Trang 1 trong 9 1234567 ... Cuối cùngCuối cùng
kết quả từ 1 tới 20 trên 167

Ðề tài: Huyền Môn Lược Ký

Hybrid View

Previous Post Previous Post   Next Post Next Post
  1. #1

    Mặc định Huyền Môn Lược Ký

    Được sự cho phép của tác giả, hôm nay xin được gửi tới các bạn một cuốn hồi ký nói về hành trình hơn 20 năm âm thầm độ đời, giúp người của cô Nguyễn Thị Thanh Lan. Xuyên suốt cuốn hồi ký là những tình tiết huyền bí mà cuộc đời của cô như là một định mệnh phải gắn liền với nó. Trong Huyền Môn Lược Ký sẽ có nhiều điều bổ ích mà những người đang trên con đường đạo có thể học hỏi và tìm ra cho mình một bài học quý giá. Xin chân trọng giới thiệu...


    HUYỀN MÔN LƯỢC KÝ



    SÁCH NGHIÊN CỨU, TRẢI NGHIỆM THỰC TẾ VỀ KHOA HỌC HUYỀN BÍ VÀ TÂM LINH.



    THAY LỜI TỰA



    Chúng ta - đang sống ở cõi Người, nơi tượng trưng cho thế giới hữu hình. Những gì liên quan đến thế giới vô hình hay siêu hình, siêu thức - con người chưa với tay được mấy!
    Ngoài một số sách nghiên cứu tìm hiểu, sưu tầm, khảo biên hay linh ứng cũng chỉ nói chung chung, thiếu minh chứng va cụ thể. Lắm khi dẫn dắt người đọc vào chỗ mơ hồ - tạo ra sự hoang mang, khó hiểu hay lo lắng, bất an ở những người "yếu bóng vía", người có tri thức và hiểu biết dễ bài xích hoặc thiếu lòng tin...
    Dù vậy, ít ai có thể phủ nhận rằng vẫn còn tồn tại đâu đó chung quanh chúng ta một thế giới, khác với thế giới mà ta đang nhìn thấy, sờ mó và cảm nhận được!
    Quyển sách này là cả một quá trình dài 22 năm của môt con người bình thường, hoàn toàn tỉnh táo, có tri thức, khôn ngoan và không mê tín hay cuồng tín - Được bàn tay của các Đấng ứng vào để cứu độ nhân sinh, xoa dịu nỗi đau của con người từ thể xác đến linh hồn, gieo trồng hạt giống Thiện vốn từ lâu bị thui chột bởi lòng vị kỷ.
    Bàn tay ấy không từ bỏ một ai, từ kẻ sang người hèn, từ người tốt đến kẻ xấu, người hiền lành đạo đức đến kẻ bạc ác vô tâm…
    Bàn tay xuất phát từ trái tim vị tha yêu thương đồng loại, nguyện đem sức lực bé nhỏ của mình an ủi và dìu đỡ muôn loài, từ trái tim của người Phật tử cho đi không hề toan tính đắn đo.
    Chưa có con người hay môt sinh vật nào bước vào ngưỡng cửa nhà ấy trở ra mà không được chút gì cho mình - và những gì nhận được ấy không hề phải trả giá!
    Một người nguyên là một giáo viên chỉ thờ cúng theo gốc nhà đạo Phật, ít lui tới đình chùa lễ hội và cũng không chay tịnh quy y!
    Lặng lẽ vô danh ở một góc đời nhỏ bé, hy sinh cả hạnh phúc riêng tư của mình, từ bỏ mọi cơ hội tiến thân hoặc kiếm sống để khoác lên vai môt trọng trách mà ít người biết được: làm sứ giả, làm nhịp cầu nối giữa các cõi âm và dương để xóa bỏ hận thù truyền kiếp, bắt vòng tay nhân ái, gieo trồng hạt giống thiện, xoa dịu niềm đau thể xác lẫn linh hồn...
    Quyển sách này là kinh nghiệm thực tế kéo dài suốt 22 năm, trải qua từng ngày, từng giờ một! Bạn có thể vì tò mò tìm đọc, hoặc muốn nghiên cứu, tìm hiểu một cách nghiêm túc cũng được! Tất cả đều là người thật, việc thật, không hề được phóng đại hay cắt xén, bóp méo, bẻ cong. Nhân chứng sống đa số vẫn còn nguyên đó - và bạn có thể tùy tiện tra cứu lại, nếu muốn!
    Bạn sẽ tìm thấy ở đây những "Luật bất thành văn" về sự giao tiếp, hành xử và liên hệ giữa cõi vô hình và hữu hình. Những quy tắc bất di bất dịch, mà dưới bàn tay tự nguyện của tác giả, nó trở nên linh động, uyển chuyển, đổi thay và cảm hóa...
    Người xưa bảo: "Cây kim sợi chỉ không qua được lưới trời" - "Nhân quả báo đền" hoặc "Thiện ác đáo đầu chung hữu báo"... Quyển sách này được viết lại chứng minh cho loài người biết rằng: tất cả vạn sự trên đòi đều có luân hồi, quả báo - và tấm lòng của các Đấng vẫn rộng cứu muôn loài, những ai còn biết tìm đến, hướng về!
    Muôn vạn đạo pháp trên đời chẳng qua được đạo tâm hay còn gọi là "lòng nhân đạo".
    Hạt giống thiện khéo gieo trồng sẽ đem đến an lành cho cõi nhân sinh! Xin phép mượn bài viết trước đây (Ngày 17/5/2005) để giới thiệu về tác giả cũng như tác phẩm "Huyền Môn Lược Ký".

    Tháng 7 - Mùa Vu Lan Báo Hiếu, ngày xá tội vong nhân - Xin hướng về Phật Pháp đảnh lễ! Xin cúi đầu cảm tạ bàn tay huyền diệu của các Đấng đã ân cứu chúng sinh! Cầu xin phước báu quy về Cửu Huyền Thất Tổ muôn kiếp vạn loài được siêu sinh tịnh độ…


    Tiết Lập Thu - Tháng Canh Thân - Ngày Nhâm Thìn - Năm Mậu Tý (Thượng Tam Nguyên niên kỷ)

    Huệ Nghiêm Chuẩn đề!
    Đệ Tử Diệu Thiện Kính Truyền!

    " NAM MÔ THÍCH CA MÂU NI PHẬT ".


    CHỦNG TỬ PHẬT



    Tôi chỉ biết một điều rằng Tôi không phải là một người thuộc về cõi trần hữu hạn này. Tôi từ nơi khác đến - và đến đây không phải để sống kiếp sống của một người trần thế bình thường. Mặc dù Tôi cũng sinh ra và lớn lên cùng mọi người, cũng ăn uống, ngủ nghỉ, làm việc, yêu thương và sân hận như họ!
    Nhiệm vụ của Tôi là đem mình ra để chịu thế một ít khổ đau của người khác, nhờ đó họ được nhẹ nhàng hơn, và cũng bởi không phải là người của cõi thế này, tôi không cảm thấy phù hợp với nó. Tôi luôn luôn ốm đau, bệnh hoạn - bị dằn vặt bởi những suy tư, bất an rất nhỏ bé của đời thường - và Tôi luôn mất ngủ!
    Hàng đêm, những diễn biến của cuộc sống lướt qua như tia chớp trong cái đầu kiệt nhược của Tôi - và Tôi luôn tự hỏi: "tại sao lại như vậy?" Tôi bị điều khiển bởi động lực vô hình, bị nó chi phối, dồn nén - xoay chuyển vá tạo tác, hành xử từng ngày, từng phút…
    Nhưng khi cuộc sống của Tôi bị dồn vào ngõ cụt thì họ lại hiện ra, an ủi và nâng đỡ tôi bằng đôi tay dịu dàng của người mẹ, bằng sự rộng lượng của người cha, bằng những vần thơ như chắp thêm đôi cánh cho kẻ bị lưu đày và tôi lại đứng lên, bước tiếp trên hành trình của một kiếp người...
    Tôi là một hạt giống trời gieo xuống mảnh đất trần thế đang bị cằn cỗi, xói mòn bởi lòng vị kỷ. Hạt giống ấy lớn lên thành một thân cây có bóng mát để cho người ta tìm tới, nghỉ lại trong chốc lát rồi lại đứng lên lê bước trên đường trần dài dằng dặc, đầy đắng cay và bất trắc!
    Bóng mát kia chẳng từ bỏ một ai, nó cúi xuống đưa bàn tay bé nhỏ của mình, nâng lên từ đất bụi, từ những uế nhiễm trần gian những sinh linh mang hình hài tạo tác của Đấng Vĩnh Hằng, đang bị xô đẩy ngửa nghiêng đau khổ, nạn tai và tật bệnh...
    Cũng chính vì là một bóng mát cho mọi người, nó phải chịu làm cây cộc đứng giữa đường, dang mình trong nắng lửa. Nó gục xuống rồi lại đứng lên, và bởi không phải là một người của kiếp sống hiện sinh, nó không có bản lĩnh để đối phó với mọi hòan cảnh bên mình, nó luôn luôn "khó ở" và tật bệnh!
    Cùng đồng hành với "kẻ tự nguyện bị lưu đầy" này còn có một linh hồn khác luôn kề cận, an ủi sẻ chia, nhủ khuyên và định hướng khi xác trần chán chường và tuyệt vọng. Để rồi sau những đêm dài trăn trở, tôi lại đứng lên, làm tiếp những công việc không mang đến lợi nhuận cho mình!
    Tấm giấy thông hành tôi mang theo "nhập thế'" còn có "quyền trợ giúp tha nhân", nhưng quyền trợ giúp ấy không hề có hiệu lực với chính mình!
    Khi tôi muốn, tôi có thể tìm biết về người khác, một phần quá khứ hoặc tương lai, để từ đó giúp họ xoay chuyển mệnh trần. Song với chính bản thân thì tôi lại bất lực, những quyền năng tối thượng ấy không bao giờ định hướng cho tôi, nhưng nếu tôi sai bước, tôi sẽ bị đòn đau - rất đau!
    Có điều lạ là quyền năng cứu sinh ấy không hề xuất hiện để thỏa mãn sự tò mò hiếu kỳ, thử nghiệm hay xét nét. Nó chỉ hiện diện khi cần thiết, và không lưu lại dấu tích sau khi hành sự. Chỉ còn lại một tôi lơ ngơ đi giữa chợ đời, khờ khạo chán chường và không màng sự thế!
    Tôi biết trách ai đây về sự tồn tại chẳng bình thường của mình, ở nơi chốn mà sự hiện hữu được phân định bằng ranh giới thấp cao của "hiện vật trưng bày", của danh vị, tiền tài và bổng lộc!
    Bạn bè bảo tôi: "Cô không chịu vận động đấu tranh với cuộc sống, thì thiếu thốn, tật bệnh là lẽ đương nhiên". Hoặc: "Cô làm việc mà không thu lơi nhuận thì sống bằng gì?"
    Các em tôi thì nói: "Chị Hai mà làm gì. Cứ như người ở trên mây. Làm chuyện gì cũng ba bảy hăm mốt ngày là dẹp!". Hoặc: "Tôi bạc đầu đi từ Nam chí Bắc chưa thấy ai khờ như cô, bị hết người này đến người khác lừa và lơi dụng mà không có ý kiến gì!"
    Đâu phải là tôi khờ khạo để bị người lợi dụng. Tôi biết, nhưng tôi không phản kháng đấy thôi! Thực ra tôi thương hại khi thấy họ chỉ biết mãn nguyện khi tranh đoạt của người khác làm của mình, mà không biết rằng có một thứ hạnh phúc cao hơn: "đó là hạnh phúc của sự ban phát, sự cho đi!"
    Giáo lý của nhà Phật có dạy rằng: "Hãy bố thí bằng đôi tay dâng tặng". Tôi mãn nguyện khi tôi dâng tặng người khác đôi bàn tay và tấm lòng của chính mình. Mặc dù trong những đêm dài trăn trở tôi vẫn còn thấy xót xa khi người ta đến tìm nơi ngưỡng cửa nhà mình - và rời đi với những thứ mà mình không hề có được cho chính bản thân.
    Mượn nén hương trầm dâng tiến, tôi gởi vào đây những đắng cay chua xót của một kiếp trần nhiều hệ lụy. Hương khói vô thường lãng đãng vòng quanh rồi tan loãng vào hư không trước mặt, liệu có đến tay các Đấng Thiện Toàn - Xin Người hãy ban cho tôi thêm một quyền lực: "Quyền tự cứu chính mình!"

    17/5/2005
    Huệ Nghiêm Chấp Bút!



    DẪN NHẬP HUYỀN MÔN LƯỢC KÝ



    Tôi bắt đầu viết lại hồi ký đời mình sau 22 năm bước chân vào ngưỡng cửa của thế giới tâm linh, với tay nắm bắt những khái niệm về không gian bốn chiều - mà với tầm nhìn hạn hẹp của thế giới con người vốn vẫn rất mơ hồ từ nhiều thập kỷ nay.
    Vận dụng cái ảo đưa vào đời thực, chuyển hóa đời sống con người – giống như bánh xe định nghiệp chuyển luân vô hình nhưng mỗi bước xe qua để lại dấu ấn hiện hữu trên mỗi số phận, rành rành như dấu tích hạt mưa rơi trên mặt đất kia, thấm sâu vào lòng đất - cho cỏ cây hoa lá lại đâm chồi...
    Việc đón nhận và truyền tải ngọn gió Huyền Môn làm xáo trộn đời sống bình thường của một người như tôi. Đó cũng là quá trình tu tập, khi một phần Linh tử dấn thân vào cõi nhân gian, khoác tấm áo thô mà truy tầm đạo lý.
    Sau 10 năm, một lần tôi đã viết tập hồi ký này- Để rồi trong cơn cuồng loạn tột cùng của nỗi đau thể xác và linh hồn, tôi đã đốt nó! Còn lại là những câu thơ như tiếng thét xé màn trời:

    “Lửa Luyện Ngục cháy đỏ từng hốc mắt
    Khói Thẩm Tra làm điên đảo hồn linh
    Phép Ngôi Cao nghiêng ngửa cả bóng hình
    Cơn Thử Thách vùi dập thân bèo bọt!
    OÁN tự thủa chào đời trong tiếng khóc
    HẬN từ ngày mang tấm áo thế nhân
    CĂM từ khi đời không chốn nương thân
    HỜN từ lúc sa chân vào ngõ cụt!”…


    Bây giờ, sau 22 năm - khi ngọn lửa Huyền môn đạt đến đỉnh cao nhất của nó, trở thành lửa Tam Muội quyền năng huân tập và hàng phục. Khi thể xác con người chỉ còn trước mắt "tịch tịch bóng tà dương" - Tôi mới có cơ hội nhìn lại đời mình, và viết lại bằng những hồi ức không còn sự chuẩn xác của thời gian!
    Tuy nhiên những người chứng kiến và nhận được "quyền năng siêu hình" vẫn còn đấy, bàn tay dịch chuyển định nghiệp còn nguyên dấu ấn - và còn đó một tôi bước lơ ngơ giữa dòng đời, lạc lõng và xa lạ ngay với cả thế giới loài người, đời mãi thời khắc trút bỏ manh áo trần du, trở về cõi nào chẳng biết…
    Tôi viết những dòng hồi ký để lại cho đời sau, con cháu hay ai đó vì tò mò hay hữu duyên tìm đọc, sẽ lại thấy cháy lên lần nữa ngọn lửa Huyền môn. Có thể từ đây, hạt giống Thiện lại đâm chồi. Rồi "cây ấy nên rừng, công đức vạn đời sau!"
    Tất cả những chi tiết, hòan cảnh cũng như tên gọi đều là sự thực. Có điều tôi xin phép chỉ viết tắt tên một số người để không làm ảnh hưởng đến đời sống riêng tư. Danh xưng của các Đấng thì tôi vẫn viết y nguyên như vậy, để tôn trọng bàn tay tạo tác, và cũng bởi tôi không có tư cách để thẩm tra, cùng với một lời thề: "Tôi xin thề trước các Đấng tối cao cũng như vời loài người hiện hữu rằng trọn bộ tập hồi ký này đều là sự thực". Có thiếu sót chăng là do trí nhớ không còn trọn vẹn hoặc giản lược đi những chi tiết không nên công bố, nhằm để tôn trọng một ai đó hoặc một Đấng quyền năng nào đó!
    Bây giờ, xin mời gọi bước vào hành trình: Mở cửa "Huyền Môn"!...

    "Huyền Môn" mở cửa, ta bắt gặp được ngay bút tích người khai phá. Xin chép lại đây hầu bạn, chút nỗi niềm tâm sự của "Lệnh Chủ" HUỆ NGHIÊM!

    VÌ AI!

    Ta vì ai xây, vì ai phá
    Vì ai mà thua thắng chiến trường này
    Đôi mắt đỏ những đêm sầu đất lạ
    Ta vì ai lưu lạc giữa trùng vây!

    Đêm trần thế như dòng kinh nhận tụng
    Chuông mõ cười bên làn điệu ê a
    Người sám hối lặng quỳ bên chánh điện
    Ta xem đời khăn áo đợi mùa qua!

    Và bể khổ chừng sâu không cùng tận
    Lối sông Mê thuyền trẩy mãi dòng xa
    Thấy bơ vơ những con người chìm đắm
    Đợi một ngày cây nắng hạn chổ hoa!

    Chuyện thương hải tang điền nào ai biết
    Trả rồi vay - ấy là luật tuần hoàn
    Mây Định số vươn mình trên sóng Trược
    Nẻo Luân hồi mờ mịt dấu chân sang!

    Ta đứng mãi giữa trần ai, ngơ ngác
    Nhìn thế nhân - thương giận, giận rồi thương
    Và mong chờ, để thấy mình bất lực
    Đạo Hoằng khai hạn hẹp chốn Từ nghiêm!

    Cõi thế ấy vẫn muôn màu quyến rũ
    Rừng mê kia còn lắm kẻ sa chân
    Đêm mù tối biết bao giờ mới rạng
    Ta vì ai đợi xếp áo du trần!!


    Huệ Nghiêm chấp bút!
    (12/8/2004)

    l. CHUYỂN "SẮC LỆNH"



    Rằm tháng tư năm 1986. Đúng giờ Ngọ! Sau khi thắp hương trên ban thờ Phật, như một sự thúc giục nào đó, tôi lấy bàn Cơ ra (Cơ là trò chơi tiếp xúc với phần Âm bằng các con chữ. Đúng luật là phải hai người đặt mỗi người một ngón tay lên con trỏ thì Cơ mới chạy, và chỉ những người "yếu bóng vía" thì hồn âm mới nhập về được! Con trỏ lầm bằng gỗ từ ván hòm lấy cốt người chết. Hồn nhập về sau khi cầu nguyện và đọc bầi Kệ cầu hồn. Bản thân tôi có khả năng tự ngồi Cơ một mình và xem đó như một tròa chơi thỏa mãn trí tò mò…)
    Con trỏ chạy lên dòng chữ "Phật Bà Quan Âm Bồ Tát giáng hạ!" làm tôi sợ hết hồn! Cơ nói: "con là người Nhà Phật, xuống thế với nhiệm vụ "độ đời". Căn duyên đã đến lúc; từ nay trở đi con có khả năng huyền nhiệm xoa dịu nỗi đau cho người khác, hướng họ trở về nẻo Chân, đường Đạo! Tùy cơ ứng biến, tùy duyên mà hóa độ, Điển Nhà Phật trợ con hành Đạo độ đời!"
    Tôi lúc đó là giáo viên dạy trường Tân Thới Hiệp 1, vốn chỉ thờ Phật theo gốc nhà. Không phải là Phật tử thuận thành, chưa hề biết đến chay tịnh! Chỉ có điều tốt là tính hiền lành nhu thuận, có đức hiếu sinh, thích giúp đỡ người khác và không sát sanh hại vật...
    Ngay đêm đó, tôi mơ một giấc mơ lạ: "Toi thấy mình đi trên một con đường quê ven bờ kênh lúc chiều nắng sắp tắt. Trước một ngã rẽ, tôi tần ngần: "Đây không phải là con đường của mình, đi lối kia mới đúng!" – Nước lớn tràn bờ chảy ngập chân cầu. Tôi thốt lên: "Mau lên, kẻo không còn kịp!"
    Chạy qua khỏi cầu, nghe thấy nhiều tiếng rao, câu chàọ mời từ những chiếc xuồng trái cây đủ loại bắt mắt trông đến mê!: "Mình làm gì có tiền để mua!"
    Trước mặt tôi, bước lên từ dưới bến là môt người đàn bà độ 50 tuổi cắp chiếc thúng bên hông, mặc quần đen, áo túi trắng cụt tay bằng loại vải thô. "Ai mua măng, măng cội tre già đây?!". Tiếng rao động trí tò mò, tôi dừng lại nhìn. Những chiếc nhú tre (loại tược non trồi ra từ ngang thân cây chính) tôi hỏi: "Măng này có đắng không dì?" - "Trắng chứ! Luộc rồi thì nó trắng!". Câu trả lời chẳng ăn nhập gì với câu hỏi!
    Bà chìa ra l túi những trái bưởi non bằng nắm tay đứa bé, vừa rụng khỏi cành trơ cuống, bảo: "Mua bưởi đi cô, bưởi ngọt lắm, 10 đồng 4 trái". Tôi nghĩ thầm: "Chắc bà ấy nghèo lắm mới đi bán những thứ chẳng ai mua. Xem như mình cho bà 20 đồng, mua rồi lại kia vứt bỏ vậy!". Tôi nói: "Bán cho con 20 đồng bưởi với măng". Thấy bà cúi xuống loay hoay lượm nhặt, tôi chưa kịp đưa tiền thì giật mình tỉnh dậy…
    Trải qua bao nhiêu năm sau tôi mới hiểu hết ý nghĩa giấc mơ, tôi làm bài thơ "Lòng Mẹ ":

    LÒNG MẸ

    Sáng nay đi chợ mua quả bưởi
    Nho nhỏ mà sao vị ngọt đầm
    Con nhớ ngày nào đêm mộng thấy
    Mẹ về - cho quả bưởi chiều hôm!

    “Con trẻ! Đời gian lao còn lắm
    Gắng lên con nhé – ngày qua nhanh
    Măng “cội tre già” luộc rồi trắng
    Trải đời cay đắng con trưởng thành!

    Vị ngọt ngày sau Mẹ định rồi
    Lòng thương con trẻ chẳng hề vơi
    Mẹ theo dìu dắt con từng bước
    Đừng khóc nghe con – Mẹ cận kề!

    Hương thắp đài cao, Mẹ ngậm cười
    Cúi đầu con khấn: “Mẹ hiền ơi”
    Con nguyện gìn lòng theo ý mẹ
    Giữ đẹp hồn con, cứu hộ đời.

    Nhân thế còn đau vạn kiếp người
    Chấp tay con khấn: “Mẹ hiền ơi!”
    Sinh chúng con trầm luân bể khổ
    Mẹ ơi! Xin rộng dạ nương đời…

    Con khóc rồi con lại mỉm cười
    Quả bưởi ngày nao ngọt thắm môi
    Lòng Mẹ theo con từng năm tháng
    “Măng trắng” nhờ tay Mẹ sẵn bồi…

    27/7/1994.

    Vài hôm sau, trên bàn cơ có một vong linh về nói với tôi: "Tôi tên Nguyễn Văn Kính - 27 tuổi, người Cao Lãnh. Tôi chết do tự tử bằng thạch tín vì thất tình, giờ tôi đang đói, lạnh. Xin cô chô tôi chút cơm ăn và cho tôi trú nhờ trong sạp báo của cô!". Vốn có lòng thương người, tôi chấp nhận (lúc đó tôi đi dạy 1 buổi, còn 1 buổi bán quày sách báo).
    Vì bận nhiều việc nên tôi quên mất lời hứa của mình. Đến tối ngày thứ ba di bán về đô 7 giờ tối, chồng tôi nói: "Ở nhà có mấy chuyện lạ quá! Đầu tiên là anh đang ngồi đọc báo thấy nguyên bàn thờ Phật rơi xuống đất, đổ vỡ tứ tung. Gần như cùng 1 lúc bé Tí đập bể cái ly kiểu quý của em, rồi tiếp theo bóng đèn tròn mới mua 2 hôm đứt bóng một cách gọn hơ!". Tôi chợt nhớ lời hứa của mình, đi mua giấy tiền cùng bánh về khấn cúng cho người tên Kính. Khi đã nhận và cảm ơn, tên K xin lỗi tôi bảo ba việc lúc nãy là do ông ta làm vì tôi không giữ lời hứa của mình! Tôi nói: "Bàn thờ là nơi linh thiêng của nhà người ta ông giật sập thì là người vô đạo. Ông biến đi, tôi không tiếp xúc với ông nữa!". Hồn nói: "Tôi muôn tạ ơn cô, mai cô mua vé số tôi cho cô trúng". Tôi không bằng lòng, hồn lại nói: “Sáng mai cô sẽ có một niềm vui nho nhỏ. Hay nhớ niềm vui ấy lầ do tôi mang đến!"
    Sáng hôm sau tôi di dạy, chồng tôi đi làm ghé qua lớp học báo: “Sáng sớm có con gà trống màu vàng to độ chừng 3, 4 kg vào nhà mình leo lên bếp gas nằm, anh sợ nó nhảy đổ chén bát nên đuổi ra rồi khóa cửa lại."
    Trưa về đến nhà, Má tôi báo: “Lũc nãy qua lấy gạo nấu cơm thấy con gà trống to nằm trên bếp má sợ nó nhảy đổ chén bát nên đuổi ra rồi khoá cửa". Út Thảo em tôi nói hớt: “Con gà trống tàu màu vàng phải không? Lúc con qua mở cửa lấy cây chổi thấy nó còn nằm chình ình trên bếp, sợ nó nhảy đổ chén bát con đuổi ra rồi mới khóa cửa lại". Ba người nói một câu nguyên văn như nhau! Tôi về, mở khóa cửa ra lại thấy con gà trống ấy nằm y chỗ cũ. Tôi sợ quá hét vang nhà, má với em chạy sang, con gầ vẫn giương mắt nhìn mọi người không nhúc nhích. (Lúc đó trong vườn nhà tôi có nuôi 17 con gà lai Úc, nặng 3, 4 kg môt con, những con gà trống không đời nào để cho trống lạ vào đất của mình).
    Tôi sực nhớ, bèn khấn: “Tôi biết là của ông tặng tôi, nhưng như thế là ăn cắp, là có tội đấy! Coi như tôi nhận rồi cám ơn, ông đem trả lại cho người ta đi!" Tôi lấy cây xua lần nữa, con gà chạy mất!...
    Vì chuyện này, tôi lại làm bạn với hồn tên Kính, thường xuyên ngồi lên bàn Cơ nói đủ thứ chuyện trên trời dưói đất.
    Sau này tôi mới biết, hồn Kính là “Điển ông" giả như vậy để thử tôi! Sau này còn Thánh Minh rồi Thần Lam Sơn... nhiều người nữa, thảy đều là do Điển trên giả ra để thử lòng tôi mà thôi!
    Dạo ấy Phật Bà Quan Thế Âm rất hay về nói chuyện cùng tôi, bắt đầu thời kỳ "rửa xác". Như thanh thép muốn làm thanh kiếm quý phải chịu rèn dập đớn đau, tôi bắt đầu chịu tra tấn, cực hình! Phật Bà thích về lúc nửa đêm, khi tôi đang ngủ chợt nghe có ai đó cấu một cái thật đau giật mình tỉnh giấc, tiếng vọng trong đầu: "Phật Bà ta về nè con". Là tôi lại ngồi dạy rửa mặt cho tỉnh táo và nói chuyện...
    Trong thời gian này tôi chỉ thấy mường tượng là chiếc bóng chuyển động cùng với tiếng nói vang lên trong đầu. Tôi hỏi đáp bằng suy nghĩ cùng ý thức của chính mình, còn tiếng nói kia thì hoàn toàn không phải tiếng nói của tôi!
    Tôi phải nhấn mạnh cùng độc giả rằng tất cả quá trình nhìn thấy, nhận biết và tiếp xúc của tôi cùng các Đấng trong suốt thời gian hơn 20 năm qua chỉ bằng "thể vía", "thần thức" chứ không phải bằng mắt và đôi tai của người trần.

  2. #2

    Mặc định

    2. THỤ ĐIỂN


    Đến ngày rằm tháng 10 năm ấy Phật Bà về hỏi tôi: "Người ta mặc đồ gì đi dự lễ hội", tôi nói: "Mặc đồ đẹp". "Thế thì hôm nay con tắm gội sạch sẽ. Giờ tí canh ba ta về đưa con đi dự hội!"
    Nửa đêm tôi được gọi dậy đánh răng rửa mặt thay đồ rồi ra phòng khách: "Con đừng mở đèn, để bóng tối như vậy đi!" Tôi mơ hồ thấy rất nhiều vị sư đắp y màu vàng bước vào ngồi xếp bằng lặng lẽ trước mặt tôi. Phật Bà nói: "Con đứng trước bàn thờ Phật, để tay lên khấn 3 lần: "Nam mô Quan thế Âm Bồ Tát - xin hiển hiện cho con thấy mặt" (Tấm ảnh Phật Bà tôi thờ được tạc bằng gỗ mun, không có đèn thì không tài nào thấy được gì)
    Tôi làm y lời, những tia chớp lằng ngoằng hiện ra giông như ánh chớp trên bàu trời. Ảnh Phật Bà xuất hiện khuôn mặt đến ngang mũi với tấm khăn xếp trên đầu bằng ánh sáng, chỉ trong tích tắc là biến mất. Tiếng thúc giục: "Tiếp tục lần nữa". Lần này tia chớp vẽ khuôn mặt đến ngang cằm - "Tiếp tục lần nữa": Hình tượng Phật Bà xuất hiện đến ngang bờ vai bằng ánh sáng, đẹp lộng lẫy huy hoàng trong tích tắc rồi biến mất, còn lại nguyên hình bóng tối....
    "Điều kỳ diệu thứ hai! Ngửi đi con!" tôi chợt nghe một mùi hương thanh khiết nhẹ nhàng làn tỏa tràn ngập cả phòng khách, thứ mùi hương chưa từng nghe thấy trong đời.
    Phật Bà nói: "Ta mang đến cho con mùi hương hoa Mạn đà la - Hoa cõi Phật đấy!". Tôi sung sướng hít lấy hít để... Phật Bà lại bảo: "Điều kỳ diệu thứ ba - con xòe tay ra!" Tôi bướng bỉnh nắm cứng nắm tay lại! Tự nhiên có một lực vô hình nắm bàn tay đưa về trước mặt bẻ cho thẳng ra từng ngón. Phật Bà đặt vào lòng bàn tay tôi một mặt chữ Vạn bằng vàng bé cỡ bằng ngón tay: "Đây là Phật ân! Của con ta trả lại cho con – để con có quyền nâng hành Đạo hộ đời. Phật ấn bằng vàng khối Mễ Tây Cơ đấy!" Tôi hỏi tại sao, Người đáp: "Vì xứ Mễ Tây Cơ trong lòng đất có nhiều mỏ vàng, chúng ta lấy nó để tượng trưng cho sự trường cửu của Nhà Phật! Kinh đô của Nhà Phật nằm ở Kompong Chàm - nhưng chúng ta không chọn người K.P.C làm người Nhà Phật vì họ còn man rợ và u mê lắm!" Phật Bà lại bảo: "Nào, há miệng ra!" Lực vô hình lại bắt tôi há miệng, lè lưỡi – Phật Bà lấy chữ Vạn để trên đầu lưỡi, tự nhiên tôi làm động tấc nuốt xuống cổ! Xong rồi Phật Bà bảo tôi quay lưng lại. Đột nhiên như có ai đó cầm bút vẽ vòng tròn nho nhỏ rồi lớn dần lên, nhồn nhột trên lưng, cảm giác là thực!
    P.B lại nói: "Từ hôm nay trở đi con muốn chữa bệnh thì chữa, muốn xem số soi căn cứ làm. Nhưng phải nhớ môt điều ai đang bị Cửu huyền hành hay đang trả nghiệp thì đừng có nhúng tay vào - Bị đòn thế đau ráng chịu nghe!". Rồi P.B lại nói: "Con là chim én mang mùa xuân hạnh phúc đến cho mọi người. Từ nay ta gọi con là Én Mùa Xuân" nghe! Pháp danh của con là Diệu Thiện, nhớ cho kỹ!"


    3. RỬA XÁC


    Từ đêm ấy trở đi, mỗi lúc P.B về lại nghe tiếng gọi từ thinh không: "Én mùa xuân. P.B ta về đây". Sau gần 10 năm tôi có làm một bài thơ nói về danh hiệu mà P.B đã ban cho. Bài thơ có tên "Én mùa xuân khóc mùa đông"
    Những ngày tháng kinh khủng đối với tôi đã bắt đầu, "quyền năng" đi cùng với "khảo đảo" hay còn gọi là "Hành Điển, hành xác, hành căn"... Quá trình "măng luộc rồi trắng" trải qua từng ngày, thậm chí từng giờ, từng phút một!...
    Ba năm đầu tôi không ngủ được chút nào, cứ gần nửa đêm, vừa chợp mắt P.B lại về gọi dậy nói chuyện gần 1 giờ đồng hồ, khi người đi rồi là tôi thức luôn đến sáng. Những liều thuốc ngủ cứ tăng dần lên và không còn tác dụng. Cả đêm tôi đau đớn từ đầu đến tận chân, tưởng chừng xương gãy ra từng khúc. Sấng sớm, thường xuyên không đứng được vững vàng, có khi chống tay xuống đất ma lê từng bước đi làm vệ sinh buổi sáng.
    Tôi cứ y như tên tù bị đem đi tra tấn xong mang về vứt nằm ở 1 góc xà lim, có lúc đau nằm liệt một chỗ không tài nào day trở, phải lên tiếng kêu ai đó kéo dựng lên mới ngồi dậy được!
    Vào tháng 9/1996 vong hồn tên Kính biến mất, thay vào đó là 1 hồn xưng là Thánh Minh, Đệ tử cua Quan Âm Bồ Tát. Người tầm thước, da ngăm đen, đầu cạo trọc, tính tình hiền lành nhẫn nhục! Người ấy nói tôi và họ tiền kiếp là hai vợ chồng nên P.B cho về trợ duyên cho tôi hành Đạo. Từ đó, hồn T.Minh ở cùng tôi 24/24. Và tôi bắt đầu chữa bệnh cho mọi người. P.B nói: "Mỗi phần linh căn độ trần theo một cách khác nhau. Có người về bùa, khoán nhang, cạo gió giác hơi, hoặc cho uống nước lạnh… Con là người trí thức ta truyền phép bấm huyệt, truyền nhân điện trị bệnh cho có khoa học, kẻo người ta cười con mê tín"
    Dạo ấy, tôi chưa biết cách mở luân xa, thu năng lượng bên ngoài. Chỉ dùng khí lực nội tại nên chữa bệnh xong, người rất nhược sức, có ngày chữa 8 người, tôi về nằm dã dượi như xác chết, sáng hôm sau phải bồi dưỡng nhiều mới lại sức!
    Hơn 20 năm chữa bệnh, tôi không hề lấy tiền bạc của ai vì nghĩ rằng quyền lực siêu nhiên về trợ mình cứu người vô điều kiện.
    Mỗi lần bắt mạch chẩn bệnh, tôi lại hỏi trong đầu và chờ nghe tiếng nói báo trong tai về bệnh chứng. Lời tiên đoán của tôi rất chính xác, người ta hay nói: "Cô ấy chẩn bệnh còn hay hơn B.S - đi bệnh viện làm đủ thứ xét nghiệm mới biết, cô chỉ đặt tay lên là nói danh dách!" hoặc tôi chẩn bệnh xong cho bệnh nhân đi khấm lại, kết quả y hệt như lời tiên đoán của tôi! Chẳng ai biết rằng đó là lời phán đoán của "các Đấng"...
    Và tôi bắt đầu biết soi căn, xem bói, tiên đoán số mệnh, ứng biết sự có mặt của các âm phần hoặc Căn Điển. Tôi làm nhịp cầu nối giữa người Âm và Dương, làm sứ giả cầu hòa hoặc ứng cứu. Những bệnh khó chữa, thuốc dạng B.V không tìm ra bệnh và không điều trị được tôi tìm nguồn cội ở phần Âm để điều đình, năn nỉ cầu xin hoặc "hối lộ", hoặc xin các Đấng về trợ cứu...
    Từ đây trở đi, tôi xin phép viết xen kẽ về những trường hợp điển hình đã được các Đấng giúp cho thoát qua khỏi nạn tai, tật bệnh hoặc âm tà. Có thể tôi không còn nhớ chính xác địa chỉ của từng người, song những nhân chứng sống vẫn còn - Năm 1994, khi bị Điển hành quá, tôi không chịu nổi, đã đốt toàn bộ tập hồi ký, sổ ghi tên bệnh nhân và địa chỉ. Này còn nhớ vài trường hờp, tôi kể lại hầu Bạn vậy nhé!


    4. THỰC HÀNH CỤ THỂ


    * Cậu Nguyễn Văn Tuyên, 20 tuổi. Bộ đội tiểu đoàn Phòng không. Đơn vị B.Đ đóng gần sạp báo của tôi! Tuyên bị sưng phù cứng và tím ngắt cả 2 chi dưới. B.V 175 chẩn là bị bệnh hoại huyết – Đề nghị cắt cơm nằm viện 1 tháng rưỡi. Tôi đã chữa hết hoàn toàn sau 7 ngày (7 lần điều trị).
    * Cậu Trần Văn Công 19 tuổi, tân binh Phòng không, bị phạt chạy 3 vòng sân lên cơn đau tim tắt thở, sùi bọt mép và co cứng tay chân. Khi tôi đến BN đã nghỉ thở nửa giờ đồng hồ rồi, tôi làm cho Công tỉnh lại sau 15 phút!
    Đơn vị trả Công về nhà. Hai cha con có tới sạp báo cám ơn tôi. Về việc này mà cậu Mạnh (Y sĩ Tiểu Đoàn Phòng Không) ra năn nỉ tôi "Chị muốn "Bái Tổ" sao tôi cũng chịu, xin chị truyền nghề lại cho tôi với".
    * Cậu Nguyễn Văn Lĩnh 20 tuổi, BĐ Phòng không. Lĩnh chơi banh bị bong gân bàn tay phải, chỉ 15 phút sau đã sưng cứng và tím ngắt mu bàn tay - Tôi chữa hết mọi triệu chứng sau 5 ngày.
    * Cậu Thắng: là trung úy Pháo binh. Mẹ Thắng bị tà nhập, đã đưa đi điều trị bệnh viện Bạch Mai và Việt Pháp mà không khỏi, điện vô: "Mẹ hấp hối, con về gấp"
    Tôi xin Điển về chẩn, nói: "Ngày trườc, thời Hà Nội bom đạn có 1 người đàn bà quê mặc bộ bà ba đen chết ngay trước cửa nhà cậu, kế bên có bụi cây gì cao lúp xúp có trái nho nhỏ. Mẹ cậu là người nhìn thấy trước tiên".
    Thắng nói: "Đúng rồi, bà ấy ở đâu đến không biết, bị đạn chết kế bên bụi cây mâm xôi, mẹ em đi chợ sớm phát hiện la lên kêu mọi người, lúc đó kiến lửa đã bu đầy"
    Ấy thế mà mười mấy năm sau vong hồn ấy chưa siêu thoát, quay lại bắt hồn người đã có công đưa xác mình đi chôn cất.
    P.B giận quá, bảo tìm 2 đồng xu tiền điếu quét vôi về chôn tại gốc cây mâm xôi, triệt âm phần luôn chẳng tha! (Đây là lần đầu tiên và cũng là lần cuối cùng PB cho Điển "triệt vong")
    Lại truyền: Trong vòng 7 đêm, mỗi tối dìu mẹ ra trước bàn thờ Phật thắp hương xin P.B, xong lấy mực tàu vẽ hình chữ "Vạn" trên lưng để giải ám khí.
    Bảy ngày sau mẹ cậu Thắng khỏe mạnh hoàn toàn, hai năm sau vào Nam cưới vợ cho con có ghé tặng quà và cảm ơn tôi. Cậu Thắng hiện vẫn còn ở cùng gia đình ở Hiệp Thành!
    * Cô Trúc tuổi độ chừng 30, thôi chồng có 3 con, hiện đang ở với người cha ruột, mẹ mất. Môt hôm cô tới hỏi tôi: "Ba em dạo này có nhiều hành động kỳ quặc làm em sợ quá, chị xem dùm tại sao". Tôi xin Điển rồi bảo: "Nhà chị có một gốc cây to đã cưa, đứng trong nhà nhìn ra nằm ở góc bên phải, chỗ chị hay quét rấc tấp vào đó! Có 1 con quỷ 1 giò nhập vào ba chị làm cho ông đau chân đi khập khiễng. Nó xúi ông có hành động loạn luân muốn cưỡng bức chị. Gần đây ông mua một con dao dài và sắc để trên đầu giường, sẽ dùng nó để cưỡng bức chị vào đêm tối trời không trăng cuối tháng!"
    Chị T. khóc mùi và kể: "Chị nói đúng em mới dám khai. Ông cứ theo rình nhìn em lúc em tắm, em hỏi thì ông nói đi kiếm con gà con vịt - chân không hề có tật, tự nhiên rồi đi cà nhắc. Ông mới mua một con dao xắt chuối dài (mà ở nhà đâu có nuôi heo) ông cứ lấy dao ra mài, nói là để rình ăn trộm. Lúc đó ông cứ nhìn em con mắt lóe lên tia dọa nạt làm em sởn cả gai ốc! Tối ông đuổi mấy đứa nhỏ qua hàng xóm coi ti vi, đến nửa đêm mới cho về, còn em ông nói: "Đàn bà không được đi lung tung, leo lên giường nằm"...Kể rồi cô T ôm mặt khóc ngất: "Chị cứu em, không em chết mất!"
    Lúc đó, năng lực bản thân của tôi còn yếu tôi phải tiếp xúc âm vong năn nỉ, xin hối lộ 1 con vịt quay, con quỷ rời đi nơi khác, cha cô T tính cách trở lại bình thường, chân hết đi khập khiễng!
    *Cậu Thành làm CN công ty Satimex, gần chỗ tôi bán báo, bị té do gẫy cổ xe gắn máy, chấn thương phổi đã 1 tuần chích và uống thuốc mà không bớt. Đau ngực, ho ra máu và nói không ra tiếng!
    Ngay lần đầu truyền điện, Thành nhắm mắt mà nhăn nhó ra vẻ đau đớn lắm. Tôi hỏi: "Làm gì như ma nhập vậy?" T nói: Chị có xem phim "Bao Công xử án", lúc Triển Chiêu đánh võ chị nhớ không? Em nhắm mắt mà thấy ánh sáng xẹt qua xẹt lại trông đầu sợ bắt rùng mình luôn!" Tôi chữa sau 5 lần (5 ngày) cậu Thành hết đau hẳn!


    5. LIÊU TRAI TÂN THỜI
    (HAY SỰ XUẤT HIỆN CỦA PHẦN LINH CĂN THỨ I)



    Từ dạo Điển về nắm tay tôi độ đời, tôi bắt đầu bị tra tấn cả phần hồn lẫn phần xác. Thần thức bị nhiếp giữ, đau đớn cũng không được kêu rên, càng than vãn thì đau đớn càng nặng. Bệnh cứ như giả đò, uống thuốc vào đau lại càng tợn! Để vậy mà chịu, đến lúc tự nhiên hết thời thôi…
    Chỉ cần có tư tưởng oán hận là bị đòn nặng nề ngay! Có lần tôi bị nhức răng, cái răng nanh phía bên phải không hề bị sâu ăn hay có va chạm gì. Từ 10 giờ sáng tự nhiên phát đau nhức liên tục đến ba giờ chiều, không ăn cơm được! Tôi khóc van xin Mẹ Quan Âm cứu, Mẹ về bảo: "Dậy rửa mặt ăn cơm đi rồi hết". Tôi ức quá bảo: "Không hết con không ăn!" Thế là P.B bỏ đi, cầu xin mấy cũng không về nữa. Đến 10 giờ đêm, P.B vê bảo: "Ta cho hết đau, dậy ăn cơm đi". Thế là cơn đau dứt hẳn, không còn chút di chứng nào!...
    Tôi chữa bệnh, người ta hết bệnh tôi bị đau trả! Sợ nhất là người dữ, bất thiện hoặc bị đau do Cửu Huyền hành hay bệnh do trả căn, trả nghiệp (nhưng bệnh này thuốc men của BS không có tác dụng). Chữa đôi lần không thấy bớt tôi phải cầu xin tiếp xúc với các Đấng Linh căn của xác trần hoặc Tổ tông của BN để năn nỉ xin tha. Họ có bằng lòng buông tay thì tôi mới chữa được, nhưng chữa cho những người này tôi bị hành rất dữ - Đến nỗi có lẽ đây là lần đầu tiên trông mấy mươi năm tôi mới có can đảm nhìn lại đời mình!..
    Thường đêm tôi đau đớn toàn bộ cơ thể, tưởng chừng như các đốt xương trong người chỉ cần nghiêng trở là sẽ gãy ra từng khúc. Đau đến tận cùng tôi rơi vào cơn mê thiếp rã rời trong chốc lát, giật mình thức dậy lại đau...
    Có lần vào nửa đêm trong lúc mê mệt, tôi nghe trong người dội lên tiếng nấc nghẹn ngào – Mở mắt ra tôi thấy Thánh Minh ngồi ở một góc giường gục đầu khóc, đôi vai rung lên từng cơn. Tôi khẽ cựa mình, tiếng khóc nín bặt. Ông nói: "Anh thương em lắm nhưng không có cách nào cứu được em"
    Tôi cần phải mở ngoặc ra để giải thích với độc giả rằng: đêm tôi ngủ riêng với các con chứ không nằm cùng giường với chồng! Vợ chồng tôi sống không có tình yêu và hạnh phúc, sau 10 năm chung sống, chúng tôi ly hôn (1983-1993). Một điều nữa cũng cần nói để bạn đọc thông cảm và đỡ bị "sốc" khi theo dõi chuyện là tôi và Điển Ông từ ngày đầu tiên đến giờ vẫn xưng hô và giao tiếp với nhau y hệt như hai vợ chồng trần thế. Thậm chí trong buổi cơm, tôi gắp 1 món ăn vẫn thấy ông đưa đũa gắp món khác, và ngồi riêng chứ không nhập vào xác của tôi!
    Đêm ngủ, ông mặc quần vải đen lưng bằng dây rút. Có lần nửa đêm mua hè trời nóng đến kinh người, ông giở màn chui ra, một phút sau trở vào, tôi vẫn đang nhắm mắt, bỗng nghe những giọt nước từ đâu bắn tung tóe, tôi la lên và mở mắt thấy ông đang dùng 10 ngón tay lùa vào mái tóc còn ướt sũng: "Nóng quá, dội chút nước cho mát!" (thể vía cảm nhận được những điều linh hồn làm, nhưng xác trần cũng cảm giác y như vậy, và đương nhiên những giọt nước ấy không thể nhìn thấy bằng mắt trần!)
    Ông thích mặc áo sơ mi trắng cổ cồn tay dài cài kín mít. Quần tây đứng ống xếp ly màu nâu xám! Có lần ông mặc một chiếc áo bằng loại vải lụa dày, mịn màng màu trắng và chiếc quần Âu xám đen, vải cũng dày và mịn. Ông hỏi tôi: "Anh mặc bộ này có đẹp không?" Tôi bảo: "Đàn ông ai lại mặc đồ bằng lụa vải mịn thế kia, trông đỏm dáng quá!" Từ đó ông không bao giờ mặc bộ đồ ấy nữa…
    Hàng ngày vì hay bệnh nên tôi không có sức khỏe, hễ làm viêc nặng chút xíu là mệt thở không ra hơi, những lúc ấy tôi năn nỉ: "Giúp em với, em mệt quá rồi" Ông nhập vào tôi làm việc - Lúc đó sức khỏe của tôi gấp 2, 3 lần và làm không biết mệt...
    Lúc nhàn rỗi tôi bảo: "Bịt mắt em đi nào" tôi nhắm mắt lại, chừng 15 giây sau thì không tài nào mở mắt ra được nữa, đến khi chịu thua ông thì thôi! Hoặc tôi nói: "Đè cứng hai chân em coi". Để yên 2 chân duỗi thẳng ra chừng 15 giây sau là bị đè cứng như khúc gỗ không giơ lên được. Đến khi tôi cố sức giật mạnh hai chân mới thoát.
    Có lần Mợ Út của tôi nghe kể bảo: "Mày nói xạo! Bảo ông xô tao té thử coi, làm được tao mới tin". Mợ đang ngồi trên võng bỗng nhiên ngã người dần dần đến khi lăn ra võng thì vùng đứng dậy chạy mất, nói với Má tôi: "Trong người con Lan có ma, chị Hai ơi!"
    Vốn tôi rất thích thơ và đã làm rất nhiều thơ từ năm 17 tuổi, ông cũng hay làm thơ tặng tôi: thơ thổ lộ tình yêu, thơ giảng Đạo, khuyến tu... Lúc đó ông đọc cho tôi chép lại và đề ở dưới là "Huệ Nghiêm chấp bút". Riêng có thơ tình ông không đề tên tác giả. Chính vì vậy trong những quyển thơ của riêng tôi, có 1 số bài ý tứ lạ lẫm là thờ của ông.
    Bây giờ, tôi chép lại tặng bạn đọc mảng thơ của ông nghen! Nhưng ở đây tôi chỉ chép lại thơ tình thôi, còn thơ Khuyến Đạo xin để vào phần sau, khi hạt giống đã đâm chồi!...

    TÌNH TỤC - DUYÊN TIÊN

    Có một đêm, một đêm trăng sang lắm
    Trên cõi Trời cô quạnh, giữa tầng sao
    Thánh tôi buồn, ai biết tại vì sao!
    Vì thánh nhớ người yêu nơi cõi thế!

    Và len lén chờ mọi người ngủ cả
    Thánh xuống trần, ôi thương kẻ tình si
    Đợi ngoài hiên Thánh đợi mãi, sương rơi
    Vai áo lạnh, hề chi – nhưng hồn lạnh!

    Thánh đợi mãi, đợi hoài trong im lặng
    Lá vàng rơi xào xạc, lá vàng rơi!
    Cửa nhà ai vẫn khép kín ngậm ngùi
    Thương cho khách tình si hồn lận đận…

    Thánh đợi mãi, đợi hoài rồi Thánh giận
    Đem phép thiêng phá khung cửa dương trần
    Người yêu kia, còn say giữa giấc nồng
    Thương mà giận, giận mà thương - xa xót!

    Và tình yêu lại bừng trong máu huyết
    Thánh bắt hồn người con gái mình yêu
    Giấu vào tim, đem về cõi hư vô
    Tình yêu vốn không biết chờ biết đợi!

    Khi cõi thế đám tang buồn dịu vợi
    Thì cõi trên - có hai kẻ yêu nhau
    Tay trong tay ngồi ngắm mãi trăng sao
    Ôi hạnh phúc, ngọt ngào như hương mật!!!

    Tháng 7/1990

    ĐỢI CHỜ

    Con đường hạnh phúc dài thăm thẳm
    Kẻ kéo người co – hạnh phúc nào?
    Tung hứng vui lòng nhau thoáng chốc
    Tình yêu đâu vá nỗi lòng đau!

    Anh đợi chờ em biết bao lâu
    Lòng riêng trăn trở suốt canh thâu
    Tình yêu cõi thế sầu dịu vợi
    Thân trải đắng cay bạc mái đầu

    Đêm cứ dài trôi, anh thức đây!
    Ngày qua anh đếm mãi bao ngày
    Người yêu gần đó mà xa cách
    Lạnh lòng, không ấm nổi vòng tay!

    Đừng khóc nghe em, giọt lệ sầu
    Anh lau – em có biết gì đâu
    Hồn quen, xác lạ, sầu vời vợi
    Ngăn cách muôn trùng đau lòng nhau!
    Hãy đến cùng anh – ơi người yêu!
    Chờ nhau, xin chớ trách đêm sầu
    Ngày vui, cuộc thế còn trơ đó
    Hẹn nhé, người yêu! Đời muôn sau!!!

    15/9/1990

    … Tình cao, núi cao, cồn cao!...
    Cờ lau còn mất - ai chờ, ai đi
    Đêm đêm bút chép chuyện đời
    Ngàn sau còn để một lời thệ minh…

    … Tình gọi ngàn xưa về bắt mộng
    Hững hờ dâu bể, mặc ngàn sau
    Người vẫn chờ nhau từ muôn kiếp
    Duyên đó, tình đây – chớ để sầu!...

    Tháng 11/1990

    HOÀI NIỆM MỘT MÙA TRĂNG

    Trời mưa ướt áo chị Hằng
    Gương nga để lạnh hương nguyền lẻ đôi
    Ai hiu quạnh một góc trời
    Nhớ người trong mộng hát lời tương tư
    Lam Sơn núi phủ mây mờ
    Đình xưa hoang phế, ai chờ riêng ai?
    Quạnh hiu một góc trời Tây
    Người ơi bóng ngã không đầy tâm hao
    Ai duyên, ai nợ, ai sầu
    Ai ngồi đợi mãi bên cầu oan tương
    Lời ca ngày cũ còn vương
    Bóng người năm cũ chừ phương trời nào?
    Duyên tơ tóc mãi nghìn sau
    Phút giây ngắn ngủi để sầu muôn thu…

    22/9/1991

    ẢO ẢNH 3

    Anh nói rằng anh đã lỡ yêu
    Làm sao em hỡi – nhớ thương nhiều
    Lam Sơn chiều cũ buồn hiu hắt
    Núi nhớ, rừng thương – suối gục đầu!

    Dù chỉ một ngày vắng bóng nhau
    Anh buồn như cả thế gian sầu
    Chao ơi là nhớ ai người biết
    Tình ấy làm tim xót đến bao!

    Trầm mặc núi cao đứng gục đầu
    Mây buồn giăng mắc đỉnh tương tư
    Ở đây sương khói mờ nhân ảnh
    Lạnh lắm em ơi – mùa đông sầu!

    Biết đến bao giờ - em dấu yêu
    Nói đi cho ấm chút lòng nhau
    Hứa đi, mai nhé, chờ kiếp khác
    Trời hỡi, duyên này ta mất nhau!!

    22/4/1992

    PHIÊN KHÚC XANH

    Tình yêu tỏa hương đưa em vào giấc ngủ
    Hoa Ngọc Trâm ấp ủ giấc mơ dài
    Anh ước làm trâm ngọc tóc em cài
    Từng cánh nhỏ trắng một màu trinh bạch!

    Tình yêu tỏa hương đưa em vào giấc ngủ
    Hoa xu xi từng chùm nhỏ nồng hương
    Em xòe tay xin, anh tặng một nụ hôn
    Còn hoa ấy anh cài lên mái tóc!

    Tình yêu tỏa hương đưa em vào trong giấc ngủ
    Hoa ngọc lan trắng muốt ủ hương trầm
    Em mãi đợi chờ - như tình ấy ngàn năm
    Hoa vào mộng, sắc hương cùng nỗi nhớ!

    Tình là hoa – và em là mật ngọt
    Nụ hoa xinh, nhụy thắm ngẩn ngơ lòng
    Để anh còn say mãi đến ngàn năm
    Cho đẹp giấc mơ êm – người yêu ạ!

    17/7/1992

  3. #3

    Mặc định

    6. SỰ XUẤT HIỆN CỦA PHẦN LINH CĂN THỨ HAI


    Một thời gian sau, T.Minh đột ngột biến mất, thay vào đó là thần Lam Sơn (Ông xưng là thần núi Lam - Thanh Hóa). Thần LS da trắng nhờn nhợt, tướng thư sinh bạch diện, mắt to và có khoen, mũi to, môi đỏ như con gái...
    Thần kể rằng trên núi Lam có ngôi đền cổ bỏ hoang từ rất lâu, đền Thần của ông ở đó ! Ông xưng mình cũng là một trong những kiếp chồng vợ với phần linh căn Diệu Thiện. Thần LS tâm sự với tôi: Núi Lam có những khi mưa dầm dề ngày này sang ngày khác, khí núi bốc lên mù mịt như khói và lạnh thấu xương. Buồn thực là buồn! Vì vậy Thần hay bỏ đền điện đi chu du khắp nơi - Bây giờ Linh căn về xác Thần xin phép về cùng trong một thời gian rồi đi…
    Thần giải thích: Hai linh căn Nam và Nữ đã trải qua rất nhiều tiền kiếp cho đến nay và luôn chuyển kiếp cùng nhau để tu tập hoặc hành Đạo, độ đời! Từ ngàn xữa, chỉ có người Nam tình nguyên xuống thế, người Nữ chỉ đi theo phò trì. Kiếp này là kiếp đầu tiên người Nữ tình nguyện Độ Đời - xác ông thương vợ đi theo trợ cứu!
    Thần nói: "Rồi em coi, lần lượt sẽ có những phần khác từ Linh căn của người chồng về với em để cho em biết mặt!"
    Thần an ủi tôi: "Em bị đau đớn hành xác nhiều bởi vì anh làm sai luật. Nếu không có anh thì em không chịu nặng nề đến vậy! Nhưng từ bao nhiêu đời kiếp rồi vợ chồng mình luôn có nhau, anh bỏ em sao đành!"
    Hai bài thơ in ở trang trước là của Thần Lam Sơn làm!
    Thần Lam Sơn phép cao hơn Thánh Minh. T.M người nhu nhược, rụt rè, ít nói; Thần LS thì ăn to nói lớn, tính khí bướng bỉnh lì lợm. Lúc thì ngọt ngào, vui vẻ, hóm hỉnh. Khi lại buồn giận hỏi mãi không chịu trả lời. Người luôn mặc một áo sơ mi trắng cụt tay, quần tây màu xanh dương đậm.
    Có lần tôi đang ngồi xem ti vi, thấy Thần mặc đồ võ tướng giáp trụ bằng vàng đẹp lộng lẫy. Tôi hỏi Thần đi đâu về. Người nói: "Anh đi làm lễ duyệt binh!"
    Thần LS giỏi phép lắm! Tôi đang ngồi, Thần chỉ đẩy một cái là tôi ngã lăn quay, không tài nào gượng dậy được. Cho đến khi thần kéo dựng dậy, cả hai cùng cười… Có khi cả nhà đang quây quần xem ti vi, Thần đẩy tôi ngã, tôi phải vờ như cố tình nằm xuống để mọi người không để ý!
    Đời sống của tôi lạ hơn mọi người, chính vì thế hay bị em út cho là "lửng tửng". Trong lúc đang làm việc gì đó hay nói chuyện với một người, Điển Ông lại xen vào nói một câu khác - tôi nghe và bật cười, với mọi người thì đó là một nụ cười vô căn cớ! Hoặc ai đó hỏi 2,3 lần cùng một câu hỏi, tôi đang bận nghe ông nói gì đó trong tai nên không trả lời được bèn hỏi lại. Con tôi hay nói: "Mẹ hỏi câu đó 3 lần rồi" hoặc Mấ tôi chép miệng: "Con này khùng mất rồi"
    Khi buồn, tôi nằm lên giường để tờ giấy lên mũi, bảo: "Thở cho tờ giấy tung lên coi anh" Tôi nín hơi, nín thở - tự nhiên tờ giấy này lên từng hồi theo hơi thở (đương nhiên không phải là hơi thở của tôi). Hoặc: "Anh thở trên chóp mũi cho em nghe coi". Rõ ràng có ai đó thở hơi ra bên trên mũi, mùi hơi thở thơm và nhộn nhột y hệt như hơi thở của một người bình thường!
    Có khi tôi thức giấc nửa đêm, nghe trên ngực trái của mình ngay chỗ trái tim, có một trái tim khác đang đập, nhịp chậm hơn xen kẽ vào nhịp đập của trái tim tôi. Hễ đưa bàn tay để lên ngực thì hết, buông ra lại đập tiếp! Ông cười bảo: "Trái tim anh đập đó nghe không"…


    7. SỰ XUẤT HIỆN CỦA LINH CĂN THỨ BA



    Đến rằm tháng 10/1991, trưa ấy tôi cúng hoa trái vừa xong đang còn đứng chắp tay xá Bàn thờ Phật, bỗng nhiên nghe có l luồng kình lực đè nghiến trên đầu tôi nặng như phiến đá đè, sau đó luồng ấy đi dần xuống, chuyển đến đâu cả người rần rần đến đấy!
    Lại nghe tiếng vang trong đầu "Ta-Phật tổ Như Lai đây! Ta về kiểm tra Linh thể !"
    Thế là từ đó phần Linh căn thứ ba xuất hiện: Lệnh chủ Huệ Nghiêm, Chủ nhân của "Huyền Môn Lược Ký"!
    Người giải thích với tôi: Phần trần kiếp cuối cùng của linh căn 2 người là Tất Đạt Đa Hoàng tử và Công Chúa Da Du Đà La. Hoàn thành sứ mệnh trở về Trên, từ ấy đến nay không còn tái kiếp nữa. Nay vì đời mạt Pháp thế sự nhiễu nhương, các thế lực tà rất mạnh – trấn áp và khuấy nhiễu chúng sinh, khổ nạn quá nhiều nên phần linh căn người Nữ tình nguyện xuống thế độ trần...
    Đây là việc chữa từng làm, vì kinh nghiệm còn ít nên "Điển Ông" về trợ!
    Ông cũng nhắc cho tôi biết: phải biết cư xử cho rạch ròi và cẩn trọng, chớ có "đánh đồng" phần xác với linh căn! Xác trần ông về bên tôi là Tất Đạt Đa, còn Thích Ca Mâu Ni là Linh Căn - và Linh căn không ở bên tôi.
    Quả thật, từ ấy đến nay khi có lễ cúng gì, vui miệng chúng tôi mời Ông cũng ra mặt, nhưng luôn mặc một chiếc áo chùng dài tới gót màu khói nhang! Ngài Thích Cà hãn hữu lắm mới về, cạo đầu đắp y vàng – không bước chân vào cửa nhà tôi hoặc có chăng ngồi trên ghế sát cửa chính, không đi lại và gọi tôi là "Cô Lan", xưng "Ta"!
    Tôi hỏi ông: "Linh căn người nữ tính danh là gì?" Ông lại cười, bảo: "Chờ đi, rồi sẽ biết"! Tôi không tin vào lời giải thích của ông. Một xác trần vô danh như tôi, khờ khạo, nghèo nàn và thiếu thốn, bệnh tật như thế này mà là Công Chúa sao?
    Người lại nói: "Hai chúng ta là vợ chồng vĩnh kiếp - đã trải qua 91 kiếp rồi, đây là kiếp thứ 92". Tôi hỏi: "Lây gì chứng minh điều đó?" Người bảo: "Chờ đi"…
    Ba ngày sau, bà Ba Củi (người thầu gỗ vụn ở công ty gỗ Satimex) cho tôi mượn 1 băng giảng Đạo có tên "Đạo nghĩa vợ chồng". Trong đó có đoạn Sư giảng về sự thủy chung đời đời kiếp kiếp của 2 vợ chồng Tất Đạt Đa và Công Chúa Da Du đã trải qua 91 kiếp!
    Tôi mở ngoặc ở đây để thưa với các bạn thêm rằng: "Bất cứ điều gì "Điển trên" nói với tôi, chỉ trong ít ngày là số mệnh xoay chuyển để đưa đến cho tôi tài liệu xác nhận sự thật đúng như vậy!
    Vào năm sau, tôi nhớ là gần ngày rằm tháng 7/1992. Tôi vui miệng có hỏi ông: "Thế trong đời khi đã thành Phật rồi, ông có làm điều gì sai luật không?" "Có, anh đưa mẹ là Hoàng hậu Maza về cung trời Đạo Lợi. Ba tháng mùa Kiết Hạ anh về đó giảng Đạo cho mẹ nghe để mẹ đắc Quả vị Phật"
    Hai hôm sau, mẹ tôi đi chùa về cho tôi một tờ bướm có kể lại chuyện này y như lời ông nói!
    Để giữ lời thề ở đầu Bộ sách "Huyền Môn Lược Ký" rằng chỉ nói đúng sự thật mà mình đã trải qua - Tôi buộc lòng kể lại nguyên văn những lời Điển Ông nói. Trước tiên phải chân thành xin lỗi các tín đồ Phật Giáo về sự "mạo phạm" ngôn từ! Thứ nhất vì tôi không đủ tư cách để thẩm tra thực hư; thứ hai vì tôn trọng những phần Linh Điển.
    Thôi thì xin độc giả "thể chấp", hãy để cho tôi được kể lại nguyên vẹn mọi việc không sửa chữa. Nếu không, e "Huyền Môn Lược ký" trở thành "tiểu thuyết khoa học huyền bí viễn tưởng" mất!
    Từ ngày đầu tiên về với tôi đến nay, Điển Ông và tôi vẫn xưng hô "anh em" như hai vợ chồng thực thụ…

  4. #4

    Mặc định

    8. THỰC HÀNH CỤ THỂ (2)


    Bây giờ tôi lại kể tiếp vài trường hợp thực hành cụ thể để thay đổi không khí cho bạn đọc đỡ nhàm chán, vậy nhé!
    * Mẹ của chị Hương (bán gạo Hợp tác xã Tân Thới Hiệp) bị tăng huyết áp, trụy tim rơi vào hôn mê hơn nửa giờ đồng hồ. Tội đến cấp cứu cho bà, bà hồi tỉnh sau hơn nửa giờ nữa và ngồi dậy được bình thường!
    Lúc đó 2 quạt máy để 2 bên góc phòng quay ào ào, tôi đặt 2 tay lên người bà cụ, mồ hôi chảy ra dầm dề như đang tắm, và nước thì uống vào liên tục. Thực ra, tôi cũng không hiểu do cơ chế nào mà mỗi khi Điển về nhập vào tôi, nhất là khi trụ thần để chữa bệnh là mồ hôi tuôn ra liên tục như vậy nữa! Có điều tôi rất khổ về việc này, vì mỗi ngày tôi phải thay 3, 4 bộ đồ - mùa hạ phải tắm 6 lần, mùa đông lạnh cắt da chí ít cũng tắm 3 lần 1 ngày…
    * Cậu C. 22 tuổi là quản đốc XN Cưa thuộc công ty Cơ khí (hiện nay thuộc khu vực ngã tư chợ Hiệp Thành)
    Đêm C thường xuyên mơ thấy 1 cô gái tóc dài mặc đồ bà ba trắng, người có tật 1 chân. Cô gái dẫn C đi chơi. Một người bạn khuyên: "Vậy là phần âm đó thích mày. Mày lập bàn thờ cô ấy để cô phù hộ cho"
    Từ lúc có bàn thờ, đêm nào hồn cô gái cũng dẫn C đi chơi sáng đêm. Hơn 1 tháng sau người gầy rạc hẳn đi, da xanh mét. Đến mua báo tôi thấy C đi lảo đảo, nhìn mặt tôi sanh nghi! Nghe C kể chuyện, tôi xin Điển P.B về cứu, Người bảo: "Đó là vong con quỷ một giò" Rồi P.B chỉ: Chờ tối 9 đến 11 giờ đêm, đem 1 dĩa bánh trái và lư hương, bình bông ra ngã 3, ngã tư đường cúng kiếu, bỏ lại tất cả rồi ra về. Xong thượng hình PB lên thờ (vì C muốn xin thờ PB)…
    Tôi tặng 1 tấm gỗ đen khắc hình PB, bảo C để dựng lên đầu giường ngủ. Một tuần sau, C ra tôi kể lại: "Từ ngày thờ PB đêm nào cô ấy cũng về đứng ngoài cửa nhìn ra dáng oán trách lắm! Kế bên có 1 ông mặc quần đỏ cầm roi cứ chực xô vào đánh" - Đến nữa đêm thứ bảy, C ngủ quên quơ tay đụng tấm ảnh PB rơi úp mặt xuống đất. Người mặc quần đỏ xô vào đánh C rất dữ. Cậu C la đến nỗi cả xí nghiệp phải phá cữa vào mới cứu được.
    Tôi hỏi lại thì ra C tiếc bình hoa và lư hương đẹp nên không đem bỏ, chỉ để hình PB lên thờ thôi! Phần vong của họ ở trong lư, giờ án Điển PB vào họ sợ, họ quậy là phài - tôi chỉ C về cúng kiếu một lần nữa, từ đó về sau không thấy cô gái trở lại.
    Thế mà sau 15 năm, tôi vẫn còn nghe có người nhắc đến con quỷ 1 giò ấy!
    Cách đây 5 năm, cậu em của tôi ngủ ngoài tiệm chụp hình, nữa đêm thấy phần âm nhận dạng y hệt như vậy: tóc dài kẹp, áo bà ba trắng dài tay, dài áo, tướng xinh xắn, thanh mảnh, và đặc biệt là có cái chân bên trái bị thọt!
    Cách 2 năm trở lại đây, một cô học trò của tôi (học và làm thầy chữa bệnh bằng nhân điện) lại tả là gặp một người y như vậy đi lảng vảng trước nhà. Lúc đó chó trong xóm sủa, tru lên kinh khủng mà cô ấy vẫn đi bình tĩnh như không, cái chân thọt kéo lê trên đường trông thật thương tâm!
    Mười lăm năm, và khộng biết còn bao nhiêu năm nữa ở trước mặt, rồi trước 15 năm ấy là bao nhiêu năm, kể từ ngày lìa bỏ cõi thế ra đi, hồn lạc phách xiêu phưởng phất nơi đầu cây ngọn cỏ, lang thang giữa cuộc trần, lẩn lút đi về như khói, như sương...
    Thương cho 1 số phận, tiếc cho một linh hồn - khi còn mang hình hài nhân thế, chẳng biết đường tu, chẳng lo gieo trồng quả thiện. Nay mất thân người, hận kiếp nào nguôi?!
    * Phần cậu C, do chuyện trên nhận tôi làm chị kết nghĩa, mỗi đêm tụng kinh niệm Phật siêng năng lắm!
    Có lần C bị đau mắt đỏ, cả 2 mắt sưng húp và đầy nhữ - tôi xin PB về chữa. Đêm đó C mơ thấy PB Quan Âm về mặc áo lụa trắng rất đẹp. PB nói: "Để ta chữa cho con hết đau mắt nghen!" nói rồi cầm 1 lọ con, trong đó có thứ nước thuốc màu trắng như sữa, đem trút xuống đất. Đỉa ở đâu bò đến rất nhiều len vào hút nước ấy rồi bò lên mặt hút máu trong hai con mắt…
    C sợ đến chết khiếp, tỉnh dậy 2 mắt hết đau hẳn và không còn chút di chứng gì!
    Cho đến 1 ngày C bảo tôi: "Em muốn cưới vợ, chị xin Mẹ về hỏi giúp em về cô ấy xem sao!"
    Mẹ về, cầm tấm ảnh lên ngắm 1 hồi rồi nói: "Già đình đó không ra gì: Cha 2, 3 đời vợ, Mẹ 2, 3 đời chồng. Cô gái đó không còn trong trắng nữa, mở miệng ra thì chửi thề, nói tục. Con lấy nó là chôn vùi đạo hạnh xuống chốn bùn nhơ!"
    C bán tín bán nghi vẫn tiến hành đám hỏi, sau đó mấy hôm thì bị trúng gió, tay chân co cứng, tim ngừng đập, sùi bọt mép, xem như là đã chết hẳn rồi. Tôi cấp cứu 15 phút sau thì C sống lại, cả xí nghiệp cưa đều chứng kiến chuyện ấy!
    Ngày C đám cưới, tôi được mời đại diện họ nhà trai. Cha vợ của C gọi tôi lại giới thiệu: "Đây là con lớn của đời vợ trước của bác. Đây là con lớn của đời chồng trước của bả đó" C đứng chết trân, mặt tái mét như sắp xỉu!...
    Một tuần sau C ra sạp báo ngồi ôm mặt khóc: "Em cãi lời Mẹ, giờ ân hận cũng muộn rồi! Đêm tân hôn cô ấy không còn trong trắng, em hỏi thì cô ấy chửi thề một tiếng rồi nói: "Tao vậy đó, mày chịu không chịu thì thôi"...
    * Bẵng đi gần 1 năm, tôi gặp 2 vợ chồng C đi xích lô đạp ngang sạp báo. Tôi gọi lại, lúc đó C bị bệnh sốt vàng da, người chỉ còn bộ xương, bệnh viện không chữa được trả về chờ chết! Tôi xin PB về cứu, Người bảo: "Không nghe lời ta thì chết cũng đừng cầu ta cứu" - Tôi năn nỉ hồi lâu, PB nguôi giận nói: "Giờ Ngọ trưa nay con lên nhà nó, chữa 1 lần hết hẳn không còn triệu chứng!"
    Sự thực đúng như vậy. Mãi đến hôm nay C vẫn còn sống và khỏe mạnh bình thường, ở gần nhà tôi...
    * Bà Bảy Miết (ở đầu đường vô nhà tôi) đang đi ngã xuống đất xỉu cứng người. Tôi chạy ra cấp cứu, chỉ 2 phút sau bà tỉnh dậy.
    * Kế bên sạp báo của tôi có 2 vợ chồng ông H làm nghề sửa xe, vợ mua bán gà vịt ở chợ! Cứ 3 giờ sáng là trở dậy cắt cổ gà, tiếng gà vịt kêu la thảm thiết...
    Tôi khuyên mãi bà H không nghe, bởi mê tiền lời lãi nhiều từ mua bán gà vịt – Cản hoài không được, tội thắp hương xin Mẹ về chuyển hóa! Một buổi sáng nọ, bà H sang kể với tôi: "Đêm hôm mơ giấc chiêm bao sợ quá: Đang ngủ chợt nghe 1 luồng gió mạnh cuốn đi. Bay bên trên tôi là một người đàn bà, tôi mừng quá tưởng được đưa về cõi Trên, ai ngờ người ấy đem dúi đầu tôi xuống 1 mảnh ruộng bùn. Còn nói "Mi chừa chưa, chưa tội sát sanh hay chưa?" tội ngộp thở sặc sụa - Bà ấy kéo tôi lên cho thở vài hơi rồi lại nắm tóc, dúi đầu xuống. Tôi cầu xin mãi bà mới buông tha"…
    Ấy thế mà bà H vẫn chưa chịu bỏ nghề, bà nói như để ngã giá: "Nếu chị xin Mẹ chuyển cho tôi có nghề làm ăn khác thì tôi không bán gà vịt nữa". Một thời gian sau, bà H hùn với một người bạn mở tiệm bán cơm, sang bảo tôi xin Mẹ cho ngày khai trương và lễ khấn cúng! Tôi giúp bà trọn vẹn mọi chuyện - Thế là gia đình bà H đem cả đồ nghề sửa xe cùng với bình khí đá, các thứ linh tinh trong tiệm để cả sang trước sạp báo của tôi. Rồi âm thanh tiếng nổ máy xe, khói thụt ống pô mù mịt làm tôi đến chết ngộp...
    Tiệm cơm bà H mới mở ra đã bán rất đắt, buổi trưa xí nghiệp ở gần đó đổ ra ăn cơm đông nghịt. Tội chịu hết xiết, xin Mẹ về xử chuyện này. Mẹ nói: "Không biết điều thì ta cho dẹp". Từ đó trở đi tiệm cơm không bán được gì cả, độ 10 ngày sau thì dẹp. Không biết bà có oán Mẹ cho ngày khai trương chỉ bán đắt có 1 tuần hay không nữa...
    * Vốn bà H có đứa con gái lớn học may xa nhà - Một hôm PB về bảo: "Một năm rưỡi nữa bà nuôi đứa con gái lớn chửa hoang trong nhà". Bà H sợ quá bắt con bỏ học trở về. Thế mà sau đúng 1 năm rưỡi, con bà có thai hoang thực!
    Cô bé ấy sang khóc với tôi, đòi đi phá bỏ! Tôi can ngăn xong rồi đứng ra dàn xếp, mượn quyền lực Bề trên xui bà H cho cưới gả...
    Bà H nghe lời, tổ chức đám cưới! Sang báo với tôi ngày giờ đàng trai sẽ sang rước dâu. Điển trên ứng về báo: "Sáng ngày hôm đó ông chủ nhà sẽ quậy và đập phá tan hoang đám cưới". Bà H khóc, năn nỉ xin Mẹ cứu! PB bảo: "Sáng sớm trước 7 giờ dâng 1 bình hoa huệ và ngũ quả lên bàn tròn lớn để ở giữa nhà, khấn xin PB ta về cứu cho"
    Sáng sớm hôm ấy, bà H chạy sang mượn bình hoa huệ tôi vừa mua về, chưa kịp dâng hương đem về cúng lễ Phật.
    Một lúc sau ông H cũng la hét om sòm trong nhà, đập vài cái chén rồi thôi - Ấy thế mà bà H vờ quên luôn bình hoa, 1 tuần sau tôi sang đòi bà đưa trả tôi cài bình không…
    * Một lần nọ Mẹ Q.Âm lại bảo: "Từ đây đến rằm tháng bảy chồng bà bị người ta đánh lỗ đầu". Bà H lại năn nỉ xin cứu và hứa ăn chay hết tháng bảy để giải nạn! Đúng chiều 14, ông H đang đứng sửa xe máy thì có 1 đám đông thanh niên say rượu đánh nhau chạy vào nhà - Một người chui sau lưng kéo ông H làm bia đỡ đạn, còn 1 người khàc thì cầm cây gỗ đầu vuông bổ xuống đầu ông H. Đánh trợt bị mọi người tréo tay đưa ra ngoài...
    Xưa nay vẫn thế, lời tiên đoán của Bề trên chính xác lắm. Nhưng nếu chủ nhân van cứu, sự việc vẫn "tuần tự như tiến", có điều không xảy ra chấn thương gì nặng nề!
    * Lại có lần PB bảo: "Cái bình khí đá này sắp nổ và sẽ có thương vong đây". Bà H lại xin cứu, sau gần 10 ngày bình khí đá nổ thật! Một buổi trưa chung quanh đang yên ắng bỗng nghe 1 tiếng nổ kinh hoàng, lại thêm 1 điều kỳ diệu nữa là không có ai bị tai nạn gì!
    * Ông H bị lên cơn suyễn, ba hôm liền tôi đi qua đều thấy ông ngồi thu mình trong 1 góc mùng kín. Tôi hỏi mới biết là ông H bị lên cơn suyễn đã hơn tuần rồi, không ăn uống và cũng chỉ ngội chịu trận chứ không nằm xuống được. Tôi sang nhà, xin Điển rồi chữa có 1 lần đầu tiên đã thấy ông H ngồi dậy được, ra ngồi uống cà phê nhìn tôi cười chào!
    * Giữa tháng 5/1995 tôi đang có thai cháu thứ ba, PB hứa cho tôi nghỉ để dưỡng thai. Lúc đó đột ngột bà H bị đau nhức ngay cổ tay bên phải (bàn tày cầm dao cắt cổ gà). Nhức từ sáng sớm đến lúc nửa đêm, nhức kinh khủng đến nỗi đã chích 3 mũi thuốc giảm đau mà chẳng tác dụng gì!
    Đến hơn 12 giờ khuya nghe bà thét lanh lảnh: "Đem con dao đây, chặt bỏ ngay tức thì, chứ không đau đến chết mất". Cầm lòng không đậu, tôi trở dậy sang nhà bà H xin PB về cứu! Tôi không dám truyền điện, chỉ cầm lấy bàn tay đau và cầu xin PB về, Người đứng ở cửa buồng nhẩn nha nói: "Ta kể chuyện cổ tích cho bà nghe nhé! Ngày xưa ở bìa rừng nọ có gia đình ông tiều phu rất nghèo, có 3 cô con gái. Ngày nọ 1 vị chúa Quỷ giả dạng đến xin trọ lại một đêm. Sáng hôm sau hắn thuyết phục người cha cho 3 con quỷ trú ngụ trong nhà, đổi lại sẽ ban cho toàn gia giàu có, tiền muôn bạc ức...(tôi phải xin lỗi các bạn, chuyện này kết như thế nào tôi quên mất rồi) chỉ biết rằng PB kể vừa xong, bà H hết đau ngay lập tức!
    Thế nhưng vài năm sau tôi vẫn còn thấy bà H ngồi chợ bán gà vịt. Phải công nhận là lòng tham lợi đáng sợ thật!

  5. #5

    Mặc định

    9. NGHIỆP THẾ TRẢ VAY


    Đã nhiều lần ông Điền (ba Tí Ti) kiếm chuyện gây và cấm không cho tôi chữa bệnh cho mọi người nữa: "Ăn cơm nhà vác tù và hàng tổng! Từ nay tôi cấm cô không được chữa bệnh cho ai nữa. Nếu không đừng trách tôi". Tôi lại cầu cứu PB, Người bảo: "Để ta trị cho nó biết tay" Một buổi sáng, ông Điền bảo: "Chết rồi em ơi, trĩ nó lòi ra 1 khúc" (vốn ông Đ bị trĩ nội bao nhiêu năm rồi vẫn hay ra máu - Là Đại úy lái xe, nghề tài xế sợ nhất là trĩ ngoài, bệnh này mà ngồi lâu thì đau đớn lắm! Tôi bảo: "Anh phải thề là từ nay không bao giờ cấm tôi chữa bệnh nữa, tôi làm cho nó thụt vô sau 15 phút". Ông ấy thề, nằm xuống cho tôi bấm huyệt, vừa xong trĩ đã thụt vào như cũ và không bao giờ lòi ra nữa…
    Giữa năm 1991, PB về bảo với tôi: "Một năm rưỡi nữa con ly hôn với chồng và gần như ngay lập tức con lại lấy chồng khác, đó là Định mệnh". Tôi khóc lóc, cầu xin, PB bảo: "Không được! Nó làm trở ngại công việc của con. Nó là ma quỷ tà mị, con không chung sống lâu với nó được"... Tôi nghe đó rồi lại quên đi! Mãi về sau không chịu nổi tính càn quấy và trăng hoa của chồng, tôi đưa ra tòa ly hôn…
    Ngày tòa xử là trọn 1 năm ba tháng sáu ngày PB về báo! Lúc ấy tôi như kẻ vừa được thoát khỏi địa ngục sau 10 năm giam cầm, sung sướng tưởng chừng như con chim được sổ lồng vậy…
    PB về tôi vừa khóc vừa cười: "Mẹ ơi! Con thoát nghiệp rồi" PB buồn hiu, nói "Con mừng chứ ta không mừng, còn 3 tháng nữa mới mãn số - Ba tháng trả bằng 3 năm nghe con".
    Ông Điền vì oán hận, truy đuổi và làm nhục tôi mọi lúc mọi nơi. Tôi đành nhắm mắt bước đi bước nữa với người đàn ông vừa mới quen biết qua loa…
    Ngay ngày đầu tiên tôi quyết định, PB nhập vào tôi nói với người chồng mới như sau: "Lan nó còn nhiều bổn phận và trách nhiệm với đời. Nếu hai đứa lấy nhau con phải hứa là không ngăn cản nó, nếu không ta cắt đứt". Tôi còn nhớ hôm đó PB nói mà bàn tay ra dấu oai phong lẫm liệt: "Trong tay ta Càn Khôn nắm lại, trong tay ta Nhật Nguyệt bừng soi..."
    PB lại nói với ông H như sau: "Phần Linh căn của con là Thần Võ, lại là thần ở vùng núi trọc nên tính khí nóng như lửa. Đêm nay ta sẽ làm tái hiện tiền kiếp của con cho con xem"
    Gần nửa đêm ông H đang nằm trên giường vụt chỉ tay vào vệt sáng màu đỏ từ bóng điện trên bàn thờ PB hắt lên nóc nhà nói: "Em có thấy vệt sáng kia không? Anh thấy nó y như màn hình ti vi đang chiếu nhiều cảnh kỳ lạ quá". Tôi hỏi và ông H kể: "Có 1 người đàn ông mặc áo bằng da thú, cầm cây lao, đang đánh nhau vời 1 nhóm người khác. Rồi người đàn ông đó bị đâm ngay tim ngã xuống, máu ra nhiều lắm. Rồi...nằm im rồi... chết rồi!..."
    Nằm im lìm độ 1, 2 phút ông H lại nói: "Nữa kìa, anh thấy nữa kìa! Bây giờ là 1 cậu trai trẻ mặc sơ mi trắng, quần tây xanh, chắc là sinh viên, đang leo đứng trên 1 sạp bán đồ giữa chợ diễn thuyết. Người ta bu đến nghe đông lắm! Có 1 ông sĩ quan nấp đằng sau 1 người đưa súng lên nhắm bắn - súng nổ, mọi người chạy tán loạn, chàng trai ngã xuống nằm im bất động. Chết rồi, chết rồi..."
    Lúc đó ông H như rơi vào cơn mê thiếp nói lảm nhảm y hệt người lên đồng - Tôi sợ quá ôm gối rúc vào 1 xó tường, không dám lại gần!
    Ông H kể lại cả thảy 5 tiền kiếp của mình, tôi chỉ nhớ được có 3, chuyện cuối cùng như sau: "Có 2 đội binh đánh nhau bằng cung kiếm. Đội nào cũng giáp trụ, mũ miện đàng hoàng! Có một viên Tướng trẻ mặc giáp trụ màu vàng, cỡi con ngựa trắng rất đẹp, đôi giày cũng mạ vàng nữa. Viên Tướng trẻ rất dũng mãnh, một mình tả xung hữu đột, rồi lạc qua vùng địch - bị cả đội quân vây đánh, Tướng ấy đánh trả rất dữ! Có 1 tên đâm 1 gươm vào bên hông. Viên Tướng ấy ngã xuống, 1 chân bị vướng lại, con ngựa lồng lên chạy kéo lê vị Tướng dưới chân. Rồi... chết rồi, máu chảy ướt cả áo giáp rồi kìa"…
    Sau lần tái hiện tiền kiếp này, ông H nhắm mắt, rơi vào cơn mê rồi ngủ luôn tới sáng!
    Vốn ông H là người đạo Tin Lành, không cùng nhánh Đạo, thế mà PB chuyển được "thần thức" của ông ày. Quả thực là huyền nhiệm!

  6. #6

    Mặc định

    10. LIÊU TRAI TÂN THỜI (2)


    Kể từ rằm tháng 10/1991 phần trần xác của Tất Đạt Đa về cùng tôi! Ngay đêm đó tôi mơ thấy 1 giấc mơ lạ: Tôi thấy mình cùng 1 người thanh niên mặc áo sơ mi trắng quần Âu đen mang giày Tây, áo cài kín cổ và tay – Tất cả bộ lệ trên người đều thẳng thớm, cứng ngắt và nghiêm chỉnh, kiểu ăn mặc cổ kính, thiếu tân kỳ!
    Tôi thấy 2 người cùng đi trên một chiếc xe mui trần, kiểu có lẽ còn cổ xưa hơn quần áo của chàng trai nọ: Tay lái gắn vào 1 cái cần sắt, 2 bàn đạp cũng như pêdal xe đạp, chắc là loại xe thời "tiền chế".
    Đến một nơi như dinh thự sang trọng, có một người phụ nữ đưa ra rất nhiều cô gái đẹp, rõ ràng là để người nam "lựa chọn". Người đàn bà ấy giới thiệu những cô đẹp và nổi bật nhất! Chàng trai lặng lẽ ngắm xong, mỉm cười chiếu lệ rồi vẫy tay chào, quay ra nắm chặt tay tôi, y như bảo: "Tôi chọn cô gái này" xong bảo: "Ta đi thôi". Có thế, tội giật mình tỉnh dậy!
    Tôi vẫn còn nhớ trong giấc mơ tôi chỉ là 1 cô gái quê mùa, mặc áo bà ba trắng quần đen, tóc thề bỏ xõa! Có lẽ "Điển ông" đang muốn tỏ cho tôi biết rằng tôi được ông ấy chọn, thay vì những cô Tiên ở tận cõi trời kia. Quả là "vinh dự" thay cho kẻ phàm nhân...
    Từ dạo ấy trở đi "Điển ông" thường xuyên đưa linh hồn tôi đi đó đây, điều đặc biệt là đi lúc còn thức, hoàn toàn tỉnh táo và có lý trí, chứ không thụ động như trong giấc mơ!
    Tôi kể lại các đợt xuất hồn của tôi cho các bạn nghe nhé!
    * Đang nằm lơ mơ chuẩn bị ngủ, tôi chợt nghe thấy cả người mình bốc bay lên! Ông bay trước kéo tôi theo sau lưng (chỉ đứng mà lướt gió, chứ không bay như cánh chim). Gió lạnh rít lên bên tai, tôi sợ quá bật lên tiếng la, ông bảo: "Đừng sợ, có anh đây, anh đưa em đi chơi!". Độ chừng 5 phút, ông dẫn tôi hạ xuống, tôi thấy mình đang đứng giữa một khu rừng già. Anh trăng chiếu lấp lánh trên những tàn cây cao… Dưới chân tôi, thật nhiều lá rơi, đi lún cả bàn chân, tôi lại thấy trên những phiến đá rải rác dưới các gốc cây có vài người ngồi xếp hàng im lặng, cả người như chỉ còn bộ xường khô! Tôi thốt lên: "Ma kìa!". "Không phải đâu, các vị Thiền sư tu theo phái ép xác đó, đừng làm phiền họ". Rồi ông bảo: "Đây là rừng Tây Tạng, đi lại đằng kia xem". Tới một chỗ, tôi thấy có mấy chiếc quan tài để trên mặt đất, có 1 đoàn binh lính Triều đình và 1 vị đội vương miện trên đầu. Vị ấy bước tới chỉ cây phương trượng đang cầm trên tay vào từng chiếc quan tài một! Bỗng nhiên, nắp hòm bật lên, xác người đứng dậy bước ra, đôi mắt đứng tròng, tay chân bước đi hệt như tượng gỗ - Những người lính bước tới khiêng từng súc cây rừng để trên vai, hai người một cây và họ bước đi từng đôi một, không hề lên tiếng nói, chỉ có tiếng bước chân lạo xạo dẫm lên lá rừng...
    Tôi sợ đến muốn chết ngất. Ông siết tay tôi và nói: "Anh cho em thấy cảnh các vị Pha-ra-ông ngày xưa và tục ướp xác để phục vụ cho họ như vậy đó ".
    Có điều kỳ lạ là những người ấy chừng như không hề nhìn thấy chúng tôi, y như chúng tôi là "kẻ tàng hình" vậy!
    Rồi ông dẫn tôi đi tiếp, đến 1 quãng trống đất sạch trơn, không có 1 chiếc lá rơi, y như có ai đó vừa quét dọn vậy.
    Ông đứng ra ngay giữa trảng trống, tôi đứng kế bên. Chợt nghe trên đầu mình đâu đó giữa từng không vang lên tiếng một dàn đồng ca, tiếng thánh thót nghe rất hay. Tôi cố lắng nghe, những ngữ âm hoàn toàn xa lạ, tôi chẳng hiểu được gì!
    Có một đoàn các vị Thiền sư phương phi đạo cốt, đầu cạo trọc vai đắp y vàng chắp tay, lặng lẽ đi tới, dạo một vòng quanh chung tôi – rồi một vị lớn tuổi nhất đi tới trước mặt Ông quỳ gối xuống 1 chân cung kính nâng lên ngang đầu một cây phương trượng bằng vàng, giống như đã thấy trong tay "Trần Huyền Trang" (phim "Tây Du Ký")
    Ông cầm lấy, chống xuống đất một cái! Vị lão sư đứng lên cung kính chắp tay xá xong đi giật lùi trở ra nhập vào hàng diễu hành thêm 1 vòng nữa rồi rẽ vào rừng sâu đi mất. Ông đưa tôi về nhà...
    Tất cả những việc này tôi thấy trong trạng thái hoàn toàn tỉnh thức và đương nhiên bằng con mắt của tâm linh!
    * Có lần tôi đang ngủ ngon, chợt nghe có 1 luồng gió mạnh cuốn bay đi, hất tôi xuống đất ở đâu đó! Khi té đau lồm cồm ngồi dậy là lúc tôi giật mình tỉnh giấc, và tôi lại tiếp tục cuộc du lịch kỳ thú trong mơ, cuộc du lịch bằng tâm thức…
    Tôi ngồi dậy, phủi cát dính trên mặt mũi, áo quần, có 1 vị sư nữ từ đâu hiện ra bước tới hỏi tôi: "Thí chủ đã tới đây rồi. Đây là cõi Trên. Thí chủ muốn ở lại đây bao lâu - Nói mau!". Tôi lắp bắp: "15 phút". Xong sực nghĩ: 15 phút thì ít quá, lại nói: "30 phút, 30 phút" - "Người được chuẩn y, đứng lên đi"!
    Vị sư nữ ấy dẫn tôi đi qua 1 cây cầu nho nhỏ, màu trắng y hệt như làm bằng bông gòn hay bông tuyết vậy. Tôi sợ chẳng hoàn hồn, bước đi cứ bập bềnh như người say... Qua khỏi cầu tôi thấy trước mặt là một khu rừng chắn lối – chợt lại thấy từ đâu xuất hiện những ông lão râu dài tới gối, cả người chỉ bé độ chừng cao hơn đầu gối ta 1 chút! Họ cầm rìu, ra bộ như chặt cây, thế là cây rừng ngã dài xuống xếp thành đường đi dưới chân tôi...
    Đi một đoạn, tôi lại thấy mình đang men theo 1 bờ suối trong vắt, nước chảy róc rách dưới ánh trăng nghe rất êm tai - Tôi nhìn thấy chung quanh mình toàn là hoa tím, vàng, xanh, đỏ nở ra từ những cây cỏ dại bên đường, bé xíu xiu và nhiều như trải thảm, tiếng chim hót trên tầng cao đâu đó, âm điệu nghe thật du dương!
    Rồi tôi thấy một cánh cổng màu nâu xỉn tựa như màu rỉ sét. Tôi nghĩ trong đầu: "Cõi Trên gì mà cửa bằng sắt rỉ thế này" Ni sư bật cười, như nghe thấy lời tôi, Người nói: "Mã não đấy, mã não xám", tôi sờ vào đúng là bằng đá, mát lạnh!
    Bước qua cửa, tôi thấy một căn phòng rộng mênh mông trần thật cao với những cây cột to bằng 1 vòng ôm toàn bằng đá cẩm thạch.
    Chính giữa phòng có 1 chiếc ghế nạm rồng phụng rất đẹp. Ni cô sờ tay vào những hoa văn, chỉ tôi: "Đây là Hồng ngọc, Lam ngọc, Bạch ngọc..." Toàn bộ căn phòng chìm trong bóng tối, chiếc ghế phát ra thứ ánh sáng chập chờn kỳ ảo, nửa hư nửa thực của những vàng, ngọc nạm trên mình... Tôi thấy có 1 bóng đen đi lướt qua trước mặt, ngồi vào ghế, rồi nói: "Phật Bà Quán Âm đây. Con niệm Quán Âm xin hiến hiện cho con thấy mặt đi". Tôi niệm xong, thấy từ trên cao có nhiều tia sáng nhoáng nhòang bổ xuống ghế ngồi thoáng chốc rồi tan biến. Niệm 3 lần như thế vẫn không thấy được gì! PB nói: "Con chưa có huệ nhãn, thôi để lúc khác vậy".
    Đột nhiên trước mặt tội, từ xa trôi tới, trụ lại một giây trước mặt rồi biến mất, cả thảy 4 lần, 4 khuôn mặt Quỷ ác nhe nanh, lè lưỡi dọa nạt tay cầm giáo mác trông rất khủng khiếp! Tôi bịt hai tai lại thét lên, nhưng hình ảnh ấy vẫn "tuần tự như tiến", giống như một lập trình đã có sẵn vậy…
    PB nói: "Con có biết ai đó không? Tứ Đại Thiên Vương hầu bốn bên Phật Tổ đó" - Tôi vốn lì lợm, bướng bỉnh lắm, vội hỏi: "Tứ Đại Thiên Vương mà là 4 con quỷ sao? Họ để làm gì vậy, PB?". Người trà lời: "Họ là những vị quan hành xử, mỗi vị một phương. Con tưởng nhà Phật chỉ có cứu độ thôi sao - Nhà Phật cũng y như một vương triều, có ban ân phúc và có cả trừng phạt nữa".
    Rồi PB dẫn tôi ra phòng sau, tôi thấy sát vách là một phản gỗ màu đen bóng loáng, trên đó có 1 cái gối cũng bằng gỗ y như vậy! PB nói: "Ngài Thích Ca ngự tọa ở nơi này"... tôi ngạc nhiên: "Nằm trên gối bằng gỗ như vậy sao?" PB chỉ ừ một tiếng, không nói gì nữa!
    Tấm phản thấp chỉ cách mặt đất chừng 2 tấc, ngang độ 1 thước, dài chừng 2 thước. Trông bé xíu, lọt thỏm giữa căn phòng rộng.
    PB lại bảo: "Về thôi con, mất ngủ hết đêm rồi đó" Thoát cái, lại thấy tôi nằm trên giường như cũ...
    Sáng hôm sau, tôi kể cho cậu Công nghe (người tôi đã nhắc đến vào đoạn trước). Công bảo tôi đóng cửa sạp báo nghỉ bán, dẫn tôi xuống chùa Vĩnh Nghiêm, nơi có tượng Thần Hộ Pháp!
    Công không nói gì, đưa tôi lên lầu 1 đi bằng cửa sau, vào Chánh Điện dâng hương xong tôi sung sướng trầm trồ ngắm mãi những tượng Phật rất đẹp ở đây. Công đưa tôi đi vòng ra phía trước, vừa nhìn thấy 2 bên chính diện là tượng 2 vị thần hộ pháp thật cao to, tôi đã sợ đến khuỵu chân không đi được nữa, tôi la lên: "Đúng rồi, đúng 2 ông đó rồi C ơi". Tôi gần như xỉu đi, C phải dìu tôi chạy nhanh, xuống tới dưới đất còn chưa kịp hoàn hồn!
    Tôi phải xấu hổ mà nhận rằng: mặc dù gốc nhà đạo Phật, tôi vẫn không biết gì về các sự tích hoặc Kinh sách nói về Phật Đạo. Và cũng xin mở ngoặc ra đây để giải thích với bạn đọc rằng: thời gian đầu tiên "Điển trên" ngự về với tôi (Tính ra gần 15 năm) Huệ nhãn chưa phát, con mắt tâm linh của tôi cũng chỉ thấy những gì Điển đưa tới cho thấy! Vì vậy ngay cả quang cảnh "cõi trên" tôi cũng chỉ được nhìn thấy hạn hẹp vài cảnh, chứ không nhận biết được toàn bộ chung quanh.
    * Có lần nửa đêm giật mình thức dậy, tôi lờ mờ thấy như mình đang đi trên một mặt sàn bằng tre nứa gập ghềnh và bồng bềnh rất lạ! Ông dẫn tôi đi về phía trước, chạm tay vào 1 lan can bằng gỗ. Lúc đó ánh trăng chiếu thấp thoáng cho tôi thấy 1 căn nhà sàn, nói đúng hơn là 1 khoảng sân rộng de ra nằm trên mặt nước một dòng sông đang chảy! Dòng nước đang độ sung mãn tràn trề cuồn cuộn chảy qua, trên đầu tôi có 1 tán cây Bồ Đề rất to, những chùm rễ lớn buông từ trên cao xuống đong đưa như những con rắn đang múa. Ánh trăng chảy quã từng kẽ lá lao xao, chiếu thành những vệt sáng lấp loáng trên mặt nước như đang nhảy múa, vươn dài ra rồi thu ngắn lại, chập chờn...
    Ánh trăng như dát bạc trên ngọn sóng vỗ vào chân cột nhà sàn, chạm vào rồi tóe ra như muôn ngàn vì sao nước lung linh...
    Nhìn dòng nước cuồn cuộn chảy, tưởng chừng trong thoáng chốc có thể giật tung, cuốn trôi cả mặt sàn cùng những gì trên đó, tôi sợ hoa cả mắt, la lên: "Đưa em đi khỏi đây mau, em sợ lắm". Ông lại dìu tôi bay lên, thoáng chốc đã thấy mình trở về nằm trên giường như cũ...

  7. #7

    Mặc định

    ll. RỬA XÁC (2)



    Giai đoạn này là lúc tôi bị hành căn khủng khiếp nhất (dài gần trọn 20 năm). Phải nói là tôi không hề muốn nhìn lại bao giờ! Nhưng vì tôn trọng sự thực, tôi xin phép chỉ kể lướt qua... Nếu không có 2 năm trở lại đây được giảm về mọi mặt: cả về thể xác lẫn tinh thần cũng như hoàn cảnh sống thì có lẽ chẳng bao giờ tôi có can đảm nhìn lại đời mình - Cơn ác mộng 20 năm rồi sẽ chìm vào quên lãng. Giống như hạt bụi kia rơi xuống từ thiên hà, cọ xát cùng cát bụi dương trần ố lem, trộn lẫn hay dúi dụi vào 1 góc kẹt nào đó giữa cuộc đời, chẳng còn lại lấy một âm vang...
    Gần 50 năm, hơn nửa kiếp sống con người chỉ còn lại ánh chiều vàng qua song cửa, nhìn lại đời mình tôi chẳng biết nên cười hay khóc! Nước mắt khô mất rồi qua bao hố thẳm nhân gian – Vẫn còn cháy đâu đây ngọn lửa Huyền Môn lặng lẽ soi tận cùng những nỗi đau thương và niềm bất hạnh. Còn nguyên bàn tay cứu sinh vô hình mà Đại Hùng, Đại Lực, Đại Từ Bi! Và vẫn còn nguyên một tôi làm chứng cho 2 sức mạnh: Sức mạnh của sự cứu rỗi và sức mạnh của sự tàn phá chẳng nương tay!
    * Tôi hay bị nhức đầu, nhức như có ai đó cầm cây kìm to kẹp vào hai bên thái dương. Đến ngày thứ ba thì hai mắt đổ hung quang, nhìn một thành hai! Không uống thuốc còn đỡ, càng uống càng nhức muốn chết được, chừng 10 ngày thì dịu lần, đến nửa tháng thì hết hẳn.
    * Tôi từng bị viêm khớp bàn chân trái trong 2 năm rưỡi: lúc thì đau lặng lẽ, lúc lại sưng to và nhức đến nỗi chỉ muốn chặt bỏ cho nhẹ mình – Đủ thứ thuốc men, bệnh viện Đông Tây y rồi vật lý trị liệu, cao hổ cốt, thuốc thang, thuốc rượu... Đau vẫn hoàn đau! Cuối năm 1987, tôi đành phải xin nghỉ dạy ở nhà. Cũng chẳng nhớ bệnh hết từ lúc nào, chỉ biết là cho đến tận bây giờ không hề phát đau lại...
    * Năm 1982 tôi được cử đi học khóa Hiệu trưởng 1 năm. Nhà nghèo, 5g 30 sáng phải trở dậy đạp xe cọc cạch từ Tân Thới Hiệp đến tận Đinh Tiên Hoàng SG để học, trưa 12 giờ lại đạp xe về! Cuối năm học tôi bị trúng mưa viêm phế quản đúng 3 tháng rưỡi. Ho liên tục cả ngày lẫn đêm, đêm không ngủ được, để 1 chiếc gối trước ngực dựa vách ngồi chịu trận và ho!
    Trường cho phiếu đi xét nghiệm đờm, nghi bị ho lao - Tôi không đi vì sợ phải đối diện với sự thật mình sẽ bị tuyệt vọng - Sau 3 tháng rưỡi hết ho! Từ đó trở đi mỗi tháng 30 ngày tôi cảm hết 28. Viêm phế quản trở đi trở lại, tiếng lúc nào cũng khàn. Chích Streptomicine miết rồi 2 mông chai cứng cả dề, ngồi đứng cũng đau…
    * Đầu năm 1994, tội bị 1 cơn viêm phế quản nặng, sốt và rét liên tục! PB về bảo: "Con đừng điều trị hay thuốc men gì, ráng chịu đau đi, ta cho cắt cơn vĩnh viễn". PB nói thì đừng có cãi, cãi là bị đòn chết thôi! Tôi không điều trị nữa, tối ngày hết sốt lại rét, ho ra đờm xanh tanh tưởi và thối như mùi cá chết...
    Xong trận viêm đó quả nhiên là đến tận giờ (14 năm sau) tôi chưa hề bị viêm phế quản lại lần nào nữa!
    Bù lại tội bị giãn phế nặng - khí phế nghẽn, bị lên cơn hen và khó thở thường xuyên. Tim lúc thì loạn mạch, lúc lại nhảy điệu rock lên đến một trăm, trăm mốt nhịp! Huyết áp lúc lên 14, 15 – nhức căng cả đầu, khi hạ còn 10/8 chóng mặt buồn nôn...
    * Từ năm 1994, sau khi cắt cơn viêm phế quản, tôi đổi sang rối loạn tiền đình! Mỗi cơn như vậy kéo chừng hơn 2 tháng - Cho tỉnh táo hoàn toàn, nghỉ dưỡng sức chừng nửa tháng hoặc mười ngày lại bị tiếp trận kế, đến tận giờ phút này (sau 14 năm) cơn rối loạn tiền đình 10 phần chỉ còn lại 2 hoặc 3!
    Cứ bị chóng mặt buồn nôn, y hệt như say sóng, trời đất quay cuồng, hễ day trở là dội lên cơn buồn nôn hoa cả mắt. Ánh sáng giữa ban ngày những lúc ấy tôi thấy màu khói xám như trời sắp trở mưa - Chỉ có 1 điều lạ là tôi chưa hề bị nôn lần nào! Và khi cơn hết thì cứ y như có ai cắt đi tấm lưới màu trên đầu, mọi vật chung quanh sáng rực rỡ như bầu trời sau cơn mưa vậy…
    Tôi nghèo lắm, bạn ạ - Một thân một mình nuôi 3 đứa con, lại bệnh hoạn hoài như vậy phải nói là cực hình, vì bản thân tôi làm gì có tiền điều trị! Đau hết chịu nổi thì ra tiệm thuốc tây mua vài viên giảm đau, uống được vài hôm hết tiền lại nghỉ, để vậy mà chịu trận, bao giờ hết thì thôi - Không giỏi làm ra tiền, nhưng tôi giỏi nhịn chịu lắm! Miếng thịt miếng cá kiếm được giành hết phần con, bao giờ chúng ăn no, phần thừa mới đến mình – Cả đời tôi, tôi thường tự hào khoe là chưa hề biết thèm hay nghiện một thứ gì, tôi chỉ cần ngồi nhìn các con ăn là cũng no rồi! Tôi hay bảo: "Sao đàn ông yếu đuối quá vậy. Không nghiện thứ này thì thứ khác - Tôi có thì ăn, có thì mặc không có thì thôi, chẳng biết nghiện bao giờ!".
    Thực ra mình chỉ giỏi khống chế chính mình thôi, phải không các bạn? Giống như ai đó đã nói: "Người ta nhổ vào mặt kẻ hèn nhát, hắn nói "trời mưa"!"
    * Cuối năm 1998, tội bị loạn mạch tim - Tim thường loạn nhịp, cơn kịch phát tay chân ríu lại, cứng cả hàm! Đang đi té vào tường, đang cầm chén cơm ăn ríu tay là chén cơm rơi vỡ tan tành…
    Mỗi lần lên cơn, tôi thuê xe ra BS Cự -Trần Hoài Cự! Ông chỉ châm cứu xong, tôi đứng lên là khỏe mạnh bình thường trở lại, như chưa hề biết mệt bao giờ!
    BS Cự là BS trưởng khoa ngoại bệnh viện 175 đã về hưu. Duyên lành xui cho tôi gặp vợ chồng BS – Thấy hoàn cảnh khó khăn của tôi, anh chị Cự nhận làm em kết nghĩa và chữa bệnh, cho thuốc không lấy tiền...
    Có lần chị Cự vào nhà, thấy tôi bị bệnh cúm sốt nằm mê đã ba ngày không ăn uống và chẳng có viên thuốc điều trị nào, chị vừa lầm bầm cuốn mùng mền mở cửa dìu tôi ra nhà chích thuốc, vô đạm xong trả về! Trong những lúc bệnh hoạn ngã lòng được một chút sự quan tâm chăm sóc tôi mủi lòng đến rơi lệ. Má và các em tôi ở kế cận, nhưng chẳng ai biết rằng tôi bệnh và bệnh đến cỡ nào! Nó bệnh tưởng thì có - cái mặt lúc nào cũng tròn đầy, phốp pháp thế kia mà cứ than bệnh là sao?
    Tôi hay nói: "Mẹ đánh con không để lại dấu tích". Nhìn bề ngoài, đố ai biết rằng tôi đang bệnh! Nằm mê mê trên giường, có ai đến là tôi chỉ cần chỗi dậy, rửa mặt, rữa tay xỏ bộ đồ dài vô ra chữa bệnh, đâu ai biết khi họ ra về tôi lại vùi mình trên giường trong cơn mê thiếp rã rời...
    Anh chị Cự hay nói: "Đừng ngại gì cả, em chữa bệnh cho người có lấy tiền ai đâu. Anh chị giúp em khỏe để em cứu người, anh chị cũng được phúc"
    Thế nhưng ngại làm phiền anh chị Cự, hán hữu lắm những khi anh chị vào thấy tôi bệnh nằm, còn không thì tôi giấu biến. Điện thoại vào hỏi thăm, tôi nói: "Em khỏe re!"
    Những trận bệnh như vậy đều nặng và lâu đến nỗi lúc nào tôi cũng chán đời đến cùng cực và chỉ muốn được chết, đó như là một giải thoát, một cứu cánh! Cho đến tận giờ phút này, tôi vẫn không hề thấy luyến tiếc cõi trần này chút nào, và luôn muốn rời nó ra đi - Thiên đàng hay Địa ngục đối với tôi chắc cũng chẳng có nơi nào đáng sợ hơn cõi Người này!
    Thôi! Ngưng "ta thán" ở đây, tôi lại kể hầu bạn chuyện của tha nhân - Xem như nhấp ngụm trà thơm buổi sáng, lấy một chút ấm nồng xua băng giá mùa đông...

  8. #8

    Mặc định

    12. THỰC HÀNH CỤ THỂ (3)


    * Chị Hoa (con bà Hai) ở gần chỗ tôi bán báo. Một buổi sáng chị tới nhờ tôi coi xem tại sao dạo này trong nhà "loạn đủ điều" (theo lời chị nói)
    PB về bảo: "Nhà cô có một người nam chết vì bệnh dữ, thành quỷ về quậy trong nhà, nhập vào đứa em trai bị thọt chân. Hiện âm vong đang ở sau nhà tắm, chỗ có cây gì cao lúp xúp đang có trái!: "Hèn nào thằng Bình nó thấy gì đó, về đòi chặt bỏ cây ổi. Mà chị không chịu, vì cây ổi xá lỵ mới ra trái chín ngon lắm".
    Chị H nói chị có người anh trai chết vì bệnh thủy trướng, từ đó chị H ăn chay trường và tu tại gia đến giờ - Rồi chị bảo: "Thằng B từ trước giờ rất ngoan. Nay thì quậy phá đủ kiểu. Còn dám bóp cổ Má lấy tiền đi chơi nữa chứ! Mỗi buổi tối hễ chị tụng kinh thì B bỏ nhà đi chơi, tụng kinh xong nó mới về ngủ". PB dạy cho cách nhận diện âm vong: "Tối nay, đợi đến lúc B về nhà chui vô mùng ngủ, cô lại lấy Chú Đại Bi ra tụng nữa, rồi sẽ biết!"
    Sáng hôm sau, chị H ra kể chuyện đêm qua làm y lời PB dặn. B đang nằm trên giường thét lên: "Chị điên sao mới tụng kinh rồi giờ tụng nữa vậy?". Chị H không thèm trả lời - thế là B trùm mền kín mít, rên hừ hừ và lăn lộn trên giường, độ 15 phút chị H sợ quá không tụng chú nữa, B mới nằm im! PB dạy: "Lấy tấm hình thờ của người cha để nằm đè lên hình người anh, vong đứa con không xuất ra để phá được, xong lập bàn hương án dưới gốc cây ổi, xin phép thỉnh tấm hình PB đang thờ ra để đó tụng 3 thời Chú Đại Bi, PB ta về giải vong cho... Tụng kinh xong xịt dầu thơm tẩy trần để lên bàn thờ như cũ". Từ đó trong nhà yên ổn như xưa…
    * Có một chị tên là Thảo, vợ của một ông chủ trại cưa (nghe đâu ở Xóm Mới - Gò Vấp). Chị giận chồng xách túi lên ở nhà bạn. Chị T bị bệnh gì không biết đã 3 ngày nay, trên hai cánh tay và chân các mạch máu nổi gồ lên khỏi da, bầm tím, giống in như con đường những con giun đội đất lên mà đi, trông thấy mà bắt rùng mình! Tôi trị cho chị đến ngày thứ ba thì hết hẳn - Chị T buồn khóc kể chuyện nhà. Tôi ứng miệng nói: "Có hộc tủ ở ngay bàn thờ ông Địa, tiền bạc để ở đó coi chừng mất. Còn nữa, chị đem túi xách của mình để qua bên kia đi! Tiền bạc mang theo nhiều quã lỡ mất ở đâu tôi bị mang tiếng". Chị T phải nhận là đúng và cảm ơn rối rít.
    * Phong, em trai thứ năm của tôi bị chạm xe – Cả phần ngực trái sưng lên đỏ bầm, khó thở! Tôi chẩn xong bảo: "Chỉ bị phần mềm, không ảnh hưởng cơ quan nội tạng. Đi BV làm xét nghiệm lại cho chắc ăn". Quả thật, BV cũng kết luận y như vậy. Tôi chữa 6 lân (4 ngày) hoàn toàn trở lại bình thường!
    * Năm 1990 có cô gái tên K, người Tàu lai ở gần nhà của tôi, thường hay sang chơi và tâm sự - Cô nói: "Nhà em có một xưởng dệt bị phá sản, ba mẹ em buồn chỉ muốn chết! Em quyết định lấy một người không yêu làm chồng để "bù của" cho nhà em. Anh này giàu lắm, có trại bò sữa hơn trăm con, chị xin PB về hỏi giúp cho em chuyện này xem sao".
    PB về nói: "Ta soi căn tiền kiếp cho cô biết nha! Trước cô là một người đàn ông họ Mạc ở tỉnh Thiểm Tây - Trung Quốc. Người ấy có tội tư thông với vợ của người bạn thân, kiếp này trả nghiệp phải thất tiết với người không phải là chồng mình. Và lúc này chính là lúc cô phải trả nghiệp đó".
    Cô K không tin vẫn tiến hành đám hỏi rình rang, còn lớn hơn cả đám cưới nhà người! Chỉ nửa tháng sau, biết chuyện gia đình cô K phá sản, vị hôn phu sỉ nhục cô K đã muốn lừa mình để lấy của - K tức quá hồi hôn, trả lễ vật lại cho đàng trai!
    Thế rồi việc gì đến đã phải đến: Chàng trai thuê năm tên du đãng bắt cóc cô gái ra Vũng Tàu thuê phòng ở 1 tuần sau mới trả về - bánh xe luân nghiệp vẫn đi đúng con đường của nó...
    Cho dù được cảnh báo, mấy ai dễ tin tưởng vào những lời phán bảo vô căn cứ, bởi lòng tham đã làm mờ mắt con người mất rồi! Kho tàng trước mắt trăm người hết chín chín kẻ chỉ muốn vục tay vào, cho dù có phải đánh đổi đến thế nào cũng mặc! Ôi nhân loại, tại sao người ta chẳng ham sục sạo kho tàng tri thức nằm kia, dấu bụi trầm tích của thời gian vùi chôn lớp lớp - Thế nhân ơi, sử thi kim cổ còn ghi, vạn vạn Thánh nhân Hiền triết, đời nay mấy kẻ noi gương?
    Đạo pháp lưu truyền khắp cõi, Kinh luận Giáo điều ra rả bên tai, sao chẳng để tâm lóng tìm, theo dấu? Ai ai cũng ra sức dấn bước trên con đường hoan lộ: sắm thêm cái xe đẹp, cái áo mới, cái nhà sang! Quán bar, hý viện, vũ trường mọc lên như nấm, trong lúc trường học, Giáo đường, Thư viện Đình chùa xuống cấp, bụi bặm, nhện giăng...
    Thôi thôi, có lẽ tôi đã đi xa đề mất rồi, mời các bạn trở lại hành trình khám phá "Huyền Môn"!

  9. #9

    Mặc định

    13. LlÊU TRAI (3)

    Cứ mỗi đêm, khi tôi ngủ say là lúc "Điển ông" đi về cõi Trên. Chỉ cần tội cựa mình thức giấc, cất tiếng rên là lại thấy ông giở màn chui vộ: "Anh đây, anh về đây". Nếu ông bận việc đi cả đêm, thường cho người về canh nhà giúp tôi! Ông nói: "Xác trần có phần về nhập là xác trống, giống như mảnh đất lạ có người bắt cây cầu sang! Một người sang được thì 10 người sang được - Anh không cho người về canh nhà, em sẽ bị phần âm về quấy".
    * Có đêm tội giật mình thức giấc, người vẫn nằm trên giường nhưng vía thấy đi ra phòng khách gặp 1 cô gái trẻ đẹp mặc đồ lụa trắng thắt chẽn ngang eo. Tôi hỏi: "Ai đó". Đáp: "Tôi là Huyền nữ". Tôi hỏi: "Ngồi đây làm gì?" Lại đáp: "Canh nhà" – hỏi nữa cứ vờ như tượng đá chẳng trả lời gì!
    * Có lần thấy mình đi ra giữa sân lúc nửa đêm, thấy có 1 người đàn ông mặc áo thụng bằng gấm đen đồng tiền thật to, đầu đội mũ cánh chuồn đen và cũng đi đôi hài gấm màu đen. Tôi lại hỏi: "Ai đó". Đáp: "Tôi là Chư Thiên". Tôi hỏi: "Đứng đây làm chi?" - "Canh nhà". Câu trả lời y như một lập trình, hỏi nữa cũng chẳng thèm đáp lại một tiếng...
    Chừng như Ông chỉ đi vào ban đêm, và đêm nào cũng đi vào lúc tôi đang ngủ. Nếu tôi tình cờ thức dậy, ngồi lên là lại thấy ông về, tôi có hỏi thì ông nói: "Anh đi làm việc, anh còn nhiều trách nhiệm. Nhưng anh chỉ đi vào lúc em ngủ thôi, khi em thức là anh về"...
    Lúc tôi có khách hay các em tới chơi thì ông đi mất, khi cần làm việc liên quan tới âm phần lại thấy có ông rồi, mặc dù ông không hề ra mặt, nhưng tôi biết đằng sau mình, vẫn có ông lặng lẽ hỗ trợ. Thời gian đầu tôi bị phần Âm đánh hoài, trong lúc đang truyền điển cho bệnh nhân thì họ thừa cơ đánh lén, chỉ thấy mình xây xẩm choáng váng rồi ngã y như bị trúng gió, phải có người dìu đưa vào ghế ngồi 5 phút thì hết!
    Những lúc như vậy tôi khóc và cằn nhằn ông ghê lắm. Ông nói: "Rồi em sẽ học được kinh nghiệm từ những cú ngã đó. Anh ở sau lưng em, anh không để cho ai làm hại em đâu!"
    * Trong thời gian tôi bị loạn mạch tim, đành phải năn nỉ gởi con cho Ba chúng nuôi giúp (trong hơn 1 năm). Có 1 lần bé Ti bị Ba đánh - bèn bỏ nhà đi, trốn theo bạn về thành phố. Ông Điền điện về không có con hốt hoảng, còn tôi thì khóc ròng, cầu xin PB về giúp! Người nói: "Nếu con nguyện cạo đầu ta đưa nó về cho con trong vòng hăm bốn tiếng đồng hồ". Tôi đồng ý, đến sáu giờ tối ngày hôm sau tôi vẫn chưa thấy tăm hơi thằng bé, mọi sự tìm kiếm đều vô vọng...
    Do quá lo lắng, tôi đi rước bé Chi trễ giờ đón trẻ, đó cũng là thời khắc định mệnh! Tôi gặp bé Ti (lúc ấy 12 tuổi) đang đi với mấy đứa bạn, thế là tôi bắt nó đưa về! Thằng bé bảo: "Con nhớ mẹ định nửa đêm trốn về thăm nhà rồi sáng mai theo 2 thằng bạn lên thành phố bán bánh mì với nó".
    Sáng ngày hôm sau tôi khấn xin xuống tóc tạ lễ với PB, Người về nói: "Ta thử con như vậy thôi, đừng xuống tóc làm gì! Ngồi bán sách báo mà cạo đầu ai coi cho được". Vậy đó, tấm lòng Bề Trên rộng lượng và bao dung như thế, những khi cần thiết thì cũng lạnh lùng như băng giá - Tôi ngẫm câu "Thương con cho roi cho vọt, ghét con cho ngọt cho bùi", mà thấm thía: Roi của Mẹ đánh con đau lắm, nhưng ngọt bùi Mẹ cho cung thấm thía lòng trần!
    * Ngày xưa, trong nhà tôi có điều kỳ lạ xảy ra gần như đã có lập trình sẵn rồi: Ngày Rằm, ngày Vía nếu tôi cúng hoa Vạn thọ trên bàn thờ là y như rằng qua 1 đêm tất cả các cánh hoa đều được ngắt ra để nằm gọn vun 1 dúm ngay chính giữa bàn thờ, đàng sau các lư hương! Ba bàn thờ là ba dúm hoa như nhau, điều lạ lùng là cả bình hoa còn nguyên vẹn, không hề có dấu tích của bàn tay phá hoại và những đóa hoa Vạn thọ còn nguyên cả cuống cả đài, giống như có ai đó đã tẩn mẩn chơi 1 trò chơi lạ, đánh đố kẻ phàm nhân...
    * Một lần trong nhà có con gà mái đẻ trứng so (lần đầu tiên). Phải nhốt cho nó quen ổ mới. Tôi đem cái thúng to để vào đấy nắm lá cọ cho êm, lót lên trên bao gạo gấp làm tư rồi để cái trứng và con gà mái, úp lại bằng 1 cái trạc (loại đan bằng tre nứa dùng để nhốt gà) xong lại cẩn thận đè lên trên bằng 1 khúc gỗ lớn!
    Buổi trưa tôi đi dạy về, đố bạn biết điều gì đã xảy ra? Con gà mái không đẻ trứng nào, nằm ôm cái trứng cũ ngoài đất, cách chừng 1 mét - cái trạc úp ở ngoài còn nguyên, khúc gỗ chặn trên cũng còn! Tôi mở trạc ra, đứng ngẩn người nhìn bao gạo gấp tư nằm gọn dưới đáy thúng, nắm lá cọ trồi lên trên. Ai muốn chứng tỏ sự có mặt của mình trong căn nhà khóa cửa, không người?...
    * Một buổi trưa, tôi tìm mãi không ra cái đế cắm nhang muỗi, lầm bầm: "Nhà có 2, 3 cái mà giờ mất cả rồi". Tôi cầm cây chổi đi quét nhà – tự nhiên, từ trên đầu phía sau lưng có ai đó ném cái đế cắm nhang bay qua đầu tôi rơi xuống ngay trước mặt, cùng vời tiếng cười của Ông vang lên trong đầu...
    * Tôi bị mất xâu chìa khóa. Tìm lung tung mãi không có, tôi vái Ông tìm giúp, rồi bỏ đi bắc nồi nấu cơm! Lát sau lên nhà, vừa sục tay vào định tìm, xâu chìa khóa đã nằm gọn trong mấy quyển sách, 1,2 chiếc chìa đong đưa như trêu cợt trước mắt tôi...
    * Có lần tôi đang ngồi xem ti vi thì Ông về tới. Lúc đó ngoài trời đang mưa lớn, tôi thấy ông mặc 1 chiếc áo Ba đờ suy dầy và mịn rất đẹp. Vào nhà, ông móc trong túi ra 1 nắm trà, cọng trà se lại nhỏ xíu trông rất khéo, tỏa mùi hương thoang thỏang. Ông nói: "Chè mạn đó, thơm không?"
    Rồi lại móc từ túi bên kia, cẩn thận mang ra 2 chùm hoa nhỏ xíu rất lạ đặt vào lòng bàn tay tôi: "Tặng em nè". Tôi nhặt lên 1 chùm hoa trông y như Mai chiếu thủy, nhưng cánh lớn và dày hơn một chút, hoa màu trắng kem (mai chiếu thủy có màu trắng muốt). Ông bảo: "Đây là hoa Xu xi, còn đây là hoa Ngọc trâm. Hai loại hoa này ở tận trên tầng cây cao ở Ba Núi, anh hái về cho em đó! Đặc biệt vào mùa khí trời lạnh giá hoa mới nở, càng lạnh hoa lại càng thơm".
    Hoa ngọc trâm trông mường tượng như cây trâm cài đầu với nhiều đóa hoa nhỏ xíu chung quanh, màu trắng long lanh như những viên ngọc – cả hai loại hoa đều có mùi thơm nồng và lạnh, cứ y như vừa lấy ra từ trong ngăn tụ lạnh vậy!
    Tôi hỏi: "Ba Núi là ở đâu? Nó trông như thế nào?" Ông nói: "Là nơi ba ngọn núi cao ngất chụm đầu vào nhau. Quê hương của các Thánh ở đó. Đê hôm nào anh dẫn em lên núi chơi"
    * Ngày ấy đã đến - một đêm PB về bảo tôi: "Dỗ cho trẻ nó ngủ sớm, ta đưa con về thăm Ba Núi". Sau khi con ngủ, tôi trở dậy thay áo bà ba trắng, lên giường chui vô mùng ngồi xếp bằng, xuất hồn đi theo PB! (ngày trước nhà tôi còn đất rẫy tập đoàn phía sau, chiều tối là muỗi nhiều lắm không vô mùng sẽ bị muỗi cắn, khó mà tĩnh tâm được). Khi tôi xuất hồn đi như vậy, người vẫn tỉnh táo hoàn toàn, đến nỗi khi 2 đứa con mê ngủ lăn trúng, tôi khe khẽ đẩy chúng xê ra và vẫn tiếp tục đi - Độ 1 lát nghe tiếng bầy gà kêu ngoài sân, lúc trời đang mưa, tôi còn xin phép cho ngưng để trở dậy, bắt nhốt bầy gà, xong vào ngồi xếp bằng lại đi tiếp, khộng hề có trở ngại gì!
    PB dẫn tôi đi loanh quanh 1 con đường nhỏ lên cao dần trên núi, tôi lờ mờ thây như một bên là vực sâu, 1 bên tay trái có trồng nhiều cây cao ngang tầm nguời, trái giống trái na (mãng cầu ta).
    Lên đến đỉnh núi, trên ấy mặt bằng rất rộng, có nhiều căn nhà nho nhỏ xinh xắn, nhà tây nhà tà có cả - căn lợp ngói, căn lợp lá xé, lá chằm – lại thấy một nơi lợp bằng lá rộng và dài như hội trường, trong đó để hai dãy bàn ghế thật dài, phủ khăn màu xanh! Trên bàn bày thật nhiều thức ăn, hoa trái rất lạ và những chai, ly bằng pha lê óng ánh một thứ nước màu xanh, màu hồng rất đẹp - Tội nghĩ thầm trong đầu: "Cõi trên mà cũng uống rượu nữa sao?" PB cười bảo: "Nước quả đó, uống thử xem". Đoạn đưa cho tôi một ly nước màu xành, vị thơm ngọt, uống vào đến đâu biết đến đấy!
    Lại thấy những đĩa thức ăn như đồ chế biến sẵn thành viên hình tròn, vuông, hình chữ nhật... nhiều màu. PB gắp bỏ vào miệng tôi - chưa kịp nhai đã gần như tan ngay trong miệng vị mằn mặn, bùi bùi lại ngòn ngọt, rất là ngon!
    PB kéo ghế, bảo tôi ngồi xuống. Tự nhiên tôi thấy trôi tới trước mặt mình những hình ảnh của nhiều người, mỗi hình ảnh chuyển tới trước mặt tôi, trụ lại chừng hai giây, ai cũng vẫy tay chào rồi trôi đi mất - Cùng với lời giới thiệu của PB vang bên tai: "Nhà bác học Einstein, Tưởng Giới Thạch, Laphongtaine, Pascal..." Còn nhiều nữa mà tôi chịu không nhớ hết!
    PB lại dẫn tôi ra sân. Ở đây đã có sẵn rất nhiều người, tiếng nói nho nhỏ, lao xao nhưng tôi cố nhìn mà chẳng thấy tận mắt ai và cũng chẳng nghe được họ nói điều gì!
    PB giới thiệu tôi là: "Thánh Cô Lan". Tất cả đồng vỗ tay! PB hỏi tôi 3 câu hỏi đến nay tôi chỉ còn nhớ được 1 câu: "Hoa mùa Xuân là hoa gì?" Tôi đáp: "Hoa Xuân".
    PB lại hỏi tôi tại sao trả lời như vậy - Tôi nói: "PB hỏi hoa muà Xuân chứ đâu hỏi hoa ở xứ nào!" Tất cả mọi người đồng vỗ tay, PB cũng mỉm cười mãn nguyện…
    Nguyên có một điều lạ là xác trần của tôi khờ khạo, nhút nhát và chậm chạp bao nhiêu thì linh hồn (hay thể vía) của tôi lại khôn ngoan, ranh mãnh bấy nhiêu! Từ suốt ngần ấy năm, vạn vạn lần ứng xử với các Đấng cũng như các cõi Âm phần tôi chả thua ai! Chỉ có PB là tôi thua - Người rất thông minh, chặn đầu chặn đuôi một hồi là tôi bí!
    Đây cũng là trò chơi mà PB thích nhất, và cũng là cách làm tôi khổ sở suốt ngần ấy thời gian: về lúc nửa đêm, dựng tôi dậy lục vấn đủ mọi chuyện trên trời dưới đất - Khi PB rời đi là tôi thức luôn tới sáng...
    Đến tận sau này tôi mới hiểu là PB đang luyện để tôi "cao tay ấn", tự mình biết quyền biến trong hành xử với các cõi, để không "bị động" hoặc phải chịu thua, cầu cứu Ơn Trên!
    Làm một Sứ giả, một nhịp cầu nối như tôi không dễ, luôn phải căng thẳng đầu óc để suy nghĩ, trong chớp mắt tìm ra cách ứng xử để thủ thắng, đưa phần Âm (hoặc Linh căn) vào chỗ thúc thủ, hoặc là "há miệng mắc quai" phải chịu thua mà "tâm phục khẩu phục" để trả tự do lại cho xác trần! Và điều quan trọng là lấy cái Tâm Đức Từ Bi của Nhà Phật mà chiêu dụ, mà khuyên can, không phải dùng tới quyền lực và sức mạnh (Trừ những phần Âm càn quấy, hung hãn vừa nhìn thấy đã tiến đánh. Với những người này tôi bắt trói lại, có lúc nhốt 1 tuần lễ, cho tiền bạc lộc thực rồi thả ra). Các bạn sẽ biết chuyện này vào đoạn sau…

  10. #10

    Mặc định

    14. SỰ XUẤT HIỆN CỦA CÁC TINH CHỦ
    VỀ Y THUẬT:

    * Tháng 7/1989, con trai thứ hai của tôi được ba tuổi rưỡi. Một sáng nọ đột nhiên bị phù cứng cả mặt, hai mắt chỉ còn như ke chỉ, một bên cổ nổi lên 4 cục hạch sưng to rất đau không day trở gì được! Sáng đó trời mưa bão tối đen, nhà lại mất điện - Má tôi bảo: “Nó bị bệnh tràng nhạc, bệnh này nặng lắm, đưa đi BV ngay kẻo trễ”.
    Tôi thắp nén hương cầu xin PB về, Ngươi bảo: “Để ta cho Thầy về trị cho cháu nghe!” chợt thấy có một ông lão người gầy và cao da ngăm mặc chiếc áo chùng đen - chân đi dép cỏ, ngang vai khoác một tay nải bằng vải màu nâu. Ông nói: “Ta làm cho thằng bé 10 phút sau hết phù, con thưởng gì ta? Nửa con vịt quay nhé!” Tôi bảo: “Con tạ ơn Ông nguyên con” Ông cười: “Nói chơi thôi, ta ăn chay mà”!
    Rồi hỏi tôi xem trong nhà có vật gì bằng kim loại không - Tôi tìm mãi mang ra cây kim may tay! Ông cầm cây kim day ấn vào các huyệt trên người bé Ti, cách làm nhanh và điệu đàng, lã lướt in như bàn tay khảy trên phím đàn - Tôi nhìn đến say mê! Tuy nhiên, khi Điển nhập vào tôi mà làm, tôi nhìn bằng “thể vía” thấy tay mình ra tay ông lão ấy, năm ngón gầy đét, móng tay dài và đầy cáu bẩn. Thấy tôi nhăn mặt, ông nói: “Tay ta dơ quá phải không? Hái thuốc cả ngày sạch làm sao được.”
    Tôi lại hỏi: “Con nghe người xưa nói: Chân đi hài cỏ – sao ông lại đi dép?”. Ông bảo: “Đi trong rừng mang hài có mà ngã té què chân - mang dép hai ngón kẹp quay đi mới dễ”. Một chốc sau, thấy đôi mắt bé Ti mở lơn lớn, PB nói “Con đem cháu ra chỗ đèn sáng, ấn ngón tay vào cơ bắp, nếu buông ra thịt không còn dấu nún xuống là hết phù”. Tôi làm y như vậy, quả nhiên bé Ti không còn bị phù nữa, chỉ sau 10 phút!
    PB lại bảo: “Cháu nó bị viêm tuyến Ba-tô-lin, là tuyến nước bọt đó - không sao đâu! Con lấy chai nước nóng bọc khăn chườm, chừng 2, 3 ngày hạch sẽ lặn hết cho coi”.
    Bạn đọc thấy sao - tất cả các phương tiện y học hiện đại, có phương pháp nào làm hết phù sau 10 phút không? Ta còn phải phục người xưa dùng từ khoa học chuyên môn: tuyến Ba-tô-lin!
    Tiên ông bảo: “Ta là Thái Thượng Lão Quân – Hiệu Phổ Am Thiền Sư, Lý Bá Chánh danh” PB nhờ ta truyền phép điểm huyệt, bấm huyệt cho con. Gọi ta bằng Thầy nghen!”
    Tôi lại mở ngoặc để thưa với các bạn đọc rằng: nguyên văn thầy Thái Thượng nói như vậy, tôi không có điều kiện để tra cứu thực hư!
    Thầy còn kể chuyện thầy tự tay đi hái thuốc trong rừng như thế nào...Rằng thuốc có nhiều loại - vị bổ phải hái lúc sáng sớm, vị độc nhiều phải hái vào lúc giữa trưa và có loại phải hái lúc nửa đêm, có loại phải theo mùa, theo tiết nữa...Tôi hỏi: “Nếu Ơn Trên chuẩn cứu 1 người bệnh ở cõi trần thì cứu bằng cách nào?” Thầy cười đáp: “Thì cung y như cõi trần vậy thôi! Ví dụ người bệnh đó có người bà con là phần Linh căn ở trên: Thánh, Thần, Tiên, Phật gì đó… Họ đến cầu cứu thầy, xét thấy hợp căn, hợp mệnh thầy ra phép cứu - Ở dưới trần sẽ xoay chuyển cho có người chỉ cho một phương thuốc đơn giản nào đó, thế mà khỏi bệnh, vậy thôi”
    Huyền nhiệm ở chỗ là tôi không hề tu học ngày nào về Đông, Tây y, về phép chẩn bệnh, điểm huyệt... Thế mà tôi ấn vào đúng huyệt không sai! Về sau ngày càng tiến bộ, tùy bệnh trạng mà day, ấn, xoa, vuốt... vào huyệt vị hoặc kinh mạch!
    Có lần tôi tìm được đồ hình huyệt vị trong con người, nhìn đến hoa cả mắt, học mãi mà chẳng nhớ tên huyệt nào, cứ như bị trêu ngươi, che mắt vậy! Thế mà có bệnh nhân tới, tự bàn tay tôi làm thành thạo như từ trong tiềm thức đã chuyên…
    Đến giờ này, tôi mới tin là có tiền căn, hậu kiếp! Con người ta đâu từ thuở hồng hoang đã biết hết mọi điều, cho dầu đơn giản nhất. Đã có bàn tay các Đấng trợ giúp hoặc ứng về ai đó để tự nhiên mở khẩu truyền thông tin, hoặc theo như lời PB giảng: Tất cả những Thiên tài, Bác học, Thần đồng, những nhà phát minh hoặc các bậc Danh sư, Thần y... đều do các Đấng sai xuống để hỗ trợ con người. PB nói: “Trần gian là cõi trung chuyển, là lò tôi luyện hoặc chốn hành Đạo, trả nghiệp...Các cõi khác đều từ nghiệp quả trần kiếp mà luân chuyển!”
    Nguồn cội từ cái nhân mới sinh ra cái quả. Người trần không biết, cứ lo tạo tiện nghi vật chất mà quên rèn luyện, nâng cao tâm hồn mình - Chết rồi quay lại nhìn chẳng thấy nắm được gì trong tay ngoài gánh nghiệp vương mang, luân hồi thác sinh kiếp khác vay trả báo đền, thảm thương biết mấy!
    * Tháng 6/1990, con trai lớn của tôi lúc ấy 6 tuổi. Một đêm nọ sốt cao liên tục cả đêm, đến 3g30 sáng thì bại liệt cả người, không còn nhúc nhích được nữa, cả người bé nóng ran, nói sảng lảm nhảm... Tôi sợ quá cầu PB cứu. Người về nói: “Để ta cho nó hết sốt, ngủ dậy thì khỏe liền”.
    Mới loay hoay, bé Tí đã lăn ra ngủ, sờ tay vao thấy hạ sốt rồi! PB ngồi lại với tôi nói chuyện đến 5g kém 10 phút Đài Truyền thanh của Xã phát, cháu ngồi dậy mừng rỡ: “Mẹ ơi con nhúc nhích được rồi, con hết bệnh rồi”...
    Nhân đây, tôi kể luôn cho các bạn nghe nhân duyên tôi được 2 vị thầy nữa về trợ cho tôi chữa bệnh cứu người.
    * Vài tháng sau khi Thầy Thái Thượng về, lúc nửa đêm trở dậy, vía tôi thấy mình đi ra nhà trước, thấy có 1 Tiên Ông ngồi trên đầu tủ. Thấy tôi ông cười bảo: “Biết ta là ai không? Đoán đúng ta nhận làm đệ tử”. Trong đầu tôi vang lên lời nhắc. Tôi bảo: “Hải Thượng Lãn Ông”. Người nói: “Lạy ta 3 lạy ta truyền nghề thuốc cho”. Tôi quỳ lạy, đứng lên nghe người nói: “ Hải Thượng Lãn Ông Lê Hữu Trác là thầy. Thầy có viết bộ sách “Hải Thượng y tôn tâm lĩnh” gồm 4 quyển, con tìm đọc đi”
    Sáng hôm sau, tôi hỏi một người biết về thuốc Đông y, họ xác nhận đúng y như vậy! Từ đó, bệnh nào nặng hoặc bị hành căn, khó chữa tôi lại xin thầy về chẩn mạch và cho thuốc. Thường thầy hay cho những vị thuốc Nam dễ tìm ở ruộng đồng bờ bãi hơn là những vị thuốc Bắc đắt tiền. Thầy dạy rất kỹ: Loại này phơi âm can, gần khô thì sao, hạ thổ, loại kia ngâm nước cơm vo qua đêm, rửa lại rồi phơi ráo ngâm rượu...v.v
    Đa số các bài thuốc Thầy cho thường có 5 vị; hoặc chỉ độc 1 vị cây cỏ đơn giản mà uống hết bệnh. Thầy dạy, tôi chỉ nhớ loáng thoáng: thuốc có mấy vị: Quân, Thần, Tá, Sứ - mạch có: trầm, phù, trì, xác (?). Chứng có: phong, hàn, thử, thấp, táo, hỏa…
    Tôi nhớ mang máng như vậy, nếu viết lại có sai xin các bạn đừng cười tôi nghe!
    Thầy dạy tôi cách thăm khám (nói đúng hơn là Thầy “nhập thần” vào tôi để chẩn bệnh, tôi nghe mãi rồi thành quen tai). Khi bệnh nhân đến, tôi hay hỏi nhẩn nha, dông dài: “Anh (hay chị) làm nghề gì? Có mấy cháu? Hoàn cảnh đầy đủ hay khó khăn, bệnh phát lâu mau? Chứng như thế nào? An ngủ có đúng giờ, ăn có ngon miệng không?...” Hỏi xong rồi chẩn mạch (thực ra tôi có biết nghe mạch đâu, tôi chờ nghe thầy nói đó thôi) và thầy chẩn cho ai cũng chính xác, mọi người đều phục!
    Tôi cũng không nhớ rõ từ lúc nào thầy đã “truyền thần” cho tôi hoàn chỉnh, chỉ biết là cho đến về sau này, tôi tự đặt tay lên mạch là nói đúng y, không cần phải chờ nghe thầy phán nữa! Tôi còn nghe được cả trong các cơ quan nội tạng, chỗ nào có trục trặc là tôi cảm nhận được ngay…
    Từ ấy đến nay, có nhiều vị thuốc lạ Thầy truyền lại cho tôi và tôi đã chữa cho nhiều người hết bệnh. Tôi không thể nhớ hết được. Xin để đoạn sau tôi sẽ chép lại tặng bạn đọc, giờ tôi xin phép kể tiếp về sự xuất hiện của “Tinh chủ y thuật” thứ ba để cho câu chuyện có mạch lạc, vậy nhé!
    * Một buổi tối, tôi đang sửa soạn đi ngủ, thầy Thái Thượng bước vào, theo sau là 1 người hình tướng rất kỳ lạ: Người to bè, tóc cứng như rễ tre, trán dẹp, môi dày thâm đen – đi chân không trên đất và đặc biệt là đôi bàn tay, bàn chân to và thô nhám rất khác thường! Thoạt nhìn, tôi đã nghĩ ngay: “chắc là người tiền sử”.
    Thầy Thái Thượng nói: “Đây là Thần Nông; người về trợ duyên cho con đó”. Tôi xá Thầy 1 cái cảm ơn! Thần Nong nói: “Người ta tặng cho Thầy biệt danh là Vua nếm thuốc. Thầy có để lại cho đời tập “Thần Nông bản thảo” dày hơn 700 trang đó”. Tôi hỏi: “Sao Thầy đi chân không vậy, gai rừng đâm đau chân làm sao?”, thầy bảo: “Thầy đi chân không quen rồi, da chân dày thế này, gai nào đâm được” Thầy trò cùng cười!...
    Thầy lại bảo tôi: “Mai mốt con chuẩn bị thu xếp đi vài ngày, thầy sẽ dạy con nếm thuốc! Phải tới nơi bờ sông bãi sú thì mới có nhiều vị thuốc” Thầy còn dạy tôi (y như dạy một đứa trẻ mới học vỡ lòng): “Con mang theo một con dao, đồ bấm, bao nilon, 1 quyển tập, viết...Thầy dạy con ngắt lá hoa hoặc trái của cây thuốc để làm mẫu - con bỏ vao bao, bấm cứng vào trang vở, xong mở lên ghi ở dưới công dụng, cách thu hái và chế biến, liều lượng”
    Một dịp may có 1 không 2 trên đời, thế mà tôi đã để vuột mất... Hoàn cảnh gia đình lúc đó khó khăn làm tối mặt chưa đủ miếng ăn, bỏ việc đi chơi rong thì chết đói mất!
    Sáng hôm sau tôi kể lại chuyện này cho các em tôi nghe - Quang, em trai thứ sáu của tôi nói: “Chị bị bệnh hoang tưởng mất rồi, Thần Nông là ông vua dạy nghề nông bên Tàu mà chị nói là thầy thuốc”. Ngay chiều hôm đó, quyển đặc san “Thuốc và sức khỏe” có viết 1 đoạn như sau: “Người đời xưa truyền tụng Thần Nông là Vua nếm thuốc – ông còn để lại cho đời tập “Thần Nông bản thảo” dày 750 trang...”
    Vậy đó, đa số những điều “Điển” về nói với tôi gần như ngay lập tức có tài liệu minh chứng kèm theo, chuyền vào tay tôi bằng cách nào chưa kể, có điều sự huyền nhiệm thì đã hẵn!
    Đêm sau, tôi nhớ mang máng vào độ tháng 7/1996. Lúc 11 giờ đêm, ba vị Thầy về cùng một lúc dạy tôi học thuốc - để các bạn thấy thêm một điều kỳ diệu, tôi phải giải thích thêm một chút: tôi vốn cận thị 3 độ, mắt rất kém! Bóng đèn ngủ (loại bóng cà na màu đỏ) gắn trên cao hơn 2m. Ngay 1 người tỏ mắt cũng không thấy được gì, nữa là tôi!
    Thế mà Điển Thầy về nắm tay tôi viết 8 trang giấy học trò, dạy cơ bản về phương pháp chẩn bệnh, nói sơ về các huyệt chủ và các vị thuốc điều trị bệnh. Chỉ tiếc là qua bao thăng trầm dời đổi tôi đã để thất lạc gần hết, nay còn lại một ít cũng xin chép lại đây, mặc dù thực hư tôi vẫn chưa có cơ hội kiểm chứng.
    - Thần phương: (Xem lại bản gốc)
    - Chữa bệnh cốt cần an huyệt, thông huyệt. Khi huyệt, mạch lưu thông không còn ách tắt thì bệnh hết. Thuốc không cứ là loại nào, nguồn gốc từ đâu, chỉ cần sao chế đúng cách là sử dụng được!
    - Người tạng nhiệt thì bình ôn, tạng hàn thì chỉ nhiệt, khí trệ thì bổ khí, tâm hư thì an tâm, tỳ yếu kiện tỳ, vị yếu bổ vị...
    - Khí hư thì tâm phiền, tích nhiệt, trích đờm! Tâm hư thì mất ngủ, phiền não, hay lo sợ, hồi hộp, làm mệt. Tỳ yếu biếng ăn, khó tiêu, hay đi cầu, ấm ách bụng thường xuyên. Vị yếu cũng lười ăn, khó tiêu (vị yếu đi kèm với các chứng của tâm hư)
    - Đàn ông chủ thận, đàn bà chủ huyết!
    - Đàn ông hư thận sinh chứng đau thốn bên hông trái, tiểu dắt, tiểu nóng, đỏ, khai nhiều, lâu dần đi tiểu đục, chân khí tiêu hao, người nóng nhiệt, mắt đỏ...
    - Đàn bà huyết hư đau cả 2 bên hông, người gầy yếu xanh xao, có kỳ hành đủ chứng, khó ngủ, hay hồi hộp, cáu gắt, tâm phiền nhiệt, hư tỳ vị, bế huyệt mach, khí không thông, mắt mỏi thường xuyên, tay chân run rẩy...
    - Có 360 huyệt mạch chính trong người. Chủ yếu là huyệt Bách Hội (ngay giữa đỉnh đầu điểm thẳng xuống). Day 5 ngón tay chung quanh là kiện toàn bổ túc!
    - Trước tiên bắt mạch định bệnh, bấm huyệt đỉnh đầu để khai thông kinh mạch, sau bấm huyệt tùy theo bệnh chứng (mất...)
    - Các loại cây lá chủ trị từng loại bệnh (không cần dùng kèm)
    - Ích mẫu: Khai thông huyết mạch, kiện toàn cơ thể phụ nữ (nhất là người mẹ), trị hư huyết, tâm phiền, đau bụng khi hành kinh.
    - Ngải cứu: Đặc biệt dùng chữa chứng đái dắt đái buốt (viêm đường tiết niệu), làm thông khí, hạ đờm. Ho có đờm: lá tươi đâm lấy nước uống không cần liều lượng. Đái dắt đái buốt: lá tươi uống hay nấu nước dùng sau 1 lần hiệu nghiệm ngay tức thời, uống 3 ngày hết viêm đường tiết niệu!
    - Lá chanh chữa bệnh đau gan, xơ gan trướng bụng: Mỗi ngày sử dụng chừng 1 dúm lá tươi nấu 3 chén nước, chia làm 3 lần uống lúc bụng đói, chừng nửa tháng bụng tiêu!
    - Trái chanh non: bằm nát chung quanh cả vỏ, vắt lấy nước bỏ đường uống lúc bụng đói trị ung thư gan mới phát, nửa tháng có tác dụng, dùng đến khi xét nghiệm lại hết hẳn mới thôi!
    - Hạt cây đậu ma (còn gọi là cây sục sạc): Loại hạt sử dụng trong gói trà thanh nhiệt (không kể hoa hòe, cam thảo). Dùng lâu dần trị được chứng tâm phiền, não nhiệt, làm dịu mát cơ thể, chữa thần kinh suy kiệt (stress), ngủ an giấc không mơ ác mộng, tay chân hết run. Sử dụng liên tục cả đời đều tốt, (cần sao hơi cháy mới nên thuốc).
    - Cỏ mực: Người nóng nhiệt nấu nước uống, trẻ nóng sốt cao vắt nước cho uống hạ nhiệt mau hơn thuốc tây. Trị đau nhức khắp mình mẩy, tay chân rũ liệt trong bệnh cảm, trúng gió lấy cỏ mực nấu nước uống thì hết!
    - Lá giấm: Bó gân, xương - thông tiểu tiện, viêm đại tràng, táo bón - hơ lá cho nóng già áp lên chỗ viêm vài lần trong ngày, bất cứ sưng nhiệt hay mụn nhọt đều hạ rất nhanh! Bong gân đau xương hơ nóng lá đè lên chỗ đau 2, 3 lần trong ngày, chỉ 2, 3 ngày thì khỏi - tiểu không thông, táo bón, viêm đại tràng nấu nước uống (trái lá đều dùng được)
    - Hoa quỳ (dã quỳ): Trẻ bị huyết vận vò nát đắp lên khắc tan trong 1 tiếng đồng hồ. Hoa quỳ (cánh hoa) trị chứng sốt khát nước, nóng tiểu rát, viêm phần phụ của đàn bà, viêm đường tiết niệu, tuyến tiền liệt của đàn ông. Cánh hoa chưng cách thủy vơi đường phèn uống thì khỏi -
    Đoạn sau này tôi xin kể cho bạn đọc biết những loại thuốc, cây lá mà Thầy Hải Thượng đã dạy cho tôi, để các bạn nghiên cứu lại cho có hệ thống...
    - Buổi trưa mùa hè nóng bức đến như muốn nổ tung cả người, tôi gần như phát điên, thầy Hải Thượng về, đứng ngoài sân nói: “Thuốc đây sao không biết dùng”! Thầy cúi xuống, tay nâng cành lá cây móng tay: “cả cây đem vô rửa sạch nấu nước sôi để lửa riu 15 phút, uống lúc thuốc còn ấm thử coi sao”. Tôi làm y, chỉ 15 phút sau khi uống cả người mát dịu, cơn nóng sốt bay đâu mất!
    - Sau nhà tôi có cây cà ri, lá nó vò trong tay ngửi rất thơm! Cây có trái be bé màu xanh, chín đỏ mọng, vị ngòn ngọt trẻ con rất thích - có lần tôi đang đứng sau vườn ngắm trẻ đua nhau hái trái ăn. Thầy về rầy: “Nếu không sử dụng thì chặt bỏ nó đi, kẻo trẻ con ăn nhiều sẽ bị ngộ độc đấy”. Thế là tôi chặt cây bỏ, không dám để lại!
    - Thầy dạy: Lá cây cỏ xước, đem rửa cho hết lông tơ đi rồi vò nát đắp lên bướu cổ, bướu sẽ tiêu dần…
    - Có bệnh nhân đau cột sống lâu ngày, chích thuốc giảm đau mãi rồi hư thận, nước tiểu tự động chảy ra, người chỉ còn 37 kg, BV trả về!
    Tôi chữa trong 2 tháng thì hết hẳn mọi triệu chứng. Kèm theo Thầy cho uống các loại thuốc sau:
    - Đầu tiên uống 7 thang thuốc có 5 vị: sen, cỏ xước, cây đau xương, râu bắp, thiên niên kiện. Uống sau 1 tuần thì đi tiểu bình thường và giảm đau...
    - Uống hết 7 thang thuốc, thầy cho ăn 10 trái cật heo (3 ngày 1 trái): Đậu đen ngâm qua đêm nấu gần chín nhừ bỏ vào giữa trái cật (khi đang còn nóng), chưng cách thủy chín chấm muối mà ăn, chưng lạt không nêm nếm - thuốc này để trị thận hư!
    - Sau đó thầy bảo mua 500gr táo tàu đen, cách 1 ngày mua 1 trái dưa hấu nhỏ cắt mặt khoét ruột đủ bỏ vừa 50 gr táo vào đậy nắp lại chưng cách thủy, đợi táo vừa mềm nhừ đem ra ăn cả táo lẫn ruột dưa...
    Ay thế mà bệnh nhân hết bệnh, hai tháng sau BV xét nghiệm lại, các chức năng gan thận hoàn toàn trở lại bình thường và cột sống hết đau!
    * Có một loại thuốc quý, rẻ tiền mà ít ai biết: trà khô - Thầy dạy và tôi chỉ lại cho rất nhiều người, kết quả “tuyệt vời”!
    - Đau nhức, bong, sưng, trặc, do viêm khớp hoặc sang chan, vết bầm tím do tụ máu: lấy 1 nắm trà khô bỏ vào bát, đổ nước sôi lấp xấp, đậy kín như trà uống, 5 phút sau bọc vào túm vải chườm nóng, đồng thời xoa xát nhẹ lên chỗ đau, kết quả ngay tức thì! Thầy còn dặn một điều cơ bản mà ít ai biết: trong đa số các loại đau nhức không bao giờ được bóp mạnh tay, sẽ viêm đau nhiều hơn vì lúc đó thần kinh, mạch máu và cơ bắp đang căng - Chỉ nên xoa xát hoặc day nhẹ nhàng để dẫn lưu máu huyết và thần kinh mà thôi!
    - Viêm họng: Nước trà đặc, bỏ muối mằn mặn như nêm canh để trong bình thủy giữ nóng, ngậm “khò khò” trong cổ họng rồi nhổ bỏ, giảm đau rát ngay tức thì - Độ chừng 2 giờ đồng hồ ngậm súc miệng 1 lần, bao giờ hết viêm thì thôi!
    - Hàn thấp, thần kinh tọa: 1 nắm cứng trà nấu nước sôi vài dạo (bỏ thêm 2 muổng canh muối). Cho một nửa vào thau, pha thêm nước nóng, ngâm 2 chân tới mắt cá! Nước phải nóng già (độ nóng làm đỏ da mà không phỏng). Nước bớt nóng châm thêm nước trà ngâm chừng 15, 20 phút, đồng thời 2 tay cào, xoa nhè nhẹ 2 bàn chân để rút hàn khí và dẫn lưu khí huyết. Chỉ 2, 3 hôm là 2 chân nhẹ nhàng, đỡ mỏi, đỡ lạnh…
    Thầy còn nhắc kỹ điều này: những người bị phong hàn, thần kinh tọa luôn luôn chân đi phải cách đất, dù nền gạch hoa cũng vậy, luôn phải mang dép trong nhà, nếu không bệnh thần kinh tọa không tài nào chữa hết được!
    - Tôi có người anh kết nghĩa được ai đó tặng cho 2 chậu cây Hoàn ngọc và cây Xuân hoa (gọi chung là Hoàn ngọc lá lớn, Hoàn ngọc lá nhỏ) đem về không dám sử dụng, tôi chiết giống đem về trồng cũng để đó chẳng biết làm gì (thời gian này cây Hoàn ngọc chưa biết công dụng và chưa được phổ biến rộng rãi, chỉ dùng theo kinh nghiệm dân gian)
    Thầy Hải Thượng về bảo: Thuốc quý đây con, thầy dạy con cách sử dụng nghe!
    Viêm họng: hoàn ngọc lá nhỏ (nam thất nữ cửu) dùng lá hoặc đọt non cũng được, nhai nuốt nước để trôi chầm chậm qua cuống họng, kết quả tức thì!
    Tôi đã dùng cho nhiều người, đều khỏi. Có điều mụn lỡ trong miệng phải nhỏ nước thuốc đặc vào đúng chỗ lở thì tác dụng giảm đau liền, nhai có nước bot tác dụng chẳng bao nhiêu! Có lần tôi bị té quỵ trầy sướt đầu gối, làm độc viêm và sưng mũ, tôi lấy lá giã đắp lên, 1 tiếng đồng hồ sau viền đỏ viêm chung quanh vết thương hạ xuống, chỉ 4, 5 hôm là khỏi hẵn! Điều kỳ diệu là vết thương ngay đầu gối thường lâu khỏi vì nằm ở chỗ co duỗi chân, nay nước lá hoàn ngọc có tính năng tạo đàn hồi, làm cho da non không bị tổn thương khi co giản…
    Bản thân tôi có nhiều kinh nghiệm điều trị bằng lá hoàn ngọc rất tuyệt vời, nhờ Thầy dạy, thầy còn dạy tôi cách chế biến và ngâm rượu 2 loại hoàn ngọc khác nhau: Lá lớn thì tẩm nước cơm vo, lá nhỏ ngâm với gừng... cách sao tẩm công phu và tác dụng điều trị thì “khỏi chê”!
    Rượu hoàn ngọc lá lớn để trị bao tử và huyết áp, các bệnh về đường ruột...
    Hoàn ngọc lá nhỏ công dụng nhiều hơn, ngoài trị các chứng như trên còn sát trùng, giảm đau, tiêu viêm...
    Rượu hoàn ngọc lá nhỏ dùng trị đau bụng cấp tính, đau bụng gió, tiêu chảy, viêm đường ruột, đại tràng, nôn mửa...xoa ngoài giảm đau, tiêu viêm, thông khớp, chữa bong, sưng, trặc, bầm tím, tụ máu...kết quả thấy chuyển ngay sau lần đầu tiên sử dụng!
    Thế nhưng, cho dù thầy giỏi đến thế nào cũng không chữa được bệnh cho tôi. Khi tôi đau dữ xin thầy về, thầy chỉ đứng nhìn buồn rầu rồi nói: “Thầy xin lỗi, thầy không chữa được bệnh cho con” rồi thầy quay lưng đi. Tôi chẳng dám trách thầy nhưng lòng tôi đau đớn lắm...
    Ngay cả các con tôi, tôi cũng không chữa được bệnh cho chúng. Khi con tôi bệnh tôi chỉ có đưa đi bác sĩ. Định mệnh gì mà nghiệt ngã đến thế này?
    Về sau, từ khi tôi học thêm về nhân điện, tôi mới chữa được bệnh cho con của mình, cũng có lúc được, lúc không (từ năm 1999)

  11. #11

    Mặc định

    15. THƠ VĂN KHUYẾN ĐẠO

    Giờ, để thay đổi không khí, tôi xin chép lại vài bài thơ văn khuyến đạo của “Điển ông”. Những bài này là Điển cầm tay tôi chép lại, không hề sửa chữa, bôi xóa gì - Khi viết xong, ông hay đề thêm câu: “Huệ nghiêm chấp bút”.
    Thơ của Phật Bà thì đề : “Huệ Minh chấp bút”, còn Nam Hải Liên Hoa thì đề “Nam Hải Liên Hoa ứng tặng.”

    NHŨ BẠN

    Cõi đời trải có bao lăm
    Chiêm bao tỉnh mộng trăm năm thẫn thờ
    Công hầu khanh tướng _ ai ngờ!
    Giàu sang vinh hiển bụi bờ vong thân
    Người ơi, một kiếp phù vân
    Đắng cay nhục thể, muôn phần ai hay
    Để rồi nằm xuống trắng tay
    Cuộc cờ sinh tử ai bày thế nhân?
    Sông Mê chèo mãi không cùng
    Thuyền nan phận mỏng e chìm giữa khơi
    Chắp tay mà khấn bên trời
    Mâm cao lễ vật, cỗ đầy thức xin
    Xót xa hai chữ nhân tình
    Những mong đút lót phận mình an khương
    Tượng thờ vàng thiếp son sơn
    Lọng che sáo phủ, e còn chưa nguôi
    Trên cao trông xuống nực cười
    Bụt đất tượng gỗ cả đời lạy van
    Mẹ cha hất hủi bên đàng
    Tiếng kêu đồng loại chẳng màng tâm hao
    Ai thương, ai lụy, ai sầu?
    Mấy ai tỉnh mộng bên cầu oan tương
    Bắt tay, khuyên lấy bạn đường
    Nẻo về xa lắm sao còn phân vân...

    Huệ Nghiêm chấp bút!
    17/5/1991

    KHUYÊN AI

    Xa Luân pháp chuyển dời tứ hải
    Cõi trầm luân thập loại u mê
    Đón người mấy nẻo đi về
    Từ bi _ Phật độ hồn mê giữa đời!

    Mấy ai biết thế - gian - vạn - hữu
    Ai tỏ tường Tứ - đại - giai - không
    Làm người giữa cõi trầm luân
    Tử sinh còn động, lòng trần còn xao!

    Tâm còn động thì thân chẳng tịnh
    Hồn còn mê, xác ấy tỉnh sao?
    Liên hoa – Sen chốn bùn nhơ
    Mà trong trắng mấy ai ngờ, ấy duyên!
    Nầy chân lý phá Mê, khai Ngộ
    Thương thế nhân Phật trợ hồn mê
    Đoạn lìa đau khổ – hướng về
    Đạo Tràng – mai hậu còn nhờ thân sau
    Nẻo đường chân lý dài lâu
    Hào quang Vĩnh cửu, tỉnh mau hỡi người!

    Rằm tháng tư – chín hai
    Huệ Nghiêm chấp bút!



    NGỘ

    Phòng trung khởi lệ – đoạn trường sa
    Trọng giang hí thủy lộ thu ba
    Nguyệt lãm thi đề vi nhất dạ
    Vụng khởi – tâm sầu bán tự đa!
    Bạch lão phi vân trùng tuyết ngạn
    Bỉ tâm cô sự lãnh vi hòa
    Thế hạ miên trường sinh bách nạn
    Sử nhân mặc khải, ngộ Long Hoa!

    1/1/2001
    Huệ Nghiêm chấp bút!

    SUỐI NGUỒN HẠNH LẠC

    Nếu ở chốn Thiền môn người không tìm được cứu sinh – thì hãy can đảm rời đó mà đi, can chi phải chôn thân ép xác mình – để cho tháng ngày trôi qua ngoài cửa, luống phí một đời! Hãy mặc chiếc áo người đời đang mặc, ăn món ăn mà đời đang ăn, mang đôi dép đời đang mang – và đi con đường mà mọi người đang đi đó! Hãy cúi xuống nhiều hơn ngẩng lên và hãy dừng lại, cho dù trong lúc đang muốn tiếp tục ra đi!
    Hãy nâng lên bàn tay mình những sinh linh đang khó ở và hoạn nạn. Hãy che chở cho họ, dìu họ bước đi cùng ta – và hãy rời họ khi nào họ không cần ta nữa! Người sẽ làm được nhiều hơn hết thảy những kẻ khoác áo thiền môn để trốn tránh sự đời, sẽ cởi bỏ được gánh nặng phiền muộn ưu tư đang lưu giữ trong lòng mình khi để tâm vì người khác.
    Mỗi giọt mồ hôi, mỗi giọt lệ và thậm chí một giọt máu đổ ra vì tha nhân còn đáng giá hơn ngàn vạn câu kinh người tụng niệm miệt mài mà không hiểu hết nghĩa từ.
    Mỗi giờ khắc bỏ ra vì người khác là giờ khắc bội thu mai sau. Thượng Đế có mặt bên bạn khi bạn quên mình vì tha nhân. Và những Thiên thần chúc phúc cho bạn trên những bước đường bạn đi qua. Những đau khổ bất hạnh hiện kiếp rồi sẽ không còn – và cơ duyên bình an hạnh lạc sẽ tự tìm đến!
    Hãy đón lấy ngọn gió xa đã khởi đi từ sau những vòm lá biếc dưới cội Bồ đề mang theo tấm lòng của đấng cứu thế từ bi!
    Hãy ban phát như ta đã từng được nhận! Hãy yêu thương như ta đã từng được yêu thương – và hãy nhóm lên ngọn lửa từ ái trong lòng nhân thế vốn đã từ lâu chai mòn bởi lòng vị kỷ. Ngọn đuốc Huệ hãy còn kia, và vẫn lặng lẽ cháy sáng qua biết bao nhiêu thăng trầm cuộc thế, màu hư linh vẫn còn mang!...
    Nào! Hãy đứng lên và hãy dấn bước ra đi, bước dấn thân cũng là bước tìm về. Đừng ngồi đó mà chờ đợi! Sẽ chẳng tìm thấy đâu một góc thuyền Bát nhã bập bềnh trôi trên sóng nước luân hồi…
    Hãy tự mình nương cậy vào mình, tự mình chèo chống và dìu đỡ mọi người trên bước đường tìm về khởi thủy. Hoa Vô ưu rồi sẽ nở tự nguồn cội úa tàn, và người sẽ thấy mình như sống lại, tươi trẻ – khát khao và rạo rực, sự khởi phát của nguồn suối thanh tân, an lạc và viên mãn đời đời!!!...

    Huệ Nghiêm chấp bút!
    22/07/2005

    LÒNG YÊU THƯƠNG

    Cuộc đời quá ngắn – thế mà con người ta có dư thời gian để thù hận, trong lúc chỉ có rất ít ngày tháng để yêu thương - có phải ngọn lửa của lòng vị kỷ dễ nhen lên và bùng cháy hơn là suối nguồn tuôn chảy từ mạch sống dịu dàng?
    Con người ta bận tâm đến xem mình đã đánh mất những gì, hay bị người lấy cắp bao nhiêu – mà quên đong đếm xem ta đã mang cho nhân chúng được gì!
    Loay hoay với những toan tính, so đo người ta quên mất tháng ngày trôi qua ngoài cửa, mùa xuân đã rời đi – và buổi chiều định mệnh sắp về…
    Đến khi gối mỏi chân chồn, mắt mờ tay run – người ta mới giật mình ngoảnh lại, và vụng về làm sao với những bước đi khập khiễng ban đầu: người ta đi chùa cầu phước, cúng bái và bố thí, thi ân như chuẩn bị để mua một chiếc vé đi qua ngưỡng cửa vĩnh hằng - mau lên kẻo không còn kịp, nhanh lên kẻo ngày sắp tàn rồi!...
    Người ta dè dặt mở hầu bao, rón rén nhấc lên từng đồng xu tích cóp, nhặt nhạnh và hãnh diện để rơi vào bàn tay đang xòe ra của người hành khất, hoặc đèn nhang bạc lễ đến dâng mình ở cửa Phật từ, nơi mà cả một thuở hoa niên họ đã từng đi qua không hề ngoái lại! Rồi người ta trở về nhà, ngủ giấc ngủ ngon, mơ thấy từ những đồng xu của mình – cây Định Mệnh mọc lên xanh tươi và vươn ngọn tới bầu trời Vị Lai ngập tràn ánh sáng. Đó cũng là một hạnh phúc: hạnh phúc với những giấc mơ, phải không các bạn!?
    Còn chúng ta – mang trong người niềm ân cảm sâu xa đối với cuộc sống, với những gì mà chúng ta có được quanh mình: một tiếng chuông nhà thờ gióng giả kêu gọi, một sắc màu tươi thắm của cánh hoa vô danh ngoài ngõ, một nụ cười cảm thông hay một tiếng chim gù… Một thoáng mây trắng lãng du cuối chân trời vô định, một cốc nước mát buổi trưa hè hay một chút hương xa…
    Một cánh bướm chập chờn bên cửa, hay một bờ cỏ xanh êm dịu dưới bàn chân… Thãy thãy đều như muốn nói lên rằng: chúng ta đang hạnh phúc biết bao với những gì mà thiên nhiên hào phóng tạo tác và ban tặng – thế thì… sao chẳng mở rộng lòng mình, để thấy gần gũi và yêu mến hơn vạn vật chung quanh – để có thể nâng lên từ trong lòng tay một cành hoa gãy dập đêm qua vì mưa bão, vuốt ve một đứa trẻ xa lạ kêu khóc bên hè, có thể dìu đi một người vừa té ngã, hay kề vai chia bớt một chút gánh nặng của kẻ lạ qua đường - có thể cho người đang đói một vốc cơm nguội, cho kẻ khát một ngụm nước trong, cho người rách rưới một chiếc áo, cho kẻ yếm thế một lời động viên, cho kẻ đang buồn một câu an ủi… Những điều đó hoàn toàn có thể, phải không các bạn?!
    Và… hãy thương yêu nhau đi, để rồi mốt mai định mệnh có làm xa nhau người ta không phải ân hận rằng đã không trao tặng cho nhau những gì mình có thể – Bởi vì “cho là nhận” đó mà!...

  12. #12

    Mặc định

    Ta là Thái Thượng Lão Quân – Hiệu Phổ Am Thiền Sư, Lý Bá Chánh danh” PB nhờ ta truyền phép điểm huyệt, bấm huyệt cho con. Gọi ta bằng Thầy nghen!”

    Thực sự đọc Huyền môn lược ký của Tu Tam rất hay, mộc mạc nhưng cũng rất sâu sắc nên tôi cũng đọc hết không sót phần nào vì do hiếu kỳ, do ham học hỏi để được mở rộng tầm mắt, do lối hành văn mộc mạc mà hấp dẫn, thuyết phục của Tu Tâm nhưng có điều mình là người Bắc nên có chút thắc mắc một điều nho nhỏ là : Như câu trong ngoặc kép mạn phép trích dẫn bên trên thì Thái thượng lão quân là người miền Nam??? "Nghen"... Mong được giáo hóa !
    Trân trọng !
    Đức thừa tiên tổ thiên niên thịnh
    Phúc ấm nhi tôn bách thế vinh.
    [ĐÀO TỘC]

  13. #13

    Mặc định

    Trích dẫn Nguyên văn bởi Crv3979 Xem Bài Gởi
    Ta là Thái Thượng Lão Quân – Hiệu Phổ Am Thiền Sư, Lý Bá Chánh danh” PB nhờ ta truyền phép điểm huyệt, bấm huyệt cho con. Gọi ta bằng Thầy nghen!”

    Thực sự đọc Huyền môn lược ký của Tu Tam rất hay, mộc mạc nhưng cũng rất sâu sắc nên tôi cũng đọc hết không sót phần nào vì do hiếu kỳ, do ham học hỏi để được mở rộng tầm mắt, do lối hành văn mộc mạc mà hấp dẫn, thuyết phục của Tu Tâm nhưng có điều mình là người Bắc nên có chút thắc mắc một điều nho nhỏ là : Như câu trong ngoặc kép mạn phép trích dẫn bên trên thì Thái thượng lão quân là người miền Nam??? "Nghen"... Mong được giáo hóa !
    Trân trọng !
    Chào bạn, xin được đính chính, Huyền Môn Lược Ký không phải của Tutam đâu, mình chỉ là người thay mặt cho cô Nguyễn Thị Thanh Lan là tác giả đăng lên thôi. Còn vấn đề bạn thắc mắc theo mình hiểu đó là do cách diễn đạt lại theo giọng miền Nam của cô Lan nghe cho nó gần gũi thôi bạn ạ.

  14. #14

    Mặc định

    ".... Mỗi giọt mồ hôi, mỗi giọt lệ và thậm chí một giọt máu đổ ra vì tha nhân còn đáng giá hơn ngàn vạn câu kinh người tụng niệm miệt mài mà không hiểu hết nghĩa từ...."

    Mình thích nhất lời dạy này của ngài Thích Ca, phá tan cái chấp vốn làm người ta u minh, suốt ngày tranh cãi đạo anh xấu, đạo tôi tốt, mở miệng ra là dẫn kinh thư trong khi cái điều thực hành bác ái tưởng như đơn giản nhất chẳng có mấy ai đấu tranh với chính bản thân mình.

  15. #15

    Mặc định

    16. LIÊU TRAI (4)

    * Vào đầu tháng 7/1991, gần sạp báo của tôi có 1 tai nạn xe cộ: hai người thanh niên say rượu chạy xe máy đâm vào 1 chiếc xe ngựa chở cỏ, càng xe bịt đồng đâm lủng bụng và gảy nằm luôn trong đó. Xe cấp cứu đưa tơi bệnh viện - Ngay lúc đó tôi cầu xin Ơn trên cứu cho người bị nạn...
    Nửa đêm đang lúc “lơ mơ” sắp ngủ, tôi thấy mình xuất hồn vào bệnh viện. Bước vô tiền sảnh tôi thấy tấm bảng ghi tên BS trực ca ngày, đêm, và tên y tá, hộ lý đàng hoàng bằng phấn trắng - “Điển ông” đưa tôi vào phòng cấp cứu, tới bên giường giở tấm ra phủ tôi thấy xác người Nam đó đã chết rồi! Tôi thét lên một tiếng, tông cửa chạy mất!
    Quả nhiên, ngày hôm sau có tin người thanh niên bị nạn đã chết vì vỡ lá lách.
    Sau đó 1 tháng (vào tháng 7 AL) mưa dầm dề cả ngày đêm. Độ 6, 7 giờ tối tôi đang ngồi trong sạp báo nhìn ra, sực thấy hồn cậu thanh niên chết ngồi gục đầu, đúng ngay cửa tiệm may, nơi bị xe đụng chết. Lúc đó, tôi mới tin lời truyền miệng của ông bà xưa: Chết vì tai nạn xe cộ cũng như chết dưới nước, ở đâu thành cô hồn ở đó, không được về nhà, chờ cho đến khi bắt được người thế mạng mới được rời đi!
    Đêm đó, tôi làm bài thơ “Điệu buồn tháng bảy mưa ngâu”, xin chép lại cho bạn đọc nhé!

    ĐIỆU BUỒN THÁNG BẢY MƯA NGÂU

    Đèn vàng nhạt nhòa mái phố
    Mưa qua hiu hắt từng cơn
    Bóng ngã gục đầu trong gió
    Về đâu – lạnh lẽo hương hồn?

    Cửa khép – nhà xưa bỗng lạ
    Bạn quen còn có ai đâu
    Còn chăng nấm mồ vô chủ
    Quạnh hiu ngọn cỏ mai sầu!

    Trời cao động lòng trắc ẩn
    Mưa buồn, mưa mãi từng cơn
    Làm sao giúp người lận đận
    Có ai mở cửa Thiên đường?

    Địa ngục cũng không, Người ạ!
    Số chưa phải số thì thôi
    Lang thang cuối trời quạnh quẽ
    Rồi về chốn cũ đợi ngày...

    Nơi chết xin làm nơi ở
    Đây thôi – còn biết đi đâu
    Gục đầu đếm ngày giông bão
    Điệu buồn tháng bảy mưa ngâu!

    Tỉnh mộng người ơi, kẻo trễ
    Công hầu, Khanh tướng mà chi
    Nằm xuống – mộ phần vô chủ
    Một nắm cỏ khâu xanh rì!

    Chi bằng tu nhân tích đức
    Nhờ đèn Từ rọi hồn mê
    Tháng bảy, vài hàng cảm tác
    Tri âm – xin bắt tay thề!

    Diệu Thiện

    * Có một người phụ nữ độ 25, 27 tuổi – nhà ở tận Củ Chi, có căn cậu Trạng 6 tuổi về theo! Thỉnh thoảng lại đi bộ từ nhà xuống chợ Hiệp Thành, lang thang khắp nơi, phán bảo đủ điều tùy hứng! Có lần bà D kế bên rủ tôi: “Trạng đang về bên nhà chị Hồng – người đến xem đông lắm, chúng ta sang đó coi đi”. Tôi tò mò cũng đi theo – lách qua đám đông, tôi vào ngồi ở 1 góc phản gỗ ở phòng khách…
    Lúc đó xác Trạng đang khấn khứa ở phòng khách, bỗng nhiên quay lại nhìn tôi và nói: “Có căn sao không về nói chuyện chơi” – Tôi cười bảo: “Biết gì đâu mà nói”: “Không nói ta làm cho nói” - Đoạn đưa tay ngắt 1 bông hoa vạn thọ đang chưng trên bàn thờ nhúng vào ly nước cúng vẩy vào mặt tôi, lầm rầm xin gì đó! Ông nói trong đầu “Vào chơi nhé!” Tôi “ừ” xong leo tuốt lên giữa bộ ván ngồi xếp bằng trông oai lắm...
    Xác Trạng ngẩn nhìn một lát, rồi chắp tay vái lia lịa: “Ông tha cho con, tha cho con”. Xong leo lên ván nằm vùi trong lòng tôi, nói giọng nũng nịu: “Ong tha cho con, đừng bắt con về tội lắm. Con chỉ ham chơi chút xíu con về hà! Ong ứng hỏi, xác nói: “Con 6 tuổi, con trốn đi chơi 2 năm rồi” – Tự nhiên cũng vui chuyện, ông không rầy rà gì xác Trạng, quay qua xem số cho hết người này đến người khác, cuối cùng không phải Trạng nói mà là ông nói...
    Tôi chỉ nhớ 1 việc mà sau này ứng đúng như vậy! Ông chỉ chị Hồng nói: “Ráng mà ăn chay niệm Phật cầu xin đi! Thằng con trai độc nhất của cô hơn 1 năm nữa thì chết đó”
    Mỗi lần “Điển” về phán bảo những điều như vậy, tôi thường rất lo sợ, sợ người ta mắng mình ác miệng rủa họ - Vậy mà đúng! Hơn 1 năm sau một buổi chiều nọ tôi đang ngồi trong quầy báo, kế bên có 1 thùng thư của bưu điện. Một cô gái bỏ lá thư bào thùng rồi đi, lá thư còn thừa ra 1 góc! Bé Tín (con chị Hồng) lúc đó chừng 12, 13 tuổi đi qua đường, vừa đi vừa ngoái lại nhìn và cười. Một chiếc xe máy phóng nhanh trờ tới đụng “rầm” một tiếng. Thằng bé lăn ra đất dãy lên đành đạch như cá bị đập đầu...
    Một tháng rưỡi sau cậu bé sống, đưa về! Bà ngoại (Mẹ chị Hồng) kể: “Đưa xuống BV Trưng Vương cấp cứu một hồi nó tắt thở, BS rút ống thở ra, tôi không chịu vác lên vai kêu xe chạy qua BV Chợ Rẫy, mới cứu được nó”. Vậy là phúc nhà vẫn còn... Thằng bé bị vỡ mất một mảnh xương trán, đến giờ hãy còn mềm phập phều, về sau tâm thần có hơi bất ổn một chút! Bà ngoại và Mẹ cậu bé từ đó hay ăn chay và thường xuyên đi chùa để tạ ơn!
    Có điều lạ ở tôi là các phần Điển không bao giờ tự động về nhập xác, chỉ khi nào tôi đồng ý hoặc cầu xin thôi! Nếu Điển tự về mà tôi không muốn, sẽ trụ lại trong đầu xoay tôi chóng mặt một hồi rồi tan chứ không ép buộc - Và khi Điển nhập vào rất nhẹ nhàng, không bị ợ ngáp, múa may quay cuồng hoặc cướp cái thần của xác để ứng về trong xác mê! Với nhiều người khác khi Điển về hành nhiều lắm, và khi Điển xuất ra xác ngã vật ra sau bất tỉnh độ chừng 1 phút, sau khi tỉnh lại thì rất mệt...
    Phần tôi, khi Điển về cả người nóng ran lên, phần da ở đầu và cổ đỏ rần, chỉ nghe choáng váng một chút thôi, khi hồn xuất ra cũng nhẹ nhàng và hoàn toàn bình thường như không có gì!
    Những lúc như vậy tôi thấy linh hồn mình ngồi ra một góc, Điển phán bảo gì hồn nghe cả, sau kể lại chẳng sai 1 chi tiết nào! PB bảo: “Căn nhà Phật là căn tỉnh nên khi nhập căn thì tỉnh táo vậy đó”.
    Và thêm một điều lạ nữa là trong tôi có thể nhập về hai ba phần Điển cùng một lúc, ngay cả linh hồn tôi cũng có mặt giữ quyền tra xét, giải thích, cầu cứu, quyết định...
    Linh hồn tôi ngồi nghe tất cả, thỉnh thoảng xen vào góp ý kiến hoặc cầu xin Ơn Trên ứng cứu cho hồn ai đó...y hệt như người đóng 2, 3 vai trong một bộ phim lồng tiếng: lúc thì oai nghi, khi sợ sệt cầu xin, khi bướng bỉnh lúc lại dọa nạt, van cầu...Giọng thay đổi tùy theo phần nhập, cho đến khi giải quyết xong mọi việc mới thôi!
    Trong lúc Điển về hành xử, hồn và xác của tôi luôn luôn là người chủ trì, Điển trên chỉ làm theo lời yêu cầu của tôi và chính tôi phải là người động não, “tùy cơ ứng biến” y hệt như vị Quan tra án ở Công Đường. Điển trên chỉ là “phương tiện trợ cứu” mà thôi!
    Tôi thường nói vui với mọi người: “Tôi chỉ làm Quan tắt, tự điều tra, phá án, ra quyết định rồi trộm con dấu đóng cái “cụp” là xong, chứ có được học tập, rèn luyện bao giờ đâu!” Phải tự mình suy nghĩ tìm cách rồi linh động mà hành xử, những lúc ấy, đầu tôi căng lên như muốn nổ tung, phải khéo léo và cẩn trọng, không thể chuyên quyền, áp đặt hay dọa nạt, lợi dụng Phép Ngôi cao mà khống chế Am phần. Luôn phải giữ đúng lương tâm và đường lối của nhà Phật: “Từ Bi Hỉ Xả”, độ lượng khoan dung và từ ái, phải xử cho công bằng và hợp lý, sao cho muôn người vạn loại phải “tâm phục, khẩu phục”! Và tôi luôn làm được điều ấy trong suốt 22 năm qua, chưa bị khiển trách lần nào...
    Để rồi sau những lần “phá án” cam go, tôi như quả bóng bị xì hơi, lơ ngơ lẩn ngẩn y hệt “thằng khờ xuống chợ” vậy!
    Và tôi phải cảm ơn sự “khảo đảo” trong ngần ấy năm của PB, để tôi trở thành người “giỏi ứng biến" như bây giờ...
    Suốt từ những ngày đầu tiên đến nay, “Điển ông” không ra mặt hành xử, nhưng tôi vẫn biết Ông ở bên tôi và lặng lẽ trợ cứu khi tôi lâm nạn. Những quyết định đột xuất của ông lắm lúc làm tôi phát điên lên được, nhưng chả lẻ cãi lại trước mặt mọi người sao! Ông rộng lượng và bao dung, thấy ai cũng muốn cứu, nhưng “cứu người thì ông cứu, bị đòn tôi lại bị” mới kỳ chứ! Khi bị “hành trả nghiệp” đau đớn quá tôi khóc lóc và trách cứ đổ tội cho ông và kiếm chuyện làm nư đủ kiểu...Những lúc như vậy ông im lặng chịu trận, không giải thích gì cả, tôi lằng nhằng quá thì ông biến mất, bao giờ tôi hết kiếm chuyện ông lại trở về...
    Có điều bất bằng nữa là ông không bao giờ “vẽ đường chỉ lối cho tôi”, và khi tôi đau ông chỉ im lặng! Tôi có năn nỉ ông góp ý về việc gì đó ông lại bảo: “Tùy em, em làm sao cũng được”
    Ông hiền lắm, suốt 22 năm nay ông chưa lần nào mắng mỏ hay nặng giọng với tôi, mặc dù lúc đau bệnh tôi “nghịch thường hết biết” có lẽ ông thương tôi phải chịu đòn oan...
    Nhưng điều đáng sợ nhất lại là “đòn cân não”: Điển thường chuyển vào bộ não của tôi những lời thô thiển, xúc phạm tôi vô cớ, thậm chí bắt chước tiếng chươi thề, nói tục của ai đó - giọng nói của người lạ như vọng về từ đâu đó nơi mù mù tâm thức...Những lúc như vậy tôi phát điên lên, tưởng có thể đập đầu vào tường cho vỡ tan đi, để không còn nghe tiếng nói vọng từ trong não mà lại nghe chừng như ở một cõi nào rất xa vọng tới. Ngày xưa thỉnh thoảng có đọc tiểu thuyết kiếm hiệp của Kim Dung, tôi còn nhớ có một cụm từ diễn tả được trạng thái này: “Truyền âm nhập mật”!
    Sau những lần như vậy, thần trí tôi gần như muốn điên lên, rất lâu sau, 10 bữa nửa tháng, vẫn chưa trở lại bình thường - Bây giờ tôi mới biết đòn “tra tấn tinh thần” đáng sợ đến thế nào!
    Qua lúc đó, ông khuyên tôi: “Khi nào em nghe từ miệng anh nói, em muốn xử sao cũng được! Điển đưa vào thần trí của em để thử thách em, xem như hành trình tu tập vậy. Em còn để tâm nghe và giận thì còn bị dài dài. Điển rèn luyện chữ “nhẫn” và đức “xả” cho em đó thôi!
    Trời đất, tôi vẫn là “người trần mắt thịt” cơ mà! Có câu châm ngôn của ai đó: “Người ta nhổ vao mặt kẻ hèn nhát, hắn nói: trời mưa”, tôi mà là kẻ nhu nhược, yếu hèn sao!? Thế là tôi “quậy tới bến”…
    Càng quậy càng bị đòn đau, càng đau càng quậy, lại đau! Đến lúc tận cùng của sự chịu đựng, tôi khóc thê thảm một lần, khóc đến lạnh ngắt tay chân, khóc tưởng đứt từng đoạn ruột - Thế là sáng hôm sau... hết bị đòn!
    Mọi cái đau đớn biến đi đâu mất, cứ như một trò đùa - khi nó đã qua rồi, tôi không tài nào có thể tưởng tượng ra cơn đau ấy nặng tới chừng nào. Cứ như người ngủ mê mơ một cơn mơ dử, tỉnh ra thấy mình nằm trên chăn êm nệm ấm và giấc mơ không còn nữa...
    * Có lần tôi vừa đau vừa quậy trong nửa tháng trời như vậy. Đến một đêm đang nằm mê mê trên giường nghe tiếng ông nói, mở bừng mắt ra, tôi thấy ông đang đứng chắp tay cầu xin tất cả các cõi Trời, Phật hỗ trợ cho ông hiện nguyên hình Tất Đạt Đa Hoàng Tử để tôi tin ông. Thế là tôi lại thấy các vệt sáng nhoáng nhoàng bủa xuống trên đỉnh đầu ông, sau đó hiện ra hình ảnh Tất Đạt Đa Hoàng Tử (Chỉ thấy nửa người trên) đẹp lộng lẫy, toàn thân như dát đầy vàng! Một dáng thanh niên tuổi chừng hăm ba, hăm bốn tuổi, đội chiếc mũ có ngù cao toàn bằng vàng. Hoàng Tử cười với tôi, đưa bàn tay lên chào rồi biến mất, tôi còn kịp thấy ngang cổ tay đeo 1 băng tay bằng vàng và bàn tay với những ngón thon mảnh đẹp như tay người con gái...thế là tôi hết “kiếm chuyện”!
    * Có lần cũng qua một thời gian bị đòn, và tôi đang ra sức oán thán, đổ tội cho ông. Đêm đó tôi vừa lơ mơ ngủ, chợt thấy một cảnh tượng rất lạ: có 1 chiếc bè lớn, trên đó là tất cả người, vật, nhà cửa...PB mặc áo lụa trắng, đang cố sức chống cây sào đẩy chiếc bè lớn qua sông. Dưới dòng sông ấy nước đen kịt và đủ thứ rác rưởi dơ bẩn trôi lềnh bềnh... Chỉ thấy hình ảnh đó thoáng qua chừng 1, 2 phút rồi biến mất. Tôi lại ngồi dậy khóc và xin lỗi PB với Điển ông và sáng ra...hết bị đòn!
    Đến khi nào thấy tôi đi đến tận cùng của sự chịu đựng và tuyệt vong, Bề trên lại “xả hành”! Coi như qua một cuộc tra tấn dài ngày, được cho nghỉ dưỡng sức vài hôm, để rồi lại bắt đầu một trận đòn mới...
    Thời gian càng lâu, tôi càng tiến bộ nhiều hơn - mọi việc đều xử nhanh chóng, mau lẹ! Chẳng bù với 10 năm đầu, tôi còn bị những phần âm giỏi tà phép đánh cho “xiểng liểng”, đầu váng mắt hoa, cảm giác lúc ấy y như người bị trúng gió, bước đi chỉ chực ngã té! Mặc dù lúc đó sợ đến mất hồn nhưng vốn “lì lợm” tôi chẳng chịu thua bao giờ. Định thần lại tôi cầu xin các thế lực Trên về cứu và tôi lại thắng! Những phần âm hung hãn Điển về bắt đưa đi mất, chẳng còn hại người được nữa...
    Đầu tiên, ơn Trên để cho tôi tự hành xử, đến khi nào tôi thua, tôi cầu cứu thì Trên mới ra tay ứng cứu! Những lúc như vậy tôi ức lắm, trách cứ ông đủ điều, và ông cũng chỉ một chiêu duy nhất: “Im lặng là thượng sách”
    Có lúc bị đòn nhiều quá, tôi khóc và trách PB: “Người nắm đầu con nhấn xuống bùn, đến khi nó ngộp thở sắp chết thì kéo lên cho thở vài hơi rồi lại nhấn tiếp, tại sao vậy chứ? Con có tội gì, Người nói đi”. Đương nhiên là chẳng ai thèm trả lời tôi...
    PB gánh thay cho Ông tất cả. Hễ tôi trách cứ ông là PB về nhận hết tội cho mình: “Ta làm đấy, Ông không can dự gì”. Bởi PB biết tôi rất sợ PB, Người hay dùng uy lực của mình xử ép tôi, càng cãi lại càng bị đòn thêm. Tôi ưc lắm mà không dám nói gì!
    * Có lần bị đòn nặng lắm, tôi thắp nhang xin cúng kiếu xong dẹp hết bàn thờ, tìm đến nhà Thờ xin rửa tội theo đạo Thiên Chúa. (Trong vòng 22 năm tôi đã 4 lần dẹp bàn thờ y như vậy)
    May là hôm đó Chị bạn hứa dẫn tôi đi bận việc, nếu không, có lẽ tôi đã mang toàn bộ gánh nặng nghiệp chướng này chuyển vào nhà Thờ mất rồi!
    Trưa hôm sau, độ 10 giờ sáng, đang đứng bán báo trong quầy chợt tôi thấy một chiếc xe mui trần chạy ngang qua, trên xe chở một tượng PB đẹp lộng lẫy, cao chừng 1m50. Chiếc xe như đang diễu hành qua lễ đài, chạy “xình xình” thực chậm qua khỏi sạp báo, tôi bước ra đứng nhìn thấy người phụ xế leo xuống, hướng dẫn cho chiếc xe đánh vòng quay lại, chạy qua sạp báo 1 lần nữa, xong đi xa dần rồi mất hút...
    Có điều lạ là quãng đường trước cửa sạp báo không có ngã ba hay ngã tư, cũng không thấy người phụ xế hỏi đường hay tìm địa chỉ gì. Chiếc xe đến rồi đi cứ như trong một giấc mơ...
    * Lại một lần nữa (trong hoàn cảnh tương tự) tôi chán chường ngồi lan man lật xốc mấy quyển báo đặc san. Ngay chính giữa quyển Đặc san Sân khấu có in hình Phật Thích Ca Mâu Ni thật lớn chiếm cả 2 trang báo - Cứ mỗi lần như vậy lại dường như có 1 tia chớp cảnh tỉnh trong đầu, tôi quay vào thắp hương xin lỗi PB và Ông!
    Người chẳng buồn trách tôi đâu, tôi biết - Bởi liệu có mấy kẻ trên đời này chịu làm việc trong hoàn cảnh tương tự như tôi?! Cho dầu đau bệnh đến mấy, tôi vẫn không từ chối bất cứ ai tìm đến nhờ mình giúp (cho dầu là việc gì đi nữa, tôi không xử lý được trọn vẹn thì cũng một phần) Tôi làm mọi việc chỉ vì lòng thương người, chứ không vì lợi lộc hay danh tiếng! Tôi chỉ như là một hạt cát nhỏ nhoi vô danh ở một góc đời quạnh quẽ, không tiền bạc địa vị, không hạnh phúc cũng chẳng được yêu thương... Một người đàn bà tật bệnh liên miên, thiếu thốn nợ nần như cơm bữa, cuộc sống gần như “tứ cố vô thân”, không có cả tình thương yêu của người thân ruột thịt...
    Người không thương tôi nhưng tôi lại yêu thương tha thiết mọi người...tôi yêu từ con người đến loài vật, 1 cánh hoa tàn cũng động mối thương tâm, cây cỏ dại nhổ bỏ đi lòng cũng xót. Đang đi thấy con cuốn chiếu, chú ốc sên bò ngang đường cũng dừng xe lại gắp bỏ vô lề “kẻo xe nghiến chết nó tội lắm”!
    Thấy người ỷ mạnh hiếp yếu, tôi đau nghẹn như chính mình bị xử ép vậy. Tôi không bao giờ xem các trận đấu Bò hay đấu quyền anh, không ưa coi các phim bạo lực, cũng không thích xem các trận thi đấu, bởi vì ở đó có giọt nước mắt của người thua cuộc, có nỗi đau...
    Tôi hay bị mang tiếng là “nhiều chuyện”, hoặc “ách giữa đàng lại mang vào cổ” và thỉnh thoảng cũng bị (nói vui theo kiểu dân gian) “đá giò lái” hoặc là “gậy ông đập lưng ông”. Mỗi đợt như vậy tôi buồn đến bỏ ăn, bỏ ngủ...sau đó vẫn chứng nào tật nấy, thấy chuyện bức xúc lại nhào vô!

  16. #16

    Mặc định

    17. NGHIỆP THẾ TRẢ VAY (2)

    Kể từ ngày lấy ông Hinh làm chồng, tôi thường hay có những giấc mơ lạ (hay còn gọi là “Mộng ứng”). Đa số đều khó khăn và nặng nề, về sau ngẫm lại đúng như hoàn cảnh thực. Tôi kể bạn đọc nghe nhé!
    * Tôi mơ thấy mình mặc bộ đồ lụa trắng rất đẹp cùng 2 bé Tí, Ti được ông Hinh chở bằng xe đạp (loại xe đạp thồ để chở nặng đi đường núi) đi từ cuối dốc lên căn nhà nằm cao ngất trên đỉnh dốc. Con đường vừa mưa xong trơn trợt, đầy dấu bánh xe dọc ngang - Chiếc xe đạp chở 3 mẹ con nhích từng bước nặng nề… Ông Hinh nói đùa: “Yên tâm đi, dân này chuyên đạp xe thồ mà!”. Rồi cũng lên tới dốc, vào 1 căn nhà trống, lúc đó 2 đứa nhỏ than đói bụng, ông H đi 1 vòng trở lại mang mấy trái khổ qua bảo: “Không có gì, ăn đỡ mấy trái này đi!”. Bé Tí vơ lấy, cắn 1 miếng rồi nhăn mặt vứt ra sân “Đắng nghét”. Tôi chỉ vào vách ngăn phòng khách nói: “Ngày xưa Ba xây nhà cho em có nói để của ở trong bức tường này. Ba còn dặn sau này phải tìm cây đèn nào sáng thực là sáng soi vào mới thấy được mà lấy của ra”. Không có đèn, ông H lấy cây sắt to đập mãi mà không vỡ được tường. Có thế, tôi tỉnh dậy - Quả đúng là lấy nhau khổ nạn trùng trùng, giống như người đói phải ăn trái khổ qua vậy!
    * Một lần vía tôi mơ thấy mình đang có thai, đói bụng mà không có gì để ăn! Tôi và ông H leo lên cây ổi hái trái ăn cho đỡ đói. Cây ổi chỉ co toàn trái non, đắng nghét! Ông H nhai, nhăn mặt rồi nhả bỏ! Còn tôi không ăn, nghĩ “phải trèo xuống đi kiếm gì ăn, để con mình trong bụng nó đói!”. Sực nhìn xuống, thấy gốc cây bị kẽm gai rào chắn tứ phía tự lúc nào! Tôi bươn bả leo xuống, gai quào toạc cả tay chân...
    * Tôi mơ thấy nhà mình ở cuối 1 con đường đê nhỏ hẹp. Một buổi chiều nọ tôi nhặt được 1 sợi dây chuyền thật to (của ai không biết). Nhìn tứ bề đồng không mông quạnh, tôi đem vào nhà cất định chờ mai ai tới hỏi tìm sẽ trả lại cho họ. Chẳng hiểu sao lại leo lên giường gát sợi dây chuyền lên bloc lịch treo tường rồi đi ngủ!
    Sáng ngày hôm sau, cô gái giàu có kêu căng con ông phú hộ đầu làng dẫn 1 toán lính tới nhà tôi sục tìm. Mắng tôi: “Ở đây chỉ có nhà con nhỏ này, nó lấy chứ không ai! Tao mà tìm ra tao còng đầu mày đưa lên quận nhốt cho coi”.
    Tôi ức quá không thèm lên tiếng, chúng sục sạo một hồi rồi bỏ đi mất! Tôi đi chân không, chạy riết lên Dinh Quan Huyện, vào công đường, thấy Ông đang ngồi lim dim, tôi la lên: “Anh Hai, lính nó lục soát nhà mình anh có biết hay không?” Anh nhẩn nha hỏi: “Có thấy gì không?” Tôi nói không, anh lại bảo “Thì thôi, để tâm làm chi!” Tôi ức quá tấm tức khóc, anh lại dỗ: “Đâu phải làm Quan rồi muốn sao cũng được đâu em. Cái gì cũng phải chiếu theo luật mà làm thôi”…
    * Lần nữa tôi mơ thấy bị 3 người điên đuổi đánh, chạy vòng vòng - ba tên lực lưỡng cầm roi cứ tìm tôi mà đánh, mọi người đứng xem chật đường, không ai bênh vực hay nói năng gì - Sợ chúng phá tan tủ kính, trong quầy, tôi chạy vô, bị đánh đau quá chạy lộn ra đằng sau, vía thấy nhào đại xuống hầm nước sau nhà. Nước màu đất sét dơ bẩn, đầy rác rưởi, quần áo một ôm trên tay rơi vãi lung tung...
    Ba tên điên nháo nhác đi tìm ngoài đường - bỗng nhiên có 1 người phụ nữ nhảy xuống theo, đưa cho tôi chiếc nón lá, xong vắt quần áo bỏ vào trong nón rồi ra dấu cho tôi núp sau lưng, leo lên mà chạy trốn đi chỗ khác!
    Lại thấy một Ông lớn đeo kính gọng vàng, cặp táp, giày Tây, áo veston, chừng như đang đi thị sát! Ông tới trước mặt, nhìn tôi mà chừng như không thấy, quay ra vẫy tay ra dấu nói: “Không có ở đây đâu, sang bên kia tìm đi!”. Thế là ba kẻ điên xách roi bỏ đi mất...
    Tỉnh dậy, tôi thấy mình khóc đến sưng cả mắt, cầu xin PB về hỏi: “Mấy người điên đó là ai! Tại sao họ đánh con dữ vậy?” PB bảo: “Người ta nói “họa vô đơn chí” là vậy đó con”. “Người phụ nữ và ông lớn là Phật Bà với Phật Ông phải không? Sao chẳng ai cứu con hết vậy?” PB lại bảo: “Con phải tự cứu mình, chúng ta chỉ hỗ trợ chút xíu thôi! Con phải tự chèo chống mà vượt qua sóng gió cuộc đời, con à!”. Vậy đó, mọi người khóc kêu thì Mẹ cứu, còn tôi thì Mẹ bảo phải tự chèo chống, nghĩ đáng buồn chưa?!
    * Cuối năm 1994, vào một đêm mùa đông lạnh lẽo, tôi mơ thấy một giấc mơ lạ: “Thấy mình đang đi vào 1 khu rừng nọ, đến 1 ngôi Đền để vay tiền dùm bà H (đã kể vào những đoạn trươc). Chờ mãi đến lúc trong Đền có 1 cô gái mặc bộ đồ màu trắng đi ra, cô ấy nói với tôi: “Bà ấy hết chuẩn cho mượn rồi, chị về đi, lo cho thân chị, nợ nần lung tung kia kìa!”. Nói vừa xong, thoạt thấy trong đền đi ra một ông lão phơ phơ tóc bạc mặc 1 bộ đồ trắng cũng giống cô gái kia!
    Ông cụ chân đi lửng thửng, cô gái lặng lẽ theo hầu đàng sau. Tôi cũng đi bên cạnh, lòng buồn rười rượi - Ông cụ nhìn tôi một thoáng rồi nói: “Con à, của Bề trên cho của một sinh mười, Bề trên lấy lại của mười không còn được một”.
    Tự dưng tôi reo lên: “A, con biết rồi. Hèn nào trước đây 3 năm hai ông bà ấy nghèo lắm. Nhờ ông cho mượn tiền, họ mở 1 xưởng cưa, mướn 30 người thợ, còn sắm được 2 chiếc xe máy xịn nữa! Đợt này làm ăn thua lỗ, nợ nần chồng chất - Ông mà không cho mượn nữa họ bán hết của cải chưa trả hết nợ, còn lo bị ở tù nữa à”...
    Ông cụ đi bộ dài theo con đường nhỏ bên hông ngôi đền, cô gái vẫn kính cẩn theo hầu phía sau. Dưới chân tôi lá mục rụng đầy, lẫn trong xác lá có đầy những vàng nhẫn, vòng xuyến bằng vàng ròng sáng lấp lóa... Trong tôi dâng lên lòng tham: “Chỉ cần 2 khâu như thế này là đủ cho mình trả nợ rồi!” Lại đấu tranh tư tưởng: “Không được, đây không phải là của mình, lấy là ăn cắp”. Ông cụ mỉm cười, theo dõi diễn biến trên mặt tôi, đoạn cúi xuống nhặt 1 chiếc nhẫn đặt vào lòng tay tôi, nói: “Ông cho con, để ăn dần. Mai mốt ông cho tiền trả nợ. Nhớ lời ông dặn nghe không!” - Tôi lặp lại như con vẹt rồi giật mình tỉnh giấc: “Của Bề trên cho, của một sinh mười. Bề trên lấy lại, của mười không còn được một”...
    * Năm 1994, khi tôi cấn thai đứa thứ ba 1 tháng rưởi. PB về bảo tôi: “Con làm việc cho ta 10 năm, nay Ta trả công cho con. Là đứa con gái trong bụng của con đó. Con nói trước với chồng con kẽo nó nghi ngờ: chồng con đen như cột nhà cháy, con thì nước da ngăm ngăm - Nhưng con gái của con da trắng, má đỏ, môi hồng, nó là Thánh Nữ, pháp hiệu là Minh Tâm - 13 tuổi rưởi, con nhớ nghe! Nó sẽ ra đời ngày hai mươi tám tết, con lo chuẩn bị sẵn sàng đi. Mọi đứa trẻ khác khi lọt lòng mẹ thì hồn mới nhập xác, còn con bé nhập hồn ngay trong bào thai. Trong suốt thời gian đó, nếu hai vợ chồng con có tư tưởng không tốt thì nó không ra đời.
    Ta dặn trước, nhớ cho kỹ! Đến khi đủ tuổi học lớp 1 mới cho nó vào trường, còn bé mà đưa đi xa mẹ linh căn nó sợ là nó bệnh. Đủ 12 tuổi mới tin nó là con của con nghe chưa!”...
    Sung sướng biết bao nhiêu mà vẫn bán tín bán nghi. Tôi vốn có 2 đứa con trai, giờ có con gái thì rõ là điều tuyệt vời nhất!
    Để được “điều tuyệt vời” ấy tôi phải đánh đoi một cách đáng sợ - Từ lúc có mang đến khi sinh con tôi không ăn được gì lạ ngoài cơm trắng, bánh tráng nướng hoặc nhúng chấm nước mắm với canh rau! Tất cả các loại thịt động vật không đưa vô miệng được...
    Vốn tôi đã gầy ốm (43 kg) mang thai tới khi sinh cũng có đúng 43 kg! Bệnh viện thì khám hàng tháng BS cứ chau mày, đủ thứ thuốc bổ dưỡng vẫn chẳng lên cân tí nào!
    Cái thai hành mới ghê chứ - mỗi đêm tôi nằm đau nhức rã rời, ông H phải day phần lưng mãi mới nằm xuống, ngồi dậy được!
    PB bảo cho tôi nghỉ chữa bệnh một thời gian để lấy sức cho con, thực ra là nghỉ để lấy sức chịu đòn: Hai bàn tay tôi mười ngón sưng cứng cả 10, đau nhức liên tục, ban ngày còn đỡ, đêm tới nhức cả đêm, không để vào đâu mà chịu được! Cả 2 tay đều mất cảm giác, đụng đâu rơi vở đó, rửa chén bát không còn biết sạch hay dơ; chiên xào bị phỏng hoài không biết đau đớn là gì…
    * Có thai độ 3 tháng, một đêm tôi đang nằm trên giường, thấy PB đưa về 1 bé gái độ 12, 13 tuổi, mặc áo đầm bằng voan trắng, chân cũng đi hài trắng! Con bé xinh xắn, tóc cắt ngang tai, da trắng, má đỏ môi hồng. PB bảo: “Con bé Minh Tâm đây! Mẹ con đó, chào mẹ đi”. Bé Minh Tâm nói lí nhí gì đó trong miệng, điệu còn xa lạ lắm…
    Tôi ngồi dậy ôm bé vào lòng, hỏi: “Con thích ăn gì, mai mẹ mua cho con ăn?” Bé nói: “Con thích ăn nhãn tiêu”, 10 p sau PB đưa bé đi!
    Từ đó, thỉnh thoảng PB lại đưa bé về để an ủi tôi, tôi nhìn con mà có thêm sức chịu đựng cho mình, chứ thực lòng tôi chỉ muốn quyên sinh mà thôi - sự đau đớn cùng cực không có bút mực nào tả xiết được. Có đêm trong cơn mê thiếp rã rời, tôi nghe như có gì âm ấm ở bàn tay. Mở mắt ra thấy bé MT đang quỳ dưới đất, gục đầu khóc, nước mắt từng giọt, từng giọt rơi ấm trên tay tôi...
    * Lần nữa, PB về thăm tôi, đang còn đứng đó, đột nhiên bé MT từ ngoài chạy vào quỳ xuống đất hôn gấu áo Mẹ Quán Am vừa khóc vừa van: “PB ơi tha cho mẹ con đi, tha cho mẹ con để con chịu đòn thế cho mẹ”. PB nạt: “Ai cho phép mi đến đây, biến mau”. Thế là con bé biến mất...
    Những lúc như thế này, tôi cứ nghĩ mãi trong đầu mình “Bề trên, những vị mà tôi từng tiếp xúc lâu nay, phải chăng là quỷ ác đội lốt Thần Tiên, Phật để đày đọa mình?!
    - Nhưng chỉ có tôi là chịu đòn, chịu sự tàn nhẫn nghiệt ngã này, còn tha nhân thì được cứu độ kia mà! Từ bàn tay họ đã từng chiết giảm đớn đau tật bệnh và cưu sống bao nhiêu người, chẳng lẽ tôi chỉ là kẻ tội đồ bị lưu đày. Nếu thế thì tại sao tôi phải làm việc cơ chứ?
    Tôi lặng lẽ nhìn, mường tượng thấy đàng sau khuôn mặt đẹp lộng lẫy, sau tấm áo lụa sang trọng kia là một linh hồn ác đang chuẩn bị xé tôi ra hàng trăm mảnh và tôi bắt rùng mình!
    PB thì như một robot có trái tim bằng thép, chẳng hề động tâm đến những nỗi đau đớn mà tôi đang chịu. Chẳng biểu lộ một chút thương tâm, đôi mắt đẹp chẳng hề chao đảo, giọng nói vẫn quyền uy, hình dáng oai nghi, đẹp đẽ và sang trọng. Tay đeo vòng ngọc màu xanh trong vắt tưởng chừng soi thấy mình trong ấy! Bàn tay thật đẹp với những ngón mảnh dẽ chuốt nhọn kia có thể chẹn cổ mình sao? Mài tằm mắt phượng kia nhìn thấy sự đau đớn của người khác không hề biết chớp, đôi môi nhỏ nhắn màu son kia có biết run rẩy khi xuống lệnh cực hình?!
    Chính trong thời gian này sự chịu đựng của tôi đã đến đỉnh điểm, và tôi đem ra đốt bỏ tập hồi ký 10 năm của mình.
    Giờ hồi tưởng lại: đốt bỏ cũng là điều hợp lý thôi, bởi tôi làm sao có can đảm đọc lại nó 1 lần nữa trong đời. Tôi viết nó khi lòng chao đảo mất niềm tin, đau đớn và căm phẩn, tập hồi ký ấy nếu để lại chỉ khiến cho ai đọc thấy tự đưa linh hồn mình về địa ngục mà thôi!
    Tôi nhớ có lần đọc thấy một chuyện kể về hai vợ chồng người phú hộ giàu sang, có 3 đứa con trai xinh xắn và ngoan ngoản. Tuổi đã cao, tiền bạc đã có thừa, họ đưa nhau lên Chùa quy y! Sau khi quy y, lần lượt 3 đứa con ngã ra chết, hai vợ chồng già tuyệt vọng đem chuỗi hạt, áo tràng lên Chùa trả lại cho thầy...
    Rồi lại nhớ “sự tích con chim tu hú”: Một anh chàng phát nguyện đưa đò qua sông không công xá cả đời - trên 1 dòng sông rộng mênh mông và đầy sóng dữ. PB bảo: “Mi chèo qua sông đủ 10 lần ta cho hiển Bồ Tát” Rồi giả làm 1 người đàn bà, cứ hễ thuyền ra giữa sông lại bảo rằng bỏ quên một món, người chèo thuyền quay thuyền trở lại - Đến lần thứ 9 thì chịu hết xiết! PB hiện ra bảo: “Mi tu gì, tu hú thì có”...
    Có lẽ tôi phải chấp nhận sự thử thách nghiệt ngã ấy để đánh đổi cho những gì tôi đã làm được cho tha nhân. Sự công bằng hay bất công cùng nằm trên một cán cân, cán cân kia là cánh cổng Thiên đàng với những linh hồn có cánh...
    Ngẫm lại, tôi thấy thương mình quá! Tôi thương tôi biết bao nhiêu. Nó xinh đẹp hiền lành nhu thuận, nó dịu dàng đôn hậu yêu hết thảy muôn loài, nó tội gì mà phải chịu đòn roi đến thế? Tôi thở dài, nhớ hai câu ca dao: “Tiếc thay hạt gạo trắng ngần, đã vo nước đục lại giần lửa rơm”.
    Đến tháng thứ 5 tôi bắt đầu bị viêm thần kinh tọa, đau thắt từ hai bên xương chậu trở xuống, mỗi ngày một nặng hơn. Đến lúc bại cả 2 chân, phải ngồi dưới đất mà lết đi...khốn nỗi đang mang thai chẳng uống được thuốc gì!
    Con ơi, có biết chăng tấm lòng người mẹ, chịu đựng sự đau đớn để cho con trọn vẹn hình hài, chỉ mong cho sau này con ra đời thành người chí thiện, chí nhân...
    Con ơi, mẹ đánh đổi tất cả bất hạnh đời mình để cho con ngày mai hạnh phúc, Ơn trên sẽ vì mẹ mà cứu lấy đời con:

    “...Hãy cứ cười cho trọn vẹn nghe con
    Mẹ nuốt lệ, vì con mà sống
    Dẫu đời mẹ không còn niềm hy vọng
    Vẫn gọi đông về giấu kín, để con vui”...

    (Với con)


    “...Cô gái Hoàng Cầm chỉ thức một đêm thơ
    Đêm dẫu dài vẫn chỉ là muôn một
    Đêm đời mẹ dài theo chiều con trốt
    Con trốt xoay theo định mệnh dần xoay”...

    (Trường dạ Cô Miên)

    Và:

    “...Đứng lên đi, trời ngoài kia đầy nắng
    Vai mẹ đây, cúi xuống để con trèo!...”
    “...Hát nữa đi con, múa nữa đi con
    Để cho mẹ thấy lòng mình vui lại
    Mưa đầy trời, mưa hoài, mưa mãi
    Mẹ lạnh một đời
    Vẫn mong ấm phần con!..”

    (Con tôi hát trong mưa)

    * Đến 9 giờ sáng ngày hai mươi tám tết, tôi bắt đầu đau bụng, đồ đạc chuẩn bị sẵn cả rồi. Ngặt nỗi còn 2 triệu tiền báo xuân, sáng 30 tết người ta tới lấy, không bán được lấy tiền đâu trả bây giờ?
    Tôi thắp nhang lên bàn thờ xin PB cho chậm sanh 2 ngày, để bán hết báo xuân lấy tiền trả nợ! 10 giờ 30 bắt đầu ra tí huyết, tôi lấy băng vệ sinh ra băng, lại cầu xin PB cứu, rồi lì lợm ngồi bán tiếp - Thỉnh thoảng lại đau quặn qua 1 cơn, ra tí huyết... Lại cầu cứu PB, thế mà không sanh, chịu được tới chiều mùng 1 tết còn chở đi chúc tết Má và các em. Đến 10 giờ đêm thì vơ ối, nước ra ướt cả chiếu! Tôi lại cầu xin: “PB ơi, mùng 1 tết Bác sĩ đâu có mà đỡ đẻ - xin cứu con chịu qua đêm nay.” Năm giờ sáng đi BV - BS đo huyết áp 18/16: “Coi chừng sản giật! Đưa vào phòng cấp cứu”. Đau bụng thúc, đau đến đứt ruột mà chưa sinh được. Tôi nhớ lời PB dặn: “Ta sẽ về đỡ đẻ cho con” Tôi khấn thầm: “PB ơi cứu con, con đau đến chết mất”!
    Cổ tử cung nở mới có 3 phân, chưa có dấu sanh! Chích đến 6 mũi thuốc, thêm mũi thứ 7 chích thẳng vào chai dịch truyền, tôi mới sinh - Trong cơn đau mê, tôi thấy PB mở cửa bước vào, nhìn qua vai BS! Tôi la lên: “PB ơi, ở đây dơ bẩn lắm, PB ra ngoài đi.” PB cười: “Con quên ta là đàn bà sao. Để ta đỡ đẻ cho con”. Nói xong dứt tiếng thì con bé dọt ra...
    Tôi nghe tiếng BS la lên: “Trời ơi”! Máu văng lên đầy bức tường trắng , đỏ cả áo blu BS - Nhau choàng 3 vòng cổ, BS nói: “Con bé này lớn mạng thật, con người ta nhau choàng 1, 2 vòng đã khó sống rồi, nó 3 vòng cổ mà không nghẹt thở mới là chuyện lạ”...Tôi biết rồi, Mẹ cho nhau choàng cổ để kéo em bé lại, không cho bé chui ra sớm đó thôi!
    Tôi phải nói dài dòng và chi tiết đến thế, về một chuyện không được “sạch sẽ” so với đề tài quyển sách. Bởi vì muốn cho bạn đọc thấy hết sự huyền nhiệm của bàn tay các Đấng, in dấu ấn hiện thực trong đời sống của tôi từng ngày, từng ngày như thế đó! Và bàn tay ấy vẫn tiếp tục nắm lấy tay tôi suốt 23 năm, để xoa dịu nỗi đau của con người...
    Mặc dù những lúc đau đớn và tuyệt vọng tôi có căm phẩn oán thán, PB, Người cũng không giận tôi đâu, tôi biết! Bởi những gì tôi phải chịu lớn quá và tôi đâu có tội gì để phải chịu như vậy.
    Trong thời gian nầy tôi còn nuôi con nhỏ, PB lại cho tôi nghỉ thêm để dưỡng sức. Khi PB tuyên bố như vậy, người đã sắp xếp mọi chuyện cả rồi...

  17. #17

    Mặc định

    Làm ơn cho tôi xin số điện thoại và địa chỉ của cô Thanh Lan. Email của tôi là: anhhungnx@gmail.com . Rất chân thành cảm ơn bạn.

  18. #18

    Mặc định

    Bạn cũng cho mình số điện thoại và địa chỉ của cô Thanh Lan được không. Email mình là chancong.cc@gmail.com. Mình cảm ơn nhiều.

  19. #19

    Mặc định

    Xin lỗi các bạn mình không thể cung cấp địa chỉ nhà và số điện thoại cho các bạn được vì khi xin phép cô Lan đăng nội dung HMLK lên, cô có dặn không được tiết lộ thông tin của cô.
    Cô có giải thích là sau khi hoàn thành xong 3 phần của HMLK (hiện nay phần 3 trong giai đoạn hoàn tất) cô có tâm nguyện nghỉ không làm việc tâm linh nữa, bên cạnh đó hiện nay cô đang bị hành căn dữ dội và bị tà đánh liên miên, nên cô không liên lạc với ai trong thời điểm này, điện thoại cũng cắt luôn. Ngay bản thân mình cũng hoàn toàn không biết địa chỉ nhà cô mà chỉ liên lạc qua email. Thế nên các bạn thông cảm cho mình nhé!

  20. #20

    Mặc định

    18. THƠ VĂN KHUYẾN ĐẠO CỦA HUỆ MINH
    (QUÁN THẾ ÂM BỒ TÁT)

    Hít một hơi thật dài, xua đi ảnh hưởng nặng nề mà tôi vừa mang đến cho các bạn trong chương mục thứ 17. Chúng ta hãy lắng tâm mình, để tưởng như nghe thấy giọt Cam Lộ Thủy nhuần rơi từ bàn tay Đấng Từ Bi, thấm sâu vào tận cùng những mạch đời bất hạnh...

    LỜI HIỆU TRIỆU NHỮNG VÌ SAO

    Một tia chớp từ thượng tầng thanh khí
    Soi sáng Thiên hà
    Lời hiệu triệu những vì sao!
    Vũ trụ rùng mình tỉnh giấc chiêm bao
    Nghìn trùng gió, tin truyền đi muôn hướng
    Mây lớp lớp tầng tầng qua khắp chốn
    Đêm hoang vu vời vợi một trời không
    Trăng thắp đèn xua bóng tối nghìn năm
    Vẫn thăm thẳm một màu đêm lồng lộng
    Một tia chớp vạch trời cao soi núi thẳm
    Lời sấm truyền rung chuyển cả trời quang
    Đá núi cao đồng vọng những huyền âm
    Và núi lở, đá lăn lòng đất hẹp
    Vùng tỉnh thức cả Trời Người –
    Giờ chuyển tiếp!
    Ngửa bàn tay đón ân sủng cõi Thượng Thiên
    Phép lành ban cho muôn chúng tín nhân
    Lần dấu Pháp đợi chờ duyên xóa nghiệp
    Hoa Thanh khí nở trên vùng uế trược
    Xóa hận thù, mở rộng vòng tay
    Bao đau thương oan trái một kiếp người
    Cam Lộ Thủy rửa sạch đời trong muôn một
    Đóa sen trắng giữa bùn thêm tinh khiết
    Liên hoa đài đâu để dấu trần hoen
    Tự tầng cao về với cõi Trầm luân
    Mai chuyển kiếp -
    Lại trở về phụng lệnh!

    25/7/2000
    HUỆ MINH chấp bút!

    KHUYÊN CON

    Đời ngắn lắm, nầy tu mau kẻo trễ!
    Bao năm dài Mẹ xa cách con thơ
    Lòng dạ này như rối tựa guồng tơ
    Duyên chưa điểm, đầu con dường đã bạc
    Hoa Khai Kiến chờ dâng lên cửa Phật
    Cặp thuyền Từ, Bến Đạo ới nầy con!
    Mõi mê đời, tủi phận với hờn duyên
    Con của Mẹ lại về bên chân Mẹ
    Một bến Giác trăm nẽo về Trí Huệ
    Một sông Mê ngàn vạn cánh buồm dong
    Mẹ chờ con ở giữa chốn bụi hồng
    Đem quả Thiện về dâng cành lộc Chủ
    Gió sẽ tạnh, mưa sẽ ngừng cho xuân ngự
    Vầng thái dương lộng lẫy một trời xa
    Quên đi con bão táp với phong ba
    Bàn tay Mẹ độ đời con chuyển nghiệp!
    Trăm uế nhục Mẹ trả bù sau trước
    Vạn căn lành lộc phước Mẹ ban cho
    Vững lòng tin con trẻ chớ buồn lo
    Quy mạng lễ con đáo đầu phụng lệnh

    Mùng 1 tháng tư năm Tân tỵ (2001)
    HUỆ MINH chấp bút!


    NẺO GIÁC

    Qua sông mõi lái trách dòng sâu
    Vượt cạn nào hay lỡ chuyến tàu
    Mây trắng vời trông cơn nắng hạn
    Bụi hồng chạnh nhớ buổi mưa ngâu
    Trăng Thiền rạng tỏa trời mông muội
    Ao Bụt yên che cõi tịnh cầu
    Ai khách thường trần qua bến đục
    Nương dòng Bát nhã vượt mê lầu.

    25/11/2006
    HUỆ MINH chấp bút!

    BƯỚM HOA

    Thiên hà động giấc muôn tinh
    Sao sa cõi Thế, lộ trình tha hương
    Đêm trần mờ mịt khói sương
    Ngỡ nơi tiên cảnh, lạc đường bướm hoa...


    HOA THANH KHÍ

    Trần ai một cõi đi về
    Hoa Thanh khí nở, bốn bề phong sương
    Cành lá sắc níu thanh hương
    Nghe trong ảo ảnh vô thường thơ bay!


    19. LINH CĂN CHỦ XÁC

    Đến cuối năm 1990, một buổi tối tôi đang ngồi bán báo, cậu công nhân nhà máy Satimex tên Thu, đang ngồi uống nước bên kia đường vụt bước sang bảo tôi: “Bửa nay tôi nhìn thấy Linh căn của chị rồi - là Quan Am Diệu Thiện”. Tôi gạt đi: “Nói bậy mang tội chết đó” – “Ừ tôi nói vậy Chị không tin thì thôi...”
    Cậu Thu tuổi chừng hăm mấy, người hơi “lưng tưng”, hay nói những điều khác thường, mọi người gọi chết danh là “Thu khùng”! Và tôi quên mất chuyện này, mãi đến 10 năm sau tôi mới nghe lần thứ hai...
    Một đêm nọ (vào cuối năm 1993). Lúc 8g30 toi ngoài trời đang mưa tầm tã, cậu Thu đội áo go cửa nhà tôi, vào nói: “Ổng Bả biểu tôi nói, tôi không nói tôi bị đòn. Họ biểu tôi đi, tôi phải đội mưa đi vầy nè, thấy hông. Ổng Bả biểu chị phải nhớ cúng vía giờ ngọ hàng tháng ngày mùng 8, 18, 28 - Chị còn 1 phần linh căn bên Địa Mẫu. Cúng vía Địa Mẫu thì Mẫu mới trợ cho chị được không thì chị còn khổ dài dài...”
    Quả thật lúc ấy tôi không hề để tâm tới lời Thu khùng nói, hắn nói lung tung đủ điều, quả là khùng thiệt rồi! Vốn cậu Thu là người dốt chữ, lại chân quê ăn nói bổ bả quen miệng rồi: “Nó kêu ai bằng Ổng Bả vậy kìa” Tôi nghĩ mà cũng chẳng thèm hỏi lại, rồi quên đi mất...
    Về sau mới biết cậu Thu có phần Căn bên Địa Mẫu, nhưng do chơi thân, theo thầy bùa, thầy ngãi gì đó mà bị hành hoài! Có điều Thu coi quẻ hay lắm, nói đâu đúng đó: Lần Thu nói Ba tôi sống không quá tháng 5, quả đúng ba tôi chết mùng 8 tháng 5. Còn con trai lớn của tôi, Thu bảo: “Không qua khỏi tháng này” thì đúng 28/10 con tôi chết, chuyện này, tôi xin kể cho bạn đọc nghe vào chương sau!
    Cuộc đời tôi, phép lạ ứng nghiệm từng ngày, hăm mấy năm là ngần ấy phép huyền nhiệm của “Ơn trên” - Cho kẻ hữu duyên tìm đến, cho gia đình, bè bạn, cho Cha mẹ, các em và các con...
    Sự huyền nhiệm ấy diễn ra từng ngày, về sau (kể từ đầu năm 2000) có ngày cao nhất tôi phải giải quyết 5 vụ việc liên quan đến Am phần, có ngày chữa đến 30 người.
    Từ năm 2001 đến nay, tôi mới bắt đầu ghi lại sổ thăm khám bệnh, có đầy đủ tên tuổi và địa chỉ của bệnh nhân. Bệnh chẩn, phương pháp, thời gian điều trị. Rút kinh nghiệm từng trường hợp một...Những bệnh khó chữa khi hết bệnh nhân ky tên xác nhận đường hoàng!
    Để cho mạch chuyện được liên tục, tôi xin phép trở lại “Linh căn chủ xác”
    Năm 2000, ăn tết xong tôi cất nhà trên đất mới. Ngày rằm tháng 4 năm ấy, tôi vừa Thượng trang, thắp hương xin PB về chủ lễ. Mẹ Quán Am về, đứng chắp hai tay sau lưng ngắm ảnh Phật Bà ngồi trên tòa sen tôi vừa đặt lên, hỏi: “Con thờ ai đây?”. “Dạ, Phật Bà Quán Thế Am Bồ Tát” – Tôi nói rành rọt, ngẩn người ra, không biết PB nói thế với ẩn ý gì! Người lại nói: “Trật lất! Quan Am Diệu Thiện - thờ chính Linh Căn của mình bao nhiêu năm nay mà không biết”
    Xong người nói cho tôi biết: Quan Am Diệu Thiện tình nguyện xuống độ thế, xác trần sống 63 năm. Tôi hỏi: “Nếu là người Nhà Phật tại sao con không trường chay, cạo đầu, trì niệm và không đi tu?”. PB giải thích: “Người nào việc ấy, đó là việc của người Hoằng Pháp. Độ Trần là ở ăn cùng trần thế, là lăn lộn khổ nạn cùng thế nhân, giống y như thế nhân vậy!”
    Tôi lại hỏi: “Nếu con là QA Diệu Thiện, tại sao lại để cho con khổ nạn trùng trùng như vậy? Để phải chịu ô uế xác trần đến 2 đời chồng tai tiếng oan gia nghiệp chướng, sao Mẹ lại chẳng cứu con?” PB bảo tại tôi trả nghiệp cho người ta đấy thôi: “Đã bảo những người bệnh do hành căn trả nghiệp thì con đừng chữa, con không nghe thì trách ai? Người ta nợ 10 đồng, mới trả được 2, 3 đồng chạy tới kêu khóc với con, con đưa tay ra cứu thì phải chịu trả thế cho họ vài đồng - họ bị án 10 roi con cứu tất nhiên phải chịu phụ cho ho vài roi, trách ai bây giờ!”
    Tôi khóc nói: “Hai người cùng bị nạn và gục xuống như nhau, Mẹ bảo con cứu một người và bỏ một, con không làm được. Một là con cứu cả hai, hai là con không làm gì cả, con trả phép cho Mẹ! Mẹ lấy phép lại đi để cho con làm người trần thế bình thường, khỏi nhìn thấy cảnh bất công như vậy”.
    PB lại bảo: “Ta gieo một cái hạt giống, ta chẳng đời nào để cho nó thui chột đi. Chờ đấy”! Nói rồi biến mất...
    Trưa hôm sau, có cô Nhung ở gần nhà rũ tôi lên chỗ xác Mẹ Quan Am cứu khổ cứu nạn, tò mò tôi cũng đi theo!
    Cô Yên, trước cũng là Giáo viên, người đẹp đẽ, nghiêm trang và đạo hạnh - cô kể sự tích Mẹ về hành xác để ra căn, nghe mà bắt rùng mình: Trước cô bị bệnh nặng, liên miên hơn 2 năm trời, thuốc men BV khắp nơi chẳng ăn thua gì. Người “man man” luôn, nhìn đâu cũng thấy ma quỷ, mỗi lần thấy lại ngã ra xỉu cứng người...
    Đến lúc bỏ ăn 11 ngày nằm liệt một chỗ mê man. Sáng hôm đó tỉnh dậy thều thào bảo gọi hết cha mẹ 2 bên lại để cho cô nói chuyện. Khi tập trung đủ hai họ, cô Yên nói: “Ta là Quan Am cứu khổ cứu nạn. Nay Ta muốn về xác để độ trần. Ta cho hai họ bàn tính lại với nhau, nếu đồng ý thì Ta cho xác sống, còn không thì sữa soạn đem chôn đi”. Hai nhà bàn đi tính lại, cuối cùng phải đồng ý. Thế là từ 1 người Đạo Thiên Chúa cô Yên trở thành người xem quẻ, xác Mẹ Quan Am cứu khổ cứu nạn!
    Tôi đến đó đã 12 giờ trưa, ba chị em chưa ai ăn cơm thế mà ngồi nói chuyện đến 4 tiếng đồng hồ. Cô Yên về xác Quan Am cứu khổ cứu nạn, còn tôi Quán Thế Am Bồ Tát nhập! PB cứu khổ theo năn nỉ bên tôi xin tha cho xác trần, đừng có hành xác quá không nên! Giọng nói của Người dịu dàng, thuần hậu, còn giọng nói của Quán Thế Am thì cứng cỏi, quyền uy và nghiêm khắc. Khi Điển trên rời đi, nhìn lại đã 4 giờ chiều…
    Xác cô Yên không biết mình nói gì, còn tôi thì nhớ không sai chi tiết nào - ra về còn nhớ mãi giọng nói êm êm như ru của Mẹ cứu khổ ... Mẹ người ta thương con đến vậy, còn Mẹ của mình thương cho roi cho vọt, nghĩ buồn quá...!
    Quan Am Diệu Thiện rất ít khi về xác, mỗi lần tôi đau quá, van nài kêu khóc - Người về, nhìn tôi rơi nước mắt mà chẳng làm gì được, nói: “Vì Ta mà con khổ”. Thế rồi bỏ đi…
    PB thì nói quanh co cho qua chuyện: “Nếu Ta can thiệp, sau này không tròn căn quả, về trên Diệu Thiện trách ta, ta biết ăn nói làm sao?” thì ra (tôi nghĩ mà không dám nói): “Quan Am Diệu Thiện xuống trần để chịu đau thế cho người chứ không phải để độ người”
    Mãi đến đầu năm 2008 là thời gian tôi chuyển được nghiệp trần lẫn Căn đạo, Mẹ Diệu Thiện mới về và cười với tôi lần đầu, cũng là cười trong nước mắt. Q Â Diệu Thiện! Đúng như tên gọi, Người hiền lành và dịu dàng lắm - về với tôi luôn mặc 1 chiếc áo màu lam bình dị, không sang trọng và uy nghi như PB. Người còn trẻ, chỉ chừng hai mươi mấy tuổi - còn PB thì trông người trên dưới 40 tuổi.
    Chỉ từ rằm tháng tư đến nay, Mẹ Diệu Thiện hay về thay tôi hành xử. Có điều cũng không ra mặt! Khi tôi cần đưa linh hồn đến đâu đó để điều tra, nhìn lại thì thấy không phải xác trần của mình, mà là Quán Am Diệu Thiện. Người đến chẳng đợi tôi mời, ra đi cũng chẳng cần tôi tiễn! Hèn nào con giống Mẹ: chẳng cầu kỳ trong ăn vận, chẳng trang điểm phấn son, không khoe khoang thành tích, không màng danh lợi xa hoa - Ăn uống cam khổ, đạm bạc qua ngày các thức sơn hào hải vị không hợp khẩu, bạn sang giàu danh vọng ít gần, người thiếu thốn đói nghèo năng gặp...
    Học theo Phật: “Đi không để lại dấu chân: Cho bàn tay phải, bàn tay trái không hay biết”
    PB hay nói, mãi rồi tôi cũng quen miệng: “Chúng ta là người nhà Phật”. Lắm lúc bị người sửa lưng - Tôi chỉ cười trừ! Có biện minh nầy nọ, chỉ tổ người ta bảo mình “bệnh tâm thần” mà thôi...
    Chỉ có bệnh nhân, người cần tôi là biết tôi. Hàng xóm cách vài căn chẳng ai biết tôi làm gì, ngay cả các em của tôi còn bảo: “Chị Hai ở không suốt ngày mà cứ than bận”!
    Đối với nhân thế thường tình thì làm lụng “đầu tắt mặt tối” để có tiền muôn bạc vạn mới là giá trị của con người. Nhân suy nghĩ nầy, tôi làm bài thơ “Phong trần khách”. Xin tặng bạn đọc vài bài Thơ Khuyến Đạo của Diệu Thiện (Tịnh Vân).

Thread Information

Users Browsing this Thread

There are currently 1 users browsing this thread. (0 members and 1 guests)

Similar Threads

  1. Tịnh Độ Giản Lược
    By Nothing_To_Lose in forum Tịnh Độ Tông
    Trả lời: 2
    Bài mới gởi: 05-06-2012, 02:13 PM
  2. Giới thiệu Công phu một số môn phái lớn ở Trung Hoa
    By sinhvienk41 in forum Đạo Giáo ( Lão giáo, Khổng giáo, Nho giáo )
    Trả lời: 10
    Bài mới gởi: 06-03-2012, 11:46 PM
  3. Sự thật và huyền thoại môn phái Cái Bang
    By blackcatpro9x in forum Võ Thuật
    Trả lời: 23
    Bài mới gởi: 04-07-2011, 09:33 AM
  4. Trả lời: 1
    Bài mới gởi: 26-06-2011, 11:42 PM
  5. LỜI VÀNG VỀ PHÁP MÔN NIỆM PHẬT
    By bachliencu in forum Tịnh Độ Tông
    Trả lời: 1
    Bài mới gởi: 22-05-2011, 04:31 PM

Bookmarks

Quyền Hạn Của Bạn

  • You may not post new threads
  • You may not post replies
  • You may not post attachments
  • You may not edit your posts
  •