LỄ WESAK
(Một buổi lễ huyền bí)

Tác giả C. W. LEADBEATER
NGUYỄN HỮU KIỆT dịch
(Trích trong quyển Chơn Sư và Thánh Đạo )



Ngày Đức Phật xuất hiện mỗi năm một lần để ban ân huệ cho thế gian nhằm vào ngày rằm tháng năm, bên Ấn Độ và Tích Lan gọi là ngày Wesak, thường vào khoảng tháng năm dương lịch. Ngày đó cũng là ngày kỷ niệm những dịp quan trọng xảy ra trong kiếp sống cuối cùng của Đức Phật ở cõi trần, tức ngày sinh, ngày thành đạo và ngày tịch diệt của Ngài.

Vào dịp này, ngoài ý nghĩa về phương diện huyền bí vô cùng quan trọng của nó, có một cuộc lễ được cử hành ở thế gian, trong cuộc lễ ấy, Đức Phật hiện trước mặt một số đông người hành hương. Những người này có được thấy Ngài hay không, thì tôi không biết chắc; nhưng họ đều cúi lạy theo những vị Chơn Tiên và các đệ tử, những vị này đều thấy Đức Phật hiện ra thật sự. Hình như ít nhất cũng có vài người hành hương được nhìn thấy Ngài, vì cuộc lễ này được những người Phật tử ở vùng Trung Á biết rõ. Người ta nhắc nhở đến cuộc lễ đó như sự xuất hiện hình bóng hay sự phản ảnh của Đức Phật, và sự mô tả cuộc lễ theo tục truyền có phần khá đúng.

Như vậy những người sống ở vùng lân cận nơi Đức Phật hiện không có lý do gì mà không đến dự nơi hành lễ, vì không hạn chế số người đến xem, mặc dầu người ta nghe nói có những nhóm người hành hương đã từng đi dọ dẫm suốt nhiều năm mà không thấy nơi hành lễ.

Tất cả những Đấng Cao Cả trong Quần Tiên Hội đều đến dự lễ, trừ Đức Ngọc Đế và ba Vị đệ tử của Ngài. Vậy không có lý do gì mà những người hội viên Thông Thiên Học chúng ta lại không đến dự bằng thể vía của mình. Những người nào đã được biết rõ về ngày giờ hành lễ, thường sắp đặt công việc riêng của họ để có thể đi ngủ vào khoảng một hay vài giờ trước giờ cử hành vào đêm trăng rằm, và ngủ yên một chỗ cho đến một giờ sau khi cuộc lễ chấm dứt.



NƠI HÀNH LỄ

Địa điểm được chọn để hành lễ là một vùng cao nguyên nhỏ có những đồi thấp bao bọc chung quanh, ở phía bắc dãy Hi Mã Lạp Sơn cách biên giới xứ Népal không xa, và có lẽ độ chừng 400 dặm phía tây thành phố Lhasa bên Tây Tạng. Đó là một khoảnh đất bằng phẳng, hình chữ nhựt, độ chừng một dặm rưỡi bề dài và bề ngang thì ngắn hơn. Khoảng đất thoai thoải từ hướng nam lên hướng bắc, hầu hết trống trải và có đá, mặc dù rải rác có cỏ dại và bụi cây. Một dòng suối chảy qua ở góc phía tây vùng cao nguyên, và lên phía bắc thì nó chảy vào một thung lũng có rừng thông bao phủ, sau cùng nó đổ vào một cái hồ cách đó một quãng vài dặm. Vùng chung quanh có vẻ hoang vu hẻo lánh, không có người ở, và không có một nhà nào trừ ra cái tháp cổ đã điêu tàn với vài ba cái chòi rải rác trên sườn một ngọn đồi ở về phía đông. Về phía nam, có một tảng đá lớn màu xám dựng đứng như bàn thờ, độ bốn thước bề dài và hai thước bề ngang, nhô lên khỏi mặt đất chừng một thước.

Vài ngày trước khi hành lễ, người ta thấy dọc hai bên bờ suối, dưới chân những ngọn đồi chung quanh có những ngọn lều được dựng lên mỗi lúc càng nhiều. Những túp lều này có một hình dáng lạ lùng, phần nhiều màu đen, và chốn hoang vu cô tịch này bỗng nhiên trở nên linh động với những ngọn lửa trại của những người đi hành hương đốt lên. Họ là những bộ lạc lưu động từ miền Trung Á và có người từ miền bắc xa xôi đến đây. Vào ngày trước đêm trăng tròn, họ đều tắm gội sạch sẽ, và thay quần áo mới để chuẩn bị hành lễ.

Vài giờ trước khi hành lễ, họ tựu họp ở chỗ góc phía bắc vùng cao nguyên, họ ngồi xuống đất một cách lẳng lặng có trật tự và chừa một khoảng trống trước chỗ tảng đá lớn làm bàn thờ. Theo thông lệ, thì vài vị sư trưởng (lamas) có mặt, mượn cơ hội này để thuyết pháp cho dân chúng. Độ một giờ trước khi trăng tròn, những vị khách dự lễ bắt đầu đến bằng thể vía của các Ngài, trong số đó có những nhân viên Quần Tiên Hội. Vài Vị trong số đó hiện hình cho những người hành hương thấy rõ, và những người này liền cúi lạy các Ngài. Trong dịp này những đấng Chơn Sư, có vài Vị cấp đẳng cao hơn nữa cũng nói chuyện thân mật với các vị đệ tử và với những người khác đang có mặt tại chỗ. Trong khi đó những người khác có phận sự chưng dọn bàn thờ trên tảng đá lớn để chuẩn bị cuộc lễ. Họ đặt lên đó những bông hoa đẹp đẽ nhứt và ở bốn góc thì để những tràng hoa sen. Giữa bàn thờ, có đặt một chén bằng vàng đựng đầy nước và ngay trước mặt có chừa một khoảng trống giữa các đóa hoa.



CUỘC HÀNH LỄ

Độ nửa giờ trước khi trăng tròn, lúc đức Văn Minh Đại Đế vừa ra hiệu thì nhân viên Quần Tiên Hội qui tụ lại chỗ khoảng trống chính giữa vùng cao nguyên, ở phía bắc tảng đá lớn dựng làm bàn thờ. Các Ngài sắp hàng theo ba vòng tròn lớn, tất cả đều day mặt vào trong, vòng phía ngoài gồm những nhân viên trẻ tuổi trong Quần Tiên Hội, còn vòng ở phía trong là những Đấng cao hơn.

Vài đoạn kinh Phật được ngâm lên bằng tiếng nam Phạn (Pali); khi giọng ngâm vừa dứt, thì Đức Di Lạc Bồ Tát hiện ra ở trung tâm vòng tròn và cầm nơi tay một cây thần trượng (cây gậy phép). Cây thần trượng này là bửu vật để thu thần lực của đức Hành Tinh Chơn Quân [1] và được Ngài truyền từ điển kể từ hằng mấy triệu năm về trước, khi Ngài bắt đầu vận chuyển luồng sóng sinh hoạt của nhân loại trên dãy hành tinh chúng ta hiện nay. Chúng tôi nghe nói cây gậy phép này thể hiện cho sự tập trung thần thức của đức Chơn Quân, và nó được thuyên chuyển từ bầu hành tinh này sang bầu hành tinh khác mỗi khi Ngài chuyển di thần thức của Ngài vào một bầu thế giới nhứt định. Nói một cách khác, hễ cây gậy phép này ở nơi nào, thì nơi đó đương thời là trung tâm điểm sân trường tiến hóa của vạn vật, khi nó rời khỏi bầu hành tinh của chúng ta để chuyển qua bầu thế giới khác, thì quả địa cầu này sẽ đắm chìm trong giấc ngủ triền miên, không còn sinh hoạt nữa.

Thần trượng
[IMG] Uploaded with ImageShack.us[/IMG]

Việc nó có được thuyên chuyển qua những bầu thế giới vô hình [2] hay không, thì chúng tôi không được biết. Chúng tôi cũng không biết rõ cách sử dụng cây gậy phép này ra sao về vai trò của nó trong việc giữ gìn kho thần lực của thế giới. Lúc bình thường, nó được giao cho Đức Ngọc Đế gìn giữ tại Shamballa và theo chỗ chúng tôi được biết thì cuộc lễ Wesak là cơ hội duy nhứt mà nó rời khỏi tay Ngài. Cây gậy hình dáng giống cây đoản côn, làm bằng chất kim khí rất hiếm gọi là «Orichalcun» bề dài độ chừng 7 tấc và bề tròn đường kính độ chừng 7 phân; ở hai đầu, mỗi đầu đều có một viên kim cương hình tròn như trái cam và một cái mũi nhọn chụp lên trên. Cây gậy phép này luôn luôn tỏa ra một hào quang sáng rực như ánh lửa. Điều đáng ghi nhận là chỉ có một mình Đức Di Lạc Bồ Tát sử dụng cây gậy phép trong suốt cuộc lễ.

Khi Ngài vừa hiện ra ở chính giữa ba vòng tròn, thì tất cả các vị Chơn Sư và các đệ tử đều kính cẩn nghiêng mình để chào Ngài, và một đoạn kinh khác lại được ngâm lên. Sau đó, khi giọng ngâm vẫn vang rền, thì hai vòng tròn cử động và dời chỗ để sắp hàng thành một hình chữ thập và Đức Di Lạc vẫn đứng ở ngay trung tâm. Trong giai đoạn thuyên chuyển kế đó, hình chữ thập đổi lại thành hình tam giác, và Đức Bồ Tát cũng dời chỗ để đứng ở ngay góc trên đầu, gần kế bên bàn thờ bằng đá. Trên bàn thờ, ở chỗ khoảng trống phía trước cái chén bằng vàng, Đức Bồ Tát kính cẩn đặt cây gậy phép, trong khi đó ở phía sau lưng Ngài, những vị đạo đồ đứng ở vòng ngoài bèn đổi chỗ để biến cái vòng thành hình cái hoa có ba cánh, tất cả đều day mặt về phía bàn thờ. Trong giai đoạn kế đó, hình cái hoa đổi thành hình tam giác lộn đầu, làm thành ra hai hình tam giác tréo góc, y như biểu tượng của Hội Thông Thiên Học, nhưng không có con rắn khoanh tròn. Sau cùng, đến lượt hai hình tam giác này đổi thành hình ngôi sao năm góc, Đức Bồ Tát vẫn đứng nguyên chỗ cũ gần bàn thờ và những vị Đế Quân thì đứng ở năm điểm cách khoảng nhau trên ngôi sao.

Đến giai đoạn thứ bảy, tức là giai đoạn cuối cùng, thì giọng ngâm dứt hẳn. Sau một lúc im lặng, Đức Di Lạc lại cầm gậy phép trong tay và đưa lên khỏi đầu, Ngài nói một câu giòn giã bằng tiếng Pali: «Bạch Thế Tôn, tất cả đều sẵn sàng. Xin mời Ngài hạ giáng!»

Kế đó, Ngài vừa đặt cây gậy phép xuống bàn thờ, thì vừa đúng lúc trăng tròn, Đức Phật liền xuất hiện như một nhân vật khổng lồ lơ lửng trong không gian, ngay ở trên những ngọn đồi phía nam. Những nhân viên Quần Tiên Hội chấp tay vái chào Ngài, còn đám đông những người hành hương ở phía sau thì cúi lạy rạp mình xuống đất, trong khi đó những người khác ngâm lên ba câu kệ tam qui, tức là qui Phật, qui Pháp, qui Tăng.



ÂN HUỆ LỚN NHỨT

Kế đó, đám đông người đứng dậy và chiêm ngưỡng dung nhan Đức Phật trong khi những nhân viên Quần Tiên Hội ngâm bài kinh Mahamangala Sutta để ban phước lành cho họ:

I

Cả thiên thần và người

Đều mong được phước lành

Bạch Phật dạy chúng con

Phước nào phước lớn nhứt?

II

Không phụng sự kẻ ngu

Mà phụng sự người hiền

Trọng vọng người xứng đáng

Đó là phước lớn nhứt.

III

Cư ngụ nơi đất lành

Đã làm lành kiếp trước

Lòng suy tưởng việc lành

Đó ân huệ lớn nhứt.

IV

Học rộng hiểu biết nhiều

Tự chủ và luyện trí

Miệng nói những điều lành

Đó là phước lớn nhứt.

V

Nuôi dưỡng cha cùng mẹ

Yêu thương vợ với con

Theo đuổi nghề nghiệp lành

Đó là ân huệ lớn nhứt.

VI

Ham làm việc bố thí

Giúp đỡ kẻ bần hàn

Chỉ mong làm việc phải

Đó là phước lớn nhứt.

VII

Không làm điều tội lỗi

Không dùng chất rượu mạnh

Làm lành không tiếc thân

Đó là ân huệ lớn nhứt.

VIII

Kính cẩn và khiêm tốn

An phận và biết ơn

Bốn mùa nghe chánh pháp

Đó là phước lớn nhứt.

IX

Chịu cực và kiên nhẫn

Giao du với bạn hiền

Luận đàm việc đạo lý

Đó ân huệ lớn nhứt.

X

Tiết độ và trong sạch

Hiểu biết Tứ Diệu Đế

Tâm hướng Niết bàn cảnh

Đó là phước lớn nhứt.

XI

Giữa cuộc đời chìm nổi

Lòng vẫn không xao động

Yên tịnh, không phiền não

Đó là huệ lớn nhứt.

XII

Ai làm được như thế

Dù gặp hoàn cảnh nào

Trong lòng vẫn thanh tịnh

Người ấy phước lớn nhứt.



Hình ảnh đức Phật hiện trên đỉnh đồi tuy là rất lớn, nhưng giống như tướng mạo của Ngài lúc còn sanh tiền. Ngài ngồi kiết dà, hai bàn tay giao nhau, mình mặc áo cà sa vàng theo lối tăng lữ, cánh tay mặt để trần. Gương mặt Ngài biểu lộ sự trầm tĩnh, quyền lực, minh triết và bác ái đến một mực tuyệt đối thiêng liêng ngoài sức tưởng tượng của chúng ta, thật là khôn tả. Nước da Ngài màu ngà, những nét trên mặt Ngài rất rõ rệt, một vầng trán rộng, cặp mắt lớn và sáng màu xanh đậm, mũi cao, cặp môi đỏ, nhưng đó chỉ là tạm phác họa thô sơ hình dáng bề ngoài mà thôi, chớ không đủ diễn tả phong độ uy nghi và thần sắc siêu việt của Ngài một cách đầy đủ trọn vẹn. Tóc Ngài màu đen và dợn sóng, không để dài như phong tục Ấn Độ, cũng không hoàn toàn xuống tóc như các vị sư tăng, mà cắt ngắn chí cổ, chưa chấm xuống vai, chẻ ra ở giữa và chải ngược về phía sau. Truyện tích nói khi thái tử Sĩ Đạt Ta rời khỏi cung điện quyết chí đi tìm đạo, Ngài rút gươm cắt tóc ngay vừa khỏi đầu, và từ đó đến sau tóc Ngài vẫn để ngắn như thế.

Một khía cạnh đặc biệt nhứt của hình ảnh Đức Phật hiện, là hào quang của Ngài tốt đẹp vô cùng bao bọc chung quanh. Hào quang đó gồm nhiều từng lớp đồng một trung tâm, như những hào quang của các bậc đã tiến hóa cao, và chiếu những màu sắc thật đặc biệt. Hình ảnh Đức Phật được bao bọc trong một vừng ánh sáng vừa chói lòa, vừa trong vắt, chói lòa đến nỗi mắt phàm không thể nhìn lâu, nhưng đồng thời lại trong suốt, làm cho gương mặt Ngài và màu áo hiện rõ hoàn toàn. Phía ngoài là, một vòng màu xanh dương, nối tiếp theo là những vòng màu vàng chói, màu hường, màu trắng bạc và màu đỏ rất đẹp, tất cả những màu sắc này thật ra là những khối tròn, nhưng hiện ra trên nền trời xanh như những vòng tròn cùng một trung tâm. Phía ngoài tất cả, từ những vòng hào quang này bắn ra những tia chớp đủ màu sắc lẫn lộn có cả màu lục và màu tím.


Trong những sách khác, chúng tôi có nói đến màu đỏ trong hào quang biểu lộ sự nóng giận. Điều này đúng trong thể vía của người thường; thuộc về bốn cảnh thấp của cõi trung giới. Nhưng ngoài ra, chúng tôi còn nhận thấy trên những cõi cao siêu, một màu đỏ trong sáng và đẹp lộng lẫy, giống như tinh hoa của ngọn lửa, là biểu hiện của một lòng dũng cảm và cương quyết mạnh mẽ phi thường. Màu đỏ này trong hào quang của Đức Phật tự nhiên là biểu lộ những đức tánh kể trên đến một mức tuyệt đích vậy.

Khi đoạn kinh Mahamangala Sutta ngâm vừa dứt, Đức Di Lạc cầm lấy cái chén bằng vàng đựng nước trên bàn thờ, và nâng lên khỏi đầu Ngài trong một lúc. Trong khi đó, đám đông ở phía sau cũng đã chuẩn bị sẵn và đem theo những bình đựng nước, liền làm theo Ngài. Khi Ngài đặt cái chén lại chỗ cũ trên bàn thờ, thì một đoạn kinh khác lại được ngâm lên, lời lẽ ca tụng Đức Thích Ca Như Lai.

Tiếng ngâm vừa dứt, một nụ cười đầy bác ái nở trên gương mặt Đức Như Lai. Ngài đưa bàn tay mặt lên để ban ân huệ, trong khi đó hàng ngàn cánh hoa rơi xuống như mưa giữa đám dân chúng. Một lần nữa những nhân viên Quần Tiên Hội lại vái chào, đám đông cúi lạy rạp xuống đất, hình ảnh Đức Phật trở nên lu mờ và từ từ biến mất, trong khi đó những người hành hương thốt ra những tiếng kêu vui mừng và ca tụng. Những nhân viên Quần Tiên Hội liền theo thứ tự tiến đến bàn thờ, và thay phiên nhau uống hớp nước trong cái chén vàng. Còn dân chúng cũng uống một hớp nước trong bình riêng của họ, và phần còn lại thì họ đem về nhà để dùng làm «nước thánh», có công dụng trừ tà hoặc để chữa bịnh. Kế đó, đám người hành hương phân chia tứ tán sau khi đã trao đổi những lời chúc tụng lẫn nhau, và họ trở về nhà, mang theo kỷ niệm khó quên của cuộc lễ thiêng liêng mà họ vừa tham dự.
Các bạn vào link dưới đây để biết thêm chi tiết :
http://www.thongthienhoc.com/bai%20vo%20wesak.htm


[IMG] Uploaded with ImageShack.us[/IMG]

[IMG] Uploaded with ImageShack.us[/IMG]

[IMG] Uploaded with ImageShack.us[/IMG]

NGƯỜI SÁNG LẬP LÁ CỜ PHẬT GIÁO :
Ông H.S.OLCOTT (1832 -1907 ) , Ông là người Mỹ , là một trong hai người sáng lập hội Thông thiên học thế giới và là hội trưởng đầu tiên của hội này, ông đã thấy được hào quang của Đức Phật và sáng tạo nên lá cờ Phật giáo và sau đó được đại hội Phật giáo thế giới chấp nhận vào năm 1950.

[IMG] Uploaded with ImageShack.us[/IMG]

HAI CUỘC LỄ LỚN CỦA PHẬT GIÁO.

Phật giáo có hai cuộc lễ lớn, mỗi năm được Quần Tiên Hội tổ chức và cử hành một cách long trọng nhưng người ngoài ít ai biết được.

Ấy là lễ Huê Sắc (Vesak), Vía Phật và lễ A sa la (Asala), lễ chuyển Pháp Luân.


LỄ HUÊ SẮC (VESAK)

Theo kinh sách Phật tại Tích Lan, thì Đức Bồ Tát :

a/ Giáng sanh nhằm ngày trăng tròn của tháng Huê Sắc (Vesak).

b/ Đắc đạo làm một vị Phật cũng nhằm ngày trăng tròn của tháng Huê Sắc.

c/ Nhập Niết Bàn cũng nhằm ngày trăng tròn tháng Huê Sắc.

Tháng Huê Sắc của Thiên Trước luôn luôn chạy nhằm tháng năm dương lịch (mois de Mai) thường thường là tháng tư âm lịch.

Nhưng nói cho đúng là giờ trăng tròn của tháng Huê Sắc chớ không phải là ngày trăng tròn [21] .

Thế nên mỗi năm tới ngày trăng tròn tháng Huê Sắc, các hàng Phật tử ở Tây Tạng, Tích Lan, Miến Điện, Thái Lan, Nê Bôn, Âu Châu đều cử hành một cuộc lễ rất long trọng để kỷ niệm ba đại sự trong đời sống của Đức Phật Thích Ca tại thế.

Tạp chí Phật giáo La Pensée boudhique bắt đầu từ số tháng Juillet 1951 có nói tới cuộc lễ nầy do các vị thân hữu Phật giáo ở Ba Lê tổ chức và thường có những đại diện Phật giáo các xứ Tích Lan, Miến Điện, Thái Lan, Nê Bôn đến dự.

Tôi không rõ thuở xưa các nhà sư bên Trung Hoa tính toán ngày giờ cách nào mà nói Đức Bồ Tát giáng sanh nhằm mồng 8 tháng tư âm lịch, hoặc giả thuở đó ngày trăng tròn nhằm ngày mồng 8 chăng ? Còn ngày thành đạo lại là mồng 8 tháng chạp. Ngày giáng sanh và ngày thành đạo khác nhau.

VÍA PHẬT LÀ NGÀY HẠNH PHÚC NHỨT CỦA NHƠN LOẠI.

Ngoài đời không ai tin rằng Vía Phật là ngày hạnh phúc nhứt của nhơn loại, bởi vì không ai biết rằng ngày đó Đức Phật lìa khỏi cõi Đại Niết Bàn xuống trần thế hiện ra đặng ban ân huệ cho ba ngàn sáu trăm triệu linh hồn trên địa cầu nầy. Đây có phải là Ngài noi gương mấy vị Phật quá khứ chăng ?

Không phải thế, như tôi đã nói khi nảy, một khi chứng quả Phật rồi thì Đức Bồ Tát giao quyền chưởng giáo lại cho Đức Đế Quân chưởng quản cung thứ nhì, lên kế vị cho Ngài còn Ngài thì về cõi trên làm Chủ tể cung thứ nhì coi sóc sự tiến hóa của con người và các Thiên Thần, song không hề khi nào trở xuống thế gian nữa.

Nhưng trường hợp của Đức Thích Ca thì khác hơn mấy vị Phật quá khứ. Các Ngài nầy ở bầu thế giới khác (Kim tinh) qua giúp đỡ chúng ta lúc nhơn loại còn trong thời kỳ ấu trỉ.

Không hiểu vì lẽ nào mà công việc của Đức Phật Thích Ca có vài điểm Ngài không có đủ ngày giờ làm cho hoàn thiện (xin quí bạn chú ý, đây là một vài điểm trong công việc của Ngài làm chớ không phải Tài hay Đức của Ngài còn kém. Ngài đã tới bực toàn giác của dãy địa cầu nầy).

Có lẽ tại những cố gắng trong nhiều thế kỷ qua, lúc Ngài tu luyện đặng xứng đáng với địa vị cao cả sau nầy, cho nên Ngài tự nguyện để dính dấp một chút với hồng trần đặng khi Đức Di Lạc Bồ Tát gặp trường hợp cấp bách khẩn cầu Ngài thì Ngài xuống chỉ bảo và giúp đỡ nếu cần. Ngoài ra, mỗi năm đúng giờ bỏ xác phàm tức là giờ trăng tròn tháng Huê Sắc, Ngài giáng phàm một lần, dùng một phương pháp nhiệm mầu giúp chúng sanh bớt khổ trong tâm hồn một phần nào, người ta gọi đó là Phật ban ân huệ cho chúng sanh.



ÂN HUỆ CỦA PHẬT BAN LÀ CÁI CHI ?

Đức Phật có một thần lực riêng biệt của Ngài mà Ngài rải ra khi ban phép lành cho đời. Sự ban phép lành nầy là một việc duy nhứt và vô cùng huyền diệu. Mỗi Đức Phật nhờ quyền năng và địa vị của mình cho nên vào ra được những cảnh giới cao siêu của vũ trụ mà chúng ta chưa lên tới. Vì vậy, Ngài có thể biến đổi những thần lực ở mấy cõi đó và đem chúng nó xuống tới mức của chúng ta. Không có sự trung gian của Ngài thì những thần lực nầy không hữu ích cho chúng ta chút nào trong đời sống hằng ngày. Những sự rung động của chúng nó thật là phi thường và mau lẹ cho đến đỗi chúng nó đi ngang qua mình chúng ta mà chúng ta không hay, không biết, mặc dầu trình độ tiến hóa của chúng ta tới mực nào. Nhưng thay vì điều đó, khi Đức Phật ban phép lành thì những thần lực đó gặp các vận hà chuyển đi cũng như nước gặp liền những ống dẫn; chúng nó thêm sức cho những việc lành, việc phải và đem sự yên tịnh cho những tâm hồn nào đủ sức thụ lãnh chúng nó. Khi Phật giơ tay mặt ban phép lành thì một trận mưa hoa rớt xuống in như lúc Ngài trở về Kapilavastu thuyết pháp cho vua Tịnh Phạn nghe. Đây tôi chỉ nói ý nghĩa của lễ Huê Sắc, quí bạn muốn rõ về cách hành lễ xin đọc chương XIV của cuốn Chơn Sư và Thánh Đạo (Les Maîtres et le Sentier) bạn Nguyễn văn Lượng có dịch ra và đề tên cuốn sách là Đức Phật hiện.



LỂ A SA LA

HAY LÀ LỂ CHUYỂN PHÁP LUÂN.

Ngoài lễ Huê Sắc còn có một lễ nữa mà ít nghe ai nói tới, bởi vì nó cử hành ở tại cung của Đức Di Lạc Bồ Tát, không có tánh cách công khai như lễ Huê Sắc. Đây cũng là một dịp để cho Tiên Thánh trong Quần Tiên Hội chánh thức gặp gỡ nhau mỗi năm một lần nữa. Lễ nầy là lễ A Sa La chạy nhằm giờ trăng tròn tháng bảy dương lịch để kỷ niệm ngày Đức Phật thuyết pháp lần đầu tiên tại Sạt Nát (Sarnath) gần Bénarès, giải về Tứ Diệu Đề và Đạo Bát Chánh.

Vì lòng thương mến và tôn kính Đức Như Lai cho nên Đức Di Lạc mới nhứt định mỗi năm đúng giờ trăng tròn tháng A Sa La thì Ngài lập lại bài Chuyển Pháp Luân cho Quần Tiên Hội nghe.

Gần tới buổi nhóm thì Tiên Thánh và các đệ tử (trừ 3 vị Độc Giác Phật) lần lượt xuất vía đến hoa viên ở trước mặt tiền cung của Đức Di Lạc, nhằm về triền phía Nam núi Hi Mã Lạp Sơn. Những người thuộc về giáo phái khác biết ngày lễ nầy, xuất vía đến dự đều được tiếp đón niềm nỡ.

Đức Di Lạc ngồi trên chiếc ghế cẩm thạch bao vòng cây cổ thụ mọc trước cung của Ngài. Gần bên Ngài là Đức Bàn Cổ và Đức Văn Minh Đại Đế.

Tiên Thánh, các đệ tử và thính giả phân ngôi thứ an tọa hai bên, tại sân cỏ trên những chiếc ghế đặt dưới ngai vài thước.

Đức Di Lạc nói bằng tiếng Ba Li (Pali) mà các thính giả nghe là tiếng mẹ đẻ, tiếng nước mình, nghĩa là người Anh nghe Ngài thuyết pháp bằng tiếng Anh. Người Mỹ, người Pháp, người Ý nghe Ngài giảng đạo bằng tiếng Mỹ, Pháp, Ý v. v . . . Mới nghe qua có người hoài nghi hay lấy làm lạ lắm. Đây là sự thật một trăm phần trăm. Ai có đọc Công vụ của các sứ đồ thì biết đó là chuyện không phải sai ngoa.

Nhưng tự do tín ngưỡng.

Mặc dầu bài Chuyển Pháp Luân đã lập lại cả ngàn lần rồi, mà với tài hùng biện phi thường của Đức Bồ Tát, mỗi năm các thính giả đều nghe như là một bài mới và dường như Ngài nói riêng cho mỗi người nghe mà thôi.

Tiếng Ngài như chuông ngân, thanh tao và dịu dàng vô cùng, cây viết phàm làm sao tả nổi tài hoạt bát và lập lại những lời châu ngọc của Ngài.
.............................
Các bạn vào link dưới đây để biết thêm chi tiết :
http://www.thongthienhoc.com/sach%20nhungchuyen%20tqtbi%20trong%20dp.htm#chuong %206%20p2



Uploaded with ImageShack.us