo để cứu độ vạn linh là một hi hữu khác. Đành rằng Thiên cơ dĩ định, nhưng hỏi vậy mấy ai ở cõi thế mà nắm đặng Thiên cơ. Bánh xe vẫn quay, con tàu vẫn tiến. Điều cần ở mỗi người là có nên góp mặt chung tay để đều nhịp tiến quay hay dừng lại. Dừng lại tức là thoái hóa giữa cuộc xây vần.
    Thiên ân chức sắc là những tâm hồn chung quyết xây dựng tương lai cho Đại Đạo. Là người có ý thức chân lý Đại Đạo, có óc cầu tiến cho tiền đồ Đại Đạo, có ước vọng cải thiện nhân sanh, đó chính là những phần việc của chức sắc hướng đạo lãnh đạo đang theo đuổi. Thế chư hiền đang làm những gì, đang khơi dậy những gì để đáp ứng nguyện vọng nhân sanh. Thời gian nào cũng trôi qua, việc làm nào cũng đánh dấu được hiện tại. Chư hiền hãy góp mặt chung tay để làm, để sửa đổi, hoàn thiện những gì đã tự ý thức trước sứ mạng trong Đại Đạo.Chư hiền hãy đồng lòng giải thoát sự đình trệ thoái hóa và hãy khởi sự bằng những việc làm kiến hiệu hơn trong căn phòng cũ. Có những vấn đề thật sự mới, thật sự tốt, khi mà chính nó đã được nêu lên trong quá khứ mà chưa được thực hành trong hiện tại. Ngọn lửa nào cháy cũng bốc lên cao. Sự hiến dâng nào cũng đưa con người lên trên cấp bậc tâm linh hiện hữu. Chỉ có những người hướng đạo chí thành ngồi lại với nhau mới có một cộng đồng thuần nhứt trong tinh thần tân tạo mạch sống uy hùng và vĩ đại cho Đại Đạo.
    Thượng Đế không kêu gọi con người phụng sự cho Thượng Đế, mà con người hãy cải tạo để xây dựng Thiên đàng cho con người và thế giới ở trên đời. Có kiến thức mà thiếu ý thức, con người sẻ tự chôn vùi mình trong hố sâu, làm nô dịch cho kiến thức. Là người Thiên ân hướng đạo, hãy dụng tri năng làm ngọn đèn soi rọi cho con tàu kiến thức xuôi về đúng hướng. Mỗi cá nhân chức sắc tín đồ sẻ thể hiện thật sự chân lý của Đại Đạo.
    Thế nên phải ý thức cho tận cùng nội tâm sứ mạng của mình và mục tiêu mà mình phải giữ lấy để đạt đến.”

    III. KẾT LUẬN
    “Thầy sắp cuộc dinh hoàn tái tạo,
    Dụng huyền linh Đại Đạo vận hành;
    Quyền Thầy hiệp cả vạn linh,
    Đông tay kim cổ lập thành tương lai,
    Trước xây đắp Cao Đài Thánh đức,
    Dụng Nam bang làm mức phóng khai;
    Dân Nam sứ mạng Cao Đài,
    Năm châu bốn bể hòa hài từ đây.”
    Vì thế, Đức Gia Tô Giáo Chủ đã từng nhắc nhở:
    “Đạo Trời lần ba hoằng khai để cứu vãng tình trạng nguy vong của nhơn loạ, mà tái lập cuộc thế giới an bình. Thượng Đế chọn đất Việt làm Thánh địa, chọn dân Việt làm tiền phong khai đạo, nói lên những lời thiết tha bằng tình thương lẽ thật và sự sống đời đời. ”
    Gắn bó với Mục Đích của Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ:
    - Về mặt Thế Đạo, để góp sức Hoằng Khai Đại Đạo, người tín hữu Cao Đài phải luôn ý thức nắm vững Quyền Pháp: “tình thương và sự sống” thể hiện qua Tôn Chỉ Đại Đạo: “Công bình - Bác ái - Từ bi.” như lời Thầy nhắn nhủ trong ngày kỷ niệm Khai Minh Đại Đạo năm Quý Sửu.
    “Tâm con vốn bửu tòa Thầy ngự,
    Hãy giúp người gìn giữ Thiên Cơ;
    Hoằng Khai Đại Đạo Tam Kỳ,
    Công bình, bác ái, từ bi đứng đầu.
    Cuộc tiến hóa cơ mầu chuyển đạt,
    Từ nhơn tâm quảng pháp đạo tâm;
    Nhờ con sứ mạng vững cầm,
    Vững cầm quyền pháp cao thâm độ đời.”
    ▪ “Đại Đạo hoằng khai không riêng cho một quốc gia dân tộc nào, mà hãy nói đến sự may mắn của dân tộc Việt Nam trước nhứt. Như vậy, nếu còn một người chưa biết chân lý Đại Đạo là nước Việt Nam chưa được thái bình, còn một người chưa tìm hiểu chơn lý Đại Đạo là dân tộc Việt Nam còn vong bản, làm sao sớm được an lạc để tiến bộ cho kịp lúc với Long Hoa Đại Hội kết chung.
    Vì thế nên (…) tất cả các Thánh thất Thánh tịnh nói chung, đều có một trách nhiệm lớn lao đối với nhân sanh sở tại địa phương. Cái công quả to lớn ấy muốn đạt được cũng không phải khó, chỉ có một điều để chư hiền đệ hiền muội làm căn bản hoàn thành trách nhiệm đó là trì thủ, kiên nhẫn và hy sinh.”
    - Về Thiên Đạo, khi người tín hữu ý thức thực hành xây đắp Cao Đài nội tại, phát huy rộng lớn cái Đạo tự hữu của chính mình là đang tích cực góp phần hoằng khai Đại Đạo:
    “Muốn Hoằng khai Đại Đạo phổ độ nhơn sanh, mỗi người phải phát huy rộng lớn cái Đạo to tát ở nơi mình.
    Chính lúc chư đệ muội khởi công đắp xây Cao Đài, cũng là lúc tự phát huy lần lần cái Đạo tự hữu để minh định mọi việc khó khăn hầu phổ thông giáo lý trên đường sứ mạng được ban trao.”
      

    NHÌ NGUYỆN: PHỔ ĐỘ CHÚNG SANH  

    I. Ý NGHĨA VIỆC PHỔ ĐỘ CHÚNG SANH
    1. Phổ độ là gì?
    2. Phổ độ chúng sanh là thực hiện sứ mạng của Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ
    II. PHỔ ĐỘ CHÚNG SANH NHƯ THẾ NÀO?
    1. ĐỐI TƯỢNG PHỔ ĐỘ
    A. Độ Con Người
    a. Độ sanh
    b. Độ tử
    B. Độ chúng sanh
    2. PHƯƠNG DIỆN PHỔ ĐỘ: Nhân sinh và Tâm linh
    3. PHƯƠNG CÁCH PHỔ ĐỘ
    A. Qua các Công quả
    B. Qua Công trình rèn luyện
    C. Qua hồi hướng Công phu
    D. Phổ Độ trong thời đại văn minh diệu ảo
    II. KẾT LUẬN



    Từ khi mới lập Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ, Đức Chí Tôn đã dạy:
    “Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ, chiếu theo luật Thiên Đình hội Tam Giáo mở rộng mối Đạo Trời, ấy cốt để dìu dắt nhân sanh bước lên con đường cực lạc, tránh khỏi đọa luân hồi.”
    Đức Diêu Trì Kim Mẫu cũng có dạy:
    “Con nhớ chăng con chốn thượng đình,
    Mỗi con mang lấy mảnh hồn linh;
    Vào đời tu học bồi âm chất,
    Hành đạo độ đời, giúp chúng sanh.”
    Vậy thế nào là “hành đạo độ đời giúp chúng sanh” và “dìu dắt nhân sanh bước lên con đường cực lạc” như lời Thầy Mẹ đã dạy? Đó phải chăng là Phổ Độ Chúng Sanh.

    I. Ý NGHĨA VIỆC PHỔ ĐỘ CHÚNG SANH

    Trước tiên chúng ta tìm hiểu Phổ độ là gì?
    Đức Quan Thế Âm có dạy:
    “Phổ độ có nghĩa là mở rộng cùng khắp, độ rỗi chúng sanh tu thành chánh quả không phân biệt màu da chủng tộc và tông phái. Chớ không có nghĩa là nói đi nói lại bao nhiêu đó cho người tín hữu Cao Đài mà thôi.”
    Phổ độ chúng sanh là thực hiện sứ mạng của Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ:
    “Các em hằng nhớ câu: Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ, Tam Giáo quy nguyên - Ngũ Chi phục nhứt và những câu nguyện: Đại Đạo hoằng khai, Phổ độ chúng sanh, Thiên hạ thái bình… mà các em hằng nói và nguyện hằng ngày. Đó là cả một đường lối, một mục đích, một triết lý, một cứu cánh cho Đạo Cao Đài.”
    Vậy phổ độ để nhân sanh hồi đầu hướng thiện tạo cảnh Thiên hạ thái bình và lo tu hành giải thoát linh hồn khỏi cảnh luân hồi.
    Phổ độ chúng sanh là công quả chánh yếu là con đường ngắn nhất để phục hồi cựu vị như lời Thầy dạy: “Muốn đắc quả thì chỉ có một điều là phổ độ chúng sanh mà thôi.”
    Vì thế, chúng ta phải ý thức lời dạy của một đấng Tiền Khai Đại Đạo:
    “Chữ quả công phải nhớ nằm lòng,
    Đường phổ độ gia công mà tiến tới.”

    II. PHỔ ĐỘ CHÚNG SANH NHƯ THẾ NÀO?

    1. PHỔ ĐỘ NHỮNG AI?
    A. Độ Con Người:
    a. Độ sanh:
    - “Tu thân, tề gia, trị quốc, bình thiên hạ”. Do đó, muốn “giác tha” trước phải “tự giác”. Vì thế phải độ bản thân trước nhất. Ơn Trên thường dạy:
    “Muốn cứu thế cứu thân trước đã,
    Muốn độ người, độ ngã cho xong;
    Những gì đời đã mắc vòng,
    Chính mình thoát khỏi mới hòng độ tha.”
    ▪ “Muốn độ chúng sanh trước tiên người đạo phải độ mình trước như lời Phật dạy: tự giác, giác tha. Như vậy sự tu thân là chuẩn đích nồng cốt căn bản của người đạo để dọn mình đứng đắn mới độ chúng sanh.”
    - Rồi tới độ gia đình, thân tộc như lời dạy:
    “Trước khi muốn đem đạo lý truyền bá tha nhân đây đó, cũng đừng quên những linh hồn đang ở chung quanh sát bên mình, đó là vợ con, anh em cùng thân bằng cố hữu.”
    Đức Lý Giáo Tông có dạy:
    “Như ban sơ Thầy dạy mỗi vị phải ráng độ 12 người như Thầy độ trong thập nhị môn đồ trước đó. Nếu số 12 nầy, cứ nhơn mãi ra lần, thì nhân loại sẻ hóa thành hoàn toàn đạo đức... ...
    Như chư đệ muội đây, khi nhập đạo đến giờ, từ người chức sắc đến tín đồ kẽ thì độ được năm bảy vị, người cũng độ được một đôi chục vị, có vị cũng chẳng độ được một ai. Chớ lúc còn cơ phổ độ thì những anh lớn của chư đệ muội trước kia, người độ cả số ngàn số muôn cũng có. Vì lẽ ấy, mà những bậc tiền bối quá vãng, ngày nay cũng đều được đắc quả Thánh Tiên cả thảy.
    Lão nhắc đây để cho chư chức sắc cùng đạo tâm hiểu lẽ trọng yếu ấy mà lo độ nhơn sanh sống trong chung quanh mình. Nghĩa là trong gia đình thân tộc cũng chưa phải là hoàn toàn nhập vào đạo Thầy hết, nên phải ráng lập công phổ độ.”
    Một thí dụ để chúng ta tham khảo:
    “Vậy giờ nay Thầy cho chơn linh Phan văn Sử tá cơ để nhắn nhủ gia đình. Vì Sử ở thế có lòng tu chơn hành đạo, trọn đức tin với Thầy nhưng không độ được trong gia đình. Đó là thiếu bổn phận. Nên Thầy sắc lịnh cho chơn linh Sử phải lập công bồi đức thêm.”
    - Kế đến, độ tha nhân (và cho):
    “Dầu cho trẻ con trong bụng cũng phải độ.”
    b. Độ tử:
    Song song với những đối tượng con người đang sống được nhắm vào để độ dẫn thì đồng thời chúng ta cũng tham gia các buổi lễ cầu siêu độ tử cho các vong linh chưa siêu thoát đặng hồi tâm giác ngộ, ăn năn sám hối hầu được siêu rỗi và siêu thăng. Làm được những công quả nầy là chúng ta cũng đang cứu độ Cửu Huyền Thất Tổ của chính mình. Kinh Tu Chơn Thiệp Quyết có câu:
    “Tu là cứu Cửu Huyền Thất Tổ,
    Tu là cần phổ độ chúng sanh.”
    B. Độ chúng sanh:
    Tam Kỳ Phổ Độ, cơ đại ân xá của Đức Chí Tôn nhắc nhở người tín hữu Cao Đài chúng ta trên đường phổ độ đừng quên đến việc phổ độ chúng sanh tế vi từ trong cơ thể của mình đến chúng sanh trong môi trường sống chung quanh ta như lời dạy sau:
    “Chúng sinh nói chung, từ loài khoáng vật tế vi đến loài vĩ đại con người. Về chúng sanh rất nhỏ, ngay ở nội thân mình đã có. Muốn phổ độ chúng, thì mình không nên lạm dụng lãng phí những tế vi tế bào trong thân người. Vì nhờ nó mà thể xác được tồn tại, được sống còn để lo chuyện cao xa. Về chúng sanh vĩ đại, từ động vật con người. Muốn phổ độ thì phải tận dụng quyền năng nhân bản của mình đối với mọi vật, mọi người. Không đánh đập sát hại gây gổ bất cứ vật gì người nào. Trái lại, còn phải ban bố cho họ những tình thương Thượng Đế vốn sẳn bao giờ mà trên kia mình đã có.”
    2. PHỔ ĐỘ TRÊN NHỮNG PHƯƠNG DIỆN NÀO?
    A. “Làm Âm Chất, Phổ Độ Chúng Sanh” trên cả hai mặt độ sanh và độ tử, lại càng phải ý thức và cố gắng làm theo lời khuyên:
    “Bổn nguyên Bảo Sanh là bổn nguyên Thánh Chất Thầy. Thầy khuyên con để dạ lo cho nhơn sanh mà thôi ... lo lập: - một sở trường học - một sở dưỡng lão, ấu - và một nơi Tịnh Thất.”
    a. Sở trường học tượng trưng cho Dân Trí: thực tế là Thiên Phong Đường của mỗi Thánh Thất, Thánh Tịnh dùng làm nơi thuyết đạo và huấn luyện Đồng Nhi Lễ Sĩ. Đây là phần Công Trình.
    b. Sở dưỡng lão, ấu tượng trưng hoạt động Dân Sanh: ngày nay đó là các Công Quả Phước Thiện, kinh tế tự túc.
    c. Tịnh Thất tượng trưng cho Công Phu hay Dân Đức: đó là Tịnh Đường.
    Học Đường và Phước Thiện thuộc mục tiêu Thế Đạo, còn Tịnh Đường thuộc về Thiên Đạo. Đây là một bài học rất quan trọng:
    Lập Họ Đạo mà không thực hiện đồng bộ ba chương trình nêu trên thì hoạt động của Thánh Thất chưa đáp ứng tốt cho mục đích của Đại Đạo. Với mỗi tín đồ, bài học nầy hướng dẫn ba trọng điểm tu học và hành: phải quan tâm đến việc giáo dục học đạo cho bản thân và con em, làm phước thiện, học và hành đạo pháp. Thực hành Tam Công phổ độ nhân sanh phải nhắm vào ba trọng điểm vừa nêu.
    B. Đường Phổ Độ phải đồng thời nhắm vào cả hai mặt nhân sinh và tâm linh, trong đó phần tâm linh là quan trọng hơn, như lời đã dạy:
    “Việc đem đạo giúp đời hay cứu đời không… chỉ có một phiến diện vật chất hoặc sức lực, mà phải cần đến phần giáo dục tinh thần ở nội tâm lại càng quí giá vô cùng.”
    C. Đỉnh cao của việc phổ độ đó là nâng đỡ đức tin
    Đối với những người bạn đạo, là người đã phần nào hiểu lý đạo thì lại cần phải nuôi dưỡng đức tin đồng đạo:
    ▪ “Các con liệu phương thế mà nâng đở đức tin của môn đệ cao lên hằng ngày, ấy là công quả đầu hết.”
    ▪ “Lòng mong độ thêm một người chưa biết đạo phải song song với sự nuôi dưỡng đức tin đối với người bạn đạo. Nếu vô tình hoặc cố ý để mất đức tin một người bạn đạo lâu năm còn quan trọng hơn độ thêm năm, mười người khác nữa.”
    3. PHỔ ĐỘ BẰNG CÁCH NÀO?
    Để phổ độ chúng sanh, mỗi người tín đồ Cao Đài chúng ta trên đường “tu thân-hành đạo” phải thực hành pháp môn Tam Công với tấm lòng luôn hướng về chúng sanh.
    A. QUA CÁC HÌNH THỨC CÔNG QUẢ
    a. Về mặt nhân sinh: Dùng phương tiện sức lực hay vật chất giúp ích người khác.
    “Đừng nghĩ rằng phải có tiền ngàn, bạc muôn đem bố thí hoặc xây thất cất chùa lên cốt phật hoặc in kinh mới gọi là công quả. Khi thấy một thế nhân bị cảm gió nhức đầu, chịu khó bỏ ra mười phút cạo gió bóp gừng không gọi là công quả hay sao? Thấy người bất hạnh đói rách khổ đau, bỏ ra một viên thuốc, một chiếc áo thừa, miếng bánh mì nguội dư không thể gọi là công quả hay sao?Tùy khả năng sở hữu tới đâu làm tới đó, nhưng phải làm với tất cả tấm lòng bác ái không gọi công không gọi danh.”
    b. Về mặt tâm linh (quan trọng):
    Tham gia các buổi cúng quan hôn tang tế, tổ chức nhập môn vô vi, cầu siêu để cầu nguyện cho các vong hồn sớm được siêu thoát,...
    Đem đạo lý hướng dẫn, hoán cải lòng người:
    Góp phần in ấn, biếu tặng kinh sách cho người tìm hiểu Đạo. Nếu có năng lực thì tham gia hướng dẫn về “lễ nghi-đạo đức“ cho các em thiếu nhi, thiếu niên con em nhà đạo; bình giảng Thánh giáo như lời dạy của Đức Quan Thánh:
    “Nếu mỗi một tín hữu làm sao độ được 12 bạn khác hiểu đạo, hành đạo thì Bần Đạo tin rằng một thời gian không lâu, Thánh Đường mọc lên như nấm, khám đường dẹp bỏ lần lần để làm kho dự trữ.”
    Vậy độ dẫn được người nhập môn vào đạo là một việc tốt, nhưng nếu dừng lại ở đây mà chưa giúp đở cho họ hiểu và hành được đạo lý trong đời sống hàng ngày thì chưa đủ. Tân Luật cũng có qui định về điều nầy. Tuy nhiên, trong thực tế bấy lâu nay hầu như chúng ta ít quan tâm đến việc phải thi hành điều luật này! Người tiến dẫn người nhập môn phải có trách nhiệm y như luật định:
    “Hai người tiến dẫn phải lo lắng chỉ biểu và dìu dắt người mới cho hiểu biết đạo lý. ”
    Một khía cạnh khác của công quả phổ độ tâm linh là giúp cho người khác được thuận lợi trên đường giải thoát.
    “Tạo điều kiện và truyền bá pháp môn giúp người tu siêu phàm nhập thánh, thoát kiếp luân hồi. Đó là một nghĩa cử, một hạnh lại càng quí nhất.”
    B. QUA CÔNG TRÌNH: rèn luyện Đức Hạnh
    a. Hoàn thiện hóa bản thân trước để là tấm gương sống động dễ cảm hóa lòng người. Các Đấng Thiêng Liêng thường dạy:
    “Tu là để trau tài luyện đức,
    Tu là mong bỏ dứt nghiệp trần;
    Trau tria phẩm hạnh chí nhân,
    Độ mình rồi mới độ lần người tu.”
    ▪ “Vào đạo… là để tìm thấy học hỏi những gì cao quý trong cửa đạo mà thế gian thường tình không có… Vào đạo để tìm cái chơn, cái thiện, cái mỹ. Các em vào đạo lâu năm cần phải thể hiện điều chơn thiện mỹ ấy cho đời noi theo. Đó là các em làm sáng danh Đạo danh Thầy, và đó cũng là phương tiện phổ độ nhơn sanh theo đường chánh giáo.
    Thế nên, dầu gặp cảnh ngộ nào trái tai gai mắt nghịch ý, đừng vội vàng bực bội để tánh nóng nỗi lên rồi phát ngôn thiếu cẩn thận, hành động thiếu cẩn thận, để hóa ra thua kẻ tầm thường ngoài thế gian chưa biết đạo đức là gì. Tác phong đạo hạnh của người tu không cho phép hành động hoặc phát ngôn thất đức, bất nhơn hoặc trái lẽ phải. Dầu cảnh ngộ nào cũng có phương cách xử theo hạnh của người tu.”
    b. Rèn luyện Đức Tin vững chắc: Bởi vì bản thân ta nếu không khẳng định được đức tin của mình qua những chương trình hành động cụ thể trên đường tu học hành đạo thì làm sao có thể nâng cao đức tin cho người khác!
    “Nên nhớ rằng Thiêng Liêng lúc nào cũng âm phò mặc trợ tùy theo lòng chí thành của chư hiền đệ muội. Trình độ nào cũng được dìu dẫn, chẳng lựa quý tiện phú bần, không đợi tài hay sức mạnh.
    Lòng chí thành sẻ đem đến cho chư đệ muội toàn năng toàn giác. Nếu chư đệ muội sụt sè hay có những ý tưởng mơ hồ, nhẹ đức tin thì dầu việc nhỏ như việc hàng ngày cũng không làm nỗi, lựa là phổ độ nhơn sanh.”
    c. Phổ độ chúng sanh, cứu giúp người khác là thể hiện lẽ sống đạo, thể hiện tình thương. Chúng ta cần phải trau giồi bài học Thương Yêu cho nằm lòng, xem đó là điều kiện để làm tốt việc phổ độ chúng sanh như lời Thầy và các đấng Thiêng Liêng dạy dỗ:
    “Thầy chỉ có một lòng mơ ước cho các con biết yêu thương, trọng Thánh đức của Thầy... Chỉ cậy các con là một lòng yêu thương sanh chúng, gắng công phổ độ.”
    Khi gắng công phổ độ, lời dạy sau đây là kim chỉ nam:
    “Vì người đời đã quá đau khổ về tinh thần, bị đời xảo trá lừa bịp dối gạt, muốn cần có người an ủi xoa dịu tâm hồn. Đoàn người phổ độ có nhiệm vụ đặt trọng tâm vào công quả phổ biến Đạo Trời, truyền bá giáo lý; đem tình thương thể hiện sự chân thật, sự giúp đở, sự tương thân hòa ái, san bằng những hố sâu chia rẽ giữa cá nhân và cá nhân, giữa đoàn thể và đoàn thể, giữa tôn giáo và tôn giáo. Chớ không phải phổ độ là giành giựt nhơn sanh, kêu gọi nhóm nọ nhóm kia về với mình. Hỏi để mà chi? Ở đâu cũng được, miễn là mỗi người biết tu thân, biết đem tình thương lẽ thật đối xử với mọi người, biết đem lòng vong kỷ vị tha giúp đở người đời là được rồi.”
    d. Để phổ độ có hiệu quả, mọi tín đồ phải ra sức học hành giáo lý để nắm vững đường lối chân truyền Tân Pháp.
    “Chư đệ muội đây, khác nào hột giống quí trước nhất, rồi một ngày gần đây, nhơn loại sẻ hồi tâm hướng thiện, đến khẩn cầu chư đệ muội mà học giáo lý Đạo Thầy."
    Biết lẽ quí báu sắp đến thì người tu trong Tam Kỳ Phổ Độ, mỗi ai dù nam hay nữ cũng phải ráng học hiểu rõ thông giới luật, Tôn Chỉ Mục Đích rành mạch, với phương pháp tu thân hành đạo, giải khổ từ thể xác đến linh hồn để sau nầy truyền bá khắp năm châu.
    Như vậy, mới đúng theo đường lối của Thầy là cơ Tuyệt Khổ Đại Đồng đó.”
    e. Chúng sanh căn trí vô lượng, tùy vào trình độ cao thấp mà điều chỉnh cho thích hợp. Đức Cao Thượng Phẩm dạy:
    “Phải dìu dắt chiều theo tâm phàm họ cao thấp mà sửa từ bước, độ từng chặng. Mà nếu rủi dìu họ không được thì phải tận tụy với trách nhiệm làm thế nào cho họ đừng sa đọa phong đô, để cầu với Tam Giáo Tòa cho tái kiếp mà chuộc căn quả.”
    C. QUA HỒI HƯỚNG CÔNG PHU
    Kết quả của Công phu được hồi hướng đến chúng sanh sẻ trở thành công quả phổ độ như lời dạy:
    “Công quả hồi hướng của tịnh viên được tràn đầy cõi thượng giới chúng sanh cho mọi người thức tỉnh mộng trần quay chân về nẻo chánh. Tuy công đức xem như mây bay gió thổi nhưng kỳ thật không bao giờ dứt nhờ tâm thanh tịnh, càng thấy tiến đạo vô cùng.”
    Đó là công phu nội. Còn phần công phu ngoại là việc cúng kính. Khi để hết tâm thành cầu nguyện trong buổi cúng: cầu an, giải bệnh, cầu siêu, v.v… hồi hướng đến đối tượng là chúng ta đang dùng điển lành của tập thể và điển lành của Thiêng Liêng trợ sức để cứu độ quần sanh.
    Một thí dụ cho thấy sự cần thiết của việc hồi hướng công phu trong việc độ tử:
    “GIÀ LAM ĐỊA THẦN Chánh Ý Trần Hữu Thinh,…
    Thật là một cơn ác mộng đã trôi qua, nhưng lòng nhân thế cùng quý bạn hiền đã còn ghi lại nỗi niềm thương tiếc.
    … Nơi vùng này là vùng còn đầy dẫy ác khí, nên chi, mặc dầu bao nhiêu điển lành cùng tâm đạo đem ký nhà tịnh nơi này, cũng khó nỗi đàn áp được luồng hắc khí xung thiên từ những oan hồn uổng tử, đã gây ra bao nhiêu sự rủi ro trong khi xây cất.
    Lúc bấy giờ, Tệ Đệ xét thấy đời đạo đức của mình còn quá muộn màng trễ nãi hơn các hàng huynh tỷ đệ muội, rất đổi so sánh với hàng thê nhi mà Tệ Đệ vẫn còn thua kém. Nỗi lòng băn khoăn vì công quả không biết làm sao?
    Một giấc chiêm bao một đêm nào cũng nơi này, vừa mơ màng nửa say nửa tỉnh, Tệ Đệ chợt thấy vô số oan hồn đang tranh đua ngăn cản những việc làm từ thiện cùng hoằng dương đạo pháp nơi vùng này. Tệ Đệ bèn vội vàng quỳ xin thọ khổ phần nhục thể hình hài để làm lắng dịu bao nỗi oan hồn và cũng để thay mạng sống cho những người quả công vì đại cuộc. Và Tệ Đệ có hứa sẻ nhân một dịp nào, đề nghị cùng Hội Thánh có nhiều buổi lễ cầu siêu bạt độ âm hồn trở lại đường chân thiện mỹ.
    Do đó, mọi việc sắp xếp đã qua, rồi... sáng lại, chư huynh tỷ đệ muội vừa phát giác một việc đã rồi.
    Hôm nay, Tệ Đệ xin Lão Tổ được phép trong hơn một khắc để trần tình mọi sự vừa qua, cùng để giúp cho người bạn xưa vẹn toàn lời hứa. Tệ Đệ ngưỡng mong ơn từ quí vị đại đức trong Hội Thánh Minh Lý tới các hàng sư huynh sư tỷ, mỗi ngày vào tịnh cũng như nhựt thời, nên nhớ cầu nguyện cho các oan hồn ấy được sớm cởi vòng oan nghiệt, hầu trở lại đường đạo đức tu hành, do lời khuyên giải của quí liệt vị.”
    D. PHỔ ĐỘ TRONG THỜI ĐẠI VĂN MINH DIỆU ẢO
    Trong bối cảnh thời đại hôm nay, niềm tin và trách nhiệm được đặt vào hàng ngũ Thanh Thiếu Niên. Bởi vì thanh niên là mùa xuân, là phát huy, là sáng tạo. Do đó sứ mạng của Thanh Thiếu Niên được nâng lên cho tương ứng với sự phát triển của thời đại. Vì vậy:
    Đức Lý Giáo Tông dạy:
    “Hãy làm thế nào cho giáo lý đạo có một căn bản lý luận vững chắc khoa học và khai triển sâu rộng mọi mặt, giải đáp các vấn đề then chốt của triết lý siêu hình hiện đại khoa học.
    Các việc này có tầm mức vô cùng quan trọng. Vì muốn độ đời phải có tri thức siêu việt hơn đời. Phải ưu thế trên mặt trí năng tư tưởng.”
    Đức Cao Triều Phát cũng dạy:
    “.Phải làm thế nào cho giáo lý đạo luôn có tính cách thích ứng với thời đại.
    .Các em phải nâng cao tầm mức giáo lý cho có triết học, khoa học, văn học để tăng thêm tính chất hấp dẫn và phổ biến.
    .Đạo đức cao siêu cần thiết thì tâm đức trí năng sâu rộng quyết nhiên không thể nào lu mờ ở xã hội học vấn trí thức ngày nay. Không dùng tâm tư của người đời nay thì mong gì người đời hiểu được ta mà phổ độ.”
    Người Thanh Thiếu Niên, phải trang bị tài năng và sử dụng đúng chỗ đúng mức. Do đó Tâm Hạnh Đức phải được rèn luyện đầy đủ sao cho xứng đáng là Thanh Thiếu Niên của Đại Đạo nhất là đối với Thanh Thiếu Niên Phổ Thông Giáo Lý thì lại càng phải nâng cao ý thức sứ mạng hòa nhập với lý tưởng Đại Đạo.
    Và Ngài cũng dạy:
    “Hỡi các em... phải nhận thức trách nhiệm của mình. Hãy nhìn thẳng vào hoàn cảnh để cương quyết bắt tay vào việc hoằng giáo độ đời...
    Tu không phải chán đời ẩn dật, tu bắt buộc phải mạnh dạn đi vào đời.
    Chỗ nào tối, người Thanh Thiếu Niên… thắp ngọn đuốc sáng. Chỗ nào hầm hố chông gai có người Thanh Thiếu Niên kiêu dũng đem đạo đức đến sang bằng. Chỗ nào lạnh lùng băng giá, người Thanh Thiếu Niên đem tình thương Thượng Đế đến sưởi hâm ấm áp. Chỗ nào nóng bức, người Thanh Thiếu Niên đem tình nhân loại đến dập tắt dịu dàng.
    Cái bổn phận thiêng liêng ấy người Thanh Thiếu Niên… không thể từ chối được."

    III. KẾT LUẬN

    Đức Chí Tôn để lời tha thiết dạy dỗ:
    “Con ôi! Thầy khai đạo nơi thế gian nầy là Thầy muốn ổn định lại càn khôn, an bài vũ trụ. Thầy đưa thuyền từ ra bể khổ để vớt vạn linh sanh chúng. Thời kỳ ân xá, Thầy đã mở rộng huyền năng cho những đứa thực tâm hành đạo, lập công quả.
    Con ôi! Chính mình Thầy đã đến thế gian cùng với chư Tiên Phật, dụng điển quang để tả thiên kinh vạn điển, hầu cứu rỗi các con thì các con phải có bổn phận đối với chúng sanh cũng như Thầy và chư Tiên Phật vậy.
    Các con rất diễm phúc mà được gặp đích thân Thầy đến mở Đạo tại góc đất Việt Nam nầy, đem chánh pháp phổ truyền, đem lòng từ bi ân xá, độ các con nào sớm giác ngộ cùng giác tha những kẻ còn đứng ngoài vòng Đạo Giáo trở về mái nhà lương thiện cùng nhau hấp thụ điển lành cùng Đạo Lý để làm động lực thúc đẩy bản thân thi hành công đức phổ độ chúng sanh được thuần lương thiện mỹ hầu tái lập đời Thượng Nguơn Thánh Đức.”
    Phổ độ chúng sanh, chúng ta độ cả trên hai mặt nhân sinh và tâm linh nhưng không quá đặt nặng về vật chất mà trái lại phải thấy tinh thần là trọng. Vì thế trên đường “Giáo Dân Vi Thiện”, chúng ta trước hết phải rèn luyện chính mình để tự độ sau mới có thể thực hành độ tha như những lời Đức Ngô Minh Chiêu nói: “Ngô thân bất độ hà thân độ”. Ơn trên cũng dạy:
    ▪ “Độ đời nơi đây không phải nhằm chỉ riêng về khía cạnh vật chất mà đặt nặng về tinh thần trong câu tự giác giác tha, tìm mọi cách, tận dụng mọi hoàn cảnh, mọi cơ hội đem giáo lý đạo đức để bày giải thức tỉnh mọi người đời đi về đường đạo lý.
    Sự độ đời nơi đây không phân biệt màu da chủng tộc gì hết. Cả nhân sinh hoặc chúng sinh đều do một nguồn gốc mà ra, do đức háo sanh của Thượng Đế mà có.”
    “Con tu là để giúp đời,
    Giúp đời chính thị giúp thời cho con.
    Còn trời còn nước còn non,
    Còn nhơn sanh khổ con còn gia công.”
    Người tín hữu Cao Đài lập công bồi đức phụng sự cho sứ mạng kỳ ba “Phổ Độ Chúng Sanh” thì chính là để tự độ, xây nền đắp móng cho vững vàng hầu bước lên đường Thiên Đạo lo tu giải thoát.
    “Vậy chư hiền nên biết đạo giải thoát ở đâu cũng có thể làm được. Giải thoát sự u trệ tâm hồn vị kỷ là tích cực phụng sự nhơn sanh độ dẫn người đời.
    Giải thoát sự u ám tâm linh là quyết chí trau luyện cõi lòng theo chơn pháp cho thanh bạch. Khi mọi việc đã chu đáo đối với Đạo với Đời rồi, không còn phải lo ngại gì về sự khiếm khuyết ân hận nữa, thì ra đó là giải thoát trong những lối giải thoát.”
    Hằng ngày, người tín hữu Cao Đài kết thúc việc đọc kinh tứ thời, miệng niệm Ngũ Nguyện có câu “Nhì nguyện Phổ Độ Chúng Sanh”. Khi lạy, tay bắt Ấn Tý ôm tròn trước ngực đưa lên trán, rồi cúi mình xuống lạy hai bàn tay bung xoè ra như hình ảnh tượng trưng nhắc nhở tín đồ: “thành tâm hiến dâng” kết quả tu học-hành đạo lên Thầy Mẹ và các Đấng Thiêng Liêng, “vâng theo lời dạy: phải có bổn phận đối với chúng sanh cũng như Thầy và chư Tiên Phật vậy,“đem kết quả tu học hành đạo gieo rải đến với nhân sanh”. Đó chính là bài học ngụ ý nhắc nhở chúng ta phải ý thức thực hiện việc “phổ độ”.
    Ngày mà mọi tín hữu Cao Đài ý thức được việc tu học hành đạo với Tâm chuyên nhứt “Phổ Độ Chúng Sanh” trên cả hai mặt Thế Đạo và Thiên Đạo thì lo gì: Thiên hạ chẳng thái bình và cảnh Trời Nghiêu Đất Thuấn không là hiện thực.
    PHỔ thông giáo lý thương yêu rộng,
    ĐỘ kỷ, độ tha, độ chúng sanh.
    (Thầy)
      



    TAM NGUYỆN XÁ TỘI ĐỆ TỬ

    I. Ý NGHĨA CỦA CÂU NGUYỆN
    II. THỰC HÀNH
    1. Hằng ngày kiểm điểm bản thân, dù là lỗi nhỏ cũng tự giác Sám Hối, Phục Thiện
    2. Hãy cởi mở tấm lòng nhận phê, nhờ người chỉ lỗi
    3. Siêng năng hành thiện, không gây tội nữa nhất là với người đã giác ngộ
    4. Ý thức sửa mình và giúp mọi người cùng tiến bộ
    5. Khoan Dung, tha thứ lỗi lầm từ những người khác
    6. Khoan dung, bác ái với cả mọi người
    7. Học và hành bài học thương yêu của Đại Từ Phụ để thực hành hạnh bao dung, phá chấp
    8. Không Nên Cầu Ơn Trên Giảm Tội cho người đã phạm luật Thiên điều
    III. KẾT LUẬN







    Nhân vô thập toàn.
    Đã mang kiếp nhân sinh thì rồi có lúc sẻ mắc phải sai lầm chi đó trong cuộc sống!
    Là người tu học, hiểu được ý nghĩa bước đầu của chữ tu là “sửa” qua câu “Tu là sửa những gì đã trật”, người tín hữu Cao Đài cố gắng sửa chữa đồng thời cầu nguyện Ơn Trên từ bi tha thứ cho mình. Nhưng như thế đã đúng và đủ hay chưa?
    Chúng ta hãy tìm hiểu thêm về vấn đề này qua những lời giáo huấn thiêng liêng.

    I. Ý NGHĨA

    1. Giải nghĩa từ:
    - Xá tội: tha tội, không bắt tội.
    - Đệ tử: bản thân và mọi người.
    2. Ý nghĩa câu nguyện:
    - Trong lòng hối lỗi, nguyện ăn năn sửa đổi.
    - Cầu xin Ơn Trên tha tội cho mình và mọi người.
    - Nguyện lòng cũng biết tha thứ cho người khác như Ơn Trên tha thứ cho mình.

    II. THỰC HÀNH


    Cầu xin Ơn Trên tha lỗi đồng thời tín hữu chúng ta cố gắng sửa mình, phục thiện:
    1. Hằng ngày kiểm điểm bản thân, dù là lỗi nhỏ cũng tự giác SÁM HỐI, PHỤC THIỆN, cũng đồng nghĩa với câu:“Tu là sửa méo ra tròn”- Vì dù là lỗi nhỏ cũng không qua khỏi luật công bình thưởng phạt, Đức Chí Tôn đã dạy:
    “Một trăm điều nhớ, một quyển sổ biên những sự gì, điều gì cũng chẳng bằng một điều là nhớ xét mình, xét mình có vương vấn tội lỗi cùng chăng? Nếu con biết luật Thiên Tào thưởng phạt, một điều lỗi mọn con cũng sám hối ăn năn.”
    - Biết hối lỗi là quý giá, mới xứng đáng là con yêu Thượng Đế:
    “Nơi trần khổ này dầu cho bậc chí Thánh cũng khó tránh sự lỗi lầm đặng, nhưng sự ăn năn tự hối là quý giá vô cùng.”
    “Biết phục thiện sám hối lỗi lầm mới xứng danh người dân đạo. Biết được vậy, hàng ngày nên kiểm điểm bản thân đến việc làm những điều lành dữ, lợi hại, tội phước, hư nên. Có đạt được sự kiểm điểm sám hối tự giác thì mới đáng là con yêu quí của Đức Chí Tôn và Đức Mẹ.”
    - Biết sám hối, Ơn Trên sẻ mở rộng từ bi tha thứ:
    “ Con hồi tưởng tỉnh khuây cơn mộng,
    Thầy sẳn sàng tha bổng tội xưa;
    Miễn sao con trẻ đoạn chừa,
    Xét mình cải hối sớm trưa thật lòng.”
    2. Cởi mở tấm lòng nhận phê, nhờ người chỉ lỗi cho:
    “Đời ta sao khỏi lạc lầm,
    Muốn cầu tiến bộ phải chăm sửa mình;
    Trước là tự xét lỗi mình,
    Sau cầu viện bạn phê bình giúp cho.
    Qua sông nhờ chiếc nhã đò,
    Tu hành nhờ bạn dặn dò giới trai;
    Tự mình xét lỗi là hay,
    Được người chỉ lỗi càng hay bội phần.
    Biết nghe dư luận nhân dân,
    Để mà phục thiện thì thân vẹn toàn.”
    Đức Pháp Lực Kim Tiên lấy kinh nghiệm sinh tiền của mình để thí dụ:
    “Như Bần Đạo đây, khi sanh tiền còn xác phàm cũng thế, không ai là thập toàn được. Trên việc làm, có điều dở, điều hay, nếu mình tự xét không đặng, thì có bạn mình chỉ cho mình thấy.”
    3. Siêng năng hành thiện, không gây tội nữa nhất là với người đã giác ngộ.
    Ơn Trên dạy:
    ▪ “Trước khi vào đạo thì tránh sao khỏi điều tội lỗi gây ra. Nhưng sau khi vào đạo chưa biết khắc phục những lỗi lầm mà còn gây ra thêm nữa thử hỏi như vậy vào tu giữ đạo có ích gì cho mình?”
    ▪ “Con biết Đạo rồi, bao nhiêu dĩ vãng, Thầy đều ân xá cho con, nhưng hiện tại con gây tội lỗi, thì Thầy làm sao ân xá được.”
    4. Ý thức sửa mình và giúp mọi người cùng tiến bộ:
    “Chẳng có chi quý bằng làm lành, làm phải, lại còn khuyến khích nhắc nhở người xung quanh mình cũng phải làm lành. Như thế, thì hưởng phước đức biết bao đó.”
    5. Khoan dung, tha thứ lỗi lầm từ những người khác:
    - Theo luật nhân quả, có tha thứ cho người thì mình mới được tha thứ:
    ▪ “Trước Thiên Bàn sau mãn giờ cúng cầu xin Thượng Đế giải trừ tội lỗi nghiệp chướng tiền khiên và cũng dạy cho người tín hữu phải có đức độ khoan dung, tha thứ mọi lỗi lầm từ kẻ khác đối với mình để thể hiện lòng bác ái vô biên của Thượng Đế.
    Mình có tha thứ kẻ khác lầm lỗi với mình để thân thiện, giác ngộ dìu dẫn họ lại đường chánh giáo thì Thượng Đế mới xá lỗi tiền khiên của mình.”
    ▪ “Tình Mẹ ban đồng đều cho mỗi con, dầu lớn hay bé, khôn hay dại, nên hay hư, giàu hoặc khó, các con hãy khoan dung tha thứ cho nhau những khi có đứa nào lầm lỗi. Các con tự xét lòng mình rồi đoán lòng người, ai ai cũng có lỗi hết. Phải xét lỗi mình để tha thứ lỗi kẻ khác, đó là con cưng yêu của Mẹ. Mẹ mong rằng một kỳ trung thu sang năm được thấy tình thương cả các con hoàn toàn thể hiện cùng chung nhau hành đạo.”
    ▪ “Các con phải tha thứ lỗi lầm cho nhau mới mong trọn vẹn hưởng hồng ân của Mẹ. Các con có khoan dung tha thứ cho nhau mới được hưởng những tha thứ khoan dung của Thượng Đế.”
    - Khoan dung là đức tính tốt cho con người nói chung và con đường tu tiến nói riêng:
    “Đức khoan dung là chìa khóa mở,
    Cho tinh thần nẫy nở lên cao;
    Đường Tiên lối Phật bước vào,
    Giữa quần sanh ấy tiếp giao hải hà.
    Người khoan dung đậm đà lẽ sống,
    Không hẹp hòi chẳng động khẩu tâm;
    Thấy ai khuyết điểm sai lầm,
    Nhủ truyền tha thứ như châm chước mình.”

    “Quân tử rộng lòng, độ lượng nhiều,
    Khoan hồng tha thứ, một tình yêu;
    Tiểu nhân thì vẫn tâm eo hẹp,
    Thắc mắc mãi càng rắc rối nhiều.”
    6. Khoan dung, bác ái với cả mọi người:
    ▪ “Các em hãy lấy tình thương của Thượng Đế mà xử sự trong mọi cảnh ngộ, thì những chướng ngại vật dầu khó khăn cách mấy cũng phải cuối đầu khuất phục cho những đức tánh khiêm tốn đại lương, khoan dung, từ bi, bác ái.”
    ▪ “Chư ái nữ ôi! Các trò còn mang thói nữ nhi thường tình, hay so đo tính toán. Tu phải sửa lòng, ăn ở cho khoan hòa. Chị em tin thân dìu dắt lẫn nhau, đừng khi người ỷ mình, đừng già lời lắm chước mà sai với đạo đức người tu.
    Cái bệnh của các trò là bệnh hẹp hòi, chưa khoan dung đại độ mà người họ cho là “đàn bà khê hác chi tâm” (khê hác là khe núi).
    … Ở đời phải mở lượng khoan dung, tha thứ lỗi người thì Thầy Mẹ tha thứ lỗi mình.
    Mình vui vẻ trước sự đau khổ, lấy dạ thương yêu không bỏ một ai, dù là người kém. Nhỏ lớn cũng chị em đồng thể chịu ở mệnh Trời, đứa khôn phải dạy đứa dại, đứa mạnh phải giúp đứa yếu là bổn phận của kẻ làm công quả ít hay nhiều cũng làm vui, đừng so đo khinh trọng mà chia tình đồng đạo. Các trò thấy một miếng mảnh sành mà còn hữu dụng trong lúc chêm được cẳng ghế chưn bàn thì không có gì vô ích. Kẻ làm sai cũng bài học phòng ngừa, kẻ làm đúng cũng bài học tiến tới.”
    ▪ “Hãy chân thành với lòng mình mà đi trên đường đạo. Tất cả mọi hoạt động của mình phải nhắm vào mục đích tối thượng của đạo lý từ tư tưởng, ý nghĩ, lời nói, cử chỉ đến việc làm phải được sự chân thành, tỏ nỗi cảm tình và thố lộ tình thương với tất cả mọi người mọi trường hợp.
    Việc gì trước khi muốn nói hoặc làm cho ai, nên đặt mình trong hoàn cảnh người ấy để xem mình có chịu được những đối xử như vậy hay không. Nếu được thì làm, không được thì đừng. Đó là tự mình kiểm soát hành động của mình đó, cũng là khuôn mẫu đạo lý Nho Giáo hun đúc cho mình đó.
    Hằng ngày mình thường ước mong kẻ khác giúp đỡ phương tiện sinh kế, nâng đỡ con cái học hành, để lời dịu ngọt đối xử với mình, cùng mong Thượng Đế tha thứ tội lỗi và ban ơn cho mình.
    Hãy lấy tất cả sự ấy ban bố và đối xử với kẻ khác. Đó là vốn luyến để dành trong kho vô tận và chắc chắn trộm cướp không lấy được, chiến tranh không tàn phá được, đó là đạo lý thông thường bậc trung cấp. Hễ có chí, ai cũng làm được hết. Làm được bực trung cấp là đã được 2/3 đoạn đường tu hành tạo Tiên tác Phật rồi đó.”

    7. Học và hành bài học thương yêu của Đại Từ Phụ để thực hành hạnh bao dung, phá chấp:
    Đức A,Ă, buổi đầu độ dẫn chư Tiền Khai đã dạy:
    “Mừng thay gặp gỡ Đạo Cao Đài,
    Bởi đức ngày xưa có bữa nay;
    Rộng mở cửa răn, năng cứu chuộc,
    Gìn lòng tu tánh chớ đơn sai.”
    Còn Đức Mẹ nhủ khuyên:
    “Thương trước phải kết liên em chị,
    Thương cần nên hiệp ý đồng tâm;
    Thương nhau xóa hết lỗi lầm,
    Tình thương chơn thật, chớ thầm oán nhau.”
    Con người thật sự đạt Đạo nơi Đấng Chí Tôn là con người rất bao dung rộng rãi vô cùng, mặc dù con người ấy trong lùm vách lá, và sớm muộn cũng cảm hóa được đời noi theo hạnh đạo, vì chỉ có trình độ ấy mới hoàn toàn đi đúng theo chủ đích của Thầy.
    Nói như vậy vì căn bản giáo lý Đại Đạo là như vậy.
    Chớ hiện hữu giả sử trước mặt chư hiền đệ hiền muội là một người không tin theo đạo lý, đối kháng với mình bằng những luận điệu cố tình xuyên tạc, thì thử hỏi trong lòng mình, ngoài sắc diện mình có thay đổi bằng trạng thái bất bình chăng. Đó là chuyện cố nhiên rồi.
    Nhưng luyện tập làm sao không còn như vậy mà là vượt lên cái cá tính thường tình của luận điệu này, luận điệu nọ, giáo thuyết này, giáo thuyết kia.
    Bởi vì Đạo, nếu cảm hóa được người, được hay không thì thôi, chớ không bao giờ tỏ vẽ đối nghịch với ai.”
    8. Không Nên Cầu Ơn Trên Giảm Tội cho người đã phạm luật Thiên điều:
    Có điểm cần lưu ý: Thiêng Liêng thường khuyên chúng ta mở lòng khoan dung tha lỗi cho người khác nhưng lại không nên cầu xin Bề Trên chế giảm tội của người đã bị ghi lỗi ở Thiên điều nếu phần âm chất của bản thân chưa được sâu dầy.
    Thí dụ:
    8.1. Đức Bát Nương khuyên:
    “Vậy thì các em phải giữ lấy phận mình. Chị nghĩ cũng chưa kham, đừng thày lay cầu tội giùm cho kẻ khác. Chị rất cám cảnh, nhưng Thiên điều định vậy, biết liệu làm sao? Tự nơi chị Ứng Quân tự mình giải thoát.”
    8.2. Trường hợp cầu nguyện cho thân nhân quá vãng. Kiên trì đọc kinh là việc cần làm để vong linh được giảm bớt phần nghiệt chướng nhưng cũng cần nhớ là dù sao mình đã chia sớt âm chất cho thân nhân vì thế cần phải cố gắng làm thêm nhiều âm chất hơn nữa!
    “Bần Nữ vì cảm thương lòng thành của thiện tín mà chỉ dẫn cho đôi điều. Từ đây, thiện tín khá luôn luôn tụng Di Lạc Chơn Kinh cho người. Phải luôn tụng Cầu Siêu và Cầu Hồn đặng rửa bớt sự nặng nề cho vong linh. Còn âm chất thì càng nhiều lại càng hay. Phương độ rỗi ấy là nhờ nơi lòng hiếu nghĩa của thiện tín mà làm giảm bớt phần nghiệt chướng nơi cõi thiêng liêng cho nhũ mẫu thiện tín. Nhưng thiện tín cũng nên biết rằng, khi đã độ rỗi được vong linh kẻ tội lỗi thì âm chất của thiện tín cũng đã sang bớt cho vong linh ấy chút ít rồi. Như vậy, thiện tín cần phải lập công đức thêm đặng bù vào chỗ đã mất. Đó là chỉ nói về sự độ rỗi vong linh của kẻ thân thuộc mà thôi.”

    III. KẾT LUẬN

    - Đức Quan Thánh có dạy:
    “Có nhiều bậc Phật, Tiên, Thánh, Thần trước kia cũng mang thể xác làm người, cũng lâm vấp những thói hư tật xấu như ai, nhờ biết khiêm tốn học hỏi, biết phục thiện để chừa lỗi, chấp nhận lời lành, ý hay, lẽ tốt, để trau sửa bản tâm, rèn luyện bản tánh mới có thể tiến hóa lần từ kiếp người đến Thần Thánh Tiên Phật.”
    - Vậy đã là con người tránh sao lỗi lầm cho đặng. Quan trọng là biết nhận lỗi, phục thiện thì đó là tu vậy. Hơn thế nữa, biết quan tâm, thương yêu để sẳn sàng rộng lượng bao dung, giúp người khác cùng nhau tiến bộ, cùng xây dựng một thế giới đại đồng là một trong những điểm chúng ta phải nắm vững và thực hành. Đó cũng là ý nghĩa lời dạy của Ơn Trên xuyên suốt qua Ngũ Nguyện nói chung và lời nguyện thứ ba nói riêng. Tín hữu Cao Đài chúng ta dầu thuộc chi phái nào đi nữa, để được Thầy Mẹ và các đấng Thiêng Liêng xá tội hãy cố gắng tu học và hành đạo theo lời dạy sau:
    ▪ “Các em ôi! đã biết Đạo bao trùm từ kẻ thiện người ác, từ kẻ gọi là văn minh xán lạng cho tới kẻ bán khai đần độn thì còn câu nệ chi ở danh tướng trần gian. Hãy trả lại cho lòng mình sự yên tỉnh vô tư và trả lại cho lòng nhân thế sự thuần nhiên tin tưởng trên công cuộc phổ độ và tu hành. Những gì xấu xa tội lỗi, các em hãy chừa bỏ với tấm lòng dứt khoát sự tu phục thiện, dù cho đối với sự lầm lẫn tội lỗi của người cũng vậy. Các em đã nguyện với Thầy là "xá tội đệ tử" ở câu nguyện thứ ba. Ý rằng nhắc nhỡ các con tha thứ lỗi cho kẻ khác, cho đồng đạo trước khi Thầy tha lỗi cho mình.”
    ▪ “Đối với tất cả mọi người chung quanh mình, từ trên tới dưới, từ lớn tới nhỏ, đều sẵn sàng khoan dung, tha thứ dù ai gây lỗi với mình cũng vậy. Một khi biết cầu khẩn Đấng Chí Tôn tha thứ lỗi lầm của mình, thì mình hãy thể theo lòng từ ái của Ngài để tha thứ anh chị em của mình tại thế gian. Vì thế gian không phải là cõi hoàn toàn thánh thiện nên lắm điều còn ô trược tránh sao không vấp phải lỗi lầm hoặc nhiều hay ít cũng vậy.
    Sự tha thứ, lòng từ bi bác ái không giới hạn ở đâu, nghĩa là vô biên. Chớ chẳng phải chỉ tha thứ, chỉ bao dung rộng lượng đối với hạng dưới tay thân thuộc của mình mà không tha thứ bao dung đối với kẻ thù nghịch, vì là con chung của Đấng Cha lành, với người bất nhơn thất đức. Có được hạnh như vậy thì mới tiến được giai đoạn nữa là câu thứ tư Thiên Hạ Thái Bình.”
    “Hễ hướng đạo trọng về đức độ,
    Là đàn anh mọi chỗ dung hòa;
    Vì người chớ nệ thân ta,
    Vì Thầy, vì đạo có ta có người.
    Con tội lỗi đành đời con chịu,
    Vết thương lòng con hiểu Mẹ chăng?
    Thế nên đồng đạo hữu bằng,
    Thấy người tội lỗi lòng hằng thiết tha.
    Cử chỉ ấy mới là bác ái,
    Cảm tình kia đem lại thương yêu;”









    TỨ NGUYỆN THIÊN HẠ THÁI BÌNH

    I. Ý NGHĨA
    II. THỰC HÀNH
    1. Thái bình thiên hạ không thể tự nhiên có được mà phải do con người phải tạo ra.
    2. Mỗi người phải bắt đầu từ chính mình: Phá Chấp để xây dựng thái bình nội tại.
    3. Thái bình chỉ có khi mọi người đều lương thiện
    4. Đường Đạo Đức Chính Nghĩa: Đạo Đời phối hợp thực thi để gieo giống lành, diệt mầm háo sát.
    5. Cùng chung lối tiến, đoàn kết quy nhứt
    6. Người lớn phải làm gương
    7. Thái bình chỉ có được khi con người vượt ra được khỏi tình dân tộc để hướng về Đại Đồng Nhân Lọai
    III. KẾT LUẬN







    Thái bình là ước mơ muôn thuở của nhân loại. Nhưng ở thời kỳ Hạ Nguơn Mạt kiếp này, hầu như chẳng có nơi nào có được cảnh thái bình mặc dầu nơi đó không có chiến tranh và đang ở vào giai đoạn kinh tế sung túc nữa. Vậy thì cái gốc, cơ sở nền tảng để thiên hạ có được thái bình là gì?

    I. Ý NGHĨA

    1. Từ ngữ
    - Thiên hạ: nhơn sanh trên toàn thế giới.
    - Thái bình: hết sức bình yên, an vui.
    2. Ý nghĩa
    Nguyện làm cho nhân loại được hưởng an bình tuyệt đối.

    II. THỰC HÀNH

    1. Thái bình thiên hạ không thể tự nhiên có được mà phải do con người phải tạo ra.
    Đức Quan Thế Âm có dạy:
    “Có phải là lòng thương người thương vật của người tín hữu Cao Đài muốn cho nhơn loại được an hưởng trong cảnh thái bình, an cư lạc nghiệp.
    Và cũng gợi cho người tín hữu hiểu rằng không phải cảnh thái bình tự nhiên ai đem đến bố thí cho nhân loài mà nhân loại phải tự tạo lấy cho mình.”
    2. Mỗi người phải bắt đầu từ chính mình. PHÁ CHẤP để xây dựng THÁI BÌNH NỘI TẠI.
    Mỗi người hãy tự cứu và gầy sự cứu cánh ra ngoài xã hội đến khắp hoàn cầu.
    “Mỗi khi cõi lòng của con người - thiên hạ không còn chút vương vấn những thiên vị, những cố chấp bởi hoàn cảnh, bởi nhơn tâm chung quanh thì tự nhiên sự bình tĩnh được phục hồi, không bận không lo điều sái lẽ phải, điều thiệt lẽ hơn, cái thua cái được, niềm thương nỗi ghét. Thái Bình lúc ấy được lập lại nơi nội tâm con người vậy. Rồi con người cộng với hằng hà sa số con người thì ra thiên hạ. Khi mỗi thiên hạ được thái bình trong lòng rồi thì thế giới thiên hạ đang ở sẻ không còn hỗn loạn phân ly xung đột với nhau nữa.
    Sở dĩ con người không được thái bình nội tại vì có tâm chấp trước.
    Một đàng thì muốn về Niết Bàn Cực Lạc hay Bạch Ngọc Kinh hưởng phước đời đời, một đàng thì muốn công danh chức tước vinh thân phì da, và đàng khác lại sợ sa vào địa ngục chịu đọa đày đời đời. Hỏi vậy con người nhiều dục vọng tham lam như thế, nội tâm có được thái bình chăng? Dĩ nhiên là không vậy!”
    Như thế
    3. Thái bình chỉ có khi mọi người đều lương thiện:
    Vậy con người
    . Phải dẹp trừ DỤC VỌNG THAM LAM.
    . Rèn luyện các đức tính: Công Bình - Bác Ái - Từ Bi.
    “Muốn được thái bình trước nhất mọi người phải lương thiện. Có đức tánh công bằng của Nho Giáo, những gì mình không muốn thì không làm việc ấy cho người khác. Có đức tánh bác ái của đạo Lão là lòng thương đời vô biên, không điều kiện, mong dìu dẫn họ lại đường chánh lẽ chơn. Thương mọi người như thương gia đình quyến thuộc mình, dù kẻ ấy là thù địch với mình. Phải có đức từ bi của đạo Phật, luôn luôn khởi lòng trắc ẩn trước nỗi đau khổ của người khác mà tìm phương ban vui cứu khổ cho họ.
    Nếu muốn cho mọi người đều có đức tánh ấy, phi trừ giáo lý đạo Cao Đài không có giáo thuyết thứ hai.
    Những giáo lý do Chí Tôn đã vạch sẳn mà người đạo Cao Đài không đem phổ truyền cùng khắp, tìm cách cảm hóa phổ độ người đời biết được. Đừng ỷ câu "hữu xạ tự nhiên hương". Đó là điều kiện đem lại thiên hạ thái bình.
    Chớ trong lúc nhân sanh chưa hiểu đạo, chưa có công bằng, chưa có lòng thương kẻ khác, một xã hội toàn đa số là người bất lương, giàu hiếp nghèo, mạnh lấn yếu, ỷ chúng hiếp cô, khôn hiếp dại, điêu ngoa xảo trá, xây dựng vinh hoa phú quí trên cảnh đau khổ cùng đinh và xương máu của kẻ khác. Thử hỏi xã hội như vậy có đem lại được cảnh thái bình cho thiên hạ không? Đó là nhiệm vụ nặng nề căn bản của người tín hữu Cao Đài.”
    4. Như vậy con người phải đi đúng con đường Đạo Đức Chính Nghĩa: Đạo Đời phối hợp thực thi để gieo giống lành, diệt mầm háo sát.
    Muốn được vậy phải đem Chơn Lý Đại Đồng, phổ truyền đạo đức làm cho mọi người thấm nhuần. Nhiệm vụ căn bản là phổ truyền giáo lý "giáo dân vi thiện". Nhưng không phải đạo đức cứu cánh suông. Đức Giáo Tông dạy:
    “Chư hiền phải quan niệm thế nào để thái bình thiên hạ? Chỉ đem chơn lý Đại Đồng phổ truyền đạo đức làm cho mọi người đều thấm nhuần hai tiếng thái bình mà Đạo Đời phối hợp thực thi để gieo giống lành diệt mầm háo sát.
    Muốn được thiên hạ thái bình, chư hiền đã là người đạo thì phải tự cứu trước đi. Khi tự cứu được mới gầy ra sự cứu cánh ấy từ gia đình lẫn xã hội, quốc gia đến hoàn cầu nhơn loại. Điều quan trọng là không lấy đạo đức cứu cánh suông. Để đem lại thái bình thiên hạ phải biết đi đúng tầm hoạt động ĐẠO ĐỨC CHÁNH NGHĨA ĐẠI ĐỒNG. Có như vậy tình thương nhân loại được sâu rộng khắp trần gian. Được như vậy nhơn loại mới thoát khỏi chinh chiến là họa tận diệt thế gian. Biết khai thác Chơn Tâm, Chơn Ý, Chơn Tánh thì việc cầu nguyện thiên hạ thái bình rất hữu hiệu.”
    Con đường đạo đức chánh nghĩa phải có tính đại đồng thực tiễn chứ không chỉ là “đạo đức cứu cánh suông”. Nói một cách khác, phải có những hoạt động phối hợp thực tế giữa tôn giáo và xã hội hầu mang lại những lợi ích cụ thể cho đời sống nhân sinh song hành cùng nền tảng văn minh đạo đức tinh thần.
    5. Cùng chung lối tiến, đoàn kết quy nhứt
    ▪ “Biết chọn đường đi lối tiến nhưng lối tiến ấy phải là lối tiến cùng chung chớ không phải là lối tiến rẽ bước chia đàng. Có cùng chung để anh ngã em nâng, chị dìu em bước. Con hằng nguyện Đại Đạo hoằng khai, phổ độ chúng sanh cho thiên hạ thái bình. Nhưng muốn được thái bình phải trong đường lối quy nhứt đoàn kết thương yêu.”
    6. Người lớn phải làm gương
    ▪ “Người đời thường ao ước đến bao giờ hưởng được cảnh thái hòa an lạc như cha lành, con thảo, vợ hiền, tôi ngay, nhà không đóng cửa tài sản vẫn còn nguyên, ngoài đường của rơi không người lượm lấy. Nếu ước suông như vậy chẳng khác nào người chủ vườn muốn được một huê viên toàn là hoa huệ, hoa cúc, nhưng chính mình chỉ ước suông mà không lo tìm hột cúc, hột huệ đem gieo… Nếu người cha trong một đơn vị gia đình biết lo bổn phận làm chồng làm cha cho phải đạo, nếu người vợ trong gia đình biết lo hoàn thành bổn phận tề gia nội trợ giúp chồng nuôi con, nếu trong anh chị em cùng gia đình được thuận hòa hiếu thảo, nếu giữa con người và con người cùng quí mến thương yêu tôn trọng danh dự tài sản cho nhau, cảnh thái bình an lạc tự nhiên đã sẵn có rồi, không cần phải đi tìm kiếm vận động từ Đông sang Tây, Từ Nam sang Bắc. Mỗi người có được ý thức như vậy, không phải tự dưng mà có. Một quốc gia muốn được vậy, người cầm đầu phải làm gương trước nhứt. Một gia đình muốn được vậy, người cha là chủ gia đình phải làm gương trước nhứt. Chủ một quốc gia hay chủ một gia đình cũng thế. Muốn cho nhân dân hưởng ứng, muốn cho con cháu noi theo ý chí của mình thì chủ nhân ông ấy phải tạo điều kiện cho thiên hạ làm theo. Trong lãnh vực Đạo Giáo cũng thế. Người lãnh đạo tinh thần nên làm gương trước để nhân sanh tín hữu nhìn đó làm theo.”
    Mọi người phải giữ được sự Thanh Tịnh. Diệt trừ được lục dục thất tình, tham-sân-si.
    7. Thái bình thiên hạ chỉ có được khi con người vượt ra được khỏi tình dân tộc để hướng về Đại Đồng Nhân Lọai
    “Lòng Từ Mẫu vô cùng vô tận,
    Đức Từ Tôn khó nhận khôn lường;
    Không lãnh vực, không biên cương,
    Bao trùm vũ trụ tình thương vạn loài.
    Ôi! thế sự ngày nay không thế,
    Lòng chúng sanh càng kể càng đau;
    Tình thương biết nghĩ làm sao?
    Hố thù vực hận không đào mà sâu.
    Cùng một nhà thương nhau đùm bọc,
    Cùng một đoàn chí dốc đỡ nâng;
    Binh nhau vì một giống dân,
    Giúp nhau vì một tình thân đạo đồng.
    Ngoài gia đình thì lòng không nghĩ,
    Ngoài tập đoàn không ý giúp vùa;
    Không tình dân tộc không ưa,
    Không đồng tôn giáo, không vừa tình thương;
    Lý do đó tạo đường nghiệp quả,
    Thế nhân rồi mất cả từ tâm.
    Dàm danh khóa lợi giam cầm,
    Làm sau nhơn loại muôn năm thái bình.”

    III. KẾT LUẬN

    ▪ “Muốn thế giới được hòa bình, càn khôn được an định thì mỗi người phải hoàn toàn hướng về đạo đức, phải tìm suốt lý uyên thâm của đạo để an định nội tâm. Khi nội tâm an định thì ngoại cảnh dù có xao động cách nào cũng không làm cho con người phải đảo điên trong kiếp nạn... ...
    Vì thế nên chư đạo hữu hãy nhắm vào nhân bản để tiến bước trên đường tu học cũng như quảng truyền giáo lý đạo đức mà từ bấy lâu chư đạo hữu hằng theo dõi. Muốn đặt tương lai cho vạn dân được ổn định, cho quốc thới dân an thì mỗi người phải tập trung ý chí đồng nhứt trên tinh thần truyền bá đạo đức, mỗi người mỗi trách nhiệm nhưng chung qui muôn dòng cũng trở về bể cả.”
    ▪ “Cũng nên lập lại rằng: Muốn cho quốc gia thạnh trị, nhân dân cộng hưởng an lạc thái hòa, thì phải tạo điều kiện thánh thiện trong lòng mọi người. Nếu cấp lãnh đạo một quốc gia tự đảm nhận lấy trách nhiệm xem mình như ông cha trong một nước, biết lo chăm sóc đến no ấm học hành, sức khỏe, hạnh phúc của nhân dân như chính con cháu của mình trong gia đình…
    Trong lãnh vực Đạo Giáo cũng thế. Người lãnh đạo tinh thần nên làm gương trước để nhân sanh tín hữu nhìn đó làm theo.”













    NGŨ NGUYỆN THÁNH THẤT AN NINH

    I. Ý NGHĨA
    1. Từ ngữ
    2. Ý nghĩa câu kinh:
    II. THỰC HÀNH
    1. Hành Thánh Sự theo Thánh Ý với Thánh Tâm đúng theo Tôn Chỉ, Lập Trường của Đại Đạo
    2. Phải lo tu tâm sửa tánh
    3. Phải Tu thiệt, hành đạo chơn chánh, lấy chữ HÒA làm trọng
    4. Gìn giữ cho được những bửu vật cố hữu của con người
    5. Ý thức và thực hiện sự cân đối giữa nhu cầu phát triển và cân bằng của môi sinh
    6. Phần hành tổ chức đúng theo quyền pháp
    7. Tăng cường việc giáo dân vi thiện
    III. KẾT LUẬN






    Lâu nay phần đông tín hữu Cao Đài chúng ta khi đọc câu “Ngũ nguyện Thánh thất an ninh”, thường chỉ suy nghĩ đơn giản là cầu nguyện cho Thánh sở của mình được an ninh trật tự nhất là trong hoàn cảnh chiến tranh, loạn lạc, v.v… Hiểu như thế chỉ đúng được một phần nhưng tất nhiên vẫn chưa đủ!
    Trong thật tế từ khi có việc phân chia chi phái, câu kinh này đã nhiều lần được thay đỗi. Thí dụ:
    - Kinh LỄ GIÁO THƯỜNG HÀNH (Đạo Lễ và Gia Lễ) của Thánh thất Cầu Kho và Thánh thất Tam Quan – Bình Định phát hành năm 1939, nơi trang 14 ghi là: “Ngũ nguyện: siêu độ huyền linh”.
    - Với Hội thánh Tiên Thiên:
    . Khởi đầu trong quyển Nhựt Thời Kinh (1948) ghi là: “Ngũ nguyện Thánh đức an ninh”.
    . Về sau đổi lại: “Ngũ nguyện Tịnh thất an ninh”.
    - Giữa thập niên 60, Giáo Hội Cao Đài Thống Nhất chỉnh lại thành: “Ngũ nguyện Đại Đạo Quy Nguyên”.
    - Có dịp tham dự cúng ở một số nơi khác, chúng ta lại nghe đạo hữu nơi địa phương đó đọc nào là “Ngũ nguyện Thánh tịnh” hay “Ngũ nguyện Thánh Tòa”, v.v…
    Có lẽ thấy chúng sanh tín hữu Cao Đài chúng ta đã biến cải câu kinh cuối của bài Ngũ Nguyện khá đa dạng vì chưa hiểu được Lý Đạo sâu sắc của câu kinh gốc nguyên thủy, cho nên trong ý nghĩa gầy dựng sự thống nhất tinh thần cho toàn đạo, đã có nhiều đấng Thiêng Liêng giáng cơ giải thích.
    Chúng ta hãy tìm đọc những lời dạy của các Đấng Thiêng Liêng về ý nghĩa của câu nguyện thứ năm nầy để rộng đường học hiểu và hành. Đức Quan Âm có dạy:
    "Thông thường chư đệ muội hiểu nghĩa rất hẹp là cầu nguyện cho Thánh Thất là chỗ thờ phượng được an ninh. Nếu hiểu như vậy thôi thì Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ không cần phải nêu câu ấy lên làm chi. Vậy chớ người đời mỗi lần đến lễ Phật dâng hương đăng hoa quả kèm theo đó xin Phật phù hộ đủ điều có khác chi đâu?”

    I. Ý NGHĨA

    1. Từ ngữ:
    Trước hết chúng ta tìm hiểu nghĩa của từ Thánh Thất
    Chúng ta hãy đọc tiếp các đoạn Thánh giáo sau:
    ▪ “Chư hiền đệ muội phải hiểu như thế nầy: Thánh Thất gồm có Bát Quái, Cửu Trùng và Hiệp Thiên Đài. Thánh Thất cũng là tượng trưng cho hình thể Chí Tôn Đại Từ Phụ trong có cả Thượng Đế đến vạn linh (...). Thánh Thất cũng tượng trưng cho lớn nhất là vũ trụ, nhỏ nhất là bản thân cá thể của con người cho đến từ cá thể côn trùng thảo mộc bò bay máy cựa nữa. Nếu vũ trụ chẳng an ninh, cơ sanh hoá không thể trưởng thành; guồng máy cai trị nhà nước nếu chẳng an ninh thì xáo trộn từ đầu não chỉ huy đến hạ tầng quần chúng; gia đình nếu chẳng an ninh thì làm sao an cư lạc nghiệp hạnh phúc được; bản thân nếu chẳng an ninh thì đời người như mất hết chín phần mười. Như vậy an ninh là nhu cầu cần thiết cho tất cả mọi giới mọi lãnh vực.” .
    Một lần khác, đức Quan Âm dạy tiếp:
    ▪ "Thánh Thất nơi đây không có nghĩa nhỏ hẹp riêng của ngôi Thánh Thể thờ Đức Chí Tôn, gồm Bát Quái, Cửu Trùng và Hiệp Thiên. Ngoài cái nghĩa nhỏ hẹp ấy còn có nghĩa rộng hơn nữa. Thánh Thất là nhà Thánh. Hễ nhà Thánh là nhà của các chư Thánh hội họp thảo luận mọi việc theo Thánh Ý để hành Thánh Sự theo tôn chỉ Đại Đạo”
    Vậy:
    - Thánh Thất: Là Thánh Thể của Chí Tôn (Tam Đài): tượng trưng cho (vũ trụ, chúng sinh, con người). Là Nhà của các Thánh.
    - An ninh: là trật tự, yên ổn, không nguy hiểm.
    Để có được an ninh, Thánh thất phải thực hiện chức năng của mình là một “Trường Đạo giáo dân vi thiện”. Đức Phan Thanh Giản có dạy:
    “Thánh thất là một chỗ ngự trụ to lớn của các bậc Thiêng Liêng và cũng là một nơi học hỏi của tín đồ tất cả. Nó là một nơi của tín đồ giao cảm cùng Thần Tiên mà cũng là nơi Thần Tiên dạy Đạo cho tín đồ.”
    2. Ý nghĩa câu kinh:
    Nguyện làm cho:
    . Toàn thể Hội Thánh, Thánh Sở được thuận hòa.
    . Toàn thể tín hữu được tráng kiện (xác, hồn).
    . Càn Khôn an tịnh.

    II. THỰC HÀNH

    1. Hành Thánh Sự theo Thánh Ý với Thánh Tâm đúng theo Tôn Chỉ (Công bình, Bác ái, Từ bi), Lập Trường của Đại Đạo (Đạo Đức chánh nghĩa thuần túy) .
    Đức Lý Giáo Tông dạy:
    “Muốn được Thánh Thất an ninh chư hiền phải đi đúng theo đường lối Chánh Nghĩa Đạo Đức thuần túy. Muốn được an ninh thêm phần bảo vệ tự do tín ngưỡng, nếu Thánh Thất mất an ninh thử hỏi tín ngưỡng có được tự do hay còn giữ được nơi sùng bái chăng vậy?"
    Còn Đức Quan Âm dạy:
    “Như vậy an ninh là nhu cầu cần thiết cho tất cả mọi giới mọi lãnh vực. Chư hiền đệ muội là người tầm đạo tu thân, cũng hoài vọng an ninh. Nếu thậm đa tửu nhục thì ngũ tạng lục phủ mất an ninh. Nếu thậm đa sắc dục thì bản thân cũng mất an ninh. Nói rộng ra một chút, như người sử dụng các loại xe không thi hành đúng luật đi đường, đó là tự mình làm mất an ninh cho mình.
    Trên đường đạo hoặc đường đời cũng thế, nào khác chi đâu mọi sự kiện xảy đến cho mình, đa số là tự mình gây nên, chỉ thiểu số từ ngoại cảnh đưa đến mà thôi. Cái ngoại cảnh ấy cũng do ảnh hưởng phần nội tâm mà ra, chứ không hoàn toàn là rủi ro từ đâu đưa đến. Nếu thiếu đức, ngoại cảnh mới xâm vào. Chư hiền đệ muội thử nghĩ: có bao giờ những người chân tu đạo đức mà lại gặp những bạn tửu nhục đạo tặc đến rủ ren hay trái lại, có bao giờ những người đổ bác đạo tặc mà có người bạn văn nhân, sĩ khí đến bao giờ."
    2. Vậy Phải lo tu tâm sửa tánh:
    Không như phàm phu tục tử hờn giận, ghen ghét, đố kỵ, không tranh chấp hơn thua, tranh giành quyền lợi, không làm điều phi pháp.
    Đức Quan Âm dạy tiếp:
    “Thánh Thất là nhà Thánh. Hễ nhà Thánh là nhà của các chư Thánh hội họp thảo luận mọi việc theo Thánh Ý để hành Thánh Sự theo Tôn Chỉ Đại Đạo. Đừng tưởng rằng mình còn phàm trần nhục thể không khi nào dám nghĩ đến nghĩa ấy. Vì người tín hữu mà hằng ngày thảo luận âu lo việc làm theo Thánh Ý, mở mang được Thánh Tâm để thực hành được Thánh Sự đó là Thánh tại phàm rồi còn gì nữa? (...) Chỉ e rằng mình ở trong nhà Thánh nhưng ý còn phàm phu tục tử, hờn giận, ghen ghét đố kỵ, ố nhơn thắng kỷ, nói việc chẳng lành, làm việc chẳng lành. Như vậy mới không xứng đáng là chớ."
    3. Phải TU THIỆT, hành đạo chơn chánh, lấy chữ HÒA làm trọng.
    Cách hành xử đúng đắn hợp qui tắc của cộng đồng.
    4. Mỗi người phải ý thức và hành động hầu tạo cân bằng cho mỗi cá nhân ở các mặt như:. Vật chất và tinh thần.
    . Nhu cầu cá nhân với lợi ích xã hội.
    . Âm dương trong cơ thể. “Gìn giữ những bửu vật cố hữu của con người.”
    "Ngày vui nhận điều lành trước mắt,
    Giờ công phu ngưỡng đặc ân linh;
    Đoạn trừ nhãn dục thường tình,
    Trưởng thành nhãn huệ an ninh đắc truyền.”
    ▪ “Mới nghe qua những ai tò mò đều lấy làm ngạc nhiên tại sao Đại Đạo Cao Đài chủ trương: Vạn Giáo Nhứt Lý, Đại Đồng Nhơn Loại mà chỉ cầu nguyện cho Thánh Thất, Thánh Tịnh, Hội Thánh mình an ninh yên lành thôi! Không phải như vậy đâu chư hiền đệ muội. Như chư hiền đệ muội đã hiểu Thánh Thể của Đức Chí Tôn gồm ba phần: Bát Quái Đài, Hiệp Thiên Đài và Cửu Trùng Đài. Ba đài hiệp lại thành một Thánh Thể chung, Thánh Thể hữu hình tượng trưng cho guồng máy Đại Đạo xoay vần trong Càn Khôn Thế Giới. Vì nếu hầu hết con người trên thế gian đều chấp nhận cái hình thức Thánh Thể ấy để đạt được cái Lý Siêu Nhiên của Trời của Đạo, gìn giữ được những bửu vật cố hữu của con người muôn thuở thì Càn Khôn sẻ được an tịnh Thế Giới sẻ được an ninh, phong hòa vỏ thuận, thế giới an khương.”
    5. Mọi người phải ý thức và thực hiện sự cân đối giữa nhu cầu phát triển và cân bằng của môi sinh. (bảo vệ môi trường sinh thái).
    6. Phần hành tổ chức đúng theo quyền pháp.

    An ninh chỉ có thể có khi phần lớn mọi việc đang diễn ra đúng theo khuôn khổ của tổ chức quyền pháp. Còn ngược lại, thì sự rối loạn sớm muộn gì cũng sẻ đến.
    “Một tổ chức từ nhỏ đến lớn cũng phải có Quyền Pháp. Nếu không quyền pháp điều hành vận chuyển thì các khối tinh cầu trong vòng luân chuyển sẻ đụng nhau thì vũ trụ nầy mất an ninh. Còn các phần hành của mỗi tổ chức không theo quyền pháp thì tổ chức đó bị loạn”
    7. Để có được những điều căn bản vừa nêu trên, vấn đề giáo dục và truyền thông đóng vai trò hết sức quan trọng.
    Vì thế chúng ta phải tăng cường việc giáo dân vi thiện qua các hình thức thuyết minh, các chương trình sinh hoạt giáo lý hay phổ biến rộng rải tài liệu kinh sách đến với mọi người. Mỗi Thánh thất phải thật sự là trường Đạo giáo dân vi thiện. Đức Đông Phương dạy:
    “…… Giáo dân vi thiện, cải tạo tư tưởng con người để trở nên hàng hiền nhân quân tử và thánh thiện ở cõi đời này, thiết lập một xã hội nhân loại an bình, trong đó lấy đạo đức nghĩa nhân từ bi bác ái vị tha công bình làm căn bản để giúp cho đời sống nhân sinh biết tinh thần tương thân tương ái đồng tiến đồng hưởng với nhau trong cõi đời thanh bình an lạc. Đời chỉ được hưởng thái bình an lạc chỉ khi nào các phần tử trong đại toàn thể xã hội loài người có lương thiện và toàn thiện. Cõi đời phần nhục thể đời sống xã hội loài người có bảo đảm được an ninh trong công bằng bác ái từ bi thì con người mới mong tiến triển về mặt đạo đức.”

    III. KẾT LUẬN

    Đức Quán Thế Âm dạy:
    “Như vậy an ninh là nhu cầu cần thiết cho tất cả mọi giới mọi lãnh vực.(…)
    Như vậy là nội tâm mỗi người được thuần chơn đúng đắn sẻ có ngoại cảnh an lành tốt đẹp trợ duyên. Nội tâm sẵn dành chỗ phụng thờ Thượng Đế hoài bảo những việc làm của Thượng Đế, thì không còn chỗ nào trống đề tà mị lấn chen (...) Hễ tu thì phải làm cho đúng nghĩa người tu. Nếu làm sai Tôn Chỉ Mục Đích của nó, đó là tự mình làm mất an ninh cho mình cũng như cho tập thể. Dầu có nguyện năm bảy trăm câu cũng chẳng ích gì, lựa là một câu."
    - Điển quang của thiền định tập thể góp phần an định Càn Khôn, giúp giảm thiên tai. Đức Đông Phương dạy:
    “Muốn chống thiên tai sát kiếp thì phải phát tâm công phu thiền định. Tọa công ngồi tại đạo tràng mà phóng tinh thần gieo rải thiện duyên kết hợp với huyền linh ân điển xua đẩy sát khí. Tư tưởng càng mãnh liệt, hung sát tự khắc thối lui. Thiền định càng thâm, càng giải phóng cứu người càng dễ.”
    Và Đức Như Ý Đạo Thoàn Chơn Nhơn có tóm lược Ngũ Nguyện tại Vĩnh Nguyên Tự (Cần Giuộc) như sau:
    [CENTER]“Nam mô nhứt nguyện Đại Đạo Hoằng Khai,
    Vì đời nào ngại chông gai dữ lành.
    Nhì nguyện phổ độ chúng sanh,
    Quyết đem hoằng hóa đạo lành giáo dân.
    Tam nguyện xá tội bản thân,
    Khoan dung, phá chấp cõi trần vô minh.
    Tứ nguyện thiên hạ thái bình,
    Tịnh tâm chế động muôn nghìn trái oan.
    Ngũ nguyện Thánh Thất bằng an,
    Hai ngày sóc vọng đăng đàn thuyết minh.
    Trấn an tâm đạo nhân sinh,
    Vai trò hun đúc đức tin đạo đồng.”
     

    TỔNG KẾT PHƯƠNG TU KỲ BA
    NGŨ NGUYỆN và TAM CÔNG

    Tam Công là Tân Pháp mà bất cứ người tín hữu Cao Đài nào cũng đều phải thực hành với phạm vi và mức độ tùy theo căn trí của mỗi người.
    1. Khi chúng ta góp phần Hoằng Khai Đại Đạo, làm cho nhơn sanh “biết Thầy, hiểu Đạo” rồi thực hành “sống Đạo” yêu thương nhau và thương yêu sanh chúng là chúng ta đang góp phần làm cho thế gian này dần dần trở thành khu vườn địa đàng.
    Hiểu Đạo rồi chúng ta sẻ tích cực tu thân và Công quả, độ dẫn nhơn sanh trên cả 2 mặt nhân sinh và tâm linh.
    Như vậy khi thực hiện theo ý nghĩa của 2 câu nguyện số một và số hai, chúng ta đang đắp nền Công quả - Công đức trên đường thực thi sứ mạng Kỳ Ba.
    2. Bài học yêu thương Thầy đã ban trao và Mẹ Vô Cực Từ Tôn hằng khuyên nhủ, dặn dò ghi nhớ thực hành.
    Thế gian này thời Hạ Ngươn dẫy đầy nghiệp chướng, là chốn gian nan nguy khốn với nhiều hình thức cám dỗ chúng ta. Không ai ở cõi trần gian này dám nói mình không tội lỗi! Đã từng mắc lỗi nhưng khi tỉnh thức, lương tâm ý thức thôi thúc chúng ta phải cố gắng vươn lên để không bị trễ chuyến đò chiều.
    Vì thế ai trong chúng ta lại chưa từng cầu nguyện mong sao Thầy Mẹ tha thứ cho những lầm lỗi đã gây nên bởi danh quyền trong cửa đạo mà gây lỗi với anh chị em đồng đạo, mắc lỗi với Ơn Trên!
    “Tu là sửa những gì đã trật,
    Tu là bồi cái mất thân tâm”
    Với những kinh nghiệm đau thương của bản thân, việc ăn năn sám hối tốt nhứt là mở lòng bác ái, thực hành việc khoan dung tha thứ cho người khác với ý thức “những gì mình muốn người khác làm cho mình thời hãy cố gắng làm cho họ”.
    Và bao giờ chúng ta cũng cố gắng áp dụng câu “tiên trách kỷ, hậu trách bỉ” – hãy tự trách mình trước khi trách người. Để có thể làm được như thế đòi hỏi chúng ta phải có Công trình tu tập, học hỏi và rèn luyện đức hạnh luôn luôn!
    3. Thái bình thiên hạ không thể tự nhiên mà có! Đức Vạn Hạnh Thiền Sư chỉ cho chúng ta đường lối và phương cách thực hành:
    “… hãy nhắm vào nhân bản để tiến bước trên đường tu học cũng như quảng truyền giáo lý đạo đức.”
    Cụ thể hơn, Đức Lê Đại Tiên đã dạy: phải xây dựng tinh thần Đại Đồng nhân loại:
    “Tình dân tộc đổi tình nhân loại,
    Nghĩa nước non ra nghĩa đại đồng.”
    Đường hướng giáo dục và rèn luyện đó cũng là yếu tố Công trình phải tu tập.
    Bên cạnh đó, sự an định nội tâm của mỗi người cũng cần được gầy dựng. Như vậy Công phu tịnh định cũng là điều tất yếu phải học hỏi.
    4. Muốn làm cho Thánh thất an ninh, từ cái to lớn như vũ trụ đến cái nhỏ hơn là xã hội địa cầu 68 này và những cái nhỏ hơn hơn nữa là mỗi cá thể chúng sanh, chúng ta phải thực hành việc “dung hòa Tam Công”.
    . Công quả: Hành Thánh sự theo Thánh ý với Thánh tâm đúng theo tôn chỉ, lập trường của Đại Đạo.
    . Công trình: Phải tu cho thiệt, hành đạo chơn chánh, lấy chữ Hòa làm trọng. Để nhân sanh hiểu Đạo thì các Thánh thất phải thực hiện chức năng “nhà Thánh” của mình là “Trường Đạo Giáo Dân”.
    . Công phu: Việc “tịnh tâm chế động” đón nhận Thần của Đức Chí Tôn qua Thiên Nhãn rồi công phu tu luyện cân bằng âm dương trong cơ thể để có thể điều hòa tăng cường sức khỏe của bản thân. Sau cùng hồi hướng ban rải điển lành khắp nơi nơi để góp phần điều hòa phong vũ, góp điển lực giúp càn khôn an tịnh.
    “Trong lúc tai biến loạn động xáo trộn trên hoàn cầu là một cơ hội cho đạo hữu phát tâm gieo tư tưởng sự sống tình thương đến những nơi có tai biến.
    Kết quả rất lớn mà tiến Đạo rất mau. Tu một lúc cũng bằng tu trọn đời. Dầu tu trọn đời mà không gặp cơ duyên cũng không bằng tu một ngày có cơ hội.”
    (Đông Phương Lão Tổ)
    Muốn đạt kết quả đúng mức như thế người tu Công phu phải thực hiện đúng với ý nghĩa “Trường trai tuyệt dục”. Nghĩa là phải cắt đứt mọi vọng tâm ham muốn từ: sự luyến ái tình cảm cá nhân đến danh lợi quyền trong đời sống nhứt là trong cửa Đạo và chuyển đổi những gì thuộc tư hữu sang sở hữu cộng đồng! Tam Công là phương tu căn bản của Tân pháp Cao Đài, người tín hữu nương theo đó mà lập công bồi đức. Cụ thể hơn, Thiêng Liêng gút lại 5 điểm chánh yếu qua lời Ngũ Nguyện để toàn thể tín hữu có thể dựa vào đó hầu kiểm điểm bản thân hay đạo sự của tập thể. Mỗi ngày, chúng ta cúng Tứ thời, bao giờ kết thúc thời trì tụng cũng bằng bài Ngũ nguyện. Theo việc “Đọc kinh cầu Lý” nơi đây, người tín hữu dựa vào lời kinh và ý nghĩa mỗi câu của bài Ngũ nguyện để xét lại lòng mình đã thành tâm được đến mức độ nào, rồi cố gắng thực hiện.
    Hoằng dương chánh pháp Cao Đài,
    Cắm cờ Đại Đạo công dầy nên công
    .
    Sự kết hợp nhuần nhuyễn ý nghĩa của câu kinh “Đạo gốc bởi lòng thành, tín, hiệp”, chiếc chìa khóa vạn năng, để lòng chúng ta luôn hướng đến việc thực hiện Sứ Mạng của Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ qua năm trọng điểm của bài Kinh Ngũ nguyện.
    Con quên chữ Tam Kỳ độ tận?
    Mấy mươi năm chưa nhận được sao?
    Trong năm câu nguyện làu làu,
    Nhì nguyện phổ độ thế nào đó con?
    Ba, câu sau chưa tròn sứ mạng,
    Câu thứ tư sao đặng thái bình?
    Lời Thầy nay đã phân minh,
    Nhớ câu "Đạo gốc lòng thành tín"chi?”
    Nội dung Ngũ nguyện là sự cô đọng của Tân pháp Cao Đài - Tam Công, cũng chính là phương tu hết sức hữu hiệu trên đường bồi công lập đức của tín hữu Cao Đài, góp phần thiết thực vào việc thực hiện cơ cứu độ Kỳ Ba của Chí Tôn Thượng Phụ.
    “Trong Tam giáo có lời khuyên dạy, gốc bởi lòng…”
    Người tín hữu Cao Đài khi hiểu và ý thức để tâm mình luôn hướng về chúng sanh và làm theo định hướng như thế, tức là thực hiện nhiệm vụ “Phổ độ Kỳ Ba”, cho dầu việc chưa thành nhưng chí đã thành thì con đường tiến hóa ở tương lai cũng sẻ rạng rở như lời của Đức Mẹ:
    “Một chữ Thành cũng được hồi Nguyên.”
    Ước mong qua tập sách này, trước tiên góp phần giúp cho mọi tín hữu đều nắm được yếu lý pháp môn Cao Đài và thực hành hữu hiệu mang lại lợi ích tiến hóa cho mình. Đồng thời cũng góp phần tạo dựng lòng tin, Thánh giáo Cao Đài cho dù thuộc Hội Thánh nào đi nữa cũng “đồng nhứt Lý”, bắt nhịp cầu giáo lý cho sự thống nhứt tư tưởng.
     
    KINH SÁCH THAM KHẢO

    1. Thánh Ngôn Hiệp Tuyển 1 và 2
    Thánh Ngôn Sưu Tập 1 và 2
    2. Tiên Thiên Thánh Huấn quyển XI, XI
    Thánh Huấn Hiệp Tuyển 1 và 2
    3. Thánh Truyền Trung Hưng 1, 3, 4
    4. Kinh Tam Thừa Chơn Giáo
    Phẩm Tiểu thừa và Trung thừa
    5. Đạo Lý,
    Thánh Giáo Dạy Đạo,
    Kinh Bình Minh 3 (Cao Đài Thống Nhất)
    6. Đại Thừa Chơn Giáo
    7. Tạp chí Đại Đồng
    8. Thánh giáo Minh Lý Thánh Hội
    Đạo Học Chỉ Nam
    9. Thánh giáo Cơ Quan Phổ Thông Giáo Lý

     
    Tâm vốn bất sinh bất diệt, chỉ tại chúng sinh vọng thức lại tưởng là Tâm nên hóa Tâm mê

Thread Information

Users Browsing this Thread

There are currently 1 users browsing this thread. (0 members and 1 guests)

Similar Threads

  1. NIỆM PHẬT THẬP YẾU
    By vietnamese in forum Đạo Phật
    Trả lời: 15
    Bài mới gởi: 02-08-2016, 04:12 PM
  2. BỬU SƠN KỲ HƯƠNG - TÁC GIẢ VƯƠNG KIM
    By vankhuc in forum Bửu Sơn Kỳ Hương
    Trả lời: 9
    Bài mới gởi: 22-07-2012, 04:47 PM
  3. Trả lời: 0
    Bài mới gởi: 09-09-2011, 11:38 AM
  4. Trả lời: 2
    Bài mới gởi: 07-04-2011, 05:37 PM
  5. Trả lời: 1
    Bài mới gởi: 11-01-2011, 11:36 AM

Bookmarks

Quyền Hạn Của Bạn

  • You may not post new threads
  • You may not post replies
  • You may not post attachments
  • You may not edit your posts
  •