HỌC VI NHÂN SƯ, HÀNH VI THẾ PHẠM
Những bài khai thị buổi sáng của Hòa thượng Tịnh Không
Chuyển ngữ theo bản in của Vân Lâm Tịnh Tông Học Hội, tháng 9-2003

TẬP II
Mục Lục


A.Khai thị về phương pháp tu trì
1. Ðến cũng không không, đi cũng không không
2. Phương pháp khai ngộ
3. Khỏe mạnh là căn bản của việc tu đạo
4. Làm thế nào mới được công phu đắc lực
5. Làm thế nào hàng [phục] ma
6. Làm thế nào để đối xử hòa mục với tất cả chúng sanh
7. Nói chuyện với đồng tu tại Niệm Phật Ðường
8. Học Phật tức là học làm người
9. Cầu cảm ứng
10. Làm đệ tử Di Ðà
11. Mở rộng tâm lượng, bao dung kẻ khác
12. Người làm công tác giáo dục xã hội tình nguyện.
13. Căn nguyên của bịnh tật
14. Phương pháp tu hành
15. Làm thế nào để tiêu tai miễn nạn
16. Lý của việc niệm Phật thành Phật
17. Nhìn thấu, Buông xuống
18. Làm thế nào để giữ gìn công phu
19. Khống chế và chiếm lấy
B. Luận sự tử sanh trọng đại
1. Tử sanh đại sự
2. Kể chuyện vãng sanh
C. Khuyên tin sâu nhân quả
1. Chư Phật, Bồ Tát giúp đỡ chúng sanh đang bị khổ nạn như thế nào.
2. Nói về nhân quả và chuyển cảnh giới.
D. Hiểu rõ giáo dục Phật đà
1. Mục đích của giáo dục Phật đà
2. Tam Quy Y
3. Giáo - Lý - Hạnh - Quả
4. Sứ mạng của Giáo dục Phật đà trong thế kỷ hai mươi mốt
Bài giới thiệu sáng lập Tập San Giáo Dục Phật Ðà
5. Cảm tưởng sau khi thăm viếng Hồi Giáo
E. Truyền bảo thiện tín tại gia
1. Làm thế nào để hướng dẫn quyến thuộc học Phật
2. Nói chuyện với Tịnh Tông Học Hội Mỹ Quốc
F. Ðiển tịch phải đọc
1. Nói về ‘Hoa Nghiêm Giản Sử’ và điển tịch Tịnh Tông.
G. Trả lời nghi vấn học Phật
1. Làm thế nào để giải quyết vấn đề xã hội trước mắt.
Phụ lục
Giải thích thêm về danh từ ‘Tam Cương Bát Mục’ dưới lăng kính Phật pháp.

HỌC VI NHÂN SƯ, HÀNH VI THẾ PHẠM

Những bài khai thị buổi sáng của Hòa thượng Tịnh Không

TẬP II



Ðây là những bài khai thị buổi sáng của hòa thượng Tịnh Không cho đồng tu khắp nơi, chưa được hòa thượng giám định. Chỉ là do nhóm ghi chép bài giảng đích thân nghe băng thâu âm, ghi lại những điểm chính yếu, chỉnh lý cho gọn rồi viết thành bài nháp này để cúng dường độc giả.



A. Khai thị về phương pháp tu trì



1. Ðến cũng không không, đi cũng không không (Buổi sáng 21-11-98)

Tôi cùng Lý hội trưởng đi thăm lão cư sĩ Hồng Cung Lan và tặng cho ổng một xâu chuỗi. Lão cư sĩ nói lúc bình thường ông có rất nhiều vọng niệm, sau khi có được xâu chuỗi này thì vọng niệm ít đi. Ông nằm mộng thấy một nam một nữ đến thăm ông, họ nói là do Ngọc Hoàng Ðại Ðế phái đến để bảo hộ cho ông, khuyên ông phải nhẫn nại, và nói: ‘Ðến cũng không không, đi cũng không không’. Cả đời lão cư sĩ Hồng chẳng có tâm nhẫn nại, tính tình nóng nảy; nghe xong, ông hiểu được và rất hoan hỷ. Sau khi ông tỉnh dậy thì hai người này biến mất. Ông nói ông đã tám mươi tuổi rồi, nhất định không lừa gạt người, đây là cảnh giới thật.

‘Ðến cũng không không, đi cũng không không’, hai câu này nói toạc hết nghĩa thú của kinh Bát Nhã. Không những trước lúc chúng ta đến đã không không, đi rồi cũng không không, hiện tại [chẳng phải] cũng không không đó sao? Ðức Phật nói chân tướng sự thật là như ‘mộng, huyễn, bọt, bóng’. Mộng, huyễn, bọt, bóng đều chẳng chân thực, đều là giả tướng, thời gian giả tướng này tồn tại rất ngắn, trong kinh hình dung ‘như sương, như ánh chớp. Như sương là nói tướng tương tục -- tiếp nối, như ánh chớp là nói ‘sát na tế’ -- rất nhanh, nói rõ thật tướng chư pháp đích thật như vậy. Người hiểu rõ và giác ngộ thì được xưng là Phật, Bồ Tát; người mê hoặc và chẳng giác ngộ cho rằng chuyện này không thật, đây là phàm phu. Cho nên sự sai khác giữa Phật, Bồ Tát và phàm phu là ở tại một niệm giác hay mê. Người giác ngộ trong mộng, huyễn, bọt, bóng được tự tại, người mê hoặc thì rất đau khổ.

Do đó có thể biết đây là ‘duyên sanh’, duyên khởi tánh không. Nghiệp duyên rất phức tạp, gồm có ba thứ: thiện, ác, và vô ký (vô ký là chẳng thiện, chẳng ác). Chỉ có người giác ngộ chân chánh mới có thể vận dụng một cách thích hợp, giúp đỡ những chúng sanh chưa giác ngộ có thể khai ngộ, đây tức là chư Phật, Bồ Tát phổ độ chúng sanh. Hiểu rõ chư pháp là vô sở hữu, ‘không không’ cũng là vô sở hữu, liễu bất khả đắc (trọn chẳng thể có được); cái tâm niệm có thể đắc và những vật đắc được đều là ‘không không’, tâm chúng ta mới chân chánh trở lại bình tịnh, trở lại thanh tịnh, bình đẳng. Thanh tịnh bình đẳng là chân tâm bản tánh của chúng ta, và cũng là ‘minh tâm kiến tánh’ nói trong Tông Môn, [hiểu được như vậy] chúng ta mới thể hội tại sao cả đời giảng kinh thuyết pháp, Thế tôn phải dùng hết hai mươi hai năm để giảng kinh Bát Nhã là vì hết thảy chúng sanh chẳng biết chân tướng sự thật, chẳng biết các pháp đều không, chẳng thể hành Bồ Tát đạo. Bồ Tát đạo là con đường giác ngộ, phàm phu đi con đường mê hoặc nên mới xuất hiện thập pháp giới, lục đạo, tam đồ. Mê nặng thì là hiện tượng tam đồ, nhẹ hơn thì là lục đạo, nhẹ hơn nữa là tứ thánh pháp giới. Hết thảy tam đồ, lục đạo, tứ thánh pháp giới đều là mê, đều chẳng khế nhập vào ‘lý không’, khế nhập vào ‘lý không’ thì sẽ chứng được Nhất Chân pháp giới.

Nhất Chân cũng là danh tướng nói một cách miễn cưỡng, nếu chúng ta chấp trước có một cái ‘Nhất’, chấp trước có một cái ‘Chân’ thì cũng sai luôn. Ðối ngược của một là nhiều, đối ngược của chân là giả, Huệ Năng đại sư nói: ‘Một và nhiều, chân và giả là Nhị pháp, Nhị pháp chẳng phải Phật pháp’. Cho nên chẳng có ý niệm của ‘nhất’, của ‘chân’ thì mới thực sự là Nhất Chân pháp giới. Do đó có thể biết vừa khởi tâm động niệm một chút thì đã sai mất rồi.

Học Phật thì phải học như thế nào? Tông Môn thường nói: ‘Tu từ căn bản’, căn bản tức là một niệm chẳng sanh, tâm địa thanh tịnh chẳng khởi một tâm niệm gì hết. Nếu nghĩ: ‘hiện giờ một niệm cũng chẳng sanh’ thì đã sanh lên cái tâm ‘một niệm chẳng sanh’, vậy thì cũng sai rồi. Lúc mới bắt đầu học, Tông Môn dùng phương pháp ngồi xếp bằng quay mặt vào vách để tập ‘không khởi tâm, không động niệm, chẳng phân biệt, chẳng chấp trước’. Sau khi học thành công rồi thì phải thao luyện trong đời sống, khi lục căn tiếp xúc cảnh giới lục trần phải không khởi tâm, không động niệm, không phân biệt, không chấp trước, vậy thì mới thành công, lúc bấy giờ mọi cảnh giới đều là Nhất Chân pháp giới. Nhất Chân pháp giới chẳng tách lìa thập pháp giới, lục đạo, tam đồ; làm sao có thể gọi là Nhất Chân pháp giới? Do chuyển biến nơi tâm, chuyển biến ở chỗ nhận biết, nhận thức chân tướng của cảnh giới, tức là nhận thức được chân tướng của vũ trụ nhân sanh.

Ý nghĩa của câu ‘Ðến cũng không không, đi cũng không không’ rất sâu, nếu nhận thức rõ thì sẽ rất vui vẻ mà nắm lấy duyên, thành tựu vô lượng công đức, đó là tích công lũy đức. Phàm phu nhận lầm cảnh giới, tạo thành tội nghiệp nhưng chẳng phải là cố ý tạo tội. Ðức Phật nói nguồn gốc của hết thảy tội nghiệp là ngu si, si tức là chẳng hiểu rõ chân tướng sự thật nên làm sai, dùng duyên sai lầm. Người giác ngộ hiểu rõ chân tướng sự thật nên khi khởi tâm động niệm, hết thảy hành động đều là tích công lũy đức. Tích công lũy đức là khái niệm của người thế gian, người giác ngộ chẳng có tâm niệm này. Chúng sanh trong thập pháp giới có tâm niệm này, Phật, Bồ Tát trong Nhất Chân pháp giới chẳng có tâm niệm này, đó là ‘làm mà không làm, không làm mà làm’.

Chúng sanh có ‘cảm’ thì Phật, Bồ Tát liền ‘ứng’, tự nhiên cảm ứng đạo giao, nhất định chẳng có khởi tâm động niệm. Cổ đức dùng thí dụ đánh khánh, gõ khánh thí dụ cho cái ‘cảm’ của chúng sanh, âm thanh phát ra từ cái khánh thí dụ cho sự ‘ứng’ của Phật, Bồ Tát. Trên thực tế cái ‘ứng’ của Phật, Bồ Tát là cảm ứng của tự tánh. Chúng ta xem Phật, Bồ Tát thành người, xem hết thảy các pháp thành thực thể, tinh nghĩa của Ðại thừa chúng ta chẳng có cách nào thể hội được nên chẳng biết hết thảy sự vật trong tận hư không trọn khắp pháp giới đều là tự tánh. Người giác ngộ trong Tông Môn thường nói: ‘Ðâu cũng là đạo, trái phải đều về nguồn’ (Ðầu đầu thị đạo, tả hữu phùng nguyên), câu này nói toạc chân tướng sự thật, hư không pháp giới đều chỉ là một cái tự tánh mà thôi. Tự tánh là năng biến (chủ thể có thể biến), cảm ứng là sở biến (cái được biến), chỗ nào có cảm thì chỗ đó có ứng, cảm ứng đạo giao, tơ hào chẳng sai. Lý Sự của cảm ứng sâu rộng vô cùng, chúng ta phải thể hội kỹ càng, sau khi hiểu rõ thì sẽ biết học Phật như thế nào, làm người như thế nào, làm thế nào sinh sống qua ngày, đạt được hạnh phúc chân chánh mỹ mãn.

Thế pháp nói đến ‘chân - thiện - mỹ - huệ’, Phật pháp nói đến ‘thường - lạc - ngã - tịnh’, những thứ này đều là thật; nhưng chúng sanh trong thập pháp giới chẳng có, Phật, Bồ Tát trong Nhất Chân pháp giới mới có; cũng có thể nói người khởi tâm động niệm chẳng có, người không khởi tâm động niệm mới có. Phật thí dụ tâm như nước, lúc nước bình tịnh chẳng khởi sóng giống như một cái kiếng, soi những cảnh giới bên ngoài rõ ràng, nước này ví như chân - thiện - mỹ - huệ, thường - lạc - ngã - tịnh. Nhưng lúc nước khởi sóng tuy vẫn có thể chiếu soi cảnh giới nhưng rời rạc, tan nát, cho nên chân thiện mỹ huệ, thường lạc ngã tịnh cũng mất luôn. Từ đây có thể biết dù tâm của Phật, Bồ Tát ứng hóa trong lục đạo, tùy loại hiện thân, tùy cơ thuyết pháp nhưng vẫn bình tịnh. Lúc thuyết pháp thì ‘nói mà chẳng nói, chẳng nói mà nói’, lúc thị hiện thì ‘hiện mà chẳng hiện, chẳng hiện mà hiện’ vĩnh viễn trụ trong cảnh giới nhất chân, tâm vĩnh viễn giữ được bình tịnh như nước. Tự tánh công đức tức là ánh sáng của nước có thể chiếu kiến hết thảy vạn pháp. Trong thập pháp giới càng đi xuống thì cường độ rung động của làn sóng tâm càng lớn, càng lên trên thì làn sóng càng nhỏ. Ðến lúc nào trong cảnh giới tâm chẳng động nữa, dùng kinh Hoa Nghiêm mà nói thì mức thấp nhất là Viên Giáo Sơ Trụ Bồ Tát, lúc đó Bát Nhã, giải thoát, pháp thân của tự tánh sẽ hiện tiền.



2. Phương pháp khai ngộ (Buổi sáng 24-11-98)

Cách dạy học thời xưa trong Phật pháp và thế pháp đại khái tương đồng, đều theo quan niệm dùng phương cách khơi gợi, chú trọng ngộ tánh của học sinh. Cách dạy học của nhà Phật là nhằm giúp đỡ học sinh khai ngộ, cách dạy học của Nho gia, Ðạo gia cũng vậy, chẳng đề xướng cách học ký vấn, đích thật chẳng giống với cách dạy học ngày nay. Ngày nay chú trọng cách học thuộc lòng và học tràn lan nhiều môn để tích tụ thường thức phong phú, đây là thuộc cách học ký vấn. Người xưa chú trọng học thuộc lòng nhằm mục đích tu định, chứ không coi trọng ký ức; người xưa dùng cách học thuộc lòng để đoạn dứt vọng tưởng, phân biệt, khôi phục tâm thanh tịnh, đây là phương pháp khai mở cánh cửa khai ngộ tốt nhất. Vì cánh cửa khai ngộ bị bế tắc nên chúng sanh chẳng thể khai ngộ, nếu dẹp bỏ phân biệt và chấp trước thì trí huệ sẽ hiện tiền, đó tức là ‘mở tung cái nút chặn’ (mao tắc đốn khai).

Do đây có thể biết phân biệt chấp trước càng nghiêm trọng thì càng chẳng thể khai ngộ; phân biệt chấp trước nhẹ mỏng thì dễ khai ngộ hơn, đây là lý do tại sao thế pháp và Phật pháp đều coi trọng ‘một môn thâm nhập’. Trong một giai đoạn nào đó, chẳng kể là học trình dài ngắn, chỉ cho phép học một môn, bất kỳ khóa trình của một môn nào cũng mong cầu có chỗ ngộ, ngộ nhập trong một môn này thì sự dạy học thành công. Ngược lại nếu chẳng có lãnh ngộ, chẳng khai ngộ, sự dạy học này được kể là thất bại. Do đó giáo học đích thực chú trọng trên trí huệ và đức hạnh, người sơ học thì đức hạnh đứng hàng đầu, trí huệ đi sau. Một người có trí huệ nhưng chẳng có đức hạnh rất dễ tạo nên chuyện ác to lớn, gây hại xã hội, thế nên đức hạnh đứng hàng đầu. Vừa có đức hạnh lẫn trí huệ thì làm việc gì cũng là đại phước, có thể đem lợi ích cho xã hội, lợi ích cho chúng sanh.

Giáo học của nhà Nho lấy Khổng Lão Phu Tử làm tiêu chuẩn, Khổng Lão Phu Tử dạy bốn khoa: thứ nhất là đức hạnh, thứ nhì là ngôn ngữ, thứ ba là chánh sự (năng lực kỹ thuật), thứ tư là văn học. Lúc đức hạnh và kỹ năng đã được thành tựu, nếu có dư sức lực thì mới học văn học nghệ thuật, đề cao đời sống tinh thần. Thứ tự này rất hợp lý, giáo học của nhà Phật cũng chẳng ngoại lệ, là đoạn phiền não trước sau đó mới học pháp môn; đoạn phiền não tức là đức hạnh, học pháp môn tức là chánh sự. Tuy trên phương thức vận dụng có thể biến hóa nhưng nguyên lý và nguyên tắc thì vĩnh viễn chẳng biến đổi, đó là triết lý giáo dục.

Xã hội ngày nay có thể nói là hoàn toàn chẳng giống ngày xưa. Nếu quan niệm giáo học và nguyên tắc sanh hoạt ngày xưa có thể thích ứng và dung hợp với thời đại hiện nay thì chúng sanh sẽ thực sự đạt được hạnh phúc. Ðây cũng là điều những người có lòng tốt, trong Phật pháp gọi là những Bồ Tát có tâm đại từ bi muốn tìm cách giúp đỡ chúng sanh. Thế nên Bồ Tát nhất định phải thông suốt hết thảy pháp trong thế gian mới có thể làm thầy của trời và người, mới có năng lực chỉ đạo xã hội, giáo hóa chúng sanh. Năng lực này tức là trí huệ chân thật và thiện xảo phương tiện. Chân thật trí huệ là thể, thiện xảo phương tiện là vận dụng, nếu chẳng có chân thật trí huệ thì chẳng thể vận dụng được thiện xảo phương tiện.

Lấy thí dụ: Xã hội thời xưa truy cầu hòa bình, xã hội ngày nay lại khuyến khích cạnh tranh, bề ngoài hai bên hoàn toàn xung đột thì phải làm thế nào để dung hợp? Nói từ mặt Lý thì dung hợp nhất định có thể làm được vì cả hai đều cùng chung một pháp tánh. Kinh Ðại thừa nói tận hư không trọn khắp pháp giới đều cùng chung một lý thể, ngay cả pháp giới địa ngục và pháp giới Phật cũng có thể dung hợp, huống gì là những pháp giới khác? Do đó trên mặt Lý như vậy thì trên mặt Sự đương nhiên cũng có thể làm được. Trên Sự tướng chúng ta gặp phải khó khăn, nguyên nhân ở tại phân biệt, chấp trước. Ðặc biệt là ngã chấp nặng nề, niệm niệm đều vì ‘lợi ích của tôi’, người nào cũng chấp trước ‘lợi ích của tôi’, đây là cội rễ của vấn đề, tạo thành chẳng thể dung hòa lẫn nhau, và cũng tạo nên vô lượng vô biên tội nghiệp. Nếu ‘tôi’ là thật thì còn có thể chấp nhận được; nào ai biết cái ‘tôi’ này chỉ là một khái niệm trừu tượng, hư giả mà thôi.

Khóa trình cơ bản của Pháp Tướng Tông là ‘Bách Pháp Minh Môn Luận’, trình độ của bộ luận này rất cao, là chỗ nhập môn của pháp Ðại thừa, nói rõ về chân tướng của vũ trụ nhân sanh. Bộ luận này thuộc về ‘Tông Kinh Luận’, giải thích rõ tông chỉ của [những gì] đức Phật nói, trên thực tế là giải thích một câu nói của đức Phật. Ðức Phật nói: ‘Hết thảy pháp vô ngã’, Bách Pháp Minh Môn Luận lấy câu này làm tông chỉ, quy nạp hết thảy pháp thành một trăm pháp, bách pháp này tức là hết thảy pháp. ‘Vô ngã’ nói rõ ‘người vô ngã’, ‘pháp vô ngã’, nếu có thể khai ngộ hai việc này thì sẽ hoàn toàn buông xuống ngã chấp và pháp chấp, liền có thể siêu phàm nhập thánh. Phàm phu chấp trước có ngã, có pháp; Phật, Bồ Tát thì giác ngộ ‘vô ngã và vô pháp’ nên Phật, Bồ Tát trong y báo, chánh báo trang nghiêm của thập pháp giới có thể ‘lý sự vô ngại, sự sự vô ngại, viên dung tự tại’.

Chúng sanh chấp trước có ngã, có pháp thì vĩnh viễn sẽ không thể giải thoát, vĩnh viễn chịu sanh tử luân hồi, khổ chẳng thể tả nổi. Người mê hoặc chẳng hiểu chân tướng sự thật này, chỉ có người giác ngộ hiểu được. Cho dù học tập Phật pháp, nghiên cứu Phật pháp, nhưng họ vẫn còn chấp trước ngã và pháp, vẫn còn khen mình chê người (tự tán hủy tha). Ðây là vì còn ngã chấp, chẳng biết chư pháp bình đẳng, chư pháp không tịch, chư pháp duyên sanh nên mới có hành vi này. Phàm những pháp duyên sanh đều chẳng có tự thể, chẳng có tự tánh, ‘đương thể tức không, liễu bất khả đắc’. Tướng thì có mà Thể thì không, Sự thì có mà Lý thì không cho nên Tướng là huyễn tướng, Sự như mộng, huyễn, bọt, bóng, đây đều là chân tướng sự thật.

Sau khi hiểu rõ chân tướng rồi thì tâm sẽ định, sẽ thanh tịnh; lúc đó sự cảm thọ, hưởng thọ trong Phật pháp được gọi là ‘chánh thọ’, chánh tức là chánh thường. Hưởng thọ của người thế gian chẳng chân thường, có ‘khổ, vui, sầu, hỷ, xả’; chánh thọ của Phật pháp chẳng có ‘khổ, vui, sầu, hỷ, xả’. Chư Phật, Bồ Tát ứng hóa trong thế gian tuy là có ‘khổ, vui, sầu, hỷ, xả’ nhưng đó là thị hiện, biểu diễn, du hý thần thông, chẳng phải là thiệt. Phàm phu thiệt có ‘khổ, vui, sầu, hỷ, xả’, chẳng phải diễn tuồng, cho nên tạo nghiệp. Người chân chánh giác ngộ thì sẽ giống hệt chư Phật, Bồ Tát, du hý thần thông, tự tại vô ngại.

Học Phật phải gánh vác trách nhiệm tiếp nối huệ mạng của Phật, gánh vác sứ mạng hoằng pháp lợi sanh, muốn đảm đương sứ mạng này thì nhất định phải ngộ nhập. Phương pháp ngộ nhập chẳng có gì khác ngoài buông xuống vọng tưởng, phân biệt, chấp trước mà thôi. Lúc xử thế, đãi người, tiếp vật trong cuộc sống hằng ngày phải buông xuống ngã chấp. Kinh Kim Cang nói đến ‘ngã tướng, nhân tướng, chúng sanh tưởng, thọ giả tướng’, chỉ cần buông xuống một tướng này thì sẽ hoàn toàn buông xuống hết. Bốn tướng này có sự liên hệ mật thiết, có một tướng thì bốn tướng sẽ đều có, buông xuống một tướng thì sẽ buông xuống cả bốn. Sau đó đoạn hết thảy ác, tu hết thảy thiện tức là công đức chân thật, đây là điều mà chư Phật, Bồ Tát đều tán thán, khen ngợi. Chúng ta cần phải biết có đủ bốn tướng này là chướng ngại nghiêm trọng cho sự tu học Phật pháp.

Bạn phát tâm từ bi muốn cứu độ hết thảy chúng sanh, muốn cứu chúng sanh thì trước hết phải độ mình cái đã, nếu tự mình chẳng độ được thì sẽ chẳng có năng lực độ chúng sanh. Cho nên tự tu học và tương lai giúp đỡ chúng sanh đều phải nhờ vào chính mình, tuy chư Phật, Bồ Tát từ bi nhưng cũng chẳng giúp được. Chư Phật, Bồ Tát chỉ giúp chúng ta trên việc dạy dỗ, nói rõ sự thật chân tướng cho chúng ta nghe, cung cấp phương pháp cho chúng ta tham khảo, nhưng khế nhập vào cảnh giới nhất định phải là sự việc của chính mình, hy vọng mọi người phải hết lòng nỗ lực.