TỔNG HỢP NHÂN ĐIỆN.

(Bài này là ý riêng của người viết,không nhất thiết đại diện cho ngành Nhân điện)

Nhân điện có từ năm1989.do Thầy LƯƠNG MINH ĐÁNG sáng lập.

Đầu năm 1990 tôi đã biết đến ngành học này.

Sau 2 lần khai mở luân xa từ 30% đến 60% trực tiếp bằng tay của Cô Cúc Trường trung tâm Nhân điện Huế. Đến ngày 2/3/2003 tôi chính thức được Thầy mở 100% từ xa.

Khi Thầy Lương Minh Đáng khai mở 100% các luân xa cho tôi.Tôi biết rằng đây cơ duyên chín muồi của tôi bắt đầu từ đây !

Với tôi Thầy mở luân xa có 2 phần :

1)Khai mở luân xa tâm linh cho linh hồn đấng phò trợ có thể hội nhập vào linh hồn chánh của tôi một cách dể dàng.

2)Khai mở luân xa vật lý trên cơ thể tôi để đón nhận nguồn năng lượng mới từ không gian vũ trụ xa xôi.Toàn bộ 7 luân xa của tôi chỉ sau một phút truyền điện của Thầy đã được kích hoat toàn bộ,nhưng Thầy chỉ cho tôi sữ dụng và tập luyện trên 6 luân xa.Luân xa I. Thầy không day một công thức nào cả.

Khi học xong lớp 3 thực hành ,Thầy dạy tôi khi ngồi Thiền thì không nghỉ gì cả,Đây là thông điệp đầu tiên Thầy trao cho tôi tập “về không” cho chặng đường RA KHÔNG GIAN sau này.Lên lớp 4 Thầy lại cho một công thức dùng lx6 lần lược quay các lx còn lại ,Thầy còn dạy “muốn chữa bệnh tập thể có hiệu quả thì các lx phải được quay hết “(trong tài liệu lớp 4 Thầy dạy tại Hòa Lan) .Mà quay đều đây là toàn bộ các Luân xa phải quay cùng một chiều với nhau,và tốt hơn cả là cùng quay theo chiều kim đồng hồ.

Lời dạy đơn sơ đơn giản này chính là chìa khoá vô cùng quan trọng cho chúng ta ở bài tập RA KHÔNG GIAN sau này .Cái may mắn của tôi mà các đồng môn huynh đệ sau này khó có , đó là thời gian tu tập , thời gian phải chờ từ lóp 4 để lên lớp 5 rồi từ lớp 5 lên 5.1 chính trong khoảng thời gian tôi tập quay các luân xa khá chuyên cần (sau này trở thành thói quen không bỏ được cho dến bây giờ hằng ngày tôi vẫn quay mỗi luân xa 5 phút + 6Lx.).

Lên lớp 5.1 rồi lớp KTT Thầy dạy cho tôi cách hợp nhất hai tuyền YÊN và TÙNG.Thầy dạy luân xa 7 sẻ tổng hợp các luân xa 2,3,4,5,vậy lóp 5.1 là bắt đầu Thầy cho Lx 7 thay thế 2,3.4.5 vơi điều kiện các luân xa 2,3,4,5 đã được quay đều tất cả.Thế là Thầy trao cho tôi một thông điệp “hợp nhất hai Lx 6 và Lx 7 lại (nghỉ cùng lúc hai LX này).Theo tôi hiểu Lx 7 (tuyến Yên) chuyên hổ trợ và có nhiệm vụ sản sinh các hốc môn thiết yếu cho cơ thể có thể hiểu là phần vật chất.Phần thể xác.

Lx 6 (tuyến Tùng) là chuyên về phần thức giác,phần của trực giác hay là phần tâm linh.Kết hợp hai tuyến này chính là Thầy dạy chúng ta từ từ tiến dần đến hợp nhất giữa thể xác và linh hồn.Khoa học và Tâm linh.

Các lớp KTT theo tôi Thầy bắt đầu cho chúng ta làm “quen với các Đấng ngoài không gian” qua KTT vô hình hội nhập KTT trong đầu của chúng ta,Khối KTT được làm từ chất liệu mê-ca một chất liệu được cho là không thuần âm cũng không thuần dương,để thu hút năng lượng vũ trụ,một cách thu hút năng lượng hiệu quả cao nhất.

KTT trong đầu chính là sự kết hợp thống nhất ba bộ não (hai phụ một chính) với Luân xa 6.Để tạo thành một băng tầng tổng hợp trong cơ thể chúng ta từ Luân xa 2 đến Lx 5 về tập trung ở Lx 7.

Như vậy KTT trong đầu chính là sự hợp nhất của linh hồn và thể xác của một học viên Nhân điện.

Chúng ta có KTT của chúng ta và Thầy cho phép chúng ta được kết nối với các Đấng thiêng liêng cao cả để thu nhận năng lượng nhiệm mầu giúp mình giúp đời qua lời cầu nguyện khi hành sữ một nhiệm vụ nào đó và cầu nguyện lại thay lời cám ơn sau khi xong nhiệm vụ.Vậy các Đấng chính là KTT vô hình ở ngoài không gian.Các Đấng thiêng liêng đang có mặt ở thế giới nhị nguyên này.

Khi ta hình dung KTT ngoài không gian,tức là ta đang cầu nguyện các Đấng có trách nhiệm ở không gian hội nhập với chúng ta qua KTT trong đầu chúng ta ,để chúng ta thành công cụ thi hành một nhiệm vụ giúp mình giúp người ,nơi chốn và nhân sinh muôn loài vạn vật đang hiện hữu dù vô hình hay hữu hình trong thế giới nhị nguyên này.

Đến cấp lớp này tôi nhận ra rằng KTT trong não bộ chúng ta chính là linh hồn chánh của chúng ta (tâm linh) Linh hồn cấp lớp của chúng ta và cũng chính là năng lượng từ trường mà Thầy hay nói là băng tầng,(Khoa học).

KTT không gian chính là ĐẤNG (tâm linh).KTT đa dạng chính là Linh hồn các Đấng thiêng liêng cao cả .Cũng chính các năng lượng từ trường của vũ trụ,Băng tầng tổng hợp.(Khoa học)

Chúng ta và các Đấng hay sóng não của chúng ta với sóng của vũ trụ tùy độ rung thanh hay trược ,nặng hay nhẹ đến cùng băng tầng , mà chúng ta giao thoa hay hội nhập.Nôm na khi chúng ta bắt gặp một băng tầng nào đó ngoài không gian phù hợp băng tầng chúng ta ,rồi tâm thức chúng ta cho là thông điệp,là Đấng dạy dỗ,là Thầy ,thậm chí là Đấng trừng phạt,ganh ghét,phân biệt ,phê phán.

Nên mô hình KTT mê-ca này là vật thiêng liêng quý báu mà Thầy đã được Thượng Thiên cho phép trao truyền cho chúng ta trong quá trình học tập tu luyện và sau này nó trở thành LINH VẬT phong thủy vô giá cho gia đình học viên Nhân điện M.E.L.Khi một mặt của nó luôn hướng về Chánh Đông

Lên ba lớp tiềm năng,Thầy lai cho linh hồn và thể xác tôi làm quen xa hơn đó là năng lượng mặt trời rồi xa hơn nữa năng lượng các tinh tú,cuối cũng là Ánh sáng hào quang Thượng Đế.Và trao cho chúng ta “Não bộ người tiền sử”.Chính cái não bộ tiền sử này là phần hai của công thức “hạ nhịp tim”.

Trong lóp 7 Thầy dạy chúng ta phương pháp hạ nhịp tim ,chặng đường hạ nhịp tim này là phần một.

Khi bắt đầu sử dụng cái kim tự tháp nhỏ lên ngực nơi mà linh hồnchúng ta trú ngụ,chinh là Thầy dạy cho chúng ta biết cãm giác trở về không của các cơ quan bộ phận trên cơ thể khi nhịp tim được hạ thật thấp thì cái cảm giác mất trọng lượng từ hai chân bắt đầu lan tỏa lên dần cho đến tới ngực cái cảm giác cận tử này chính là sự hợp nhất giữa cơ thể và linh hồn tại LX 4.Lúc này hơi thở ta rất nhỏ nhiệm rất vi tế.

Đến khi chúng ta được học lớp 13++ là lúc Thầy trao truyền “não bộ tiền sử”.Cái não bộ nguyên sơ,nguyên thủy trước khi loài người chưa có mặt trên thế gian này giúp cho phần tâm thức tri giác chúng ta từ tham ,sân ,si ,hỷ,nộ ái,ố,oắn.tằng,hội khổ,di sãn từ hai bộ não phụ(một của loài bò sát,một của loài có vú ) đang tồn tại từ muôn kiếp trước trong mỗi một chúng ta, dần dần được hóa giải đi và dần dần được Minh Triết hơn.

Phần một (thể xác Minh Triết))từ cấp 3 mở LX 100% đến tập hạ nhịp tim ở ở lớp 13+ (điều khiển linh hồn tế bào+năng lượng các vì sao)chính là điều khiển cơ thể vật lý đến LX 4 (nơi trú ngụ của linh hồn) nhưng vẫn chưa hoàn thành bởi lúc này tâm thức chúng ta ,bản ngã chúng ta,vẫn còn phụ thuộc nhiều vào hai bộ não phụ.Phải nhờ “Bộ não tiền sữ” Thầy trao cho để hóa giải và hợp nhất hai bộ não phụ vào bộ não chính.Sự hợp nhất của ba bộ não này thành một và Ánh sáng hào quang Thượng Đế soi rọi giúp chúng ta buông xuống tất cả : Phong tục, tập quán,tôn giáo,truyền thống v..v..nên phần 2 này chính là phần Giác ngộ của Linh hồn.

Trong quá trình làm sạch thân ,chúng ta phải hằng ngày làm sạch các lương thực thực phẫm bất cứ món ăn thức uống nào được đưa vào cơ thể,bằng

công thức truyền vào thức ăn nước uống theo từng cấp lớp,lên 3 lớp tiềm năng Thầy hổ trợ cho chúng ta qua nước uống NHÂN ĐIỆN.Thầy lại hổ trợ thêm phương pháp Tâm sinh lý hợp nhất,cái phương pháp tối cao vi diệu này,một số đồng môn không nắm hết ý của Thầy đã lệch lạc để thỏa mãn thân xác ô trọc,hay các bạn bên ngoài đàm tiếu vu vơ.Thế giới chúng ta đang dạo chơi chinh là dục giới.Thầy đã dạy cho chúng ta từ dục giới đầy triền phược ô nhiễm này một phương pháp Tâm sinh lý hợp nhất .Chính trong cái dục này chúng ta sẽ học được sự minh triết thể xác,để đưa lên Luân xa 4.và phần hai Giác ngộ linh hồn từ não bộ tiền sử + Ánh sáng hào quang Thượng Đế xuống hợp nhất tại luân xa tim (năng lượng tình thương) Đến đây chúng ta mới cảm nhận được Tình yêu thương thật sự trong sáu chữ.NHÂN LOẠI-GIÁC NGỘ và TÌNH THƯƠNG..

Vậy là từ khai mở luân xa 100% dến lớp 13++ là Thầy đã dạy cho chúng ta các phương pháp thanh lọc từ thân đến tâm để thể xác thanh nhẹ tâm hồn trong sáng hợp nhất thành một thể, các điều kiện cần có và đủ được để xữ dụng Băng tầng Tổng hợp của cá nhân học viên và vũ trụ,giúp mình giúp đời,nơi chốn và nhân sinh muôn loài vạn vật .

Năm 2007 Thầy trao truyền nhiệm vụ tối cao của ngành Nhân Điện M.E.L cho 1541 học viên ưu tú hội đủ các cơ duyên về phương pháp Khai mở LX 100% Và Thầy ra đi về cõi vĩnh hằng.Để lại cho Nhân loại một ngành học Tỗng hợp giữa Khoa học và Tâm linh theo tôi là độc nhất vô nhị cho đến thời điếm này .Và tôi cũng chỉ có cơ duyên với Thầy đến lớp 13++.

Năm 2009 tôi lại theo A..... trưỡng trung tâm Nhân điện........ học tiếp các lớp còn lại.

Ỏ ba lớp Tu nghiệp . Tôi hiểu Thầy chính thức triển khai phương pháp Ra không gian cho tất cả học viên tham gia từ lớp Đông phương I.

Cái bài học ra không gian này rất nhiều đồng môn huynh đệ ngộ nhận ở trạng thái xuất hồn ngao du đây đó thấy bướm thấy hoa kể cả thấy bồng lai tiên cảnh là ra được không gian.Lại có các huynh đệ tỷ muội đồng môn do tâm thức vào sâu thiền định được các đấng cho thấy linh ảnh ,các cảnh trời trong băng tầng tỗng hợp mà ngộ nhận ra được không gian.Thầy nói ra “không gian là chỉ trong tích tắc cho đến vài giây mà thôi,và ngoài không gian thì tối om om à !.không có ai và không có gì cả.”Và Thầy đã kể lại cái lần đầu tiên ra không gian của Thầy,và nói về đặt camara theo dõi khi thể xác biến thành năng lượng .

Và cái này theo tôi lời dạy của Thầy rất siêu việt rất thực tế.Theo tôi RKG tức nhiên là thể xác biến thành năng lượng hòa nhập cùng linh hồn vượt qua không gian 3 chiều để vào các chiều khác của vũ trụ,nên Thầy mới dạy chũng ta từ khai nở Luân xa rồi quay luân xa rồi hợp nhất Luân xa rồi hợp nhất năng lượng các Đấng rồi lên dần ra khỏi năng lượng ngũ hành (trái đất) đến năng lượng mặt trời năng lượng các vì sao rồi hợp nhất vào khối sáng (Ánh sáng hào quang Thượng Đế).

Thật sự ra khi tập tốt các bước căn bản trên thì chúng ta đã thoát ra khỏi không gian ba chiều để RA KHÔNG GIAN .Chứ không phải đợi lên lớp Tu nghiệp nữa.

Và cũng theo tôi hiểu Lx 7(Tuyến Yên) chính là trung tâm của thể xác.Luân xa 6 (Tuyến Tùng) là Trung tâm của Linh hồn.

Ngay từ lớp 5.I Thầy đã cho chúng ta tập làm quen với sự hợp nhất này ở công thức kết nối một lần hai lx6+7 cùng lúc trong 30”.

Ba lớp Đông phương Thầy dạy học viên sự hiểu rộng hơn thâm sâu hơn về giáo lý căn bản các phong tục ,tập quán,tôn giáo.v..v để chúng ta Minh Triết thân,tâm đủ sức vượt qua sự sợ hãi.ý thức được Nhân quả.Sanh ,lão,bệnh tử.Và ý thức được nhiệm vụ của chúng ta khi có mặt ở thế gian này và phải biết được thánh ý (Ý của Thượng Thiên) Đế làm công cụ mà giúp mình giúp đời.

Ba lớp Triết học Đông Phương này chính là chiếc chìa khóa giúp cho ta mở toang cánh cửa u mê ngục tù tăm tối của bãn ngã chúng ta từ vô lượng kiếp giúp chúng ta thật sự tự do hoàn toàn.

Qua ba lớp Triết học Đông Phương này Thầy đã giúp chúng ta Minh Triết thể xác , Giác ngộ linh hồn để chúng ta bượt qua được sự sợ hãi mà buông xuống tất cả .Thầy đã dạy “Anh chj em có buông xuống thì anh chj em mới có được”

Tuỳ trình độ thẫm thấu lời Thầy mà anh chị em buông dần xuống hay buông ngay tức khắc,hay chỉ buông mà chưa bỏ,mà dân gian thường nói “đi với Phật mặc áo cà sa,đi với ma mặc áo giấy” hay trong Thiền Phật có hành vi “Thỏng tay vào chợ” hay Thầy nói “Tự do thật sự”

Đến 2 lớp Khoa học ứng dụng tâm linh I và II (19 + 20) mấu chốt ở Quyền Lực và Ích kỷ.Thầy dạy chúng ta biết bỏ Quyền lực và biết bỏ ích kỷ xuống để TÌNH THƯƠNG trở thành thật sự vô điều kiện.

Đến đây chúng ta mới thật sự tắm mình trong Minh Triết - Giác Ngộ - Tình thương.

Sau khi khai mỡ các Trung tâm thần kinh toàn thân (7 Luân xa) mà vì vô minh bất giác ở văn hóa ,phong tục tập quán,tôn giáo,truyền thống làm cho bế tắc suốt 20 thế kỷ với 5 giống dân .Thầy dạy chúng ta lần lược vượt qua 5 lớp sơ cấp,rồi 5 lớp trung cấp,5 lớp cao cấp.Tổng cộng 15 lớp thuộc về thể chất.Rồi thêm 5 lớp thuộc về Triết học tâm linh.Tôi nghỉ 15 lớp trước như là Luân xa 7.Năm lớp cuối là LX 6.Hai mươi cấp lớp này chính là sự hợp nhất tuyệt vời giữa thể xác và linh hồn , tâm linh và khoa học để trở về MỘT. Vạn vật đồng nhất thể.

Lớp 20 là xã bỏ quyền lực và ích kỷ,và linh hồn cấp lớp không đổi..Tức là không có Đấng nào cả,mà chỉ là chân ngã của mỗi chúng ta mà thôi,Thượng Đế và ta chỉ là một.Thầy và mỗi chúng ta cũng chỉ là một.Ta với vũ trụ cũng là một.

Thầy luôn khuyến khích chúng ta ,phải có tự do thật sự,phải có tình thương thật sự.Tự do thật sự là tự do vô điều kiện.Tình thương thật sự là tình thương vô điều kiện.

Và muốn có được tự do vô điều kiện kiện thì ngay từ các luân xa của chúng ta củng phải có tự do thật sự.

Vậy các Luân xa cũng tự quay để các linh hồn tế bào của từng lx không bị lệ thuộc vào Lx6,và các cơ mô tế bào thần kinh cũng độc lập biến thành năng lượng để tiến hóa cao trở về khối sáng.

Tình thương cũng trở thành vô điều kiện và tự do thật sự,tình thương chính là năng lượng vũ trụ.Có năng lượng vũ trụ mới có nhân sinh muôn loài vạn vật. Và năng lượng vũ trụ chính là Thượng Đế là khối sáng.Chúng ta và nhân sinh muôn loài vạn vật cũng vậy không hai không khác với Thượng Đế.

Từ lớp Đông Phương III (18) Thầy bắt đầu dạy chúng ta ngoài truyền năng lượng vũ trụ ra còn có Hội nhập năng lượng vũ trụ.

Đến lớp 20 Thầy cho phép chúng ta hội nhập tất cả thay vì truyền năng lượng ánh sáng.Vì khi truyền năng lượng ánh sáng mà có tư tưỡng điều khiển thì năng lượng bị phân tán ngay.Tư tưỡng đã điều khiển thì tự do và tình thương hoàn toàn không được tự do,tình thương không thể vô điều kiện Một thay đổi quyết định được Tình thương tuyệt đối vô điều kiện.

Một về KHÔNG tuyệt hão.

Đến đây câu nói trong lớp 20 của Thầy đã được sáng tỏ “Khi các anh chị em đau thì kêu Thầy,vậy Thầy đau thì kêu ai”

Và khi Thầy dạy chúng ta “Hội nhập” .Tức là Thầy cho chúng ta trở về với khối sáng,nếu chúng ta không dùng khối sáng để hội nhập thì chúng ta không bao giờ sáng tỏ được câu “Chỉ có nó mới biết nó,ai biết nó là thầy nó.”

Tóm lại học Nhân điện là học cách trở về với chính mình,học tình thương hoàn toàn vô điều kiện với nhân sinh muôn loài vạn vật trong thế giới nhị nguyên này dù vô hình hay hửu hình,dù tâm linh hay khoa học..
nguồn www.thegioihuyenbi.com