Tham khảo: dành cho các Phật tử Nam tông có thể tụng đọc tiếng Pali thì đọc thêm cho có nhiều năng lực trong tu học.


KINH THỈNH CHƯ THIÊN

Sagge kāme ca rūpe girisikharatate cantalikkhe vimāne
Dīpe raṭṭthe ca gāme taruvanagahane gehavatthumhi khette
Bhummā cāyantu devā jalathalavisame yakkhagan-dhabbanāgā
Tiṭṭhantā santike yaṃ munivaravacanaṃ sādhavo me suṇantu.
Dhammassavanakālo ayambhadantā. (3 lần)

Xin thỉnh Chư Thiên ngự trên cõi trời Dục giới cùng Sắc giới; Chư Thiên ngự trên đảnh núi núi không liền, hoặc nơi hư không; ngự nơi cồn bãi, đất liền hoặc các châu quận; ngự trên cây cối rừng rậm hoặc ruộng vườn; Chư Dạ Xoa, Càn Thác Bà, cùng Long Vương dưới nước trên bờ hoặc nơi không bằng thẳng, gần đây, xin thỉnh hội họp lại đây. Lời nào là kim ngôn cao thượng của Ðức Thích Ca Mâu Ni mà chúng con tụng đây, xin các bậc Hiền Triết nên nghe lời ấy.

Xin các ngài đạo đức, giờ nầy là giờ nên nghe Pháp bảo. (3 lần – 1 lạy)

DÂNG HƯƠNG ĐẾN TAM BẢO
RATANATTAYAPUJĀ

Imehi dīpadhū pādisakkārehi Buddhaṃ Dhammaṃ Saṅghaṃ abhipū jayāmi mātā-pitādīnaṃ guṇavantānañca mayhañca dīgharattaṃ atthāya hitāya sukhāya

Con xin dâng các lễ vật nầy, nhứt là nhang đèn để cúng Phật, Pháp, Tăng, Tam bảo, ngưỡng cầu cho các bậc ân nhân, nhứt là cha mẹ con và con đều được sự tấn hóa, sự lợi ích, sự bình an lâu dài. (lạy)


DÂNG HOA CÚNG PHẬT

Dâng hoa cúng đến PHẬT ĐÀ (Buddha),
Nguyện mau giải thoát sanh già khổ đau.
Hoa tươi nhưng sẽ úa sầu,
Tấm thân tứ đại khỏi sao điêu tàn.

Dâng hoa cúng đến ĐẠT MA (Dhamma),
Nguyện mau giải thoát sanh già khổ đau.
Hoa tươi nhưng sẽ úa sầu,
Tấm thân tứ đại khỏi sao điêu tàn.

Dâng hoa cúng đến TĂNG GIÀ (Sangha),
Nguyện mau giải thoát sanh già khổ đau.
Hoa tươi nhưng sẽ úa sầu,
Tấm thân tứ đại khỏi sao điêu tàn.


LỄ BÁI PHẬT BẢO
BUDDHARATANAPAṆĀMA


Namo tassa bhagavato arahato sammāsambuddhassa. (3 lần)

Con xin hết lòng thành kính làm lễ Ðức Bhagavā đó.
Ngài là bậc Arahăn cao thượng, được chứng quả Chánh Biến Tri, do Ngài tự ngộ, không thầy chỉ dạy. (đọc 3 lần, lạy 1 lạy)


QUY Y PHẬT BẢO
BUDDHA ATTAPAṬIÑÑĀ


Natthi me saraṇaṃ aññaṃ
Bbuddho me saraṇaṃ varaṃ
Etena saccavajjena
Hotu me jayamaṅgalam.


Chẳng có chi đáng cho con phải nương theo chỉ có Ðức Phật là quí báu, nên con phải hết lòng thành kính mà nương theo, đặng cầu sự an lạc đến cho con, y như lời chơn thật này. (lạy)

SÁM HỐI PHẬT BẢO
BUDDHA KHAMĀPANA


Uttamaṅgena vandehaṃ
Pādapaṃ suṃ varuttamaṃ
Buddhe yo khalito doso
Buddho khamatu taṃ mamaṃ


Con xin hết lòng thành kính cúi đầu làm lễ vi trần dưới chân Ðức Phật, là Ðấng Chí Tôn Chí Thánh. Các tội lỗi mà con đã vô ý phạm đến Phật Bảo, cúi xin Phật Bảo xá tội lỗi ấy cho con. (lạy)

QUY Y PHÁP BẢO
DHAMMA ATTAPAṬIÑÑĀ


Natthi me saraṇaṃ aññaṃ
Dhammo me saraṇaṃ varaṃ
Etena saccavajjena
Hotu me jayamaṅgalaṃ

Chẳng có chi đáng cho con phải nương theo chỉ có Pháp Bảo là quí báu, nên con phải hết lòng thành kính mà nương theo, đặng cầu sự an lạc đến cho con, y như lời chơn thật nầy. (lạy)

SÁM HỐI PHÁP BẢO
DHAMMA KHAMĀPANA


Uttamaṅgena vandehaṃ
Dhammañca duvidhaṃ varaṃ
Dhamme yo khalito doso
Dhammo khamatu taṃ mamaṃ


Con xin hết lòng thành kính, cúi đầu làm lễ hai hạng Pháp Bảo là Pháp học và Pháp hành. Các tội lỗi mà con đã vô ý phạm đến Pháp Bảo, cúi xin Pháp Bảo xá tội lỗi ấy cho con. (lạy)

QUY Y TĂNG BẢO
SAṄA ATTAPATIÑÑĀ


Natthi me saranaṃ aññaṃ
Saṅgho me saraṇam varaṃ
Etena saccavajjena
Hotu me jayamaṅgalaṃ


Chẳng có chi đáng cho con phải nương theo, chỉ có đức Tăng là quí báu, nên con phải hết lòng thành kính mà nương theo, đặng cầu sự an lạc đến cho con y như lời chân thật này. (lạy)

SÁM HỐI TĂNG BẢO
SAṄGHA KHAMĀPANA


Uttamaṅgena vandehaṃ
Saṅghañca duvidhottamaṃ
Saṅghe yo khalito doso
Saṅgho khamatu taṃ mamaṃ


Con xin hết lòng thành kính, cúi đầu làm lễ hai bậc Tăng Bảo là Phàm Tăng và Thánh Tăng, các tội lỗi mà con đã vô ý phạm đến Tăng Bảo, cúi xin Tăng Bảo xá tội lỗi ấy cho con. (lạy)


LỄ BÁI TAM BẢO TÓM TẮT:
(kinh Tam Bảo ngắn)


Namo tassa bhagavato arahato sammā-sambuddhassa. (3 lần)

1. Itipi so bhagavā arahaṃ sammāsambuddho vijjācaraṇasampanno sugato lokavidū anuttaro purisadammasārathi satthā-devamanussānaṃ buddho bhagavāti.


Con xin thành kính cúi đầu làm lễ Ðức Chánh Biến Tri, Ngài có đầy đủ các đức: Ứng Cúng, Chánh Biến Tri, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sỹ, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật, Thế Tôn.

2. Svākkhāto bhagavatā dhammo sandiṭṭhiko akāliko ehipassiko opanayiko paccattaṃ veditabbo viññūhīti.

Con xin thành kính cúi đầu làm lễ Pháp Bảo là 9 pháp Thánh là 4 Đạo, 4 Quả và 1 Niết Bàn, có đầy đủ các đức: là pháp mà chư thánh tăng đã thấy rõ chân lý nhờ kiến tánh, là pháp độ cho đắc quả không chậm trễ không kể ngày giờ, là pháp của chư Thánh khi chứng đắc rồi có thể ứng hoá cho kẻ khác biết được, là pháp của chư Thánh có được do Thiền định, là pháp mà các hàng trí tuệ nhất là bậc Thượng trí thấy biết tự nơi tâm.

3- Suppaṭipanno bhagavato sāvaka-saṅgho. Ujupaṭipanno bhagavato sāvaka-saṅgho. Ñāyapaṭipanno bhagavato sāvakasaṅgho. Sāmīcipaṭipanno bhagavato sāvakasaṅgho. Yadidaṃ cattāri purisayugāni aṭṭha purisapuggalā esa bhagavato sāvaka-saṅgho āhuneyyo pāhuneyyo dakkhineyyo añjalikaraneyyo anuttaraṃ puññakkhettaṃ lokassā' ti.

Con xin thành kính cúi đầu làm lễ Đức Tăng có đầy đủ các đức: là các bậc Thánh tăng đệ tử Phật đã tu hành đúng đắn theo Chánh pháp, đã tu hành đúng đắn theo Thánh pháp, đã tu hành để Giác ngộ Niết Bàn là nơi an lạc chấm dứt các sự thống khổ, đã tu hành theo Giới Định Tuệ. Chư Thánh tăng nếu đếm đôi có 4 Đạo: Tu đà hườn đạo, Tu đà hàm đạo, A na hàm đạo, A la hán đạo. Chư Thánh tăng nếu đếm đôi có 4 Quả: Tu đà hườn quả, Tu đà hàm quả, A na hàm quả, A la hán quả. Chư Thánh tăng ấy là bậc Thinh Văn đệ tử Phật. Chư Thánh tăng xứng đáng thọ hưởng 4 món vật dụng của tín chủ cúng dường. Chư Thánh tăng xứng đáng thọ hưởng của tín chủ cúng dường vì lòng tôn kính thay vì họ dành cho thân tộc quyến thuộc. Chư Thánh tăng xứng đáng thọ hưởng của tín chủ cúng dường do họ tin lý nhân quả mà đem đến. Chư Thánh tăng là bậc xứng cho chúng sanh lễ bái cúng dường. Chư Thánh tăng là phước điền của chúng sanh không đâu sánh được.


KINH LỄ TAM THẾ PHẬT
SAMBUDDHE


1- Sambuddhe aṭṭhavīsañ ca
dvādasañ ca sahassake
pañcasatasahassāni
namāmi sirasā ahaṃ .
Tesaṃ dhammañca saṅghañca
ādarena namāmihaṃ
namakārānubhāvena
hantvā sabbe upaddave
anekā antarāyāpi
vinassantu asesato.

2- Sambuddhe pañca paññāsañca
catuvīsa tisahassake
dasasatasahassāni
namāmi sirasā ahaṃ .
Tesaṃ dhammañca saṅghañca
ādarena namāmihaṃ
namakārānubhāvena
hantvā sabbe upaddave
anekā antarāyā pi
vinassantu asesato.

3- Sambuddhe navuttarasate
aṭṭhacattālī-sasahassake
vīsatisatasahassāni
namāmi sirasā ahaṃ .
Tesaṃ dhammañca saṅghañca
ādarena namāmihaṃ
namakārānubhāvena
hantvā sabbe upaddave
anekā antarāyā pi
vinassantu asesato.


1- Con xin hết lòng thành kính, làm lễ 28 vị Chánh biến tri, 12 ngàn vị Chánh biến tri và 500 ngàn vị Chánh biến tri.

Con xin hết lòng thành kính, làm lễ Pháp bảo và Tăng bảo của các vị Chánh biến tri ấy.

Do sự lễ bái cúng dường, xin nhờ oai lực các bậc Chánh biến tri mà những điều rủi ro và sự tai hại thảy đều diệt tận. (lạy)

2- Con xin hết lòng thành kính làm lễ 55 vị Chánh biến tri, 24 ngàn vị Chánh biến tri và 1 triệu vị Chánh biến tri.

Con xin hết lòng thành kính làm lễ Pháp bảo và Tăng bảo của các vị Chánh biến tri ấy.
Do sự lễ bái cúng dường, xin nhờ oai lực các bậc Chánh biến tri mà những điều rủi ro và sự tai hại thảy đều diệt tận. (lạy)

3- Con xin hết lòng thành kính làm lễ 109 vị Chánh biến tri, 48 ngàn vị Chánh biến tri và 2 triệu vị Chánh biến tri.

Con xin hết lòng thành kính làm lễ pháp bảo và Tăng bảo của các vị Chánh biến tri ấy.

Do sự lễ bái cúng dường, xin nhờ oai lực của bậc Chánh biến tri mà những điều rủi ro và sự tai hại thảy đều diệt tận. (lạy)



KINH TỤNG RẢI TÂM TỪ BI
Khi có sự lo sợ hoặc tối, trước giờ ngủ nên thường tụng bài này, để rải tâm bác ái đến tất cả chúng sanh, ắt sẽ hết lo sợ, được yên vui.

Sabbe sattā averā hontu, sukhitā hontu niddukkhā hontu abyāpajjhā hontu, anīghā hontu dīghāyukā hontu, arogā hontu, sampattīhi samijjhaṇtu sukhī attānaṃ pāriharantu, dukkhappattā ca niddukkhā, bhayappattā ca nibbhayā, sokappattā ca nissokā hontu sabbepi pāṇiṇo.

Nguyện cho tất cả chúng sanh đừng có oan trái lẫn nhau, hãy cho được sự yên vui, đừng có khổ, đừng làm hại lẫn nhau, đừng hẹp lượng, hãy cho được sống lâu, đừng có bệnh hoạn, hãy cho được thành tựu đầy đủ, hãy giữ mình cho được sự yên vui. Tất cả chúng sanh đến khổ rồi, xin đừng cho có khổ, đến sự kinh sợ rồi, xin đừng cho kinh sợ, đến sự thương tiếc rồi, xin đừng cho thương tiếc.


Nguồn gốc Kinh Chuyển Pháp Luân

Xuất xứ từ bộ Ðại Phẩm ( Mahavagga) thuộc Luật Tạng (Vinaya pitaka) cũng tìm thấy trong Tương Ưng Bộ Kinh (Samyutta Nikāya) [PTS Kindred Saying V.420-431) Tựa kinh Phạn ngữ Dhammacakkappavattana Sutta.

Chuyển Pháp Luân nghĩa là chuyển quay bánh xe Chánh Pháp. Gọi như vậy vì đây là bài pháp đầu tiên trong cuộc đời hoằng đạo của đức Phật. Trong bài pháp lịch sử nầy, Đức Phật Thích Ca Mâu Ni đã trình bày giáo lý Tứ Diệu Ðế, đồ hình của giáo pháp, để giới thiệu con đường tu tập giác ngộ. Ngài Kiều Trần Như, bậc thánh đệ tử đầu tiên của đức Phật, nhờ nghe kinh Chuyển Pháp Luân mà liễu ngộ. Bài kinh tạo nên một niềm hoan lạc vô biên cho khắp hàng thiên chúng. Ðiều đó tạo nên một giá trị truyền thống trong nghi lễ đạo Phật. Bài kinh được dùng trong các khoá lễ cầu an.


KINH CHUYỂN PHÁP LUÂN
Dhammacakkappavattanasutta

Evaṃ me sutaṃ
Ekaṃ samayaṃ bhagavā bārāṇasiyaṃ
viharati isipatane migadāye.
Tatra kho bhagavā pañcavaggiye bhikkhū āmantesi


Như vầy con nghe
Một thời Thế Tôn ngự tại Lộc Uyển, ở I Si Pa Ta Na gần Ba Ra Na Si. Ðức Phật giảng cho năm thầy Tỳ kheo nghe như vầy:

Dveme bhikkhave antā pabbajitena na sevitabbā. Yo cāyaṃ kāmesu kāmasukhalli kānuyogo hīno gammo poṭhujjaniko anariyo anatthasañhito.
Yo cāyaṃ attakilamathānu yogo dukkho anariyo anatthasañhito. Ete te bhikkhave ubho ante anupagamma majjhimāpaṭipadā tathāgatena
abhisambuddhā cakkhukaraṇī ñāṇakaraṇī upasamāya abhiññāya sambodhāya nibbānāya saṃvattati.


Nầy các Tỳ kheo, có hai cực đoan mà bậc xuất gia phải tránh: một là lợi dưỡng vốn hạ liệt, tục luỵ, phàm phu, không thánh thiện, không lợi lạc; hai là khổ hạnh cũng không thánh thiện, không lợi lạc lại khổ đau.

Từ bỏ hai cực đoan nầy, Như Lai thực hành Trung Ðạo chứng đạt pháp nhãn, tuệ giác, tịnh trí, thắng trí, giác ngộ, niết bàn.

Katamā ca sā bhikkhave majjhimā paṭipadā tathāgatena abhisambuddhā, cakkhukaraṇī ñāṇakaraṇī upasamāya abhiññāya sambodhāya nibbānāya saṃvattati? Ayameva ariyo aṭṭhaṅgiko maggo. Seyyathīdaṃ: sammādiṭṭhi sammāsaṅkappo sammāvācā sammākammanto sammāājīvo sammāvāyāmo sammāsati sammāsamādhi ayaṃ kho sā bhikkhave majjhimā paṭipadā tathāgatena abhisambuddhā cakkhukaraṇī ñāṇakaraṇī upasamāya abhiññāya sambodhāya nibbānāya saṃvattati.

Nầy các Tỳ kheo, Trung Ðạo đó là gì?
Chính là thánh đạo tám chi phần: chánh kiến, chánh tư duy, chánh ngữ, chánh nghiệp, chánh mạng, chánh tinh tấn, chánh niệm, chánh định. Ðây là thánh đạo được Như Lai liễu ngộ với pháp nhãn, tuệ giác, tịnh trí, thắng trí, giác ngộ, niết bàn.

Idaṃ kho pana bhikkhave dukkhaṃ ariyasaccaṃ: jātipi dukkhā jarāpi dukkhā maraṇampi dukkhaṃ sokaparidevadukkhadomanassupāyāsāpi dukkhā
appiyehi sampayogo dukkho piyehi vippayogo dukkho yampicchaṃ na labhati tampi dukkhaṃ saṅkhittena pañcupādānakkhandhā dukkhā. Idaṃ kho pana
bhikkhave dukkhasamudayo ariyasaccaṃ yāyaṃ taṇhāponobbhavikā nandirāgasahagatā tatratatrābhinandinī. Seyyathīdaṃ: kāmataṇhā bhavataṇhā vibhavataṇhā. Idaṃ kho pana bhikkhave dukkhanirodho ariyasaccaṃ yo tassāyeva taṇhāya asesavirāganirodho cāgo paṭinissaggo mutti anālayo. Idaṃ kho panabhikkhave dukkhanirodhagāminī paṭipadā ariyasaccaṃ ayameva
ariyo aṭṭhaṅgiko maggo seyyathīdaṃ: sammādiṭṭhi sammāsaṅkappo sammāvācā sammākammanto sammāājīvo sammāvāyāmo sammāsati sammāsamādhi.


Nầy các Tỳ kheo, đây là diệu đế về sự khổ: sanh là khổ, già là khổ, bệnh là khổ, chết là khổ, sầu bi khổ ưu não là khổ, ghét phải gần là khổ, thương phải xa là khổ, muốn không được là khổ. Tóm lại năm thủ uẩn là khổ.

Nầy các Tỳ kheo, đây là diệu đế về nhân sanh khổ: khát ái dẫn đến tái sanh, cùng với hỷ và tham, tầm cầu dục lạc đó đây. Chính là dục ái, hữu ái, phi hữu ái.

Nầy các Tỳ kheo, đây là diệu đế về diệt khổ: yểm ly đọan diệt các dục, chấm dứt hệ luỵ, không còn dư y, hoàn toàn giải thoát mọi thằng thúc.
Nầy các Tỳ kheo, đây là diệu đế về con đường dẫn đến diệt khổ: chính là thánh đạo tám chi phần tức chánh kiến, chánh tư duy, chánh ngữ, chánh nghiệp, chánh mạng, chánh tinh tấn, chánh niệm và chánh định.

Idaṃ dukkhaṃ ariyasaccanti me bhikkhave pubbe ananussutesu dhammesu cakkhuṃ udapādi ñāṇaṃ udapādi paññā udapādi vijjā udapādi āloko udapādi. Taṃ kho panidaṃ dukkhaṃ ariyasaccaṃ pariññeyyanti me bhikkhave pubbe ananussutesu dhammesu cakkhuṃ udapādi ñāṇaṃ udapādi paññā udapādi vijjā udapādi āloko udapādi. Taṃ kho panidaṃ dukkhaṃ ariyasaccaṃ pariññātanti me bhikkhave pubbe ananussutesu dhammesu cakkhuṃ udapādi ñāṇaṃ udapādi paññā udapādi vijjā udapādi āloko udapādi.

"Ðây là sự thật về khổ" là điều mà Như Lai chưa từng được nghe nay khởi lên với sự thấy, biết, hiểu, xác chứng và thấu triệt.

"Khổ đế cần được lãnh hội" là điều mà Như Lai chưa từng được nghe nay khởi lên với sự thấy, biết, hiểu, xác chứng và thấu triệt.

"Khổ đế đã được lãnh hội" là điều mà Như Lai chưa từng được nghe nay khởi lên với sự thấy, biết, hiểu, xác chứng và thấu triệt.

Idaṃ dukkhasamudayo ariyasaccanti me bhikkhave pubbe ananussutesu dhammesu cakkhuṃ udapādi ñāṇaṃ udapādi paññā udapādi vijjā udapādi āloko udapādi. Taṃ kho panidaṃ dukkhasamudayo ariyasaccaṃ pahātabbanti me bhikkhave pubbe ananussutesu dhammesu cakkhuṃ udapādi ñāṇaṃ udapādi paññā udapādi vijjā udapādi āloko udapādi. Taṃ kho panidaṃ dukkhasamudayo
ariyasaccaṃ pahīnanti me bhikkhave pubbe ananussutesu dhammesu cakkhuṃ udapādi ñāṇaṃ udapādi paññā udapādi vijjā udapādi āloko udapādi.


"Ðây là sự thật về nhân sanh khổ" là điều mà Như Lai chưa từng được nghe nay khởi lên với sự thấy, biết, hiểu, xác chứng và thấu triệt.

"Tập đế cần được đoạn diệt" là điều mà Như Lai chưa từng được nghe nay khởi lên với sự thấy, biết, hiểu, xác chứng và thấu triệt.

"Tập đế đã được đoạn diệt" là điều mà Như Lai chưa từng được nghe nay khởi lên với sự thấy, biết, hiểu, xác chứng và thấu triệt.

Idaṃ dukkhanirodho ariyasaccanti me bhikkhave pubbe ananussutesu dhammesucakkhuṃ udapādi ñāṇaṃ udapādi paññā udapādi vijjā udapādi āloko udapādi. Taṃ kho panidaṃ dukkhanirodho ariyasaccaṃ sacchikātabbanti me bhikkhave pubbe ananussutesu dhammesu cakkhuṃ udapādi ñāṇaṃ udapādi paññā udapādi vijjā udapādi āloko udapādi. Taṃ kho panidaṃ dukkhanirodho ariyasaccaṃ sacchikatanti me bhikkhave pubbe ananussutesu dhammesu cakkhuṃ udapādi ñāṇam udapādi paññā udapādi vijjā udapādi āloko udapādi.

"Ðây là sự thật về diệt khổ" là điều mà Như Lai chưa từng được nghe nay khởi lên với sự thấy, biết, hiểu, xác chứng và thấu triệt.

"Diệt đế cần được chứng ngộ" là điều mà Như Lai chưa từng được nghe nay khởi lên với sự thấy, biết, hiểu, xác chứng và thấu triệt.

"Diệt đế đã được chứng ngộ" là điều mà Như Lai chưa từng được nghe nay khởi lên với sự thấy, biết, hiểu, xác chứng và thấu triệt.

Idaṃ dukkhanirodhagāminī paṭipadā ariyasaccanti me bhikkhave pubbe ananussutesu dhammesu cakkhuṃ udapādi ñāṇaṃ udapādi paññā udapādi vijjā udapādi āloko udapādi. Taṃ kho panidaṃ dukkhanirodhagāminī paṭipadā ariyasaccaṃ bhāvetabbanti me bhikkhave pubbe ananussutesu dhammesu cakkhuṃ udapādi ñāṇaṃ udapādi paññā udapādi vijjā udapādi āloko udapādi. Taṃ kho panidaṃ dukkhanirodhagāminī paṭipadā ariyasaccaṃ bhāvitanti me bhikkhave pubbe ananussutesu dhammesu cakkhuṃ udapādi ñāṇaṃ udapādi paññā udapādi vijjā udapādi āloko udapādi.

"Ðây là sự thật về con đường diệt khổ" là điều mà Như Lai chưa từng được nghe nay khởi lên với sự thấy, biết, hiểu, xác chứng và thấu triệt.

"Ðạo đế cần được tu tập" là điều mà Như Lai chưa từng được nghe nay khởi lên với sự thấy, biết, hiểu, xác chứng và thấu triệt.

"Ðạo đế đã được tu tập" là điều mà Như Lai chưa từng được nghe nay khởi lên với sự thấy, biết, hiểu, xác chứng và thấu triệt.

Yāvakīvañca me bhikkhave imesu catūsu ariyasaccesu evanti parivaṭṭaṃ dvādasākāraṃ yathābhūtaṃ ñāṇadassanaṃ na suvisuddhaṃ ahosi, neva tāvāhaṃ bhikkhave sadevake loke samārake sabrahmake assamaṇabrāhmaṇiyā pajāya sadevamanussāya anuttaraṃ sammāsambodhiṃ abhisambuddho paccāññāsiṃ yato ca kho me bhikkhave imesu catūsu ariyasaccesu evanti parivattaṃ dvādasākāraṃ yathābhūtaṃ ñāṇadassanaṃ suvisuddhaṃ ahosi athāhaṃ bhikkhave sadevake loke samārake sabrahmake assamaṇabrāhmaṇiyā pajāya sadevamanussāya anuttaraṃ sammāsambodhiṃ abhisambuddho
paccāññāsiṃ ñāṇañca pana me dassanaṃ udapādi akuppā me vimutti ayamantimā jāti natthidāni punabbhavoti.


Nầy các Tỳ kheo, cho đến khi nào bốn diệu đế nầy chưa được Như Lai hoàn toàn giác ngộ với ba luân, mười hai chuyển thì Như Lai không tự nhận cùng thiên giới, ma vương giới, phạm thiên giới, hội chúng sa môn, bà la môn, chư thiên và nhân loại rằng ta đã chứng quả vô thượng chánh đẳng chánh giác.

Nầy các Tỳ kheo, chính khi bốn diệu đế nầy được Như Lai hoàn toàn giác ngộ với ba luân, mười hai chuyển nên Như Lai tự nhận cùng thiên giới, ma vương giới, phạm thiên giới, hội chúng sa môn, bà la môn, chư thiên và nhân loại rằng ta đã chứng quả vô thượng chánh đẳng chánh giác.

Và nhận thức nầy khởi lên trong Như Lai: sự giải thoát của ta không lay chuyển. Ðây là kiếp chót, không còn luân hồi nữa.

Idamavoca bhagavā attamanā pañcavaggiyā bhikkhū bhagavato bhāsitaṃ abhinanduṃ imasmiñca pana veyyākaraṇasmiṃ bhañña-māne āyasmato koṇḍaññassa virajaṃ vītamalaṃ dhammacakkhuṃ udapādi yaṅkiñci samudayadhammaṃ sabbantaṃ nirodhadhammanti.

Ðức Thế Tôn thuyết giảng như vậy, năm thầy Tỳ kheo hoan hỷ tín thọ. Khi pháp thoại nầy được tuyên thuyết, Tôn giả Kon Ðan Nha khởi sanh pháp nhãn thanh tịnh vô cấu hiểu rằng: phàm vật gì do nhân tập khởi tất cả pháp ấy đều bị hoại diệt.

Pavattite ca bhagavatā dhammacakke bhummā devā saddamanussāvesuṃ etambhagavatā bārāṇasiyaṃ isipatane migadāye anuttaraṃ dhammacakkaṃ pavattitaṃ appaṭivattiyaṃ samaṇena vā brāhmaṇena vā devena vā mārena vā brāhmuṇā vā kenaci vā lokasminti bhummānaṃ devānaṃ saddaṃ sutvā cātummahārājikā devā saddamanussāvesuṃ cātummahārājikānaṃ devānaṃ saddaṃ sutvā tāvatiṃsā devā addamanussāvesuṃ tāvatiṃsānaṃ devānaṃ saddaṃ sutvā yāmā devā saddamanussāvesuṃ yāmānaṃ devānaṃ saddaṃ sutvā tusitā devā saddamanussāvesuṃ tusitānaṃ devānaṃ saddaṃ sutvā nimmānaratī devā saddamanussāvesuṃ nimmānaratīnaṃ devānaṃ
saddaṃ sutvā paranimmitavasavattī devā saddamanussāvesuṃ paranimmitavasavattīnaṃ devānaṃ saddaṃ sutvā brahmakāyikā devā saddamanussāvesuṃ etambhagavatā bārāṇasiyaṃ isipatane migadāye anuttaraṃ dhammacakkaṃ pavattitaṃ appaṭivattiyaṃ samaṇena vā brāhmaṇena vā devena vā mārena vā brahmunā vā kenaci vā lokasminti.


Khi đức Phật chuyển Pháp luân nầy thì chư thiên trên địa cầu reo mừng: Pháp luân vi diệu! Những điều nầy chưa bao giờ được giảng dạy bởi bất cứ ai dù là sa môn, bà la môn, chư thiên, ma vương, phạm thiên nay được Thế Tôn tuyên thuyết tại Lộc Uyển, ở I Si Pa Ta Na gần Ba Ra Na Si. Ðược nghe vậy chư thiên cõi Tứ Thiên Vương, Đạo Lợi, Dạ Ma, Đấu Suất, Hoá Lạc, Tha Hoá Tự Tại cùng các cõi Phạm Thiên đồng thanh vui mừng.

Itiha tena khaṇena tena muhuttena yāva brahmalokā saddo abbhuggachi. Ayañca dasasahassī lokadhātu saṅkampi sampakampi sampavedhi. Appamāṇo ca olāro obhāso loke pāturahosi atikkammeva devānaṃ devānubhāvaṃ. Atha kho bhagavā udānaṃ udānesi. Aññāsi vata bho koṇḍañño Aññāsi vata bho koṇḍaññoti. Itihidaṃ āyasmato koṇḍaññassa aññākoṇḍañño tveva nāmaṃ ahosīti.

Trong phút chốc cả mười ngàn thế giới chấn động. Một hào quang vô lượng vượt xa hào quang của chư thiên chiếu diệu cùng khắp thế giới. Ngay khi ấy đức Phật lên tiếng: Kon Ðan Nha đã liễu ngộ, Kon Ðan Nha đã liễu ngộ. Từ ấy Tôn giả Kon Ðan Nha được gọi là An Nha Kon Ðan Nhã (ngài A Nhã Kiều Trần Như).


Nguồn gốc KINH CHÂU BÁU (Kinh Tam Bảo dài)
Xuất xứ từ Kinh Tập (Sutta Nipāta) Tiểu Bộ Kinh (Khuddaka Nikāya) [PTS Sutta Nipāta P. 39 London 1984]. Tựa kinh Phạn ngữ Ratanasutta.

Nguyên văn là Kinh Châu Báu nói về những giá trị vượt bực ở đời. Ở đây Phật Pháp Tăng là những bảo vật trân quí nhất. Không phải chỉ có lời tán thán mà là một trình bày khúc chiết đặc tính của Tam Bảo. Qua đó người tu tập tìm thấy dấu ấn quan trọng trong hành trình tâm linh của mình. Bài kinh nói đến bản thể ưu việt của ba ngôi báu và liên hệ bất khả ly của Phật Pháp Tăng. Cũng từ những đoạn nầy con đường tu tập và quả vị giải thoát được trình bày một cách hàm xúc. Ðức Phật dạy bài kinh nầy tại Vesalì (Tỳ Xá Ly) nơi đang bị ba tai ách bệnh dịch, nạn đói, và phi nhân hoành hành. Tôn giả Ananda học thuộc lòng bài kinh và trì niệm trọn đêm suốt hành trình ba vòng thành Vesalì. Kết quả mọi tai ách đều được giải trừ. Cả tánh lẫn dụng của bài kinh đều đặc thù nên Kinh Châu Báu trở thành quan trọng nhất trong các bài kinh cầu an.




KINH CHÂU BÁU
RATANASUTTA


Yānīdha bhūtāni samāgatāni. Bhummāni vā yāniva antalikkhe
Sabbe va bhūtā sumanā bhavantu. Athopi sakkacca suṇantu bhāsitaṃ
Tasmā hi bhūtāni sāmetha sabbe. Mettaṃ karotha mānusiyā pajāya. Divā ca ratto ca haranti ye baliṃ. Tasmā hi ne rakkhatha appamattā


Chúng thiên nhân các cõi
Dù thiên tiên địa tiên
Ðã vân tập nơi đây
Mong khởi lòng hoan hỷ
Thành kính nghe lời nầy
Rồi với tâm bi mẫn
Năng hộ trì nhơn loại
Vốn đêm ngày hồi hướng
Phước lành đến chư thiên

Yaṅkiñci vittaṃ idha vā huraṃ vā. Saggesu vā yaṃ ratanaṃ paṇītaṃ
Na no samaṃ atthi tathāgatena. Idampi buddhe ratanaṃ paṇītaṃ. Etena saccena suvatthi hotu.


Những vật quí trong đời
Chốn nầy hay nơi khác
Cả châu báu cõi trời
Không gì sánh bằng được
Với Như Lai Thiện Thệ
Do vậy chính đức Phật
Là châu báu thù diệu
Mong với chân ngôn nầy
Tựu thành muôn hạnh phúc

Khayaṃ virāgaṃ amataṃ paṇītaṃ yadajjhagā sakyamunī samāhito
Na tena dhammena samatthi kiñci idaṃ pi dhamme ratanaṃ paṇītaṃ etena saccena suvatthi hotu

Pháp Bất tử tối thượng
Ly dục diệt phiền não
Phật Thích Ca Mâu Ni
Chứng pháp ấy trong thiền
Không gì sánh bằng được
Pháp thiền vi diệu ấy
Do vậy chính Chánh Pháp
Là châu báu thù diệu
Mong với chân ngôn nầy
Tựu thành muôn hạnh phúc

Yaṃ buddhaseṭṭho parivaṇṇayī suciṃ samādhimānantarikaññamāhu
samādhinā tena samo na vijjati idaṃ pi dhamme ratanaṃ paṇītam etena saccena suvatthi hotu


Con đường thanh lọc tâm
Là tu tập thiền định
Chứng hiện tại lạc trú
Ðức Phật hằng ngợi khen
Không gì so sánh được
Do vậy chính Chánh Pháp
Là châu báu thù diệu
Mong với chân ngôn nầy
Tựu thành muôn hạnh phúc

Ye puggalā aṭṭhasataṃ pasaṭṭhā cattāri etāni yugāni honti
te dakkhiṇeyyā sugatassa sāvakā etesu dinnāni mahapphalāni idaṃ pi saṅghe ratanaṃ paṇītaṃ etena saccena suvatthi hotu


Thánh tám vị bốn đôi
Là những bậc ứng cúng
Ðệ tử đấng Thiện Thệ
Ðược trí giả tán thán
Cúng dường đến các ngài
Hưởng vô lượng công đức
Do vậy chính Tăng Chúng
Là châu báu thù diệu
Mong với chân ngôn nầy
Tựu thành muôn hạnh phúc

Ye suppayuttā manasā daḷhena nikkāmino gotamasāsanamhi
te pattipattā amataṃ vigayha laddhā mudhā nibbutiṃ bhuñjamānā idaṃ pi saṅghe ratanaṃ paṇītaṃ etena saccena suvatthi hotu


Bậc tu hành thiểu dục
Với ý chí kiên trì
Khéo chơn chánh phụng hành
Lời dạy đức Ðiều Ngự
Chứng đạt quả giải thoát
Thể nhập đạo bất tử
Lạc trú quả tịch tịnh
Do vậy chính Tăng Chúng
Là châu báu thù diệu
Mong với chân ngôn nầy
Tựu thành muôn hạnh phúc

Yathindakhīlo paṭhaviṃ sito siyā catubbhi vātebhi asampakampiyo
tathūpamaṃ suppurisaṃ vadāmi yo ariyasaccāni aveccapassati idaṃ pi saṅghe ratanaṃ paṇītaṃ etena saccena suvatthi hotu


Ví như cột trụ đá
Khéo chôn chặt xuống đất
Dầu bốn hướng cuồng phong
Cũng không thể lay động
Ta nói bậc chân nhân
Liễu ngộ tứ thánh đế
Cũng tự tại bất động
Trước tám pháp thế gian
Do vậy chính Tăng Chúng
Là châu báu thù diệu
Mong với chân ngôn nầy
Tựu thành muôn hạnh phúc

Ye ariyasaccāni vibhāvayanti gambhīrapaññena sudesitāni
kiñcāpi te honti bhusappamattā na te bhavaṃ aṭṭhamamādiyanti
idaṃ pi saṅghe ratanaṃ paṇītaṃ etena saccena suvatthi hotu


Bậc thánh Tu đà hườn
Chứng tri lý thánh đế
Ðược đức Gô Ta Ma
Khéo thuyết giảng tường tận
Các ngài dù phóng dật
Thì cũng không bao giờ
Tái sanh kiếp thứ tám
Do vậy chính Tăng Chúng
Là châu báu thù diệu
Mong với chân ngôn nầy
Tựu thành muôn hạnh phúc

Sahāvassa dassanasampadāya tayassu dhammā jahitā bhavanti
sakkāyadiṭṭhi vicikicchitañca sīlabbataṃ vāpi yadatthi kiñci catūhapāyehi ca vippamutto cha cābhiṭṭhānāni abhabbo kātuṃ idaṃ pi saṅghe ratanaṃ paṇītaṃ
etena saccena suvatthi hotu


Nhờ chứng đạt chánh trí
Ðọan trừ ba kiết sử
Thân kiến và hoài nghi
Luôn cả giới cấm thủ
Thoát khỏi bốn đọa xứ
Bậc Nhập lưu không tạo
Sáu bất thiện trọng nghiệp
Do vậy chính Tăng Chúng
Là châu báu thù diệu
Mong với chân ngôn nầy
Tựu thành muôn hạnh phúc

Kiñcāpi so kammaṃ karoti pāpakaṃ kāyena vācāyuda cetasā vā
abhabbo so tassa paṭicchadāya abhabbatā diṭṭhapadassa vuttā idaṃ pi saṅghe ratanaṃ paṇtītaṃ etena saccena suvatthi hotu


Bậc Thánh tu đà hườn
Dù vô tâm phạm lỗi
Bằng thân lời hay ý
Cũng không hề che dấu
Ðược xứng danh hiền thánh
Do vậy chính Tăng Chúng
Là châu báu thù diệu
Mong với chân ngôn nầy
Tựu thành muôn hạnh phúc

Vanappagumbe yathā phussitagge gimhānamāse paṭhamasmiṃ gimhe tathūpamaṃ dhammavaraṃ adesayi nibbānagāmiṃ paramaṃ hitāya
idaṃ pi buddhe ratanaṃ paṇītaṃ etena saccena suvatthi hotu


Ðức Thế Tôn thuyết giảng
Pháp đưa đến niết bàn
Tịnh lạc và thù thắng
Lợi ích chúng hữu tình
Ví như mưa đầu hạ
Khiến ngàn cây đâm chồi
Do vậy chính đức Phật
Là châu báu thù diệu
Mong với chân ngôn nầy
Tựu thành muôn hạnh phúc

Varo varaññū varado varāharo anuttaro dhammavaraṃ adesayi
Idaṃ pi buddhe ratanaṃ paṇītaṃ etena saccena suvatthi hotu


Ðức Phật bậc vô thượng
Liễu thông pháp vô thượng
Ban bố pháp vô thượng
Chuyển đạt pháp vô thượng
Tuyên thuyết pháp vô thượng
Do vậy chính đức Phật
Là châu báu thù diệu
Mong với chân ngôn nầy
Tựu thành muôn hạnh phúc

Khīṇaṃ purāṇaṃ navaṃ natthisambhavaṃ virattacittāyatike bhavasmiṃ te khīṇabījā aviruḷhichandā nibbanti dhīrā yathāyampadīpo
idaṃ pi saṅghe ratanaṃ panītaṃ etena saccena suvatthi hotu.


Nhân quá khứ đã đoạn
Mầm tương lai không gieo
Với tâm không ái chấp
Trong sanh hữu đời sau
Bởi tham muốn đã đọan
Các chủng tử không còn
Ví như ngọn đèn tắt
Bậc trí chứng niết bàn
Do vậy chính Tăng Chúng
Là châu báu thù diệu
Mong với chân ngôn nầy
Tựu thành muôn hạnh phúc

Yānīdha bhūtāni samāgatāni bhummāni vā yāniva antalikkhe
tathāgataṃ devamanussapūjitaṃ buddhaṃ namassāma suvatthi hotu


Chúng thiên nhân các cõi
Dù thiên tiên địa tiên
Ðã vân tập nơi đây
Hãy chí thành đảnh lễ
Ðức Phật bậc như lai
Ðược chư thiên nhân loại
Ðảnh lễ và cúng dường
Mong với chân ngôn nầy
Tựu thành muôn hạnh phúc

Yānīdha bhūtāni samāgatāni bhummāni vā yāniva antalikhe
tathāgataṃ devamanussapùjitaṃ dhammaṃ namassāma suvatthi hotu


Chúng thiên nhân các cõi
Dù thiên tiên địa tiên
Ðã vân tập nơi đây
Hãy chí thành đảnh lễ
Chánh Pháp đạo như chân
Ðược chư thiên nhân loại
Ðảnh lễ và cúng dường
Mong với chân ngôn nầy
Tựu thành muôn hạnh phúc

Yanītha bhūtāni samāgatāni bhummāni vā yāniva antalikkhe
tathāgataṃ devamanussapūjitaṃ saṅghaṃ namassāma suvatthi hotu


Chúng thiên nhân các cõi
Dù thiên tiên địa tiên
Ðã vân tập nơi đây
Hãy chí thành đảnh lễ
Tăng Chúng bậc như đức
Ðược chư thiên nhân loại
Ðảnh lễ và cúng dường
Mong với chân ngôn nầy
Tựu thành muôn hạnh phúc.


Nguồn gốc Kinh Từ Bi
Xuất xứ từ Kinh Tập (Sutta Nipāta) Tiểu Bộ Kinh (Khuddaka Nikāya) [PTS Sutta Nipāta P. 25 London 1984). Tựa kinh Phạn ngữ Mettasutta.

Ðây là bài kinh đặc biệt nói về lòng từ. Ba bài kệ đầu dạy về những đức tánh cần thiết cho người muốn phát triển hạnh từ ái, nói về đối tượng của từ tâm, đề cập những bất thiện pháp có hại cho lòng từ; tiếp theo là phương thức tu dưỡng; và cuối cùng là quả phúc của từ bi. Bài kinh nầy được đức Phật dạy cho các tỳ kheo trì tụng nhằm mục đích hoá giải những quấy phá của phi nhơn khi các thầy đang tu tập trong rừng. Vì được giảng trong duyên sự như vậy, bài kinh thường được dùng để bảo vệ sự bình an đối với những quấy nhiễu của chúng sanh khuất mặt. Tất nhiên nội dung bài kinh là một cẩm nang cho người tu tập lòng từ.



KINH TỪ BI
KARAṆĪYAMETTĀ SUTTAṂ

1) Karaṇīya matthakusalena
Yantaṃ santaṃ padaṃ abhisamecca
Sakko ujū ca suhujū ca
Suvaco c'assa mudu anatimāni.

2) Santussako ca subharo ca
Appakicco ca sallahukavutti
Santindriyo ca nippako ca
Appagabbho kulesu ananugiddho.

3) Na ca khuddaṃ samācare kīñci
Yena viññū pare upavadeyyuṃ
Sukhino vā khemino hontu
Sabbe sattā bhavantu sukhitattā.

4) Ye keci pāṇaphū tatthi
Tasā vā thāvarā vā anavasesā
Dīghā vā ye mahantā vā
Majjhimā rassakānukathulā

5) Diṭṭhā vā yeva addiṭṭhā
Ye ca dưre vasanti avidū re
Bhū tā vā sambhavesi vā
Sabbe sattā bhavantu sukhitattā.

6) Na paro paraṃ nikubbetha
Nātimāññetha katthacinaṃ kiñci
Byārosanā patighasaññā
Nāñña maññassa dukkha miccheyya.

7) Mātā yathā niyaṃ puttaṃ
Āyusā ekaputtatamanurakkhe
Evampi sabbaphū tesu
Mānasaṃ bhāvaye aparimāṇaṃ .

8) Mettañca sabba lokasmiṃ
Mānasaṃ bhāvaye aparimānaṃ
Uddhaṃ ādho ca tiriyañca
Asambādham averam asapattaṃ .

9) Tiṭṭhaṃ caram nisinno vā
Sayāno vā yāvat'assa vigatamiddho
Etaṃ satiṃ addhiṭṭheyya
Brahmametaṃ vihāraṃ idha māhu.

10) Diṭṭhiñca anupagamma sīlavā
Dassanena sampanno
Kămesu vineyya gedhaṃ
Nahijātu gabbhaseyyaṃ puna reti'ti



TỪ BI KINH
(Phỏng dịch xuôi vần theo bài giảng của Ðại đức Narada.)


1. Người khôn có đủ đức tài,
Hằng tìm lợi ích tương lai cho mình.
Dọn lòng an tịnh thanh bình
Tiến vào Cực lạc Vô sinh Niết Bàn
Giữ lòng chánh trực đoan trang,
Nhu hòa lương thiện chẳng màng khoe khoang,

2. Thanh bần thủ phận an nhàn,
Không ham thế sự tịnh an cõi lòng.
Lục căn chế ngự nghiêm phòng,
Không cho liều lĩnh luyến mong dục trần.

3. Không làm nhơ bẩn tinh thần,
Tránh lời chê trách thánh nhân phê bình,
Mong cầu tất cả chúng sinh,
Dồi dào hạnh phúc hòa bình sinh nhai.

4. Cầu cho ba giới bốn loài,
Chúng sanh yếu mạnh, vắn dài bình trung.
Béo gầy nhỏ lớn không cùng,
Hữu hình, vô tướng muôn trùng gần xa.

5. Chưa sanh hoặc đã sanh ra
Thảy đều cộng hưởng hà sa phước lành.

6. Nguyện không lừa gạt, dối manh,
Khinh người, miệt chúng, hư danh trang hiền.

Dầu cho thân thuộc, xóm giềng,
Người dưng kẻ lạ các miền xa xăm.
Trong cơn phẫn nộ giận thầm,
Cũng không lo nghĩ mưu thâm hại người.

7. Như lòng từ mẫu thanh tươi,
Trăm cay ngàn đắng vui cười vì con.
Dầu cho một mất một còn,
Bảo tồn con trẻ vuông tròn ăn chơi.
Tình thương ghi tạc đời đời,
Từ bi rộng lớn bầu trời thênh thang.
Học đòi từ mẫu gương vàng,
Mở lòng thương xót bủa tràn gần xa.
Chúng sanh trong cõi Sa bà,
Thoát vòng khổ não, vượt ra luân hồi.

8. Hằng ngày rải khắp các nơi,
Bốn phương tám hướng gầm trời bao la.
Tấm lòng bác ái vị tha,
Gội nhuần tư tưởng đậm đà tình thương.
Lòng từ trong sạch như gương,
Không pha ác cảm không vương tư thù.

9. Cố tâm niệm niệm công phu,
Khi đi, khi đứng, chuyên tu tham thiền.
Nằm ngồi mặc niệm thường xuyên,
Sưu tầm đạo quả, gieo duyên Niết Bàn
Ðó là phương pháp thế gian,
Ðó là hạnh kiểm đưa đàng Vô sanh.
Thánh nhân ca tụng tán thành,
Xuôi dòng thánh vức, lữ hành Nhập lưu (Tu Ðà Hườn).

10. Vượt lên đến mức thắng ưu,
Khai thông tuệ nhãn, tầm sưu đỉnh đầu.
A Hàm đạo tuệ gươm mầu,
Ðoạn tuyệt tà kiến, xả câu dục tình.
Bất lai cảnh giới hữu hình,
Phạm thiên tạm ngự, nghiêm minh Niết Bàn.


Nguồn gốc Kinh 37 Bồ Ðề Phần

Xuất xứ từ Abhiddhammasangaha (Vi Diệu Pháp Tập Yếu). Tựa kinh Phạn ngữ Bodhipakkhiyasangaha.

Nội dung kinh nói về ba mươi bảy pháp tu tập nằm trong các thể tài căn bản pháp hành là tứ niệm xứ, tứ thần túc, tứ chánh cần, ngũ căn, ngũ lực, thất giác chi và bát chánh đạo. Ðức Phật dạy rằng những vị đệ tử Phật về sau có thể có những quan niệm dị biệt về giáo pháp nhưng ba mươi bảy pháp bồ đề là pháp tu nền tảng chung của tất cả. Các nhà sớ giải cũng gọi đề tài nầy là bản đồ tu Phật. Bài kinh nầy tụng trong thời khoá nhật hành, đại chúng và cầu an.



KINH 37 BỒ ĐỀ PHẦN
Bodhipakkhiyadhamma


Cattāro satipaṭṭhānā kāyānupassanāsatipaṭṭhānaṃ vedanānupassanāsatipaṭṭhānaṃ cittānupassanāsatipaṭṭhānaṃ dhammānupassanāsatipaṭṭhānaṃ muninā sammadakkhātā bhāvitā bahulīkatā
saṃvattanti abhiññāya nibbānāya ca bodhiyā. Etena saccavajjena
sotthi te hotu sabbadā


Tứ niệm xứ tức bốn pháp quán niệm đã được đấng Thập Lực khéo tu tập, khéo chứng đắc, khéo tuyên thuyết. Bốn pháp niệm gồm có:
Niệm thân tức minh sát về thân
Niệm thọ tức minh sát cảm thọ
Niệm tâm tức minh sát trạng thái nội tâm
Niệm pháp tức minh sát sự tương quan các pháp.
Mong với chân ngôn nầy
Tựu thành muôn hạnh phúc.

Cattāro sammappadhānā uppannānaṃ pāpakānaṃ dhammānaṃ pahānāya vāyāmo anuppannānaṃ pāpakānaṃ dhammānaṃ anuppādāya vāyāmo anuppannānaṃ kusalānaṃ dhammānaṃ uppādāya vāyāmo uppannānaṃ kusalānaṃ dhammānaṃ bhiyyobhāvāya vāyāmo muninā sammadakkhātā bhāvitā bahulīkatā saṃvattanti abhiññāya nibbānāya ca bodhiyā. Etena saccavajjena sotthi te hotu sabbadā

Tứ chánh cần tức bốn nỗ lực quan yếu đã được đấng Thập Lực khéo tu tập, khéo chứng đắc, khéo tuyên thuyết. Bốn pháp ấy gồm có:
- Thật chánh cần tức sự cố gắng ngăn ngừa ác pháp không cho sanh khởi .
- Trừ chánh cần tức sự cố gắng đoạn trừ ác pháp đã sanh khởi.
- Tu chánh cần tức sự cố gắng làm sanh khởi thiện pháp chưa có.
- Bảo chánh cần tức sự cố gắng nuôi dưỡng thiện pháp đã có.
Mong với chân ngôn nầy
Tựu thành muôn hạnh phúc.

Cattāro iddhipādā chandiddhipādo cittiddhipādo viriyiddhipādo vīmaṅsiddhipādo muninā sammadakkhātā bhāvitā bahulīkatā saṃvattanti abhiññāya nibbānāya ca bodhiyā. Etena saccavajjena sotthi te hotu sabbadā.

Tứ thần túc tức bốn pháp có hiệu năng thành tựu thiền định và chánh trí đã được đấng Thập Lực khéo tu tập, khéo chứng đắc, khéo tuyên thuyết. Bốn pháp có hiệu năng gồm có:
- Dục thần túc tức hiệu năng của ý muốn
- Cần thần túc tức hiệu năng của nỗ lực
- Tâm thần túc tức hiệu năng của tâm thuần hoá

- Thẩm thần túc tức hiệu năng của trí phân biệt.
Mong với chân ngôn nầy
Tựu thành muôn hạnh phúc.

Pañcindriyāni saddhindriyaṃ viriyindriyaṃ satindriyaṃ samādhindriyaṃ paññindriyaṃ muninā sammadakkhātā bhāvitā bahulīkatā
saṃvattanti abhiññāya nibbānāya ca bodhiyā. Etena saccavajjena sotthi te hotu sabbadā


Ngũ căn tức năm nền tảng của sự tu chứng đã được đấng Thập Lực khéo tu tập, khéo chứng đắc, khéo tuyên thuyết. Năm nền tảng gồm có:
- Tín căn tức căn bản đức tin
- Tấn căn tức căn bản tinh cần
- Niệm căn tức căn bản tỉnh thức
- Ðịnh căn tức căn bản chuyên nhất
- Tuệ căn tức căn bản trí tuệ
Mong với chân ngôn nầy
Tựu thành muôn hạnh phúc.

Pañca balāni saddhābalaṃ viriyabalaṃ satibalaṃ samādhibalaṃ paññābalaṃ muninā sammadakkhātā bhāvitā bahulīkatā saṃvattanti abhiññāya
nibbānāya ca bodhiyā. Etena saccavajjena sotthi te hotu sabbadā


Ngũ lực tức năm sức mạnh của sự tu chứng đã được đấng Thập Lực khéo tu tập, khéo chứng đắc, khéo tuyên thuyết. Năm sức mạnh gồm có:
- Tín lực tức sức mạnh của đức tin
- Tấn lực tức sức mạnh của sự tinh cần
-Niệm lực tức sức mạnh của sự tỉnh thức
- Ðịnh lực tức sức mạnh của sự chuyên nhất
- Tuệ lực tức sức mạnh của trí tuệ
Mong với chân ngôn nầy
Tựu thành muôn hạnh phúc.

Satta bojjhaṅgā satisambojjhaṅgo dhammavicayasambojjhaṅgo viriyasambojjhaṅgo pītisambojjhaṅgo passadhisambojjhaṅgo samādhisambojjhaṅgo upekkhāsambojjhaṅgo muninā sammadakkhātā
bhāvitā bahulīkatā saṃvattanti abhiññāya nibbānāya ca bodhiyā
Etena saccavajjena sotthi te hotu sabbadā


Thất giác chi tức bảy yếu tố dẫn đến giác ngộ đã được đấng Thập Lực khéo tu tập, khéo chứng đắc, khéo tuyên thuyết. Bảy yếu tố gồm có:
- Niệm giác chi tức yếu tố minh sát
- Trạch pháp giác chi tức yếu tố phân biệt
- Cần giác chi tức yếu tố tinh tấn
- Hỷ giác chi tức yếu tố an lạc
- Tịnh giác chi tức yếu tố lắng đọng
- Ðịnh giác chi tức yếu tố chuyên nhất
- Xả giác chi tức yếu tố quân bình.
Mong với chân ngôn nầy
Tựu thành muôn hạnh phúc.

Aṭṭha maggaṅgāni
sammādiṭṭhi sammāsaṅkappo sammāvācā
sammākammanto sammāājīvo
sammāvāyāmo sammāsati sammāsamādhi
muninā sammadakkhātā
bhāvitā bahulīkatā
saṃvattanti abhiññāya
nibbānāya ca bodhiyā
Etena saccavajjena
sotthi te hotu sabbadā


Bát chánh đạo tức con đường chánh tám chi phần đã được đấng Thập Lực khéo tu tập, khéo chứng đắc, khéo tuyên thuyết. Tám chi phần gồm có:
- Chánh kiến tức sự thấy biết xác thực
- Chánh tư duy tức suy nghĩ chân chánh
- Chánh ngữ tức lời nói hiền thiện
- Chánh nghiệp tức hành vi vô tội
- Chánh mạng tức sự nuôi mạng hợp đạo
- Chánh tinh tấn tức sự nỗ lực chánh đáng
- Chánh niệm tức sự quán sát tỉnh thức
- Chánh định tức sự định tâm đúng phương pháp.
Mong với chân ngôn nầy
Tựu thành muôn hạnh phúc.


Nguồn gốc Kinh Vô Úy (Không Sợ Hãi )

Xuất xứ từ các bản kinh tụng truyền thống của Phật Giáo Nguyên Thủy. Tựa kinh Phạn ngữ Abhayaparittagāthā.

Niệm tưởng uy đức Tam Bảo để xua tan những âu lo, sợ hãi là nội dung chính của bài kinh. Ở đâu có phước lành nơi đó là chốn hội tụ của các vị thiện thần nhờ vậy tiêu trừ điều bất tường. Cầu nguyện an lành cho tha nhân và xưng tán uy lực của chư Phật Toàn giác, Độc giác và Thánh chúng cũng là cách đem lại sự an lành thanh thản, không sợ sệt. Kinh nầy đặc biệt tụng trong các khoá lễ cầu an tiêu tai.



KINH VÔ UÝ
Abhayaparittagāthā


Yandunnimittaṃ avamaṅgalañca
yo cāmanāpo sakuṇassa saddo
pāpaggaho dussupinaṃ akantaṃ
buddhānubhāvena vināsamentu
Yandunnimittaṃ avamaṅgalañca
yo cāmanāpo sakuṇassa saddo
pāpaggaho dussupinaṃ akantaṃ
dhammānubhāvena vināsamentu
Yandunnimittaṃ avamaṅgalañca
yo cāmanāpo sakuṇassa saddo
pāpaggaho dussupinaṃ akantaṃ
saṅghānubhāvena vināsamentu


Nguyện cầu uy đức Phật Bảo
Nguyện cầu uy đức Pháp Bảo
Nguyện cầu uy đức Tăng Bảo
Xin Tam Bảo gia hộ
Ngăn ngừa mọi tai ương
Những hiện tượng bất tường
Những mộng mị xấu xa
Những nghịch duyên trở ngại
Thảy đều mau tan biến

Dukkhappattā ca niddukkhā
bhayappattā ca nibbhayā
sokappattā ca nissokā
hontu sabbepi pāṇino
ettāvatā ca amhehi
sambhataṃ puññasampadaṃ
sabbe devānumodantu
sabbasampattisiddhiyā
dānaṃ dadantu saddhāya
sīlaṃ rakkhantu sabbadā
bhāvanābhiratā hontu
gacchantu devatāgatā


Nguyện muôn loài chúng sanh
Người khổ xin hết khổ
Người sợ hết sợ hãi
Người sầu hết sầu bi
Biết cho với niềm tin
Biết hộ trì giới hạnh
Biết lạc trú trong thiền

Chư thiên đã vân tập
Xin tùy hỷ phước lành
Ðược cát tường như ý
Rồi phản hồi thiên xứ.

Sabbe buddhā balappattā
paccekānañca yaṃ balaṃ
arahantānañca tejena
rakkhaṃ bandhāmi sabbaso


Chư Toàn Giác đại lực
Chư Ðộc Giác đại lực
Thinh Văn Giác đại lực
Nguyện tổng trì uy đức
Cầu phúc lành phát sanh.